Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

ÔN TẬP NGỮ VĂN 11 HỌC KÌ 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.24 KB, 62 trang )

VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH
(Trích Thượng kinh kí sự)
_Lê Hữu Trác_
A. Đề 01: Phân tích đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”.
I. Mở bài:
- Giới thiệu những nét chính về tác giả: Lê Hữu Trác là một danh y đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Sự
nghiệp của ông được tập hợp trong công trình “Hải thượng y tông tâm lĩnh”. Tác phẩm gồm 66 quyển, biên
soạn trong 40 năm, vừa mang giá trị y học - là công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời trung đại
của Việt Nam, vừa mang giá trị văn học sâu sắc.
- Giới thiệu đoạn trích: “Vào phủ chúa Trinh” là một đoạn trích trong tác phẩm Thương kinh ký sự của danh
y Lê Hữu Trác. Đoạn trích là một bức tranh sinh động về quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ
Chúa, đồng thời thấy được một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng lãn ông Lê Hữu Trác và nghệ
thuật viết kí sự bậc thầy của ông.
II. Thân bài:
1. Quang cảnh nơi phủ Chúa:
a) Phủ chúa là một chốn thâm nghiêm, kín cổng cao tường, vô cùng xa hoa, tráng lệ.
- Từ cửa sau để đến được nơi ở của chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối
tiếp nhau”.
- Thiên nhiên: hài hòa, thơ mộng. Trong phủ chúa, khắp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít,
danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
- Kiến trúc: xinh đẹp, lộng lẫy, tráng lệ…
+ Phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực”, một công trình kiến trúc kiểu cách, biểu thị cho chốn tráng lệ,
xa hoa. Điếm được làm bên hồ, có “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, với những cái “cột và bao
lơn lượn vòng”.
+ Nhưng không chỉ có vậy, qua “cửa lớn” sau điếm Hậu Mã, đi theo hành lang phía tây, người đọc còn thấy
được hai công trình kiến trúc to lớn và uy nghi khác. Đó là nhà “Đại đường” (hay còn gọi là Quyền bồng)
và Gác tía. Cả nhà “Đại đường” và “Gác tía” đều là những nơi xa hoa, lộng lẫy, “thật là cao và rộng” và ánh
lên ánh sáng hào nhoáng của sơn son thếp vàng.
- Đồ vật: từ mâm vàng, chén bạc, đến những vật như kiệu của vua chúa, đồ nghi trượng, bàn ghế, sập, võng,
cột,... hết thảy đều là những thứ nhân gian chưa từng thấy.
- Đồ ăn: toàn những của ngon, vật lạ cũng là “chưa tùng thấy trong nhân gian”.


- Lộng lẫy, xa hoa nhất trong phủ chúa phải kể đến nội cung, nơi ở của cha con thế tử.
+ Nội cung của thế tử là một chốn thâm cung.
+ Đường đi: từ ngoài đi qua năm, sáu lần trướng gấm, tối om, “không thấy cửa ngõ gì cả”.
+ Quang cảnh: “nệm gấm”, “màn là”, “đèn sáp” lấp lánh, “ghế rồng sơn son thếp vàng”, “xung quanh lấp
lánh, hương hoa ngào ngạt”.
- Sự giàu sang của phủ chúa khiến tác giả cũng phải ngỡ ngàng mà thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây”.
Vốn sinh trưởng trong một gia đình quan lại...
b) Phủ chúa là chốn uy quyền tối thượng.
- Tất cả những gì thường thấy chỉ xuất hiện trong cung vua thì nay đều hiện diện ở phủ chúa. Trong phủ
chúa, chúa được gọi là thánh thượng, lệnh chúa ban xuống được xem là thánh chỉ, ngọc thể của chúa được
gọi là thánh thể,... Mọi đồ nghi trượng, các chức quan đều giống như ở chốn cung đình.
- Muốn đến phủ chúa phải có thánh chỉ, có thẻ mới được vào.
- Phủ chúa có cả một “guồng máy” phục vụ đông đúc, tấp nập... (giảng văn)
- Lời nói: kính cẩn, lễ phép và không được phạm vào lệ “kị húy”. (Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể
yết kiến, hầu mạch Đông cung thế tử, hầu trà,...)
- Khám bệnh cho thế tử phải tuân theo một loạt những phép tắc: Bắt đầu là đứng ở xa chờ đợi, tiếp đó khi
được thế tử cho phép trước khi xem bệnh, thầy thuốc phải quỳ lạy bốn lạy. Muốn được ngồi bắt mạch và
xem thân hình bệnh nhân để chẩn đoán thì cần phải được sự cho phép của thế tử. Khi xem bệnh xong, trước
khi đi ra còn phải lạy bốn lạy nữa.
Tóm lại: Với việc chọn lọc được những chi tiết đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ, tác giả đã ghi lại trong
đoạn trích một bức tranh phủ chúa chân thực, có “hồn” và sống động. Đó là một chốn cao sang, uy quyền

1


tột đỉnh với cuộc sống hưởng lạc xa hoa. Bức tranh phủ chua cũng là bức tranh chân thực về cuộc sống của
giai cấp trống trị VN trong những năm chế độ phong kiến đang suy tàn.
2. Vẻ đẹp con người LHT: Vẻ đẹp của một lương y giỏi, có kiến thức y học uyên thâm, giàu kinh nghiệm,
có lương tâm và y đức cao quý; Vẻ đẹp của một nhân cách thanh cao, khinh thường danh lợi quyền quý,
thủy chung với mong ước được bạn bạn cùng thiên nhiên, trọng nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà.

Thể hiện:
a) Thái độ, tâm trạng của tác giả trước cuộc sống nơi phủ chúa.
Thấy rõ cảnh giàu sang, lộng lẫy nơi phủ chúa nhưng tỏ ra dửng dưng trước cuộc sống vương giả ở đây và
không đồng tình với nó: một cuộc sống quá đầy đủ tiện nghi, xa hoa nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự
do.
b) Thái độ, tâm trạng của tác giả khi kê đơn cho thế tử.
- Sự khác nhau trong cách chữa bệnh cho thế tử của các vị thầy thuốc khác và quan Chánh đường với LHT.
+ Cách chữa bệnh của các vị thầy thuốc khác và quan Chánh đường là “có bệnh thì trước hết phải đuổi
bệnh. Khi đã đuổi cái tà đi rồi thì hãy bổ, thì mới là các phép đúng đắn nhất”.
+ LHT lí giải căn bệnh của thế tử là do “ở trong chốn màn che, trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ
tạng yếu đi (...) nguyên khí đã hao mòn, tồn thương quá mức. Đó là căn bệnh có nguồn gốc từ cái xa hoa,
no đủ, hưởng lạc trong phủ chúa. Bệnh từ trong mà phát ra, do nguyên khí bên trong không vững mà âm hỏa
đi càn. Cho nên cách chữa không phải là “công phạt” mà là “không bổ thì không được”.
- Diễn biến tâm trạng:
+ Đưa ra những luận giải hợp lí và có thể chữa trị hiệu quả ngay căn bệnh của thế tử nhưng nếu chữa khỏi
ngay bị danh lợi ràng buộc, không thể “về núi”. Để tránh được chuyện này, ông đã nghĩ đến “phương thuốc
hòa hoãn”, chữa bệnh cầm chừng, vô thưởng vô phạt. Nhưng nếu làm thế thì lại trái với y đức, trái lương
tâm, phụ lòng ông cha. Hai suy nghĩ này giằng co, xung đột nhau. Cuối cùng, lương tâm, phẩm chất trung
thực của người thầy thuốc đã chiến thắng. Tác giả đã gạt sang một bên sở thích cấ nhân để làm tròn trách
nhiệm và lương tâm người thầy thuốc. Khi đã quyết, ông dám nói thẳng và chữa thật căn bệnh của thế tử.
Ông kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình dù ý kiến đó không đồng thuận với ý kiến của các lương y và
quan Chánh đường.
 Chân dung một nhân cách trong sạch giữa dòng đục của cuộc sống nơi phủ chúa.
3. Nghệ thuật.
Nghệ thuật viết kí sự chân thực và sắc sảo:
- Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực.
- Tả cảnh sinh động.
- Đan xen tác phẩm thơ ca tạo cho tác phẩm đậm chất trữ tình.
- Tạo nhiều chi tiết đặc sắc.
Có thể nói tới Lê Hữu Trác, thể kí văn học đích thực ra đời.

III. Kết luận:
- Khái quát lại nội dung.
- Mở rộng vấn đề

B. Một số đề văn khác:
Đề 01: Từ hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích, anh (chị) có suy nghĩ gì về nhân cách, khí tiết của
một số kẻ sĩ thời phong kiến. Theo anh (chị), nhân cách đó có thể giúp ích được gì cho con người trong
cuộc sống hiện nay khi đất nước tiến lên hiện đại hoá, hội nhập cùng thế giới?
Đề 02: Từ hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, anh chị có suy nghĩ gì về
người thầy thuốc hiện nay?
Đề 03: Trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, theo anh (chị) chi tiết nào là đặc sắc nhất. Hãy viết lời bình
cho chi tiết này trong một đoạn văn ngắn.
Hướng dẫn:
Đề 01:
* Nhân cách, khí tiết của một số kẻ sĩ thời phong kiến qua hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích.
- Khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do, trọng nếp sống thanh đạm, hoà mình cùng thiên nhiên.
+ Không mảy may dung động trước tiền tài lợi lộc dù cuộc sống giàu sang, hưởng thụ đang nằm trong tầm
tay.
+ Không những thế còn tỏ thái độ khinh thường cảnh giàu sang, quyền quý.
- Là những người có đức độ, lương tâm. Vì người khác sẵn sàng chịu khổ, sẵn sàng hi sinh sở thích của
riêng mình.

2


* Tác động của vẻ đẹp nhân cách ấy đối với con người ngày nay.
- Giúp con người không vì tiền tài, danh vọng mà lãng quên tất cả.
- Có tác dụng tích cực trong việc giáo dục tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội ngày nay.
Đề 02:
* Vẻ đẹp của lương y Lê Hữu Trác.

Có tài, có tâm, có y đức.
* Người thầy thuốc trong xã hội hiện nay.
- Những mặt tích cực:
+ Về tài năng
+ Về y đức
- Những mặt tiêu cực.
+ Chạy theo đồng tiền mà lãng quên y đức.
+ Vô tâm, vô cảm,...
Đề 03:
Chi tiết: Thế tử - một đứa bé ốm yếu, bệnh tật – ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc – một cụ già
– quỳ dưới đất lạy bốn lạy, rồi cười và ban một lời khen “Ông này lạy khéo” là một trong những chi tiết đặc
sắc nhất của đoạn trích.
- Nó cho ta thấy quyền uy tối thượng nơi phủ Chúa.
- Biến tất cả những lễ nghi trong phủ chúa thành một trò hề.

TỰ TÌNH (II)
_Hồ Xuân Hương_
Cảm nhận về bài thơ “Tự tình”
I. Mở bài:
Trong lịch sử văn học Việt Nam, HXH là một hồn thơ độc đáo: nhà thơ nữ viết về phụ nữ, trào phúng
mà đậm chất trữ tình, đậm đà bẳn sắc đân gian, tục mà thanh. Sáng tác của XH gồm cả chữ H và chữ N
được tập hợp trong tập “Lưu hương kí”, ngoài ra có trên dưới 40 bài thơ Nôm nữa cũng được tương truyền
là của bà. Nổi bật lên trong sáng tác của XH là tiếng nói thương cảm của nữ sĩ đối với người phụ nữ, là lời
khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng hạnh phúc của họ trong xã hội xưa. Và trong thế giới nghệ thuật vô
cùng độc đáo ấy, “Tự tình (II)” là bài thơ tiêu biểu nhất. Nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài, được sáng
tác khi nữ sĩ đã bước vào cuộc đời làm lẽ, bài thơ đã thể hiện tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước
duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ. Đồng thời, tìm hiểu tác phẩm ta
cũng thấy được tài năng nghệ thuật bậc thầy của nữ sĩ.
II. Thân bài:
1. Hai câu đề:

a) Câu 01:
- Khung cảnh nhân vật trữ tình xuất hiện:
+Thời gian: “đêm khuya”, khoảng thời gian tâm tư con người sâu lắng nhất. Trong cô đơn, đối diện với
chính mình, NVTT cảm nhận được đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, thấm thía nhất, cảnh cô đơn, nỗi bất hạnh của
chính bản thân mình.
+Không gian: mênh mông, vắng lặng càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của NVTT.
- Cảm nhận của nhân vật trữ tình: nghe thấy tiếng trống cầm canh từ xa vọng lại văng vẳng nhưng lại dồn
dập, liên hồi. “Trống canh dồn” không chỉ báo hiệu bước đi dồn dập, vội vã, gấp gáp của thời gian mà còn
thể hiện tâm trạng rối bời, buồn bã của nhân vật trữ tình, một con người luôn khao khát tình yêu, hạnh phúc
mà phải chịu cảnh sống cô đơn. Thời gian vật lí đã hòa cùng thời gian tâm lí.
b) Câu 02: nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng, bẽ bàng của nhà thơ trước tình cảnh và duyên phận của mình.
-Câu thơ có lẽ là độc đáo vào bậc nhất của thơ xưa khi viết về người phụ nữ sử dụng thơ Đường.
-Nói về nhan sắc của mình mà dùng hai từ “hồng nhan”, có lẽ nhân vật trữ tình đã tự ý thức được mình là
một người phụ nữ có tài năng, nhan sắc. Nhưng ý thức được không phải để sung sướng, tự hào mà trái lại,
càng thêm ngậm ngùi cay đắng. Nhờ sự cách kết hợp từ độc đáo của XH, ta thấy được nhan sắc con người
thật mỉa mai, rẻ rúng biết bao. Thật là mỉa mai khi từ “hồng nhan”, từ dùng để chỉ nhan sắc của người phụ
nữ lại được kết hợp với từ “cái”, từ dùng chỉ đồ vật tầm thường. Cụm từ “cái hồng nhan” gợi cho ta một nỗi
đau khi người phụ nữ cùng với nhan sắc của mình đã bị “đồ vật hoá”, coi thường, bị người ta khinh thường,

3


vứt bỏ. Nhưng đâu chỉ có thế, khi hạ bút đặt một chữ “trơ” trước “cái hồng nhan”, nữ sĩ còn nhân lên gấp
bội nỗi đau đớn, tủi nhục ấy. Bởi “trơ” là lẻ loi, trơ trọi, mà “trơ” cũng là phơi ra, bày ra. Phơi ra, bày ra “cái
hồng nhan”, thật là bẽ bàng, tủi hổ. Câu thơ sử dụng nghệ thuật: đảo ngữ, đặt từ “trơ” lên đầu câu, kết hợp
với cách ngắt nhịp độc đáo 1/3/3 hiếm thấy trong thơ Đường, càng khiến nỗi đau thêm thấm thía, bi kịch
thêm cay đắng, xót xa. Phải đau, phải tủi hổ, bẽ bàng đến thế nào mới viết nên được một câu thơ như vậy.
Bốn chữ “Trơ cái hồng nhan” đã nén chặt nỗi đau ghê gớm của người phụ nữ về duyên phận, làm nên cái
nét riêng dường như chỉ có ở XH.
-Nhưng câu thơ không chỉ cho ta thấy nỗi đau mà còn cho ta thấy bản lĩnh XH. Dù duyên phận éo le, dù tâm

trạng có tủi hổ, bẽ bàng nhưng XH vẫn vững vàng, thách thức với nó. Bởi “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng
mà còn là thách thức. “Trơ... nước non” là trơ ra, thách thức với cả nước non, với một không gian rộng lớn.
Chữ “trơ” trong trường hợp này đồng nghĩa với chữ “trơ” trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của Bà
Huyện Thanh Quan.
2. Hai câu thực: Bi kịch được nhấn mạnh và khắc hoạ sâu hơn làm cho nhân vật trữ tình càng thấm thía
hơn nỗi đau duyên phận.
a) Câu 03:
- Trong đêm khuya, sống trong sự cô đơn, trong tâm trạng bẽ bàng, tủi hổ, XH tìm tới rượu với mong muốn
lãng quên hiện thực đau buồn.
- Kết quả: hiện thực đau buồn không những không được lãng quên, mối sầu trong long không những không
được tiêu tan, giải tỏa mà trái lại càng lúc càng trào dâng mạnh mẽ. Bởi say rồi lại tỉnh, hiện thực chỉ được
láng quên trong chốc lát, khi tỉnh lại nỗi đau ấy lại càng thấm thía hơn.
- Cụm từ “Say lại tỉnh”: một lần nữa cho ta thấy tài năng sử dụng và kết hợp từ ngữ của Bà chúa thơ Nôm
(“lại”: quay lại, lặp ,lại) → cum từ được cấu tạo theo lối khép kín, gợi lên cái vòng luẩn quẩn, trở đi trở lại,
bế tắc trong tâm trạng và số phận XH. Nữ sĩ tìm đến hương rượu mong muốn được say để quên đi hiện thực
nhưng càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận rõ ràng hơn.
b) Câu 04:
- XH tìm tới trăng nhưng trăng cũng không giúp đem lại niềm vui cho nữ sĩ. Thậm chí, còn khiến nhà thơ
thêm buồn khi soi chiếu vào cuộc đời mình.
→ Câu thơ là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Trăng và người đồng nhất. Đối diện với đêm khuya, với
vầng trăng lạnh, nữ sĩ như chìm ngập trong cô đơn của nỗi đau duyên phận. Hai câu thơ đa nói rõ hơn thực
cảnh và cũng là thực tình của XH.
3. Hai câu luận: ngoại cảnh hòa cùng tâm cảnh. Hình ảnh thiên nhiên cũng chính là hình ảnh con người.
- Thiên nhiên:
+ Rêu là sinh vật nhở bé, hèn mọn, yếu mềm và chỉ có từng đám nhỏ nhưng cũng không chịu mềm yếu mà
nó phải mọc xiên, lại còn “xiên ngang mặt đất”.
+ Đá chỉ có mấy hòn nhưng không cam chịu sự nhỏ bé mà phải vùng lên vén trời “đâm toạc chân mây” để
hờ, để oán.
→ Thiên nhiên: sức sống mạnh mẽ, không cam chịu số phận mà phẫn uất vùng lên phản kháng. Sự phẫn
uất, phản kháng đó của đá, của rêu cũng chính là sự phẫn uất, phản kháng trong tâm trạng con người. Nếu

như đá kia, rêu kia không cam chịu thân phận hèn kém, yếu mềm, vươn lên vạch đất, vạch trời mà oán thì
nữ sĩ cũng đâu cam chịu một duyên phận ngán ngẩm trớ trêu, nữ sĩ cũng mạnh mẽ vươn lên phản kháng lại
số phận để tìm cho mình hạnh phúc.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng động từ mạnh “xiên”, “đâm” kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” thể hiện sự bướng bỉnh, ngang
ngạnh.
+ Đảo ngữ
+ Đối
→ Nhấn mạnh hình ảnh thiên nhiên và tâm trạng con người.
- Thể hiện phong cách và tạo nên nét đặc sắc trong thơ XH:
+ Hai câu thơ cho ta thấy đặc điểm cá tính con người XH: bản lĩnh, mạnh mẽ, không chấp nhận số phận,
hoàn cảnh.
+ Từ ngữ được sử dụng trong hai câu thơ thể hiện rõ nét những nét riêng trong phong cách nghệ thuật của
bà chúa thơ Nôm. “Xiên ngang”, “đâm toạc” là cách dùng từ “rất XH”. Nữ sĩ đặc biệt thành công trong việc
sử dụng các từ làm phụ ngữ “mỏi mắt dòm”, “rơi lõm bõm”, “chín mõ mòm”, “khua lắc cắc”, “vỗ long
bong”,... những phụ ngữ này góp phần làm cảnh vật trong thơ XH bao giờ cũng sinh động và căng tràn sức
sống, một sức sống mãnh liệt ngay cả trong những tình huống bi thảm nhất.

4


4. Hai câu kết: Như vậy, hai câu luận đã thể hiện sâu sắc bản lĩnh, cá tính của XH. Nhưng dù có gắng
gượng vươn lên thì cuối cùng vẫn là rơi vào bi kịch. Bài thơ khép lại bằng một lời than cho duyên phận của
mình của nhân vật trữ tình trong tâm trạng chán trường, buồn tủi.
* Câu 07:
-Câu thơ bộc lộ rõ tâm trạng chán chường, ngán ngẩm của XH khi ý thức rõ sự trôi chảy của thời gian, đời
người với bao xót xa, nuối tiếc. Trong câu thơ XH đã sử dụng hai từ “xuân” và hai từ “lại” với các tầng ý
nghĩa khác nhau (...) góp phần quan trọng trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình.
-XH ngán lắm rồi “Xuân đi, xuân lại lại”, ngán lắm rồi sự trở lại của mùa xuân, bởi sự trở lại của mùa xuân
đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Với nhịp điệu đều đều, dàn trải câu thơ là một tiếng thở dài ngao

ngán, một nỗi chua chát khôn nguôi. Hình ảnh “Xuân đi, xuân lại lại” gợi cho người đọc về sự ra đi của biết
bao mùa xuân, tuổi trẻ tàn phai thế mà tình yêu vẫn không đến.
-Cô thiếu nữ XH khao khát tình yêu, náo nức đón chờ tình yêu là thế mà cuối cùng cái nhận được thật là ít
ỏi, chẳng đáng là bao. Chỉ là một mảnh tình (vốn đã nhỏ bé)→ (bị) san sẻ → (trở thành) tí con con (có mà
như không). Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến được sử dụng trong câu thơ có tác dụng nhấn mạnh sự nhỏ bé
dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn, hoàn cảnh càng xót xa hơn. Câu thơ là tiếng thở dài buông xuôi
trước dòng đời của nữ sĩ.
Hai câu thơ được viết ra từ tâm trạng của một con người khi đã mang thân đi làm lẽ nhưng tầm khái quát lại
lớn hơn một hoàn cảnh lấy chồng chung. Nó là nỗi lòng của người phụ nữ xưa khi hạnh phúc với họ là một
chiếc chăn quá hẹp. Họ càng khao khát hạnh phúc thì càng thất vọng, ước mơ càng lớn thì thực tại càng
mỏng manh.
- Nghệ thuật:
+ Thơ Đường luật nhưng mang đậm nét dân tộc, dân gian.
+ Từ ngữ giản dị mà đa nghĩa, giàu sức gợi.
+ Các biện pháp đảo ngữ, đối,... được sử dụng thành công
→ in đậm cá tính mà mang phong cách riêng độc đáo của XH.
Bài thơ mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi khẳng định quyết tâm vượt lên trên số phận và khao
khát tha thiết, mãnh liệt của người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, tình yêu dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch
nhất.
5. Hình ảnh người phụ nữ xưa trong bài thơ tự tình (II) của HXH:
a) Số phận bất hạnh.
- Tuy có chồng mà phải sống trong cảnh cô đơn. Một mình xuất hiện giữa đêm khuya để dãi bày tâm trạng.
- Có nhan sắc nhưng không được trân trọng mà bị khinh thường, mỉa mai , rẻ rúng.
-Hạnh phúc mà họ nhận được quá nhỏ bé, mỏng manh.
b) Là những con người giàu bản lĩnh.
- Vững vàng, thách thức trước duyên phận.
- Phẫn uất, phản kháng trước số phận của mình.
c) Có gắng gượng vươn lên thì cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch.
Bài thơ mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi khẳng định quyết tâm vượt lên trên số phận và khao khát tha
thiết, mãnh liệt của người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, tình yêu dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch nhất.


CÂU CÁ MÙA THU
(Thu điếu)
_Nguyễn Khuyến_
A. Kiến thức trọng tâm.
1. Nội dung
- Bức tranh phong cảnh mùa thu:
+ Mang vẻ đẹp cổ điển của mùa thu ngàn đời.
+ Điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.
- Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến:
+ Tình yêu thiên nhiên tha thiết.
+ Tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kếm phần sâu sắc.
2. Nghệ thuật
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ.
- Nghệ thuật gieo vần.

5


B. Các đề luyện tập và gợi ý.

Đề 01: Cảm nhận về bài thơ “Câu cá mùa thu”.
I. Mở bài
1. Cách 1: giới thiệu từ tác giả rồi thu gọn lại đến bài thơ.
- Giới thiệu Nguyễn Khuyến: là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam thời trung đại. Sáng tác của ông
gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng còn lại khoảng trên 800 bài gồm cả thơ, văn, câu đối, nhưng chủ
yếu là thơ. Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè; phản ánh cuộc sống
của những con người cực khổ, thuần hậu, chất khác; châm biếm, đả kích bọn thực dân phong kiến, đồng
thời bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước. Và bài thơ “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) được trích từ chùm
thơ viết về mùa thu gồm ba bài:... là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong thế giới nghệ thuật

phong phú ấy của nhà thơ.
-Được sáng tác sau khi nhà thơ đã cáo quan về ở ẩn, bài thơ đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh
điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, tâm trạng
thời thế của thi nhân. Đồng thời, qua tác phẩm ta cũng thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình và khả năng sử
dụng tiếng Việt tài tình của Nguyễn Khuyến.
2. Cách 2:
Không biết tự bao giờ, mùa thu đã trở thành đề tài muôn thuở, gần gũi và quen thuộc của thơ ca. Mùa thu
huyền diệu, mùa thu chan chứa yêu thương đã được thể hiện ở tất cả các góc cạnh khác nhau qua ngòi bút
thi nhân. Có khi mùa thu xuất hiện như một cô gái đáng yêu nhu mì và nhút nhát “Em không nghe mùa thu
– Lá thu rơi xào xạc – Con nai vàng ngo ngác – Đạp trên lá vàng khô”, có khi lại xuất hiện trong tình yêu
rộn rã, vui sướng, vồ vập của nhân vật trữ tình “Đây mùa thu tới, mùa thu tới – Với áo mơ phai dệt lá
vàng”,... để rồi khi bước vào thơ Nguyễn Khuyến, bước vào thơ của “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”,
mùa thu kiều diễm, hoa lệ ấy đã trở thành một cô thôn nữ dân dã mà say đắm lòng người. Chỉ bằng một
chùm thơ viết về mùa thu gồm ba bài, Nguyễn Khuyến đã thâu tóm được tất cả những gì là đặc trưng nhất
của vẻ đẹp mùa thu vùng ĐBBB.Và trong chùm thơ thu nức danh ấy, “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) là “tiêu
biểu hơn cả” và “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh VN”. Khám phá thế giới nghệ thuật của bài
thơ, người đọc không chỉ được đắm chìm vào không gian thu rất riêng của vùng ĐBBB mà còn thấy được
tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, tâm trạng thời thế, thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình và khả năng
sử dụng tiếng Việt tài tình của thi nhân.
II. Thân bài
1. Bức tranh phong cảnh mùa thu trong Câu cá mùa thu mang vẻ đẹp cổ điển cổ điển của thơ thu muôn
đời.
- Với thi đề, thi liệu: quen thuộc. Đó là vẻ đẹp của thu thủy (nước thu), thu thiên (trời thu). Chúng ta tưởng
chừng gặp lại ý thơ của người xưa “thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”. Đó còn là các thi liệu thu diệp (lá
thu), ngư ông (người câu cá).
- Câu cá mùa thu cũng sử dụng đắc địa bút pháp của thơ cổ điển, lấy cái động để thức dậy cái tĩnh. Phải là
một không gian tĩnh lặng tới mức gần như tuyệt đối mới có thể thấy rõ cái hơi gợn tí của sóng biếc mặt ao
và chút khẽ đưa của là lá vàng. Tĩnh đến độ cả con người và thiên nhiên cùng như giật mình bởi âm thanh
cá đâu đớp động dưới chân bèo.
- Nhưng cảnh trong câu cá mùa thu đâu chỉ có vậy, nhắc đến cảnh thu trong tác phẩm còn là nhắc đến một

mùa thu “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh VN”. Hồn quê xứ sở đã thấm vào hồn thơ để tạo nên
một ấn tượng đặc biệt, giống như ta thấy Huế khi nghe điệu mái nhì, mái đẩy, thấy sông nước Nam Bộ
mênh mông khi nghe câu lí, câu hò. Đọc Câu cá mùa thu, ta thấy ngay trước mắt mình mùa thu nơi ĐBBB
với những nét riêng tiêu biểu mà mùa thu ở những vùng miền khác không có được. Với cách đón nhận cảnh
thu độc đáo: từ gần đến cao xa, rồi từ cao xa trở lại gần, (...) Nguyễn Khuyến đã tạo nên một bức tranh mùa
thu với những đặc điểm nổi bật nhất của cảnh thu vùng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam.
a) Một bức tranh mùa thu đẹp, trong trẻo, bình dị, quen thuộc, thanh sơ, dịu nhẹ nhưng cũng rất đỗi
nên thơ.
- Cảnh vật: ao thu, lá vàng, thuyền câu, ngõ trúc, bầu trời, tầng mây,... → những cảnh vật bình dị, gần gũi,
quen thuộc ở làng quê. Cái tài của NK là từ những vật bình dị ấy nhà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp hết
sức nên thơ: cái ao làng bình thường → ao thu nước trong veo (“Ao thu”, sáng tạo rất mới của Nguyễn
Khuyến tạo một cảm giác thơ mộng ngay từ đầu bài thơ, Cảm nhận từ “trong veo”); sóng trong ao → sóng
biếc; lá rụng → lá vàng khẽ đưa trước gió,...)
- Màu sắc:

6


+ Màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh thu ấy là màu xanh: xanh trong của nước, xanh biếc của sóng,
xanh lục của bèo, xanh rợp của trúc,...
+ Và giữa các “điệu xanh” ấy, Nguyễn Khuyến đã điểm xuyết vào một chấm vàng nhỏ của chiếc lá vàng
khẽ bay trước gió và màu trắng của đám mây lơ lửng giữa bầu trời xanh ngắt làm cho bức tranh thu càng
thêm đa dạng. Sự hòa phối về màu sắc của bức tranh đã đạt đến sự “thú vị” tạo nên một không gian thu
xanh mang sắc thu quê.
- Đường nét:
Đường nét được miêu tả trong bức tranh thơ cũng là những đường nét rất riêng, mang vẻ đẹp nên thơ của
mùa thu vùng đồng bằng BB. Đó là những đường gợn của làn sóng ao thu, những nét uốn lượn của chiếc lá
vàng rơi, đó cũng là những đường bao thanh mảnh, quanh co của rặng trúc và sự lơ lửng của những đám
mây giữ bầu trời.
b) Bức tranh phong cảnh mùa thu ấy thật đệp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn.

- Không gian tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng.
+ “Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo”
+ Các chuyển động: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá khẽ đưa → những chuyển động rất nhẹ, rất khẽ, không đủ
tạo âm thanh.
+ Tiếng cá đớp mồi → càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật.
- Sử dụng nhiều gam màu lạnh với độ xanh trong của nước, độ xanh biếc của sóng, xanh ngắt của trời,... →
gợi buồn da diết.
2. Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến (tình thu):
* Một tâm hồn thanh cao, gắn bó, yêu tha thiết cảnh vật quê hương, đất nước.
Đi câu thực chất chỉ là cái cớ để nhà thơ đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng. Không có tình yêu thiên
nhiên tha thiết làm sao nhà thơ có thể viết được về mùa thu hay như thế?
* Một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.
- Không gian: tĩnh lặng và đượm buồn → một tâm trạng không yên, một tâm sự đau buồn trước hiện tình
đất nước của nhà thơ.
+ Những gam màu lạnh: cái buồn hắt hiu của cảnh vật, cái lạnh trong tâm trạng con người. (Vậy, cái lạnh
của trời thu, nước thu đã thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ ... cảnh vật?)
+ Khi tìm hiểu bài thơ, có người cho rằng Từ “vèo” trong câu thơ: “lá...” có phần không hợp lý: lá vàng khẽ
đưa trước gió không thể có độ “ vèo” khi bay. thực ra điều đó có vẻ không hợp lý ấy lại rất lô gíc, rất thống
nhất tâm trạng. Nó không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn cho ta thấy tâm trạng thời thế của thi nhân, một tâm
trạng không yên, một tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước: thời thế thay đổi quá nhanh, thoáng chốc
non sông đã lọt vào tay kẻ thù mà mình không làm được gì để giúp nước, giúp đời. (Tâm trạng NK giống
tâm trạng Tản Đà khi ông viết “Vèo trong lá rụng....
+ Tiếng cá đớp động dưới chân bèo: là tiếng giật thột trong lòng nhà thơ khi ông ngồi trầm tư trên mảnh ao
làng nghĩ về thời cuộc. Nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo mà tưởng như tiếng non sông đang gọi mình.
3. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ: giản dị, trong sáng đến kì lạ, có khả năng diễn đạt những biể hiện rất tinh tế của sự vật, những
uẩn khúc thầm kín, khó giãi bày trong tâm trạng con người.
- Vần “eo”, tử vận, khó làm được sử dụng rất thần tình, diễn tả không gian vắng lặng, thu nhỏ dần, phù hợp
với tâm trạng đầy uẩn khúc của nhà thơ.
- Nghệ thuật lấy động tả tĩnh,...

Đề 02: “Trong hoàn cảnh đất nước đang bị giặc ngoại xâm, tấm lòng yêu nước phải được thể hiện cụ thể
bằng những hành động chống lại kẻ thù chứ không phải như Nguyễn Khuyến trong “Câu cá mùa thu” đã
không dám đứng lên dùng ngòi bút đánh giặc mà chỉ gửi gắm kín đáo vào cảnh vật. Hành động như vậy chỉ
có thể có ở những kẻ ham sống, sợ chết, không có lòng yêu nước”. Ý kiến của anh (chị) về nhận xét trên.

THƯƠNG VỢ
_Tr n T X n g _
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:

7


Tr n T X n g (1870 - 1907) th n g g i là Tú X n g, quê làng V Xuyên, huy n M L c, t nh Nam
n h. Tú X n g có cá tính s c s o, phóng túng, khó gò vào khuôn sáo tr n g quy, nên dù có tài nh ng tám
l n thi v n ch
tú tài. Tú X n g sinh vào giai o n giao th i, xã h i có nhi u thay i . Xã h i phong ki n
già nua chuy n mình tr thành xã h i th c dân phong ki n. Hàng ngày nh ng i u ngang tai trái m t c p
vào m t ông, gây ph n ng trong tâm tr ng. Và th hi n thành hai n i dung l n trong th ông: tr tình và
trào phúng.
2. Tác ph m :
Thương vợ được cấu tạo làm bốn phần theo kết cấu đề, thực, luận, kết với kết cấu chặt chẽ. đây là một
bài thơ Nôm thành công cả về ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Ngôn ngữ Nôm bình dân, hình ảnh thơ gần gũi
voíư dân gian và đời sống. Câu đề và câu thực là suy nghĩ của nhà thơ về sự vất vả nhọc nhằn kiếm sống
của người vợ, qua đó thể hiện sự cảm thông và trân trọng. Câu luận ngợi ca đức hy sinh của người vợ. Câu
kết là tiếng chửi đời cay nghiệt của một con người bị cuộc sống biến thành vô tích sự. Bài thơ ngợi ca đức
hy sinh của những người phụ nữ và sự cảm thông thấu hiểu của người chồng. Ngôn ngữ dung dị, đời thường
nhưng với tài năng và tấm lòng, Tú Xương đã tạo nên một bài thơ sâu sắc, chứa đựng những giá trị nhân
văn bền vững. Qua bài thơ này, Tú Xương đã xây dựng hình tượng nghệ thuật đẹp về người phụ nữ
Việt Nam giàu đức hy sinh, chịu thương chịu khó hết lòng vì gia đình.

II. Nội dung chính:
1. Hình ảnh người vợ hiện lên trong bốn câu thơ đầu là một người phụ nữ đảm đang tần tảo sớm hôm
nuôi chồng, nuôi con. Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh, từ ngữ đặc sắc để thể hiện nỗi vất vả của vợ và
sự cảm thông của mình đối với sự vất vả của người vợ. Đó là những từ “quanh năm”, “mom sông’, “lặn lội
thâm cò”, “eo sèo mặt nước”, “nuôi đủ”, với các thành ngữ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa”,
hình thức đối “năm con - một chồng”. Hình ảnh người vợ lặng lẽ làm việc nuôi chồng nuôi con với một đức
hy sinh vô cùng lớn lao là hình tượng nổi bật trong bài thơ.
2. Câu hai có sắc thái tự trào sâu sắc khi tác giả đặt người chồng vào một bên đòn gánh trên đôi vai
người vợ và bên kia là năm con. Người chồng là một bên của gánh nặng lo toan ấy. Dường như đó là lời tự
trách chua cay. Vì gia đình, vì người chồng có quá nhiều nhu cầu ấy mà người vợ vất vả hơn. Người chồng
vô tích sự chẳng những không giúp vợ nuôi con mà còn làm cho gánh nặng gia đình của người vợ nặng hơn
rất nhiều.
3. Câu 5 - 6:
“M t duyên hai n âu ành ph n,
N m n ng m i m a dám qu n công”.
Câu th kh c h a hình nh bà Tú trong m i quan h v i ch ng con. Hình th c nh là l i c tho i n i
tâm c a bà Tú nh ng th c ra chính là l i c a ông Tú. i u o sth hio n rõ ông hi u n i vât v c a v , c m
thông và trân tr ng bà Tú n nh n g nào.
Hai thành ng xu t hi n trong hai câu th u có ngh a di n t s v t v c a ng i ph n ph i nuôi
ch ng nuôi con. Và c ng ây, m t l n n a, ng i ch ng th hi n s trân tr ng i v i ng i v . “âu ành
ph n”, “dám qu n công” không ph i là s cam ch u c a ng i v mà ó là l i c a nhân v t tr tình - ng i
ch ng. Hình nh ng i v c l ng l làm vi c nuôi ch ng nuôi con với một đức hy sinh vô cùng lớn
lao đã là hình tượng nổi bật trong bài thơ. Hai câu thơ đã khắc họa đức tính nổi bật của
bà Tú đó là đức hy sinh, chịu thương chịu khó, cả đời sẵn sàng vì chồng con. Bà Tú là hình
tượng
đẹp
về
người
phụ
nữ

Việt
Nam.
4. Bài th k t thúc b ng câu ch i. Ai ch i? T t nhiên theo m ch c m xúc c a bài th thì ây là l i c a
nhân v t tr tình. T c m thông n "Th n g v " mà gi n mình, gi n i . Ng i àn ông, ng i ch ng, con
ng i có nhân cách y, tr c v t v nh c nh n c a ng i v ã c t lên l i ch i. Nh t ch i mình nh ng là
ch i i . Ch i "thói i n b c" ã bi n nh ng ông ch ng không thành k h h ng thì c ng thành ng i
vô tích s . ó là câu ch i i và c ng là l i t trách mình c a m t nhà Nho có nhân cách. Ông trách mình là
ng oi ch ng h h ng, nh ng bài th v i nh ng tâm s sâu s c ã ch ng t ông ch ng h h h ng chút nào.
5. Bài thơ thể hiện tình cảm trân trọng, lòng biết ơn của ông Tú đối với người vợ
tần tảo sớm hôm của mình. Tự nhận là một người chồng vô tích sự, song ông Tú là

8


một người chồng biết tự trọng, một người biết cảm thông chia sẻ và thấu hiểu nỗi vất
vả của người vợ. Điều đó đã giúp Tú Xương đóng góp cho văn học Việt Nam một hình
tượng đẹp về người phụ nữ phương Đông. Ngôn ngữ dung dị, đời thường, sử dụng
nhiều yếu tố dân gian, với tài năng và tấm lòng, Tú Xương đã tạo nên một bài thơ hay
có giá trị nhân văn sâu sắc.
III. Tư liệu tham khảo:
1. Về tác giả:
"... Có khi tôi ã th y gi t mình cho Tú X n g, khi tôi gi t th Tú X n g không có cái khía tr tình,
cái h i lãng m n c a nó, mà l i ch r t nh ng “C ng h - mét xì - Thôi thôi l y m xanh c ng l y…”. Th t
tôi th y ch i tai y . ai th nào tôi không hay, nh ng tôi, khi mà Tú X n g c hi n th c ch có nh v y
thôi, cái g c hi n th c y mà không có cái ng n tr tình, cái tán lãng m n y, thì Tú X n g c ng t t gió
trong tôi t lâu r i và ã bay ra kh i tôi lúc nào không bi t ch ng.
Cho nên ai mu n nói gì n Tú X n g thì c nói ra, tôi u coi tr ng (…) nh ng tôi v n cho r ng th
Tú X n g i b ng c hai chân hi n th c và tr tình, mà cái chân hi n th c ng i Tú X n g ch là m t
c ng chân trái. Tú X n g l y cái chân ph i tr tình mà khi n cái chân trái t th c. Ch o cho à th là
chân ph i và Tú X n g ã b ng c mình th t i chúng ta b ng n c b c lãng m n tr tình.

Nguyễn Tuân (Văn nghệ tháng 5, 1961).
2. Về tác phẩm:
“Thái
c a Tú X n g i v i v là “vu t râu n nh v con bu nó” th t c i m , h n nhiên, y tình
ngh a. ã có m y ai trên tr n gian, c kim ô ng Tây này nh Tú X n g yêu v , quý v , ùa v i v b ng
cách a v ra mà làm v n t s ng! V n t k lai l ch, chân dung, c h nh, ngh nghi p c a v nh th
này, v nghe không n ru t, n gan sao c :
Con gái nhà dòng, l y ch ng k ch ,
Ti ng có mi ng không, g p ch ng hay ch !
M t nh n nh i, chân tay tr ng tr o, ai dám cho
r ng béo r ng g y
Ng i ung dung, tính h nh khoan hòa, ch m t b nh
hay gàn hay d
u sông, bãi b n, ua tài buôn chín bán m i .
Trong h ngoài làng, v ng l chào r i nói th .
(V n t s ng v )
Tú X n g làm th , mà th v i Tú X n g c ng là m t th ùa vui, âu y m v cho khuây kh a n i v t
v quanh n m.
Tú X n g c m nh n sâu s c công n c a v i v i b con ông, c bi t là v i ông. Tú X n g ghi
công v th t r ch ròi, chu áo, không chút m p m :
Quanh n m buôn bán mom sông,
Nuôi
n m con v i m t ch ng.
Có ng i nh n xét r ng: Tú X n g c ng là m t “th con c bi t” c a v , t nh n mà không chút
ng n g ngùng s di n. Và càng th y v v t v bao nhiêu v i b con, Tú X n g càng th y mình là o n g, là
vô tích s b y nhiêu! Trong c n h i h n ch có cách gì t l i công n c a v , Tú X n g ch bu t m t l i t
ch i. Ch i cái anh ch ng vô tích s là mình. Ch i luôn c thói i b c b o ã
ra cái lo i ch ng o n g nh
mình n t. M t ti ng ch i mà l i nhân cách, nhân ph m là v y:
Cha m thói i n b c,

Có ch ng h h ng c ng nh không!...”.
Nguy n ì nh Chú (Th v n Tú X n g, S d, tr.29-30)
"... M t ng i v c n cù lam l nh v y, hy sinh nh n n i nh v y h i có ng i ch ng nào b c ãi, h t
h i; ho c n a, còn dám không chung tình? Cho nên trong nh ng lúc hãn h u, ông trót vui anh vui em, trót
làm phi n lòng v , nhà th không th không th t ra nh ng câu có v ùa c t nh ng chính th t chân thành:

9


Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!.
(Th n g v )
Ng i ph n d ng c m y luôn luôn b ch ng châm bi m, nh ng cách châm bi m c a Tú X n g i
v i v là m t cách bi u l ni m âu y m thi t tha, lòng bi t n sâu s c c a nhà th :
Có một cô gái, nuôi một thầy đồ.
Quần áo rách rưới, ăn uống xô bồ.
Cơm hai bữa: cá kho rau muống,
Quà một chiều: khoai lang lúa ngo.
Sao dám khinh mình: thầy đâu thầy vậy,
Chẳng biết trọng đạo, cô lốc cô lô.
C m i d p Tú X n g ch gi u tình tr ng th t nghi p c a mình, c m i b n nhà th nói n cái nghèo
túng ho c l i n ch i c a mình là m i b n, m i d p nêu công c c a v ,
ông cao v :
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,
Đem chuyện trăm năm giở lại bàn.
Hay là:
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi.
Ho c:
Sách đèn phó mặc đàn con trẻ

Thưng đấu nhờ trông một mẹ mày.
Ng i àn bà chung th y ki u m u ó luôn luôn g n bó v i ch ng trên t ng hành n g, t ng ý ngh a,
t ng lo âu và t ng hy v ng.
Ông i thi ch ng? Bà lo s m s a gi y bút, lo ch y ti n l ng g o b :
Ti n chân, cô m t hai n g ch n
S b ng, th y không m t ch gì!...
Làm sao mà không c m n g lúc thi xong, b ng thi s p y t, bà i cúng, i bói xem k này ch ng có
c ly
không? Trong th t c mê tín kia có bao hàm c m t t m lòng t n t y:
Sáng i l Ph t
còn k này k n a là xong;
ê m d y vái tr i,
qua m ng b n m ng n m cho chóng.
Làm sao không xót xa, khi trong c n mê man c a b nh au tr m tr ng, n a êm ch t t nh d y, nhìn v i
ra sân qua khe c a h , nhà th th y bà Tú t bàn th , èn nhang nghi ngút, ang l m r m kh n vái c u tr i
cho chóng v t qua c c n tai n n:
Im im thâu đêm, lại thằng này,
Bệnh đâu có bệnh lạ lùng thay!
Thuốc thang nghĩ lại chua mà đắng,
Đường mật xem ra ngọt hóa cay!
Lắm bệnh bạn bè đi lại ít,
Nặng nhọc họ mạc hỏi han dầy
Chỉ bền một nén tâm hương nguyện,
Thuốc thánh bùa tiên, ắt chẳng chầy!.
M t khác, ng i ph n ó không ph i ch bi t có làm n qu n qu t su t ngày, không ph i ch có bi t
“l n l i thân cò” và “eo sèo m t n c ”, ng i ó còn có m t trình
v n hóa nh t n h, m t trình
nh n
th c nh t n h và c bi t có m t n ng khi u t i thi u v th n g th c v n ch n g. Ng i v hi n ó còn
tham gia vào công vi c sáng tác c a ch ng. Ph m Th M n là ng i tr c ai h t ã thu c lòng t t c th v n


10


c a Tr n T X n g. Chính bà là ng i ch y u trong vi c d y l i th v n ó cho các con bà sau khi nhà th
m t. C ng có khi nhà th n a ùa n a th t h i ý ki n v v m t bài ông m i sáng tác:
Viết vào giấy dán ngay lên cột.
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?
Thưa rằng hay thực là hay,
Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài!
Xưa này em vẫn chịu ngài!
(T t dán câu i ) (Tr n Thanh M i - Tú X n g, con ng i và nhà th . Nxb V n h c, Hà N i, 1961,
tr.108-112)

KHÓC DƯƠNG KHUÊ
_Nguyễn
Khuyến_
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
Dương Khuê (1839 - 1902) là người làng Vân Đình, huyện ứng Hoà, Hà Tây. Đậu cử nhân cùng khoa
với Nguyễn Khuyến, sau đậu tiến sĩ nên còn được gọi là Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư. Dương Khuê
là người có nhân cách, là một ông quan thanh liêm, chính trực. Ông còn là một nhà thơ lớn của thế kỷ XIX.
Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn tâm đầu ý hợp, cùng có tấm lòng với dân tộc, nhưng họ
lại đi hai con đường khác nhau, Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn còn Dương Khuê tiếp tục làm quan…
2. Tác phẩm:
Bài thơ được Nguyễn Khuyến viết để khóc bạn, lúc đầu viết bằng chữ Hán với nhan đề “Vãn đồng niên
Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư”. Sau tác giả tự dịch ra chữ Nôm lấy tên là “Khóc bạn”, nay quen gọi là
“Khóc Dương Khuê”. Bài thơ thể hiện xúc động tình bạn tri âm tri kỷ của hai nhà thơ. Nghe tin bạn qua đời,
nhà thơ đã vô cùng đau đớn và những kỷ niệm ngày xưa đã ùa về trong kí ức. Qua bài thơ khóc bạn, tác giả
đã bộc lộ tâm trạng cô đơn, những trăn trở day dứt của nhà thơ về nhân tình thế thái.

II. Nội dung chính:
1. Bố cục: Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:
+ Hai câu đầu: đau xót khi nghe tin bạn mất.
+ Từ câu 3 đến câu 22: Nhớ lại những kỷ niệm giữa hai người và thể hiện tâm trạng thời cuộc của nhà
thơ.
+ Phần còn lại: Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỷ.
Bố cục này đã thể hiện một cách chân thực mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình tác giả trước sự ra đi
của người bạn tri âm tri kỉ.
2. Hai câu thơ mở đầu đã diễn tả rất tinh tế nỗi đau mất bạn của nhà thơ. Cách gọi “bác” vừa đúng mực, vừa
rất thân mật. Để giảm nhẹ nỗi đau, để tự an ủi mình và thể hiện sự trân trọng đối với người bạn vong niên,
nhà thơ đã dùng từ “thôi” để chỉ sự ra đi vĩnh viễn của người bạn già. Nhà thơ đã dùng cách nói giảm để thể
hiện nỗi đau của mình. Còn nỗi đau mất bạn cũng được diễn tả hình ảnh “Nước mây man mác…”. Nỗi buồn
đau thấm cả vào cảnh vật. Nỗi đau của người già thâm trầm kín đáo nhưng sâu sắc. Những từ “man mác”,
“ngậm ngùi” đã thể hiệ được sắc thái tinh tế ấy trong cách thể hiện tâm trạng của nhà thơ. Đau đớn nhưng
không ồn ào mà da diết.
3. Khi khóc bạn, nhà thơ ôn lại kỉ niệm gắn bó giữa hai người. Kỉ niệm được nhắc lại bắt đầu từ khi họ gặp
nhau và cho đó là “duyên trời”. Cách diễn đạt này của tác giả đã khẳng định một lần nữa tình bạn sâu sắc của
hai người. Họ đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng “chơi nơi dặm khách”, “rượu ngon cùng nhấp”, cùng “bàn
soạn câu văn”. Không chỉ có những kỷ niệm ngọt ngào, họ cũng đều cùng là nạn nhân của thời thế. Vì thế, tin
người bạn mất đã làm nhân vật trữ tình vô cùng xúc động. Nỗi niềm ấy được nhà thơ thể hiện một cách chân
thực:
Bác già tôi cũng già rồi

11


Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là
Ba từ thôi thể hiện rõ nỗi xót xa đau đớn, sự hụt hẫng của người bạn già. Câu thơ vừa là nỗi khóc bạn
vừa là nỗi thương mình.
4. Đoạn từ câu 19 đến câu 28 vẫn trực tiếp thể hiện niềm thương tiếc người tri âm tri kỉ. Đó là hồi ức về lần

gặp cuối cùng giữa hai người. Tính chất bất ngờ của tin bạn mất lại được nhắc lại :
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời
Sự ra đi của ngươì bạn già lại được dùng bằng một cách nói khác đoạn trên “vội về ngay”. Về là về với
tiên tổ. Cũng là một cách nói giảm nhưng xmang sắc thái biểu cảm khác.
Không phải chỉ là thương cho người ra đi đã phải sớm từ giã cuộc đời mà còn là thương mình, thương
cho người ở lại đã mất đi một tri âm. Vẫn mang trong lòng nỗi u uất thời thế nên trong lời khóc bạn, trong
nỗi đau mất tri kỷ có cả nỗi đau thời thế:
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng chi đã mải lên tiên.
Giữa họ, trong những ngày không gặp nhau khi mỗi người đi một con đường, vẫn chung nỗi đau thế sự.
Xác nhận “chán đời là phải” là sự thể hiện một cách kín đáo và thâm trầm của nhà Nho về thời thế. Thời thế
hỗn loạn, những giá trị đạo đức văn hoá truyền thống đang bị phá huỷ đã khiến những nhà nho có nhân cách
và biết tự trọng như Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy “chán đời”.
5. Tác giả đã dùng một loạt điển tích, điển cố về tình bạn tri âm để diễn tả nỗi đau mất bạn một cách
sâu sắc ở đoạn thơ cuối cùng. Mất đi người tri âm, người ở lại sẽ rơi vào cô đơn, sẽ không còn người để giãi
bày tâm sự. Lời khóc bạn của người già khác với nỗi đau của người trẻ tuổi. Đây là nỗi đau nuốt nước mất
vào trong. Tình cảm chân thành của một người bạn già đã được thể hiện thật chân thành và sâu sắc.

VỊNH KHOA THI HƯƠNG
_Trần Tế Xương_
I. Tiểu dẫn:
- Đề tài: khoa cử.
- Nội dung:
- Thái độ mỉa mai châm biếm, phẩn uất của nhà thơ đối với chế độ khoa cử nhố nhăng của xã hội thực dân
nửa phong kiến ở buổi đầu và tâm sự của nhà thơ.
II. Đọc - hiểu văn bản:
1. Nội dung:
a) Bốn câu đầu: Sự xáo trộn của trường thi
Thông báo về sự thay đổi trong tổ chức thi cử

- Bề ngoài thì bình thường: Một kì thi theo đúng thời gian thông lệ: Ba năm một lần.
- Thực chất không bình thường: Trường Nam thi lẫn trường Hà. Người tổ chức không phải là triều đình mà
là “nhà nước”.
=> Cách thức tổ chức bất thường.
- Cách dùng từ: Lẫn -> Mỉa mai, khẳng định một sự thay đổi trong chế độ thực dân cũ, dự báo một sự ô hợp,
nhốn nháo trong việc thi cử.
=> Thực dân Pháp đã lập ra một chế độ thi cử khác.
b) Bốn câu tiếp: cảnh trường thi nhốn nháo ô hợp
- Lôi thôi, vai đeo lọ: Hình ảnh có tính khôi hài, luộm thuộm, bệ rạc.
=> Nghệ thuật đảo ngữ: Lôi thôi sĩ tử thì nhếch nhác lôi thôi- vừa gây ấn tượng về hình thức vừa gây ấn
tượng khái quát hình ảnh thi cử của các sĩ tử khoa thi Đinh Dậu.
- Hình ảnh quan trường : ra oai, nạt nộ, nhưng giả dối.
=> Nghệ thuật đảo: ậm ẹo quan trường - Cảnh quan trường nhốn nháo, thiếu vẻ trang nghiêm, một kì thi
không nghiêm túc, không hiệu quả.
- Hình ảnh: Cờ rợp trời - Tổ chức linh đình.
- Hình ảnh quan sứ và mụ đầm: Phô trương, hình thức, không đúng lễ nghi của một kì thi.
=> Tất cả báo hiệu một sự sa sút về chất lượng thi cử - bản chất của xã hội thực dân phong kiến.

12


- Hình ảnh: Lọng >< váy; trời >< đất; quan sứ >< mụ đầm: Đả kích, hạ nhục bọn quan lại, bọn thực dân
Pháp.
c) Hai câu cuối: thức tỉnh các kẻ sĩ và nỗi xót xa của nhà thơ trước cảnh nước mất:
- Câu hỏi tu từ mang ý nghĩa thức tỉnh các kẻ sĩ và cũng là câu hỏi với chính mình về thân phận kẻ sĩ thời
mất nước.
- Bộc lộ tâm trạng nhà thơ: Buồn chán trước cảnh thi cử và hiện thực nước nhà
=> Lòng yêu nước thầm kí, sâu sắc của Tế Xương.
2. Nghệ thuật:
- Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, đảo trật tự cú pháp.

- Nhân vật trữ tình tự nhận thức, bộc lộ sự hài hước châm biếm
III. Tổng kết:
Bài thơ cho người đọc thấy được thái độ trọng danh dự và tâm sự lo nước thương đời của tác giả trước tình
trạng thi cử trong buổi đầu chế độ thuộc địa nửa phong kiến.

BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
_Nguyễn Công Trứ_
1. Đánh giá chung về bài thơ.
“Bài ca ngất ngưởng” là một tác phẩm kiệt xuất của NCT. Được hoàn thành vào năm Nguyễn Công Trứ cáo
quan về hưu (1848), bài hát nói nổi tiếng này vừa mang tính chất “hồi kí” của một cuộc đời nhiều thăng
trầm, sóng gió nhưng không ít vinh quang, vừa như bức chân dung tự họa về một cá tính mạnh mẽ, một con
người xuất chúng dám lấy cách sống ngang tàng, ngông ngạo, trái khoáy như một phương diện khẳng định
bản ngã, vừa như một tuyên ngôn cho lối sống phóng khoáng, tận hưởng những thú vui ở đời, đối lập giữa
cá nhân (những kẻ có tài) với xã hội tầm thường, cổ lỗ.
2. Hình tượng “cái tôi” “ngất ngưởng” của NCT trong bài thơ.
a) Cách sống, lối sống, thái độ sống “ngất ngưởng” của NCT.
- Là tạo nên những cái khác thường:
+ là thái độ đề cao bản thân, xem mình cao hơn người khác.
+ là thái độ khinh đời ngạo nghễ.
+ cố tình làm những điều khác thường, trái khoáy để thách thức, trêu ngươi, chọc tức những người, những
gì mình ghét.
(Khác thường: thái độ khác thường, việc làm khác thường, lời nói khác thường).
- Là phát huy tận độ tài năng để phò vua, giúp nước, là coi thường được mất, khen chê.
”Ngất ngưởng” là một lối sống, một cách sống, thái độ sống tích cực của kẻ sĩ quân tử, đấng trượng phu
tuy có pha chút phóng túng nhưng về cơ bản vẫn là vì nước, vì dân.
b) Cơ sở tư tưởng của hình tượng.
-Lối sống “ngất ngưởng” của NCT được hình thành, xuất phát từ chính bản thân của cuộc sống nhà thơ
trước cuộc đời. Sống trong cái thời chế độ phong kiến suy tàn, triều thần có nhiều phe cánh, lắm kẻ đó kị,
xúc xiểm, gièm pha thì Nguyễn Công Trứ, một con người vốn rất có ý thức về tài năng của mình lại đầy
nhiệt huyết giúp đời, giúp nước ắt phải tìm cho mình một lẽ sống riêng, một thái độ sống, một quan niệm

sống riêng để chơi ngông với giới quan lại bất tài, vô dụng, để có thể vượt lên trên thói đời đen bạc, đặt
mình lên trên cái môi trường quan lại tầm thường dung tục đang vây bọc lấy ông.
Vì thế, có thể nói rằng tạo cho mình một lối sống riêng, lối sống “ngất ngưởng” khinh đời ngạo nghễ, thực
chất chỉ là phản ứng của một kẻ sĩ quân tử, một đấng trượng phu trước một môi trường tầm thường, dung
tục để thể hiện bản lĩnh cá nhân của mình và có thể phát huy được tận độ tài năng giúp nước, giúp đời.
3. Biểu hiện của “cái tôi” “ngất ngưởng” của NCT trong tác phẩm.
a) “Ngất ngưởng” tại triều. (06 câu đầu)
*Biểu hiện
- Kiêu hãnh, tự hào về sự có mặt của mình trên cõi thế; tự đề cao vao trò lớn lao của mình trong trời đất:
không có việc gì là không phải phận sự của ta.
- Tự khen mình: “ông Hi Văn tài bộ” một cách tự cao, tự đại, hơn nhiều kẻ khác.
- Nói việc làm quan là tự chui vào lồng (bị giam hãm, mất tự do)  lối nói ngông (nhà nho bám quan
hãnh diện).
- Khoe tài năng hơn người:...

13


- Khoe danh vị xã hội hơn người:...
Ngất ngưởng: làm trái với lễ nghĩa khiêm tốn của nhà nho, ngang nhiên khoe tài, khoe trí. Nhưng đó không
phải là thói khoe khoang hợm hĩnh mà chỉ là để khoe cái cốt cách tài tử, phóng túng của mình mà thôi. Và
ẩn chứa đằng sau đó là một cái tôi ý thức về tài năng và danh vị bản thân.
*Vì sao NCT lại cho rằng việc ra làm quan là tự chui vào lồng (vào nơi bị gian hãm,mất tự do) nhưng lại
vẫn ra làm quan.
Làm quan không chỉ là vinh mà còn là nợ.
(Hs cần giải thích để thấy rằng việc NCT ra làm quan không chỉ đơn thuần vì danh vị của bản thân mà quan
trọng hơn là vì dân, vì nước).
b) “Ngất ngưởng” khi treo ấn từ quan .
Thể hiện ở việc làm cố tình làm cho chướng mắt để trọc tức, trêu ngươi.
c) “Ngất ngưởng” khi là một hưu quan.

* Lối sống hưởng thụ, khác người.
* Quan niệm sống, thái độ sống coi thường sự được mất, khen chê ở đời.
d) Lời tổng kết cả một đời ngất ngưởng.( ba câu cuối)
- Khẳng định mình là một người tài năng, nổi tiếng, hiển hách có thể sánh ngang với Trái Nhạc, Hàn
Tín,...những con người tài năng xuất chúng đời Hán, Tống ở TQ
- Khẳng định mình là một bề tôi trung thành, luôn giữ trọn đạo nghĩa vua tôi.
- Khẳng định: “trong triều...” tức khẳng định trong triều không ai như mình, bằng mình. Điều đó làm nổi bật
sự đối lập giữa NCT với đám quan lại đương thời.
4. Đánh giá lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.
-Trước hết, lối sống ngất ngưởng phải là lối sống của một con người có tài như Nguyễn Công Trứ. Lối sống
đó đã tạo ra những sự đối lập với lối sống của xã hội pk lúc bấy giờ:
+Một lối sống ngang tàng, ngông ngạo, phóng khoáng, tự do đối lập với xã hội tầm thường, cổ lỗ.
+Một lối sống hưởng thụ, tận hưởng những thú vui ở đời đối lập với xã hội phong kiến nhiều chế định khắt
khe.
+Một lối sống khẳng định cá nhân trong cái xã hội lấy khuôn phép, tôn ti trật tự để xóa nhòa mọi bản sắc.
Như vậy, lối sống đó nhằm giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc để được sống tự do, đề cao cá tính và
khẳng định bản ngã con người, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp cho đời một cách sống chủ động, tự tin,
ung dung, thoải mái. Cách sống đó, mới nhìn qua, có vẻ “ngất ngưởng” thái quá, nhưng nếu đặt vào hoàn
cảnh xã hội phong kiến lúc đó và vào con nguời tài hoa – khí phách NCT thì lại thấy hoàn toàn hợp lí và rất
tự nhiên như vốn nó là vậy. Như chính ông đã tự nói về mình một cách đầy bản lĩnh, tự hào:
“Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Đó là một sự ý thức sâu sắc về giá trị cá nhân, một tuyên ngôn khẳng định cá tính. Và như vậy, NCT đã rất
hài lòng, thậm chí còn kiêu hãnh với cái “ngất ngưởng” của mình.
5,Nghệ thuật.
Trong “Bài ca ngất ngưởng” để tạo nên một “cái tôi” ngông ngạo, một lối sống “ngất ngưởng”, con người
cá nhân, tự do Nguyễn Công Trứ đã tìm đến thể hát nói, một thể thơ tự do, phóng khoáng để khẳng định
mình, để tạo nên một “cái tôi”, một lối sống “ngất ngưởng” trong một bức chân dung tự họa bằng thơ độc
đáo, sống động và thú vị.
Tóm lại:
- “Ngất ngưởng” là một phong cách sống có bản lĩnh, có cá tính, trung thực, thẳng thắn, ý thức rất rõ về bản

thân.
- Mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc: giải phóng con người khỏi những ràng buộc để được sống tự do, đề cao cá
tính và khẳng định bản ngã con người.
Đề luyện tập.
Đề 01: Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng”.
Đề 02: Học xong tác phẩm bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, anh (chị) có suy nghĩ gì về cách sống
của nhà thơ? Theo anh (chị) thế hệ trẻ hôm nay có nên sống theo cách sống của Nguyễn Công Trứ? Lí giải
vì sao?
Đề 03: Trong xã hội hiện nay có một số bạn trẻ cố tình tạo cho mình một cách sống khác thường để khẳng
định cái “tôi” cá nhân của mình. Vậy theo anh (chị) họ tạo cho mình một cách sống như vậy có hợp lí
không? Hãy so sánh với cách sống “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ để làm sáng tỏ.

14


Đề 04: “Dù ở trong thời đại nào thì lối sống của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” cũng
không thể chấp nhận được. Đó thực chất là lối sống lập dị của một kẻ tự cao, tự đại, ngông cuồng”. Ý kiến
của anh (chị).
Đề 05: Lối sống “ngất ngưởng” của NCT với lối sống lập dị của một số người trong xã hội hiện nay.

BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT
(Sa hành đoản ca)
_Cao Bá Quát_
I. Khái quát chung về tác phẩm.
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca) được CBQ được sáng tác trong những lần Cao Bá Quát đi
thi hội qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như: Quảng Bình, Quảng Trị. Mược hình ảnh người đi khó
nhọc trên bãi cát, nhà thơ đã thể hiện sự chán ghét con đường mưu cầu danh lợi mà ông buộc phải theo đuổi
và niềm khao khát đổi mới trong hoàn cảnh bế tắc của xã hội nhà Nguyễn trì trệ, bảo thủ lúc bấy giờ.
II. Hình tượng nhân vật trữ tình.
1. Hình tượng nhân vật trữ tình trong bốn câu đầu

* Hình tượng nhân vật trữ tình trong bốn câu đầu là hình ảnh của người lữ khách đi trên bãi cát.
- Bãi cát mà khách đang đi: nối tiếp nhau trải dài tới vô tận. Đó là một không gian mênh mông tới rợn ngợp,
hoang vắng tới vô cùng, không biết đâu là điểm bắt đầu, đâu là điểm kết thúc. Không gian đó mở ra con
đường xa tắp, bất tận, nhiều trắc trở, khó nhọc. Đó là Những bãi cát, cồn cát trải dài bao la của thiên nhiên
miền Trung khắc nghiệt.
- Tình thế:
+ Đi một bước như lùi một bước.
+ Mặt trời đã lặn mà không dừng lại được, vẫn phải tất tả đi.
- Tâm trạng: mệt mỏi, sốt ruột, căng thẳng, buồn nản, cô đơn, lạc lõng, hoang mang. Giọt nước mắt cho ta
thấy rõ tâm trạng bế tắc của người lữ khách.
* Hình ảnh của người lữ khách đi trên bãi cát cũng chính là hình ảnh một con người đi trên con đường đời
mịt mù, chông gai, nhọc nhằn, gập ghềnh, trắc trở trong xã hội phong kiến o bế, trì trệ, tương lai mù mịt
nhưng không dừng lại được mà vẫn phải bước đi, bước đi trong bế tắc và vô vọng.
2. Hình tượng nhân vật trữ tình trong sáu câu tiếp.
* Khách, nhân vật trữ tình, lí giải nguyên nhân vì sao mình lại không thể từ bỏ con đường đầy mịt mù,
chông gai, nhọc nhằn, gập ghềnh, trắc trở mà mình đang đi.
- Nguyên nhân thứ nhất (câu 5 – 6): vì không những “không học được ông tiên có phép ngủ kĩ” mà còn
trèo non, lội nước mãi.
Nghệ thuật: sử dụng điển tích. Nhắc lại cách hành sử của người xưa trước thói đời đen bạc để khẳng định
cách hành sử của mình. (Người xưa: Hạ Hầu Ấn nhắm mắt ngủ say là “nhắm mắt làm ngơ, mặc kệ sự đời,
mặc thây kẻ thức” để khỏi nhọc lòng trước những thăng trầm, trắc trở, rước họa vào thân; CBQ: không học
được người xưa, học phép tiên để vừa đi vừa ngủ, có nghĩa nhà thơ từ chối lối sống đó một cách cao ngạo.
Ông đối lập với hiện thực nhưng không quy lưng với hiện thực, dù hiện thực đó có đen tối đến mức nào)
NVTT không thể từ bỏ con đường mà mình đang đi vì anh ta không thể bỏ mặc cuộc đời, hơn nữa vì cuộc
đời thêm một lần nữa anh ta khẳng định sẽ tiếp tục dấn thân vào con đường đầy chông gai mà mình đã chọn.
- Nguyên nhân thứ hai (bốn câu tiếp): CBQ nêu lí do mấu chốt: sở dĩ ông không thể từ bỏ được con đường
mình đang đi bởi đó là con đường công danh, con đường duy nhất để lập thân thời phong kiến.
Công danh là lí tưởng lập thân của tư tưởng Nho giáo và đã trở thành lí tưởng lập thân của nam nhi thời
phong kiến. Dã làm thân nam nhi thì phải khẳng định vị thế tồn tại của mình giữa cuộc đời, phải phấn đấu
để có công danh để thi thố tài “kinh bang tế thế”, để thực hiện lí tưởng” tề gia trị quốc bình thiên hạ” giúp

ích cho đời. Đến thời CBQ, lí tưởng này tuy đã lỗi thời và không còn sâu sắc nữa nhưng vẫn là con đường
lập thân duy nhất của đấng nam nhi khi xã hội chưa tìm ra được hướng đi mới tiến bộ hơn. Ta hiểu vì sao
mang trong mình bao nhiêu hoàn bão, CBQ đã không thể thoát khỏi cái vòng danh lợi tầm thường dù nhà
thơ vô cùng chán ghét nó.
* Tâm trạng nhân vật khách khi đi trên con đường đời, con đường công danh.
đau đớn, chán nản, tự trách bản thân vì tự mình hành hạ thân xác của mình theo đuổi công danh, không học
được sự thảnh thơi để xa lánh chốn trần ai.
* Nhận thức của CBQ về công danh và kẻ sĩ đương thời:

15


-Xưa: công danh là lý tưởng đẹp, là cái đích để những người quân tử hướng tới với mong muốn lập thân,
giúp nước, giúp đời.
-Tới thời CBQ: công danh đã bị biến tướng, trong cái thời đảo điên, nó không còn là lý tưởng đẹp của kẻ sĩ
như xưa kia mà đã trở thành một miếng mồi ngon cho kẻ sĩ đương thời và biến họ thành những kẻ ham danh
lợi. Với loại người này, công danh có một sức cám dỗ ghê gớm, nó cũng là một thứ rượu ngon dễ làm say
lòng người mà ai cũng cố giành giật lấy để mưu cầu lợi ích cá nhân bần tiện của mình. Và khi tìm tới công
danh, đa phần những kẻ đó đều bị nó cám dỗ trở nên mê muội “nguời say vô số, tỉnh bao người”. Cả một xã
hội đang sống giữa cơn mê và quá hiếm người tỉnh để nhận ra sự nguy hại của nó.
Những trăn trở, suy tư về danh lợi, về kẻ sĩ đương thời đã cho ta thấy sự chán ghét con đường mưu cầu
danh lợi tầm thường của nhà thơ trước sự xuống cấp của khoa cử, học thuật thời Nguyễn. Đồng thời làm nổi
bật vẻ đẹp nhân cách của CBQ.
3. Hình tượng nhân vật trữ tình trong đoạn thơ cuối.
* Đi trên con đường cùng. Đồng nghĩa với nó là con đường đời, đường công danh mà NVTT đang đi đã
lên tới đỉnh điểm của sự bế tắc và cùng đường không lối thoát.
* Tâm trạng nhân vật trữ tình:
+ Băn khăn
+ Bi quan
+ Cùng đường, bế tắc (không thể đi tiếp, không thể quay lại), không tìm ra lối thoát.

* Câu kết: Lời thức tỉnh, giục giã bản thân của người đi trên cát phải quyết định dứt khoát, tìm con đường đi
mới cho cuộc đời. Câu thơ thể hiện khao khát thay đổi cuộc sống đương thời, khao khát một sự đổi mới của
nhà thơ.
III. Nghệ thuật.
- Nhân vật trữ tình được khắc họa rõ nét ấn tượng nhờ được đặt vào những hình ảnh thơ vừa mang ý nghĩa
tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Tóm lại: Bài ca ngắn đi trên bãi cát là khúc ca bi phẫn, u buồn khắc hoạ khá thành công hình tượng một con
người cô đơn nhưng kì vĩ trên bước đường gian truân, mờ mịt đi tìm chân lí. Người ra đi vừa quả quyết,
vừa tuyệt vọng, quên mình vì lí tưởng nhưng bế tắc, hoang mang vì không tìm được lối thoát. Điều đó thể
hiện sự phản kháng âm thầm nhưng quyết liệt với hiện thực xã hội phong kiến thời Nguyễn và lời cảnh bào
một sự đổi thay tất yếu trong tương lai.
THAM KHẢO BÀI “BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT”
Trong số những nhà thơ tài năng và có bản lĩnh ở thế kỉ XIX, CBQ được tôn thờ là “thánh Quát”
(Thần Siêu, thánh Quát). Ông là một nhà thơ lớn, thơ văn của ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ
phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng những điều khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi
mới của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Và nổi tiếng nhất trong những vần thơ độc đáo ấy của ông là tác
phẩm “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca). Được sáng tác trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội
qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng, bài thơ đã bộc lộ sự chán ghét của nhân vật trữ tình đối với con
đường mưu cầu danh lợi tầm thường và niềm khao khát đổi mới cuộc sống trong hoàn cảnh xã hội nhà
Nguyễn “xuống cấp”, mục nát lúc bấy giờ.
Nổi lên từ đầu bài thơ là hình tượng bãi cát dài nối tiếp tới vô tận với không gian rợn ngợp, hoang
vắng tới vô cùng, không biết đâu là điểm đầu, đâu là điểm kết, mở ra một con đường xa tắp nhiều trắc trở và
khó nhọc. Xuất hiện trên bãi cát mênh mông đó là bóng một con người nhỏ bé đang bước đi từng bước nặng
nề, mệt nhọc. Từng bước chân đi trên cát dường như trở nên vô nghĩa, thời gian đâu có chờ đợi ai bao giờ:
“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Trong tình thế ấy, trong hoàn cảnh ấy thật không có gì khó khăn, cực khổ hơn: mặt trời đã lặn, bóng đêm đã
xuất hiện nhưng người lữ khách vẫn bước đi tất tả mà không dừng lại được. Sự khó nhọc, vất vả giữa cồn
cát mênh mông và tâm trạng đau khổ của tác giả như đang bộc lộ hết ra ngoài: nước mắt lã chã rơi. Giọt
nước mắt ấy là sự mệt mỏi, căng thẳng, cô đơn, lạc lõng, hoang mang và buồn nản trong sự bế tắc đến cùng

cực của nhân vật trữ tình. Bãi cát ở đây ngoài ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa tượng trưng cho con đường đời
mịt mờ xa hút đầy chông gai, trắc trở trong xã hội phong kiến o bế, trì trệ mà con người buộc phải dấn thân
vào. Ngay cả con người trong cuộc hành trình này cũng mang tính biểu trưng. Đó là con người đi trên con
đường đời , đi tìm lí tưởng, mục đích đích thực có ý nghĩa cho cuộc đời giữa cuộc đời mịt mờ không xác

16


định được phương hướng nhưng không dừng lại được mà vẫn phải bước đi, dù phải bước đi trong bế tắc, vô
vọng.
Vì sao đây? Tại sao “anh ta” vẫn phải bước tiếp rên con đường mà biết trước rằng không có đích
đến? Vì “anh ta” không học được phép ngủ của ông tiên. Xưa Hạ Hầu Ấn nhắm mắt ngủ say là “nhắm mắt
làm ngơ, mặc kệ sự đời, mặc thây kẻ thức” để khỏi nhọc lòng trước những thăng trầm, trắc trở, rước họa vào
thân nhưng CBQ thì hoàn toàn khác, nhà thơ đối lập với cuộc đời nhưng không quay lưng với cuộc đời,
không những thế vì cuộc đời thêm một lần nữa anh ta khẳng định sẽ tiếp tục dấn thân vào con đường đầy
chông gai, nhọc nhằn mà mình đã chọn. Tác giả bán rẻ thời gian và tuổi trẻ của mình chỉ để đi tìm cái đích
đến cho con đường mình đang đi, bởi đó là con đường công danh, con đường duy nhất để lập thân thời
phong kiến, con đường duy nhất để đấng nam nhi thể hiện tài “kinh bang tế thế” và lí tưởng “tề gia trị quốc
bình thiên hạ” giúp nước, giúp đời. Thoạt đầu đọc qua, ta tưởng như sáu câu thơ tiếp từ câu “Không học
được ông tiên phép ngủ... “ có vẻ rời rạc với bốn câu thơ đầu, nhưng càng đi sâu ta mới thấy được sự liên
kết logic chặt chẽ trong từng ý thơ. Lúc đầu thể hiện tâm sự chán nản của khách, tự giận mình đã phải hành
hạ thân xác để theo đuổi công danh và vế sau là sự lí giải cho những suy nghĩ và hành động ấy.
Xưa nay, công danh là lí tưởng đẹp, là cái đích để các kẻ sĩ đương thời hướng tới với mong muốn
lập thân, giúp nước, giúp đời; nhưng thời CBQ đã hằn sâu vào trong tư tưởng của ông nhận định về sự biến
chất trong xã hội đảo điên vì danh lợi, công danh không còn là lí tưởng đẹp xưa kia nữa mà đã trở thành một
thứ có sức cám dỗ ghê gớm giống như một thứ rượu ngon:
“Đầu gió hơi men thơm quán rượu – Người say vô số, tỉnh bao người?”
Công danh đã biến những người quân tử thành những kẻ ham danh, ham tài, tranh giành, chém giết
nhau để mưu cầu lợi ích cá nhân bần tiện của mình; những con người ấy đã quá mê muội mà không có đủ
nhận thức để thấy được sự nguy hại của nó. Nói đến đây, tâm trạng nhân vật trữ tình càng nặng nề, sâu lắng

hơn, khách đã nhận ra rõ “cái đen”, “cái bẩn” của con đường công danh một khi bị biến tướng nhưng lại
không thể dừng chân được. Vì thế sự đau đớn, chán nản được tăng lên gấp bội lần:
“Bãi cát dài lại bãi cát dài
........................................
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!”
Trong những câu thơ trên, cách sử dụng nghệ thuật điệp từ của nhà thơ được phát huy đến cao độ,
nhấn mạnh vào suy nghĩ của người đọc về một bãi cát, một con đường dài không biết đâu là nơi đến. Và
giữa cái không gian bao la, hoang vắng ấy đột ngột xuất hiện một câu hỏi tu từ đầy thắc mắc, lo âu và trăn
trở: “Biết tính sao đây?”. Biết tính sao đây khi con đường công danh kia còn mờ mịt, gập ghềnh và chứa
đựng biết bao điều đáng sợ. Biết tính sao đây khi tiến lên là đường cùng và lùi lại cũng là đường cùng:
“Phía bắc... muôn đợt”
Hai câu thơ đã diến tả thật đắc địa tình thế, tâm trạng của người lữ khách khi lâm vào tình cảnh bế tắc, cùng
đường, buộc phải chôn chân giữa những cồn cát mênh mông, giữa không gian rợn ngợp, chứa chất muôn
vàn những điều nguy hiểm. Và như thế, cũng có nghĩa, con đường đời, con đường công danh mà người lữ
khách đang đi cũng đã tới bước đường cùng, không lối thoát. Thật đau đớn khi phải cất lên “khúc cùng đồ”
khi trong mình vẫn còn biết bao khát vọng, ước mơ, vẫn còn bao khát khao được đóng góp sức mình để
giúp đời, giúp nước. Đọc những câu thơ này, ta thấu hiểu được những cảm xúc thấm đẫm nước mắt của nhà
thơ và càng căm giận hơn cái xã hội thối nát, bảo thủ đã kìm kẹp nhân tài, không tạo cơ hội cho họ có điều
kiện được giúp nước, giúp đời cho dù họ đã nhận về mình phần thua thiệt. Về cuối bài, mọi cảm giác khó
thở trên gần như tan biến khi nhân vật trữ tình đặt câu hỏi “ Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”. Câu hỏi đó
là gì nếu không phải là một lời thúc giục, giục giã bản thân của nhân vật trữ tình. Giục giã bản thân mình
phải dứt khoát đoạn tuyệt với con đường công danh, với con đường cùng, với “cái bẫy” mà mình đang đi
cùng bao nỗi băn khoăn, phiền muộn để tìm ra một con đường đi mới có ý nghĩa hơn với cuộc đời. Lời thúc
giục ấy cũng cho ta thấy niềm khao khát mãnh liệt, cháy bỏng muốn đổi mới cuộc sống của nhà thơ. Đây là
sự khởi đầu mới của một tư tưởng mới đang hình thành trong tâm tưởng của con người giàu lòng yêu nước,
thương dân CBQ. Cái tư tưởng ấy dù lúc này mới chỉ bắt đầu mờ nhoà, chưa rõ nét nhưng theo thời gian nó
đã được CBQ trả lời dứt khoát khi đứng lên chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn chuyên chế sau
này. Đứng dưới lá cờ nghĩa với hai dòng chữ lớn: “Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn – Mục Dã, Minh
Điền hữu Võ Thang” (Ở Bình Dương, Bồ Bản không có những ông vua tốt như Nghiêu Thuấn – Thì ở Mục
Dã, Minh Điền có những người chống lại như Võ Thang), sinh mạng CBQ có thể mất đi, nhưng nhà thơ có

thể mãi kiêu hãnh, tự hào khi đã giải quyết được khối mâu thuẫn lớn đã đè nặng trên cuộc đời mình trong
bao nhiêu năm mò mẫm tìm đường mà chưa tìm ra lối thoát.

17


“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca) được xây dựng với hình tượng thơ độc đáo, mới mẻ,
sáng tạo và đa nghĩa vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc biểu lộ sự chán ghét
của một người trí thức đối với con đường công danh khoa cử của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Nhịp điệu bài
thơ cũng góp phần diễn tả thành công những cảm xúc của nhân vật trữ tình và vào việc thể hiện nội dung,
truyền tải tư tưởng của tác giả.
Ngày nay, đọc “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”, thế hệ trẻ chúng ta càng hiểu thêm và càng tôn kính hơn
tấm lòng yêu nước, yêu dân sắc son của CBQ. Nhìn lại quá khứ, chúng ta lại càng tin hơn vào tương lai của
đất nước khi với mọi người hai từ công danh đã được trả về đúng với ý nghĩa của nó. Dưới ánh sáng của
Đảng, của tư tưởng HCM, những kẻ sĩ, quân tử, những người có đức có tài không còn phải mò mẫm tìm
đường bất cứ lúc nào cũng có thể đem tài đức của mình phục vụ nhân dân, đất nước mà không cần phải băn
khoăn, do dự. Riêng đối với bản thân, học “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” đã cho em hiểu sâu sắc hơn về hai
chữ “công danh”, bài thơ đã giúp em hiểu được làm người phải sống thế nào cho đáng sống. Vì vậy, trong
vườn hoa văn học Việt Nam, với em (và có lẽ với nhiều người), “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”, mãi mãi là
một trong những bông hoa thơ đẹp nhất.
Bài viết của học sinh Nguyễn Thị Vân Anh
lớp 10A3 năm học 2010 -2011.
“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này
không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những
ranh giới ấy...”
(Mùa lạc, Nguyễn Khải)
Nếu như một ngày nào đó đứng trước bạn là những con người bị dồn tới bước đường cùng hay
những con người có thể nay mai sẽ trở về với cát bụi, hay bất cứ một người nào, bạn hãy đọc cho họ nghe
những lời này. Lúc đó, không chỉ bạn đã làm một việc tốt khi truyền cho họ một ngọn lửa của niềm tin mà
quan trọng hơn là bạn còn tự thắp cho mình một ngọn lửa của tình yêu cuộc sống!


LẼ GHÉT THƯƠNG
(Trích Truyện Lục Vân Tiên)
_Nguyễn Đình Chiểu_
I. Kiến thức cơ bản:
1. Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) sinh tại làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, mất tại
Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu khá lận đận. Lớn lên và theo đuổi nghiệp khoa cử vào
lúc xã hội loạn lạc, đất nước rơi vào hoạ xâm lăng, bản thân lại mù loà từ năm 25 tuổi. Bỏ dở nghiệp thi cử,
ông chuyển sang học thuốc, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh và mở trường dạy học.
2. Tác phẩm: Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ, được viết dưới hình thức thơ lục bát. Truyện Nôm là thể
loại văn học khá phát triển trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – XIX. Đó là những thành tựu đáng
tự hào của nền văn học dân tộc.3. Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến câu 504 của tác phẩm) là lời
của một nhân vật trong truyện, đó là nhân vật ông Quán trong cuộc đàm đạo giữa ông và các nho sĩ trẻ tuổi.
Từ “ghét” “thương” ở đây cũng không đơn giản là chỉ tình cảm đối với một ai đó. Chuyện ghét thương được
nhìn nhận bằng quyền lợi của nhân dân. Quan điểm yêu ghét của ông Quán chính là quan điểm của tác giả,
nhà thơ, nhà văn, ông đồ Nguyễn Đình Chiểu.
II. Tóm tắt truyện: Nhân vật chính của tác phẩm là Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn. Cháng
đã đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga. Nguyệt Nga nguyện lấy chàng để trả nghĩa. Trên đường đi thi,
Lục Vân Tiên nghe tin mẹ mất, chàng phải quay về chịu tang. Chàng khóc thương mẹ đến mà cả hai mắt.
Chàng bị Trịnh Hâm ghen ghét đố kị, lừa đẩy chàng xuống sông nhưng chàng được cứu thoát. Võ Thể Loan
đã hứa gả con gái cho chàng nay thấy chàng bị mù liền trở mặt, đẩy chàng vào hang sâu. Chàng đã đựoc
thần Phật cứu giúp, mắt sáng trở lại, rồi đỗ trạng nguyên, được cử đi đánh giặc Ô Qua. Kiều Nguyệt Nga
quyết chung thuỷ với Vân Tiên. Thái sư bắt nàng đi cống cho giặc. Nàng nhảy xuống sông tự vẫn ôm theo
bức hình Vân Tiên. Nàng được cứu sống, lại bị cha con Bùi Kiệm ép duyên, nàng bỏ trốn. Tác phẩm kết
thúc có hậu, Vân Tiên thắng trận trở về gặp Nguyệt Nga, hai người kết nghĩa vợ chồng.
III. Nội dung phân tích:

18



1. “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” ý nói: Biết ghét là vì biết thương. Vì thương dân nên ghét
những kẻ làm hại dân. Đây là câu nói có tính chất khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cả đoạn
trích. Tác giả đã lí giải căn nguyên chuyện ghét thương của mình.
2. Ông Quán ghét những kẻ đã bày ra “chuyện tầm phào”. Đó là những nhân vật nổi tiếng tàn ác: Kiệt Trụ
mê dâm, U lệ đa đoan, Ngũ bá phân vân, thúc quý phân băng. Hai nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử
phong kiến Trung Hoa thời cổ đại. Những tên vua tàn ác mà tên tuổi đều gắn với những giai thoại về sự độc
ác khôn cùng. Tiếp đến là hai thời kì đen tối của lịch sử Trung Hoa. Kẻ cầm quyền tranh giành quyền lực
đẩy nhân dân vào nạn binh đao. Kẻ thì ăn chơi, hưởng thụ sa đoạ, người thì say sưa tranh giành quyền lục
nhưng tất cả bọn chúng đều gây ra một hậu quả chung là đẩy nhân dân vào cuộc sống vô cùng khổ cực. Ông
Quá ghét những kẻ làm nhân dân phải chịu khổ cực. Cả bốn câu ông đều nhắc đến dân, nhắc đến những hậu
quả mà nhân dân lao động phải chịu: dân “sa sầm sẩy hang”, dân chịu “lầm than”, dân “nhọc nhằn” và “lằng
hằng rối dân”. Đối tượng ghét là tất cả những gì có hại cho nhân dân. Mức độ ghét cũng rất dứt khoát, rõ
ràng và quyết liệt, thể hiện thái độ không khoan nhượng, không dung tha đối với điều xấu.
3. Đối tượng “thương” là nhân vật cụ thể, những bậc hiền tài một lòng giúp đời, giúp dân. Đó là: Khổng Tử,
Nhan Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Đào Tiềm, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Họ đều là những con người nổi tiếng về tài và
đức song lại gặp toàn chuyện không may mắn. Họ đều là người có nhân cách cao cả, đều hết lòng thương
yêu dân chúng, sống trọn đạo bề tôi, giữ vững phẩm cách của nhà Nho. Đối tượng “thương” đều là những
người tài đức vẹn toàn. Thái độ thương ở đây bao gồm cả sự cảm thông, trân trọng, kính phục
của tác giả và cũng là sự tự thương mình của ông Đồ Chiểu.
4. Nhà thơ đã mượn chuyện bàn luận về ghét thương, về lịch sử để thể hiện thái độ của mình đối với cuộc
đời. Việc ghét thương gắn chặt với quyền lợi của nhân dân lao động. Việc dẫn toàn những chuyện của sử
sách Trung Quốc có ngụ ý nói về xã hội Việt Nam thời nhà Nguyễn. Những chuyện ghét thương ấy là bóng
dáng hiện thực xã hội mà tác giả phải chứng kiến. Dùng chuyện lịch sử để nói chuyện hiện thực là cách để
tư tưởng và tâm sự của tác giả có thể tự do giãi bày.
5. Tác giả đã sử dụng rất thành công các phương tiện ngôn ngữ như điệp từ, từ láy, thành ngữ, tiểu đối để
thể hiện thái độ ghét thương rất rõ ràng, dứt khoát và quyết liệt của mình. Đặc biệt nhà thơ đã sử dụng rất
hiệu quả biện pháp nghệ thuật điệp từ ghét, thương và các từ ngữ biểu cảm như: ghét cay ghét đắng, sa sầm
sẩy hang, lằng nhằng rối dân, phui pha, ngùi ngùi,…
IV. Tư liệu tham khảo:
1. Về tác phẩm: “Truyện Lục Vân Tiên” và cái trữ tình trong Lục Vân Tiên thật đáng mến, đáng yêu, một

chất trữ tình đôn hậu mà không thiếu bề sâu sắc. Ta hãy thử lấy một ví dụ thôi, đó là chung quanh bức tượng
của Nguyệt Nga vẽ Vân Tiên. Truyện Lục Vân Tiên sau khi mở đầu bằng một cảnh dân chạy giặc, thì bắt
đầu ngay một câu chuyện tình giữa Kiều Nguyệt Nga và Lục Vân Tiên; cái chí tình của Nguyệt Nga, ngay
những lúc đầu, đã làm cho người đọc cảm động. Việc Nguyệt Nga nhớ Vân Tiên, vẽ ra thành một bức tượng
hình Vân Tiên, và từ đó không rời bức tượng nữa, là một điển hình ai ai cũng nhớ từ đó về sau, hễ có
Nguyệt Nga là có bức tượng Vân Tiên, Nguyệt Nga tượng trưng cho sự chung tình, lòng chung thủy. Hình
ảnh Nguyệt Nga rất trong trẻo, rất đáng quý mến; người con gái ấy thông minh, biết suy nghĩ, biết xử sự
hợp nghĩa, hợp tình. Bức tượng Vân Tiên đã thành một điệp khúc trong truyện thơ. Khi bắt đầu vẽ
tượng:Làu làu một tấm lòng thành,Hóa ra một bức tượng hình Vân Tiên Cái tình yêu muôn thuở của con
người, khi thì nó hóa ra dệt gấm, như chức cẩm hồi văn của nàng Tô Huệ, khi thì nó ẩn trong tiếng đàn, như
chuyện nàng Kiều, khi nó hóa thành những bài thơ như trong Tình sử, khi nó hóa thành một bức chân dung
hồi kí như chuyện Kiều Nguyệt Nga. Lục ông đến thăm Kiều công, cha của Nguyệt Nga, cho biết tin đồn
vang là Vân Tiên đã chết. Nghe tin đó:Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng,Tay ôm bức tượng khóc ròng như
mưa.… Khi Nguyệt Nga được vớt lên, cùng vớt liền với bức tượng. Đến khi vào ở nhà Bùi Ông, không ở
được, bởi con là “Bùi Kiệm máu dê”, phải trốn ra đi, thì cũng: “Dán trong vách phấn một tờ/Vai mang bức
tượng kíp giờ ra đi”. Đến lúc tái hợp Vân Tiên- Nguyệt Nga cũng là nhờ bức tượng Vân Tiên: Hỏi rằng bức
ấy tượng chi,Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình. Như vậy, Nguyệt Nga với bức tượng là một điển hình
của tình yêu chung thủy; tâm sự Nguyệt Nga, chung quanh Nguyệt Nga, đã làm nảy bao câu trữ tình đôn
hậu và sâu sắc ở ngòi bút Đồ Chiểu”.
Xuân Diệu
(Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (Tái bản).NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969,
tr.45-47)
2. Về đoạn trích: “Quán rằng: ghét việc tầm phào/Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.” Chính thái độ
yêu ghét dứt khoát mãnh liệt ấy đã tạo cho truyện Lục Vân Tiên một tinh thần đấu tranh, một tinh thần phấn
khởi lôi kéo người đọc…… Thương và ghét đều vì nhân dân. Làm lợi cho dân thì thương, làm hại cho dân

19


thì ghét: “Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm…Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân…” Nguyễn Đình Chiểu cũng

đứng trên lập trường nhân nghĩa của nhân dân mà có một thái độ dứt khoát: yêu và ghét, “Ghét cay, ghét
đắng, ghét vào tận tâm”… Thái độ thật dứt khoát ấy được xây dựng trên một lý tưởng vững chắc bền bỉ,
không gì lay chuyển nổi. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga tiêu biểu cho cái lý tưởng ấy. Trong truyện Lục Vân
Tiên mỗi nhân vật chính diện đều theo đuổi một lý tưởng như vậy”.
Vũ Đình Liên (Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Sđd)

CHẠY GIẶC
_Nguyễn Đình Chiểu_
I. Đôi nét về tác giả:
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, một thầy đồ, một thầy thuốc, một nhà thơ và là một nghĩa sĩ có nhân
cách.
Mặc dù đôi mắt lúc đó đã mù loà, nhưng nỗi đau đớn của một người dân mất nước, hàng ngày chứng kiến
cảnh giặc Pháp tấn công và đánh chiếm quê hương đã khiến ông hình dung, tưởng tượng thật rõ ràng cảnh
nước mất nhà tan. Ông đã vẽ nên bức tranh đầy máu và nước mắt về một thời điểm lịch sử đen tối của dân
tộc.
II. Đọc hiểu tác phẩm:
– Chạy giặc được sáng tác khi nhà thơ chứng kiến cảnh nhân dân chạy loạn.
– Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, bắt đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Nhưng chúng đã gặp
sự kháng cự của quân triều đình và nhân dân. Thực dân Pháp quay sang tiến vào Sài Gòn, tràn tới sông Bến
Nghé. Bài thơ thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của nhà thơ và nỗi đau của ông khi phải chứng kiến cảnh
nước mất nhà tan.
1. Hai câu đề:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
=> Đất nước đã lâm vào cục diện bi đát, giống như người chơi cờ đã sơ sảy một nước quan tọng không sao
quay lại được và đang đối mặt với nguy cơ thất bại. Bàn cờ ấy không phải của riieng ai mà của cả dân
tộcđang đứng trên ngưỡng cửa của chiến tranh, mất mát.
2. Hai câu thực:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”

– Đảo ngữ => Câu thơ có giá trị biểu cảm cao hơn hẳn so với kiểu diễn đạt thông thường.
– Cái được nhấn mạnh ở đây là trạng thái hốt hoảng, hoang mang, hoảng loạn, mất định hướng của con
người.
3. Hai câu luận:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”
Nghệ thuật đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo
Hai câu thơ giúp người đọc hình dung được cảnh tan tác, tang thương của cả vùng Gia Định. Hai hình ảnh
miêu tả đầy tính hình tượng: tan bọt nước và nhuốm màu mây thể hiện niềm nuối tiếc khôn nguôi.
– Tâm trạng tác giả đã chuyển từ bất ngờ, hoang mang sang đau đớn rồi chua chát, xót xa.
4. Hai câu kết:
“Hỏi Trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Nhà thơ ko dùng các từ ngữ “người” hay “tướng” hay “sĩ phu”…. dẹp loạn mà dùng từ "trang" để nhấn
mạnh sắc thái tôn kính.
– Câu hỏi xoáy sâu vào lòng những người còn có dũng khí, còn có lương tri, ko để mất nước.
– Từ “nỡ” khiến người đọc cảm thấy trong câu hỏi có một lời tha thiết cầu xin.
* Nghệ thuật
– Tả thực kết hợp với khái quát, lựa chọn từ ngữ, hình ảnh.
– Biện pháp đối lập, câu hỏi tu từ.
* Ý nghĩa văn bản
Bài thơ gợi lại một thời đau thương của dân tộc, gợi lòng căm thù kẻ thù xâm lược.

20


BÀI CA PHONG CẢNH HƯƠNG SƠN
(Hương Sơn phong cảnh ca)
_Chu Mạnh Trinh_
I. Tìm hiểu chung:

1. Tác giả:
- Chu Mạnh Trinh (1862- 1905)
- Quê quán: làng Phú Thị - Đông Yên phủ Khoái Châu nay thuộc huyện Văn Giang Hưng Yên.
- Không chỉ giỏi về thơ mà còn là một nhà kiến trúc nổi tiếng.
2. Bài thơ:
- Đây là một trong ba bài thơ ông viết về Hương Sơn vào dịp ông đứng trông coi trùng tu, tôn tạo quần thể
danh thắng nơi đây.
- Bài thơ làm theo thể hát nói, có biến thể.
II. Đọc hiểu văn bản:
1. Bố cục: bài thơ có thể chia thành ba đoạn :
+ Đoạn 1 (bốn dòng thơ đầu) : giới thiệu thắng cảnh Hương Sơn, nhận xét tổng quát về cảnh đẹp và thể hiện
tình cảm.
+ Đoạn 2 ( Từ “Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái… Ghập ghềnh mấy lối uốn thang mây”) : Tả cảnh đẹp
Hương Sơn. Cảnh Hương Sơn mang vẻ đẹp của chốn tiên cảnh, như một bức tranh đẹp và nhiều sắc màu.
+ Đoạn 3 ( phần còn lại) : Suy nghĩ của nhà thơ về giang sơn đất nước. Đoạn thơ này có thể gắn với hiện
thực đất nước để hiểu rộng và sâu hơn giá trị của bài thơ. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước tha
thiết qua một thắng cảnh của đất nước và tâm sự sâu kín của một nhà thơ về đất nước, cuộc đời.
a) Khái quát phong cảnh Hương Sơn:
– Tác giả như hào hứng, ngất ngây trong cảnh đẹp -> đó là niềm ao ước mà nhà thơ lúc nào cũng muốn
ngắm nghía cảnh đẹp ấy.
- Phép lặp: Giới thiệu khái quát cảnh chùa Hương.
+ Thế giới cảnh bụt - cảnh tôn giáo.
+ Danh lam thắng cảnh số 1 của nước Nam.
- Câu hỏi tu từ: Vừa giới thiệu, vừa khẳng định.
-> Bằng những từ láy gợi hình gợi cảnh, động từ “kìa” thể hiện sự ngạc nhiên, và câu hỏi tu từ đã thể hiện
được cảnh đẹp đệ nhất của Hương Sơn và tấm lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.
b) Cảnh đẹp của Hương Sơn:
- Cảnh vật cụ thể của Hương Sơn: Cảnh Hương Sơn được miêu tả từ xa đến gần: trong rừng mai chim chóc
thỏ thẻ như đang dâng hoa quả cúng Phật; ở khe Yến cá lững lờ như say lời tụng niệm. Tiếng chuông ngân
lên làm cho khách viễn du như say mộng huyền ảo mùi thiền. Cái đẹp của Hương Sơn trước hết là vẻ đẹp

của thiên nhiên hòa trong khung cảnh thiêng liêng chốn cửa Phật. Giật mình nhưng vẫn trong giấc mộng cho
thấy khách sợ say vì đạo, say vì cảnh. Cảnh thiêng liêng làm cho kẻ phàm tục có cảm tưởng như trút bỏ
được mọi ưu phiền, lo toan trần thế để lắng đọng tâm linh cho thanh khiết, thánh thiện hơn.
+ Phép nhân hoá: Chim thỏ thẻ; cá lững lờ.
+ Hình ảnh ẩn dụ, biện pháp tu từ đối: Tạo sắc thái huyền diệu.
=> Cảnh như có hồn, nhuốm màu Phật giáo. phảng phất sự biến hóa thần tiên.
+ Điệp từ này, cách ngắt nhịp 4/3, nghệ thuật so sánh, dùng từ láy, từ tượng hình gợi cảm.
=> Sự hăm hở, niềm yêu thích và khả năng tạo hình sinh động, biến hoá của tác giả. Câu thơ giàu chất hội
họa, cảm hứng thẩm mĩ, gây sự ngỡ ngàng, thể hiện lòng yêu thiên nhiên và lòng tự hào về Nam thiên đệ
nhất động của tác giả.
Đường nét và hình ảnh cũng tạo cho con người cảm giác siêu thoát:
“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.”
Hang lồng bóng nguyệt là hang sâu, ban đêm thường có ánh trăng rọi vào. Lối uốn thang mây là lối đi
quanh co lên đỉnh núi như bậc thang. Cả hai đều là hình ảnh thực, nhưng đều mang lại vẻ huyền bí, huyền
ảo làm cho con người dễ say sưa với vẻ huyền bí đó.
c) Suy niệm của tác giả:

21


- Từ sự rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tác giả nghĩ về một khung cảnh rộng lớn hơn, đó là giang
sơn, đất nước: Chừng giang sơn còn đợi ai đây. Có thể mày sắc của Phật pháp tô điểm thêm nét đẹp đặc biệt
của Hương Sơn nhưng cũng chính là làm đẹp thêm vẻ đẹp của đất nước. Đó là lời thơ ca ngợi đất nước của
Chu Mạnh Trinh. Với nghĩa tường minh trong câu cuối cùng, nhà thơ cho thấy tâm trạng đối với đất nước
của mình. Qua cảnh Hương Sơn, nhà thơ càng yêu mến quê hương, đất nước hơn.
- Xúc động thành kính. Cảm hứng tôn giáo đầy trang nghiêm đối với đạo Phật.
- Cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng tôn giáo và lòng tín ngưỡng Phật giáo. Càng xa càng lưu
luyến mê say.
2. Nghệ thuật

Sử dụng từ tạo hình, giọng thơ nhẹ nhàng, sử dụng nhiều kiểu câu khác nhau, ngữ điệu tự do, phù hợp với
tư tưởng phóng khoáng.
Bài ca là một sự phong phú về giá trị nhân bản cao đẹp trong thế giới tâm hồn của thi nhân. Tình yêu mến
cảnh đẹp gắn với tình yêu quê hương đất nước của tác giả.
III. Tổng kết: Nhà thơ Chu Mạnh Trinh đã mang đến cho chúng ta một niềm tự hào về cảnh đẹp đất nước.
Phải nói nhà thơ tinh tế lắm mới có thể dùng những từ ngữ hay như thế để diễn tả cảnh vật nơi đây. Bằng
hàng loạt các nghệ thuật tả cảnh, từ láy… bức tranh thiên nhiên của Hương Sơn hiện lên vô cùng hấp dẫn.

VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
_Nguyễn Đình Chiểu_
I. Tìm hiểu chung:
1. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông
dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên
chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14-12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây
tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ GiaĐịnh,
song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.
2. Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức
tế – tưởng. Bài văn tế thường có các phần: Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết); Thích thực (hồi
tưởng công đức của người chết); Ai vãn (than tiếc người chết); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người
đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có kết cấu đủ bốn phần như vậy.
3. Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật
sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ – người nông dân nghĩa sĩ
chống giặc, cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện “ruộng trâu ở
trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạnh
hơn họ rất nhiều.
II. Nội dung phân tích:
1. Bố cục bài văn gồm bốn phần:
- Lung khởi (Từ đầu đến tiếng vang như mõ) là cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người sĩ Cần Giuộc.
- Thích thực (Từ Nhớ linh xưa… đến tàu đồng súng nổ) là hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa
sĩ.

- Ai vãn (Từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ là lời thương tiếc
ngườichết của tác giả và người thân của các nghĩa sĩ.
- Kết (còn lại) là tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người chết.
2. Câu “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ” có hình thức đối ngẫu hai vế. Vế 1 là tình huống của vế 2. Khi
quân giặc đến xâm lăng nhân dân là những người đầu tiên đứng lên chống giặc cứu nước. Câu văn đã khái
quát chủ đề của toàn bộ tác phẩm là ca ngợi tấm gương hi sinh tự nguyện của những nghĩa sĩ có tấm lòng
yêu nước. Nhân dân là hình tượng nghệ thuật của bài thơ bởi họ moíư là người đứng lên cầm vũ khí đánh
giặc. Họ đã sẵn sàng đứng lên đánh giặc. Trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, những người dân hiền lành
đã không cần ai thúc giục, họ đã dũng cảm đứng lên cầm vũ khí đánh giặc. Khi đất nước lâm nguy, người
đứng lên là dân chứ không phải vua quan. Câu thơ này đã thể hiện tấm lòng trọng dân của nhà thơ.
3. Để khắc họa hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, tác giả đã chú ý đến việc khắc họa hình thức bên ngoài,
phẩm chất hiền lành chất phác mà anh dũng kiên cường, tinh thần tự giác đánh giặc, xả thân vì đất nước với
nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh (“Ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ”), đặc tả (“Đạp rào lướt tới,

22


coi giặc cũng như không…; Xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”), đối ngẫu (đối ý, đối thanh: “chưa
quen cung ngựa” – “chỉ biết ruộng trâu”; “nào đợi” – “chẳng thèm”, đối hình ảnh: “bữa thấy bòng bong”
– “ngày xem ống khói”). Người nghĩa sĩ trở thành hình tượng nghệ thuật trung tâm của tác phẩm.
Vẻ đẹp bên ngoài bình dị, đời thường: “Ngoài cật một manh áo vải… Trong tay một ngọn tầm vông…”
Vẻ đẹp bên trong là lòng dũng cảm, là tinh thần xả thân vì nghĩa. Họ vốn là những người dân hiền lành chất
phác:
“Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa
từng ngó”.
Nhưng khi đất nước đứng trước nạn xâm lăng, họ đã vùng đứng lên bằng một tinh thần quật khởi đáng tự
hào với một lòng căm thù giặc sâu sắc: “… ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ; … muốn tới ăn gan, …
muốn ra cắn cổ…” Họ đánh giặc bằng những thứ vũ khí đơn giản nhưng với một sức mạnh tinh thần vô

cùng mạnh mẽ. Họ đã không thể chờ đợi những người có trách nhiệm. Nhà văn đã miêu tả tinh thần anh
dũng của những người nghĩa sĩ bằng những hình ảnh:
“Hỏa mai đánh bằng ….
Kẻ đâm ngang, người chém ngược…”
Để xây dựng hình tượng nghệ thuật về những người nghĩa sĩ, tác giả đã dùng hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ
bình dị, giàu cảm xúc, những từ ngữ giàu sức gợi. Hệ thống ngôn từ và hình ảnh đó đã góp phần làm cho
hình tượng người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với vẻ đẹp bình dị, gần gũi mà thiêng liêng cao quý.
4. Thái độ cảm phục và niềm xót thương vô hạn của tác giả đối với người nông dân nghĩa sĩ được tập trung
thể hiện ở đoạn Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng… đến hết. Đặc biệt là các chi tiết, hình ảnh và giọng
điệu lời văn giàu cảm xúc. Những người nông dân vốn hiền lành chất phác, yêu cuộc sống bìh yên nơi thôn
dã nhưng đã sẵn sàng đứng lên cầm giáo cầm mác để đánh đuổi xâm lăng. Họ đã chịu bao gian khổ anh
dũng hi sinh, dù thất bạinhưng họ đã khẳng định tinh thần bất khuất kiên cường không cam tâm làm nô lệ
của con người Việt Nam. Các chi tiết nổi bật: “xác phàm vội bỏ, nào đợi gươm hùm treo mộ, tấc đất ngọn
rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta, sống làm chi theo quân tà đạo…, thà thác mà dặng câu địch khái…”
Các hình ảnh ước lệ tượng trưng có ý nghĩa khái quát, thể hiện một cách trang trọng nỗi đau và sự mất mát
của cả dân tộc trước sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ: “sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng,
chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ”. Hình ảnh những người thân của người nghĩa sĩ đã tạo nên giá
trị biểu cảm sâu sắc cho bài văn: “Đau đớn bấy !… cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Một loạt các từ ngữ
biểu cảm, hình thức đối ngẫu được sử dụng thể hiện nỗi xót thương của tác giả đồng thời làm nổi bật phẩm
chất của người nghĩa sĩ: “đoái – nhìn, chẳng phải – vốn không, thà thác – cũng vinh”.
5. Chủ đề của bài văn tế là ca ngợi lòng yêu nước tinh thần quả cảm của những người nghĩa sĩ – nông dân
Cần Giuộc, từ đó khẳng định lòng yêu nước, tinh thần sẵn sàng xả thân vì nghĩa của con người Việt
Nam,đồng thời thể hiện tấm lòng tác giả đối với những con người ấy. Tấm lòng yêu nước của Nguyễn Đình
Chiểu cũng ngời sáng như tấm gương những người nghĩa sĩ. Với hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần
đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương
xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ – người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Nguyễn Đình
Chiểu đã đóng góp cho văn học Việt Nam một bài văn tế hay, xúc động nhất về tinh thần yêu nước chống
ngoại xâm.
III. Tư liệu tham khảo:
“Khi giặc mới đánh vào Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu có lời kêu gọi:

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
(Chạy giặc)
Nhưng rồi chính những người “dân đen” đã tự mình vùng dậy và họ lại là những người đầu tiên được
Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi trong một bài văn hay vào bậc nhất trong văn học Việt Nam, bài Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam chúng ta được nghe một lời ca như vậy,
một lời ca chan chứa tình anh em ruột thịt và lòng kính phục vô biên đối với những người nông dân nghèo
khổ. Ngay đến mấy mươi năm về sau cũng chưa có được một lời ca nào như thế:
Nhớ linh xưa;
Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó…
Bao nhiêu yêu thương trong một chữ côi cút. Những con người hiền lành và có gì như tội nghiệp ấy,
Nguyễn Đình Chiểu đã nói lên rất đúng tấm lòng yêu nước của họ, một tấm lòng yêu nước với những sắc

23


thái riêng, rất cụ thể, rất sâu sắc, một sự gắn bó có thể nói là máu thịt với từng tấc đất ngọn rau, từng vùa
hương, bát nước. Một khi giặc động đến là những con người rất hiền lành ấy bỗng thay đổi hẳn. Họ sẵn sàng
xông tới ăn gan, cắn cổ. Và mặc dầu chẳng ai đòi ai bắt, mặc dầu không biết võ nghệ, không đọc binh thư,
trang bị lại hết sức sơ sài:
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nào
sắm dao tu, nón gõ.
Họ đã lăn xả vào đồn địch, bất chấp các thứ súng đạn và đã chiến đấu anh dũng tuyệt vời:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục…… trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Chiến đấu trong khi sống và có thể chiến đấu cả sau khi chết:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.
Nhiều người Pháp viết về các trận đánh hồi bấy giờ cũng thừa nhận nghĩa quân của ta can đảm phi thường,
nhưng họ lại cho là một thứ can đảm mù quáng.Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không nghĩ như thế. Ông nhận
thấy:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay,

cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Rõ ràng không phải hy sinh vô ích.”
Hoài Thanh

CHIẾU CẦU HIỀN
(Cầu hiền chiếu)
_Ngô Thì Nhậm_
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Ngô Thì Nhậm (1764 - 1803), hiệu Hi Doãn.
- Người làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay: Thanh Trì - Hà Nội)
- Là người học giỏi đỗ đạt, từng làm quan đại thần dưới thời chúa Trịnh
- Khi Lê - Trịnh sụp đổ, ông theo phong trào Tây Sơn và được vua Quang Trung tín nhiệm giao nhiều trọng
trách.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác: "Chiếu cầu hiền" được viết vào khoảng năm 1788- 1789 khi tập đoàn Lê – Trịnh
hoàn toàn tan rã.
b. Mục đích:
"Chiếu cầu hiền" nhằm thuyết phục trí thức Bắc Hà hiểu đúng nhiệm vụ xây dựng đất nước mà Tây Sơn
đang tiến hành để công tác phục vụ triều đại mới.
c. Thể loại:
- Chiếu là một thể văn nghị luận chính trị xã hội thời trung đại thường do nhà vua ban hành.
- Xuống chiếu cầu hiền tài là một truyền thống văn hóa chính trị của triều đại phong kiến phương đông.
- Văn thể chiếu trang trọng, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
d. Bố cục: Ba phần:
- Phần I: “Từng nghe.....người hiền vậy”.(Quy luật xử thế của người hiền)
- Phần II: “Trước đây thời thế....của trẫm hay sao?”(Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất
nước)
- Phần III: “Chiếu này ban xuống….Mọi người đều biết."-> Con đường cầu hiền của vua Quang Trung.
II. Đọc hiểu văn bản:
1. Quy luật xử thế của người hiền:

- Người hiền tài có mối quan hệ với thiên tử:
+ Người hiền phải do thiên tử sử dụng.
+ Không làm như vậy là trái với đạo trời, trái với quy luật cuộc sống.
- Tác giả so sánh người hiền:
+ Người hiền – ngôi sao sáng ; thiên tử- sao Bắc Thần(tức Bắc Đẩu)
+ Từ quy luật tự nhiên: Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần (ngôi vua).
->Dùng hình ảnh so sánh, lấy từ luận ngữ tạo nên tính chính danh cho “chiếu cầu hiền” vừa đánh trúng vào
tâm lí của nho sĩ Bắc Hà. Cho ta thấy Quang Trung là người có học, biết lễ nghĩa.

24


2.Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước:
- Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà:
+ Mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng "Trốn tránh việc đời".
+ Ra làm quan: sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám lên tiếng", hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ,
giữ cửa”.
+ Một số đi tự tử “ra biển vào sông”.
->Vừa châm biếm nhẹ nhàng vừa tỏ ra người viết bài Chiếu có kiến thức sâu rộng, có tài năng văn chương.
- Hai câu hỏi:“Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng?”. Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự
Vương hầu chăng?”
->Vừa thể hiện sự thành tâm, khiêm nhường, vừa thể hiện sự đòi hỏi và cả chút thách thách của vua Quang
Trung. (Khiến người nghe không thể không thay đổi cách sống. Phải ra phục vụ và phục vụ hết lòng cho
triều đại mới).
- Tính chất của thời đại và nhu cầu của đất nước: Thẳng thắn tự nhận những bất cập của triều đại mới, khéo
léo nêu lên những nhu cầu của đất nước:
+ Trời còn tối tăm
+ Buổi đầu đại định
+Triều chính còn nhiều khiếm khuyết.
->Gặp nhiều khó khăn -> đòi hỏi sự trợ giúp của nhiều bậc hiền tài.

- Kết thúc đoạn 2: Hỏi mà khẳng định.
->Nhân tài không những có mà còn có nhiều. Vậy tại sao “không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp
cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”
->Cách nói vừa khiêm nhường tha thiết, vừa kiên quyết khiến người hiền tài không thể không ra giúp triều
đại mới làm cho nho sĩ Bắc Hà không thể không thay đổi cách ứng xử.
3. Con đường cầu hiền của vua Quang Trung:
- Đối tượng cầu hiền: quan viên lớn nhỏ, thứ dân trăm họ.
- Đường lối cầu hiền:
+ Cho phép mọi người có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dâng sớ tâu bày kế sách
+ Cho phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi
+ Cho phép người tài tự tiến cử.
-> Tư tưởng dân chủ tiến bộ đường lối cầu hiền: rộng mở, đúng đắn. Biện pháp cầu hiền: cụ thể, dễ thực
hiện.
-> Chứng tỏ Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng cũng như khả năng tổ chức, sắp đặt chính sự,
biết giải tỏa những băn khoăn có thể có cho mọi thần dân, khiến họ yên tâm tham gia việc nước.
Cuối cùng tác giả kêu gọi người có tài đức cố gắng hãy cùng triều đình gánh vác việc nước và hưởng phúc
lâu dài.
* Nghệ thuật
Cách nói sùng cô.
Lời văn ngắn gọn, súc tích ; tư duy sáng rõ, lập luận chặt chẽ, khúc chiết kết hợp với tình cảm tha
thiết, mãnh liệt đầy sức thuyết phục về lí và tình.
*. Ý nghĩa văn bản
Thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc cầu hiền tài phục vụ sự nghiệp đất nước.

XIN LẬP KHOA LUẬT
(Trích Tế cấp bát điều)
_Nguyễn Trường Tộ_
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Trường Tộ (1830-1871)

- Quê : Bùi Chu – Hưng Trung – Hưng Nguyên – Nghệ An.
- Là người thông thạo cả Hán học và Tây học → có tri thức rộng rãi, tầm nhìn xa trông rộng.
2. Giới thiệu: "Xin lập khoa luật"

25


×