Tải bản đầy đủ (.doc) (242 trang)

Phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 242 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRỊNH VĂN TÙNG

PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG TIẾP NHẬN VÀ XỬ LÝ
THÔNG TIN HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
TRONG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRỊNH VĂN TÙNG

PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG TIẾP NHẬN VÀ XỬ LÝ
THÔNG TIN HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
TRONG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Chuyên ngành: Lí luận và lịch sử giáo dục
Mã số: 62.14.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đặng Thành Hưng
2. PGS.TS. Bùi Văn Quân

THÁI NGUYÊN - 2016




i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì
công trình nào khác.
Tác giả luận án

Trịnh Văn Tùng


ii
MỤC LỤC


iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ GD&ĐT

Bộ Giáo dục và Đào tạo



Cao đẳng

ĐC

Đối chứng


ĐH

Đại học

ĐHSP

ĐH sư phạm

GDH

Giáo dục học

HCTC

Học chế tín chỉ

GV

Giảng viên

KN

Kĩ năng

KNHT

Kĩ năng học tập

KNTN và XLTTHT


Kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập

NL

Năng lực

SV

Sinh viên

SVSP

Sinh viên sư phạm

TC

Tín chỉ

TN

Thực nghiệm


iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
4.2. Xử lý, phân tích kết quả thực nghiệm...........................................................................124


v
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

4.2. Xử lý, phân tích kết quả thực nghiệm...........................................................................124
4.2. Xử lý, phân tích kết quả thực nghiệm...........................................................................124


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay đã làm cho tri thức loài người
tăng lên nhanh chóng, theo thời gian lượng thông tin mà con người thu nhận được
ngày càng tăng. Nếu như không có các biện pháp hữu hiệu để thu thập, tìm kiếm và
xử lí thông tin thì sẽ làm hạn chế thành quả lao động của con người. Trong khi đó
thời gian học tập tại trường là có hạn, để tồn tại và phát triển con người phải tự học
suốt đời. Để đáp ứng nhu cầu đó mục tiêu dạy học ở Nhà trường phải hướng vào
mục tiêu rèn luyện cho người học cách thức tự chiếm lĩnh tri thức, trong đó những
KNTN và XLTTHT của SV trở thành những KN quan trọng cần được nghiên cứu
và phát triển.
Việc dạy học ở các trường Cao đẳng, Đại học với chức năng, nhiệm vụ của
mình quán triệt một trong những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt là dạy học hướng
vào việc phát huy cao độ vai trò chủ thể tích cực, độc lập, sáng tạo của người học
trong quá trình dạy học bằng cách “tích cực hoá” “hoạt động hoá ”người học,
chuyển từ “phương pháp tập trung vào người thầy” sang “phương pháp tập trung
vào người học”, tăng cường dạy phương pháp, dạy KNHT, đặc biệt là phương pháp
và KN tự học, tự nghiên cứu cho người học.
Hoạt động học tập là hoạt động chủ yếu của sinh viên. Học tập của sinh viên
không chỉ đơn thuần là lĩnh hội tri thức mà còn là quá trình rèn luyện kỹ năng nghề
nghiệp. Kết quả học tập của sinh viên phụ thuộc vào việc sinh viên hình thành, củng
cố được các kỹ năng học tập, tiếp thu vận dụng được các tri thức vào thực tiễn cuộc
sống. Vì vậy, việc hình thành kỹ năng học tập cho sinh viên là công việc có ý nghĩa
then chốt trong quá trình dạy học.
Các nhà tâm lí học và giáo dục học đã chỉ ra rằng, quá trình học tập, KNHT

giữ vai trò quan trọng, bởi lẽ nó ảnh hưởng đến kết quả thực hiện các hành động
học tập, nhịp điệu xử lí và lĩnh hội các thông tin khoa học, chất lượng kiến thức học
tập của người học, mặt khác trong thực tiễn đào tạo cho thấy chất lượng đào tạo
không chỉ phụ thuộc vào những công việc tổ chức giảng dạy của giáo viên mà còn


2
phụ thuộc vào những công việc mang tính chất độc lập, phụ thuộc vào KNHT,
KNTN và XLTTHT của người học.
Học tập là một quá trình khai thác, tiếp nhận, xử lý và sử dụng thông tin để
từ đó SV tự biến đổi năng lực bản thân. Đối với SVSP hơn ai hết không những phải
có KNTN và XLTTHT mà còn phải dẫn dắt người khác có được các KN này để quá
trình học tập của họ diễn ra hiệu quả. Trong thời đại ngày nay, với sự bùng nổ của
thông tin trên toàn cầu diễn ra nhanh chóng, hoạt động học tập của con người không
chỉ bó hẹp trong phạm vi Nhà trường mà còn mở rộng ra trên nhiều môi trường xã
hội khác nhau.
Tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của SVSP không chỉ dừng lại ở việc
nắm vững tri thức cơ bản trong nhà trường (qua bài giảng trên lớp, qua các hoạt
động rèn luyện thực tiễn, thực tập sư phạm), mà còn tiếp nhận thông tin qua báo chí,
phim ảnh, truyền hình, internet và qua các kênh khác liên quan đến chuyên môn,
nghề nghiệp của họ. Sau khi tiếp nhận thông tin, SVSP phải xử lý, chọn lọc, phân
loại thông tin (nhằm phục vụ cho chuyên môn, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ Sư
phạm, làm giàu vồn kiến thức cho bản thân và tạo khả năng dạy người học phương
pháp tiếp nhận và xử lý thông tin học tập). Hơn nữa sau khi ra trường SVSP cần
phải nâng cao năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin để chọn lọc và vận dụng linh
hoạt, tinh tế thông tin đó vào bài giảng để làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn, kích
thích, khơi dậy năng lực tư duy sáng tạo ở người học. Như vậy, SVSP khác với SV
khác ở chỗ họ học tập, nghiên cứu để chuyển từ người đi học trở thành người đi
dạy. Nói cách khác SVSP không chỉ cần có các KNTN và XLTTHT mà còn cần
phải biết tổ chức, dẫn dắt người học sau này có được các KNTN và XLTT từ nhiều

nguồn TTHT khác nhau.
Đào tạo theo TC là phương pháp đào tạo tiên tiến, vì thế nó đòi hỏi sự đổi mới
trong phương pháp dạy và học, từ cách tiếp cận nội dung sang cách tiếp cận phương
pháp. Cái chúng ta cần ở SV ngày nay khi ra trường không phải là những kiến thức ghi
chép được trong quyển vở mà thầy đọc cho như trước kia, mà là năng lực tự tiếp nhận,
tự xử lí thông tin và năng lực sáng tạo để xử lí những vấn đề thực tiễn.
Thực tiễn dạy học ở các Trường SP hiện nay theo chúng tôi kết quả lĩnh hội
kiến thức của SV còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo, hạn chế hơn cả


3
là KNHT nói chung và KNTN và XLTTHT nói riêng. Nhận thức được vấn đề này,
GV ở các Trường SP đã cố gắng đưa ra nhiều biện pháp khắc phục và có những cải
tiến đáng kể. Tuy nhiên những biện pháp đưa ra chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, tài
liệu tập huấn,… của GV, chưa có chương trình chặt chẽ, chưa thống nhất theo các
biện pháp hợp lí dựa trên cơ sở khoa học. Mặt khác thực tiễn cho thấy việc triển
khai đào tạo theo HCTC ở Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn và bất cập từ cơ sở
vật chất, phương tiện kỹ thuật đến tổ chức quản lý và đánh giá,…đặc biệt là sự thích
ứng của SV đối với phương thức đào tạo mới này trong đó năng lực tự học, KNHT
nói chung và KNTN và XLTTHT của SV nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu của
quá trình đào tạo theo HCTC.
Kỹ năng học tập là một hệ thống rất phong phú và đa dạng. Có những KN
cho hoạt động học tập chung và những KN riêng cho từng môn học, từng dạng,
từng loại hình chuyên biệt của hành động học tập. Những KNHT chung bao gồm
các KN nhận thức, KN giao tiếp, KN quản lí học tập,…. Để học tập có kết quả học
sinh cần nắm được cả KNHT chung và KNHT chuyên biệt. Do đó, trong quá trình
dạy học bộ môn giáo viên phải quan tâm rèn luyện cả 2 loại KN trên cho học sinh.
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ quan tâm đến phát triển KNTN và XLTTHT của SVSP
trong đào tạo theo HCTC.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “phát triển

KNTN và XLTTHT của SVSP trong đào tạo theo HCTC”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học
tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ nhằm nâng cao hiệu
quả học tập của sinh viên sư phạm.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh
viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.


4
4. Giả thuyết khoa học
Kết quả học tập của SV phụ thuộc vào các KNHT nói chung và KNTN và
XLTTHT nói riêng. Nếu xây dựng được các biện pháp phát triển các KNTN và
XLTTHT của SVSP thì sẽ nâng cao được hiệu quả học tập, phát triển được hệ
thống KNHT và cách học của SVSP hiện nay, đáp ứng được quá trình đào tạo
theo HCTC.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Làm rõ cơ sở lí luận của phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin
học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
5.2. Khảo sát, phân tích và đánh giá cơ sở thực tiễn của phát triển kỹ năng
tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học
chế tín chỉ.
5.3. Đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin
học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
5.4. Thực nghiệm biện pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lí thông tin
học tập của SVSP trong đào tạo theo HCTC.

6. Phạm vi nghiên cứu
Luận án giới hạn vấn đề nghiên cứu trong phạm vi sau:
- Nghiên cứu kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên sư
phạm và phát triển các kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập trong đào tạo
theo học chế tín chỉ của sinh viên sư phạm hệ đào tạo Đại học.
- Tổ chức khảo sát thực trạng tại các trường đại học sư phạm Hà Nội; đại học
Hồng Đức; đại học Vinh; đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
- Tổ chức thực nghiệm phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học
tập thông qua môn học Giáo dục học cho các sinh viên khối ngành sư phạm tại
trường đại học Hồng Đức.
- Nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông
tin học tập cho sinh viên sư phạm hệ chính quy tại các trường đại học sư phạm.


5
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu
7.1.1. Tiếp cận hệ thống
Luận án xem xét kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập là bộ phận hợp
thành của quá trình dạy học trong nhà trường và là một kỹ năng học tập.
7.1.2. Tiếp cận phức hợp
Để nghiên cứu kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập luận án dựa trên
nhiều lí thuyết khác nhau, nhiều thành tựu của nhiều khoa học liên quan làm cơ sở
cho việc phát triển các kỹ năng của sinh viên sư phạm như là Tâm lí học, Giáo dục
học,…
7.1.3. Tiếp cận hoạt động
Vận dụng lí thuyết hoạt động vào việc nghiên cứu đối tượng được xem xét.
Thực chất việc phát triển kỹ năng là phát triển khả năng triển khai hành động phù
hợp với mục đích và lôgíc của nó.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu cụ thể

7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Tổng quan các tài liệu lý luận, hệ thống hoá các khái niệm, các lý thuyết có liên
quan đến KNHT, các KN tự học, quá trình hình thành, phát triển kỹ năng tiếp nhận và
xử lý thông tin học tập, nghiên cứu lý luận về học chế tín chỉ, học tập theo học chế tín
chỉ,… để xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý
thông tin học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
7.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát giảng viên và sinh viên để tìm hiểu các biện pháp mà giảng viên sử
dụng trong phát triển kỹ năng học tập cho sinh viên và mức độ thực hiện các hành
động học tập cần rèn luyện của sinh viên.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (An két)
Điều tra giảng viên và sinh viên nhằm tìm hiểu thực trạng kỹ năng tiếp nhận
và xử lý thông tin học tập, thực trạng việc phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý


6
thông tin học tập của sinh viên sư phạm và thực trạng ảnh hưởng của những điều
kiện bên trong của sinh viên và các yếu tố khách quan bên ngoài đến sự phát triển
kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo
theo học chế tín chỉ.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục
Nghiên cứu bài tập của sinh viên để đánh giá mức độ phát triển kỹ năng tiếp
nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên sư phạm.
Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia về bộ công cụ điều tra, các biện pháp phát triển kỹ
năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên trong đào tạo theo học chế
tín chỉ.
Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn các giảng viên có chuyên môn sâu và một số sinh viên nhằm làm

rõ hơn những kết quả thu được qua phiếu hỏi, đồng thời bổ sung thêm những thông
tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài.
Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính hiệu quả, khả thi của các biện
pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên sư phạm
đáp ứng quá trình đào tạo theo học chế tín chỉ.
7.3. Phương pháp hổ trợ
Sử dụng phần mềm xử lí số liệu (SPSS 17.0) để xử lí số liệu điều tra và thực
nghiệm sư phạm.
8. Đóng góp mới của luận án
- Xác định được cấu trúc và đặc điểm của KNTN và XLTTHT của SVSP
trong điều kiện đào tạo theo học chế tín chỉ.
- Xây dựng được hệ thống KNTN và XLTTHT trong đào tạo theo học chế
tín chỉ cần phát triển cho sinh viên sư phạm.
- Khảo sát và đánh giá thực tiễn của việc phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử
lý thông tin học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ hiện
nay.


7
- Xây dựng được 5 biện pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập
cho sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ gồm: Biện pháp phát triển
KN định hướng, lựa chọn các nguồn thông tin học tập phù hợp với môn học; biện
pháp phát triển KNTN và XLTTHT trong các giờ học trên lớp; biện pháp áp dụng
KNTN và XLTTHT trong quá trình làm việc độc lập với sách, giáo trình và các tài
liệu dạng in; biện pháp hướng dẫn SV các kỹ thuật khai thác mạng (LAN, Internet)
áp dụng KNTN và XLTTHT; biện pháp tổ chức môi trường và điều kiện học tập
khuyến khích SV chủ động rèn luyện KNHT.
9. Luận điểm bảo vệ
- Kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập trong đào tạo theo học chế tín

chỉ là một kỹ năng học tập và cần được phát triển cho sinh viên sư phạm.
- Kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên sư phạm trong
đào tạo theo học chế tín chỉ có thể phát triển được khi có các biện pháp phát triển
KNTN và XLTTHT. Được phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa giảng viên và sinh viên
và được rèn luyện trong suốt quá trình học tập.
- Kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập của sinh viên sư phạm phát triển
đạt ở mức độ cao sẽ nâng cao được kết quả học tập của sinh viên đáp ứng được quá
trình đào tạo theo học chế tín chỉ và hoạt động nghề nghiệp giáo viên sau này,…
10. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận và khuyến nghị; Danh mục tài liệu tham khảo;
Phụ lục; Luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận của phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin
học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
Chương 2. Thực trạng phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học
tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
Chương 3. Biện pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin học tập
của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
Chương 4: Thực nghiệm biện pháp phát triển kỹ năng tiếp nhận và xử lý
thông tin học tập của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo học chế tín chỉ.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG TIẾP NHẬN VÀ XỬ LÍ
THÔNG TIN HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM TRONG ĐÀO TẠO
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về học chế tín chỉ
HCTC đã được áp dụng ở Mỹ từ thế kỷ 19 và được triển khai rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới. Cùng với sự phát triển của phương thức đào tạo này, rất

nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố, nhiều cuốn sách về hệ thống tín chỉ
học tập đã được xuất bản. Các nhà nghiên cứu giáo dục Mỹ - cái nôi của HCTC là
những người đầu tiên nghiên cứu về hệ thống học tập này.
Tác giả C. James Quann của ĐH Quốc gia Washington [125] đã định nghĩa
các khái niệm tín chỉ, giờ tín chỉ, chuyển đổi giờ tín chỉ,... trong tài liệu "The
Academic Credit System" (Về hệ thống tín chỉ học tập). Các định nghĩa này của
Quann được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về tín chỉ của các tác giả Việt
Nam hiện nay.
Tác giả Heffeman James trong tài liệu "The Credibility of the Credit Hour:
The History, Use and Shortcomings of the Credits System" đã trình bày tổng quan
về HCTC với những khái niệm, quá trình triển khai đào tạo, các ưu điểm và nhược
điểm của hệ thống, những điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho sự chuyển đổi thành
công và khả năng áp dụng HCTC trong các nước đang phát triển.
Các tác giả Robert Allen và Geoff Layer [49] đã có công trình nghiên cứu
"Credit - Based Systems as Vehicles for Change in Universities and Colleges" (Hệ
thống tín chỉ là phương tiện thay đổi trong các trường ĐH và cao đẳng). Các tác giả
khẳng định sự phát triển của giáo dục ĐH đại chúng là một thách thức đối với các
nhà quản lý và nhu cầu tất yếu phải có sự thay đổi trong hệ thống giáo dục ĐH.
Hiện nay, HCTC đã được triển khai và nghiên cứu ở nhiều nước trên thế
giới và các nhà khoa học vẫn không ngường nghiên cứu về hệ thống này nhằm
ngày càng hoàn thiện để nâng cao chất lượng giáo dục phù hợp với sự phát triển
của xã hội.
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu và triển khai đào tạo theo HCTC trong các
trường ĐH đã được đề cập cách đây trên 20 năm nhưng gặp rất nhiều lúng túng


9
trong cả khâu nghiên cứu, quản lý và triển khai. Ngay từ năm 1988, theo chủ trương
của Bộ GD & ĐT, một số trường ĐH đã áp dụng học chế mềm dẻo: kết hợp giữa
niên chế với học phần. Trong giai đoạn 1993 - 1998 các tác giả ở Vụ ĐH đứng đầu

là nhóm nghiên cứu do các nhà khoa học Lâm Quang Thiệp [125] và Lê Viết
Khuyến [125 ]đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về chuyển đổi sang hệ
thống tín chỉ.
Năm 1994, Vụ ĐH thuộc Bộ GD & ĐT [11] xuất bản cuốn sách "Về hệ
thống tín chỉ học tập". Đây là công trình được dịch từ bốn tài liệu nước ngoài về
HCTC với những kiến thức rất cơ bản kèm theo nhiều tài liệu tham khảo được giới
thiệu đã thực sự cần thiết với các trường ĐH ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi
từ học chế niên chế sang HCTC và các kinh nghiệm đào tạo theo HCTC ở các nước.
Cùng thời gian này nhiều hội thảo đã được tổ chức và tập trung bàn về các
vấn đề lý luận và các quan điểm mới trong việc thiết kế chương trình đào tạo theo
HCTC. Các hội thảo đã đi sâu phân tích và bàn về: chương trình đào tạo trong kỷ
nguyên công nghệ, vai trò của internet trong giảng dạy và học tập phù hợp với
HCTC; phân tích các cơ hội và thách thức của việc chuyển đổi từ niên chế sang
HCTC; nhận diện các xung đột hệ thống khi triển khai HCTC trong điều kiện của
Việt Nam; nghiên cứu các phương pháp sư phạm đặc thù và các hình thức tổ chức
dạy và học hiệu quả trong đào tạo theo HCTC [71], [145], [150],...
Năm 2007, Bộ GD & ĐT đã ban hành quy chế 43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày
15/8/2007 [10] về đào tạo ĐH và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, bao
gồm: tổ chức đào tạo; kiểm tra và thi học phần; xét và công nhận tốt nghiệp. Từ đây
đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về HCTC, tiêu biểu:
- Tác giả Lâm Quang Thiệp [125] đã có nhiều bài viết, công trình nghiên
cứu về HCTC. Trong các công trình này tác giả đã nêu lên các ưu điểm và nhược
điểm của HCTC và điều kiện áp dụng tại Việt Nam.
- Tác giả Nguyễn Đức Chính đã xây dựng được quy trình kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của SV theo yêu cầu của HCTC. Tác giả đã phân tích nhu cầu người
học và khâu đánh giá, cải tiến của các nhà quản lý và của giảng viên.
- Tác giả Lê Doãn Đãi, Lê Thạc Cán nghiên cứu về quy trình triển khai đào
tạo theo HCTC, cơ cấu lại chương trình đào tạo để chuyển đổi phương thức đào tạo
từ niên chế sang tín chỉ. Các tác giả cũng nghiên cứu việc tổ chức dạy và học theo
chương trình định sẵn và theo HCTC rất chi tiết.



10
- Tác giả Lê Viết Khuyến [125] đã có những công trình nghiên cứu về quá
trình triển khai HCTC, các yêu cầu và mức độ phù hợp của từng yêu cầu đó đối với
thực trạng giáo dục Việt Nam.
Gần đây có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu phân tích sâu về HCTC phải
kể đến như: Tác giả Đặng Xuân Hải [53], [54] nghiên cứu về kỹ thuật dạy học trong
đào tạo theo HCTC; tác giả Trần Thị Minh Đức [41] nghiên cứu về mô hình hoạt động
của cố vấn học tập; tác giả Nguyễn Thị Kim Liên [88] nghiên cứu về kỹ năng học tập
của SV đào tạo theo HCTC; Nguyễn Mai Hương [85], [86], Bùi Ngọc Lâm [95], Trần
Mai Hương [87] nghiên cứu về hoạt động tự học, hoạt động lập kế hoạch, những khó
khăn của SV và hoạt động quản lý quá trình dạy và học trong đào tạo theo HCTC.
Khi tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về HCTC chúng tôi nhận thấy rằng có rất nhiều
công trình nghiên cứu và các tài liệu bàn về HCTC. Tuy nhiên, hiện nay không có
nhiều công trình nghiên cứu cơ sở lý luận về HCTC cũng như nghiên cứu về các kỹ
năng học tập cần thiết của SV trong đào tạo theo HCTC. Chủ yếu các nghiên cứu của
các tác giả là các bài học kinh nghiệm hoặc được dịch từ các tài liệu nước ngoài.
1.1.2. Nghiên cứu về KN và KNHT
1.1.2.1. Các nghiên cứu về KN
Kỹ năng là vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Nhà bác học lỗi lạc
Hy Lạp cổ đại Arixtot (384-322 TCN), trong cuốn“ Bàn về tâm hồn” đã coi kỹ năng
làm việc là một trong 3 bộ phận cấu thành phẩm hạnh của con người. Trong đó nội
dung của phẩm hạnh được xác định là “Biết định hướng, biết việc làm, biết tìm tòi”.
Có nghĩa là con người có phẩm hạnh là con người phải có kỹ năng định hướng làm
việc sáng tạo [68]. Các công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục học nổi tiếng thế
kỷ 19 như G.Rutxo, K.D.Usinxki, I.A.Comenxki [124] cũng đã đề cập đến kỹ năng
trí tuệ và sự hình thành kỹ năng này. Tuy nhiên, từ thế kỷ XIX trở về trước vấn đề
kỹ năng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống.
Thế kỷ XX trở lại đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ

thuật trong đó có Tâm lý - Giáo dục học, vấn đề kỹ năng được quan tâm nhiều
hơn. Vào những năm 20-30 của thế kỷ XX, vấn đề kỹ năng được các nhà giáo
dục học Xô Viết quan tâm nghiên cứu Như N.K.Crupxcaia [17], A.X.Makarenco
[125] đi sâu nghiên cứu ý nghĩa của việc dạy kế hoạch và tự kiểm tra. Đặc biệt
N.K.Crupxcaia [17] rất quan tâm tới việc hình thành những kỹ năng lao động và
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông.


11
Những năm đầu thế kỷ XX, khi lý thuyết hoạt động của Tâm lý học Xô Viết
ra đời hàng loạt các công trình nghiên cứu về kỹ năng, kỹ xảo được công bố. Những
công trình này đã phân biệt hai khái niệm: Kỹ năng, kỹ xảo và con đường hình
thành chúng. Tác giả A.N.Leonchiev [96] đã nhấn mạnh điều kiện hình thành kỹ
năng là tri thức và kinh nghiệm trước đó.
P.A. Rudic [116] đề cập tới kỹ năng bậc thấp, kỹ năng đầu tiên của hành
động. Ông chú ý tới mức độ hoàn thiện của kỹ xảo. Theo ông mục đích của việc
tiếp thu hành động là tạo ra kỹ xảo để khi hành động không phải nghĩ tới từng thao
tác. Điều này rất cần đối với hành động có các thao tác đòi hỏi độ chính xác cao
trong những điều kiện ổn định.
A.V.Petrovxki [110] xem xét kỹ năng của những hành động phức tạp và điều
kiện hành động không ổn định. Ông nhấn mạnh cơ sở của việc hình thành kỹ năng
là tri thức, kỹ năng đó đã do hành động trước đó mang lại.
V.V.Tsêbưsêva [77] đã nghiên cứu kỹ năng và đưa ra các phương pháp hình
thành kỹ năng. Theo tác giả kỹ năng là khả năng thực hiện một hành động nào đó
dựa trên những tri thức và kỹ xảo được hoàn thiện dần trong quá trình hoạt động.
Nhìn chung các tác giả trên khi nói đến KN đều coi KN như là trình độ thực
hiện hành động (xét dưới yếu tố kỹ thuật) hoặc coi KN là khả năng con người thực
hiện một việc gì đó có hiệu quả. KN ở đây được các tác giải coi là biểu hiện năng
lực của con người.
Tác giả Trần Trọng Thủy [138], Nguyễn Quang Uẩn [143] đã nhấn mạnh vai

trò kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình hoạt động lao động; các giai đoạn hình thành kỹ
năng, kỹ xảo.Trong giáo trình tâm lý học lao động, tác giả đã nêu khái niệm kỹ
năng, các điều kiện hình thành kỹ năng hoạt động lao động. Tác giả Phạm Tất Dong
[29] nghiên cứu và đã chỉ ra 4 giai đoạn hình thành kỹ năng sơ bộ, giai đoạn hoạt
động với những kỹ năng chưa thành thạo, giai đoạn kỹ năng phát triển cao, giai
đoạn phát triển cao nhất của kỹ năng. Ngoài ra còn có các tác giả như Trần Quốc
Thành [120], [121], Ngô Công Hoàn và Hoàng Anh [65], Dương Diệu Hoa [62],...
Các tác giả đều cho rằng, muốn thực hiện hành động con người phải có
những tri thức về hành động đó. Đó là hiểu được mục đích, cách thức thực hiện,
phương tiện, điều kiện hành động và sử dụng chúng vào hoạt động thực tiễn. Xuất
phát từ chỗ coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, các tác giả này quan niệm
rằng, khi nắm được kỹ thuật hành động, hành động đúng theo yêu cầu kỹ thuật thì


12
sẽ đạt được kết quả. Muốn nắm được kỹ thuật hành động và hành động đúng theo
kỹ thuật thì phải có quá trình học tập và rèn luyện. Kỹ năng được biểu hiện ở khả
năng vận dụng những tri thức đã có vào một lĩnh lực hoạt động cụ thể, đảm bảo cho
hoạt động diễn ra đạt hiệu quả. Theo hướng này, kỹ năng vừa vừa có tính mềm dẻo
linh hoạt vừa có tính mục đích. Khi kỹ năng ở con người bắt đầu thì cần xem xét kỹ
năng ở mặt kỹ thuật của thao tác, của hành động hay hoạt động. Mặt khác khi kỹ
năng đã được hình thành ổn định, con người biết sử dụng nó một cách sáng tạo
trong các hoàn cảnh khác nhau thì kỹ năng được xem xét như một kỹ xảo.
1.1.2.2. Các nghiên cứu về KNHT
- Tác giả G.X. Gatxchuc [47] đi sâu nghiên cứu KNHT, đặc biệt KNHT độc
lập và vận dụng sáng tạo kiến thức vào thực tiễn. Các tác giả này đề cập nhiều đến
điều kiện để hình thành các KN bên trong quá trình dạy học.
- Một số tác giả phương Tây nghiên cứu KNHT của SV như D. Chalmer, R.
Fuller [153] đã đưa ra các KN: quản lý thời gian, xác định mục tiêu, tập trung tư
tưởng, nghe, ghi, chép, đọc sách, hiểu, nhớ, kiểm tra, giúp đỡ, hợp tác, giải quyết

vấn đề, tra cứu, KN quyết định, quản lý stress, lập sơ đồ, tư duy phê phán, chuẩn bị
thi,…và đã đưa ra chiến lược học tập như: thu thập thông tin, xử lí thông tin, xác
nhận kết quả, quản lí cá nhân; Colin Rose - Malcolm, J. Nicholl [16] bàn khá sâu và
cụ thể về các KNHT siêu tốc trong thế kỷ 21 đó là: các KN ghi nhớ, tư duy phân
tích, tư duy sáng tạo trong hoạt động.
- Tác giả D. Chalmer, R. Fuller [153] cho rằng: Người học muốn tham gia
vào hoạt động học tập thành công thì phải có các KNHT cần thiết. Từ đó, các tác
giả đã đưa ra một hệ thống các chiến lược cần dạy cho SV và cách dạy các chiến
lược đó. Các chiến lược được các tác giả đề xuất gồm: Các chiến lược thu thập
thông tin, các chiến lược xử lý thông tin, các chiến lược xác nhận kết quả học tập và
chiến lược quản lý cá nhân. Các tác giả cho rằng, chính giáo viên là người chịu
trách nhiệm về các chiến lược SV sử dụng học tập và đồng thời các tác giả cũng chỉ
ra phương hướng vận dụng cách dạy các chiến lược đó để giáo viên có thể sử dụng
phù hợp với nội dung môn học của mình.
Có thể thấy rằng, đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về KNHT và triển khai
sâu theo nhiều hướng khác nhau, đã làm rõ sự khác biệt giữa KN mang tính sư phạm
và KN lao động nghề nghiệp khác. Các tác giả tiêu biểu theo hướng nghiên cứu này


13
là: G. X. Catxchuc [47], X. I. Kixegof [90], Cudơmina N. V. [18], .... Trong đó, X. I.
Kixegof [90] nhấn mạnh sự khác biệt giữa KN hoạt động sư phạm và KN lao động
sản xuất về quá trình hình thành, nhất là về đối tượng hoạt động. Ông đã chia quá
trình hình thành KN hoạt động sư phạm thành 5 giai đoạn: Giới thiệu cho SV về
những hoạt động sắp phải thực hiện như thế nào? Trình bày, diễn đạt các quy tắc
lĩnh hội hoặc tái hiện lại những điều hiểu biết, nền tảng mà dựa vào đó, KN, kỹ xảo
được hình thành; Trình bày mẫu hành động; SV tiếp thu hành động qua thực tiễn và
Đưa ra hệ thống các bài tập độc lập.
Tác giả Trịnh Quang Từ [141], Trần Quốc Thành [120], [121], Lê Khánh
Bằng [5], Nguyễn Ngọc Bảo [6] Hà Thị Đức [42], Vũ Trọng Rỹ [116], Đặng Thành

Hưng [73], [74], [83] ,... đại đa số các tác giả đều quan tâm xây dựng hệ thống kỹ
năng, phân chia thành các nhóm kỹ năng và mô tả các kỹ năng cụ thể. Những kỹ
năng học tập của sinh viên được các tác giả đề cập khá đa dạng chẳng hạn: Kỹ năng
quản lý thời gian, xác định mục tiêu, tập trung tư tưởng, nghe ghi chép, đọc sách,
ghi nhớ, kiểm tra, ôn tập, kỹ năng học hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề, sử dụng
thời gian hiệu quả...
- Tác giả Lê Khánh Bằng [5] cho rằng, để phát huy tính tích cực tự học của
người học, người học phải rèn luyện các kỹ năng cơ bản như kỹ năng định hướng,
kỹ năng thiết kế, kỹ năng thực hiện kế hoạch, kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá quá
trình học tập của bản thân. Ông cũng đưa ra biện pháp hình thành kỹ năng học tập
là giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ phương pháp dạy học
hướng vào giáo viên sang phương pháp dạy học hướng vào hoạt động của học sinh.
- Tác giả Mạnh Tuấn [135] đã nghiên cứu và giới thiệu hệ thống kỹ năng học
tập cần thiết giúp sinh viên có thể thành công trong học tập. Trong đó tác giả đã xây
dựng các bài tập dạy các kỹ năng, các nguyên tắc sử dụng các kỹ năng thành công
và các giai đoạn hình thành kỹ năng học tập. Theo tác giả để học được một kỹ năng
cần trải qua 4 giai đoạn : Bắt đầu học các nhà lý thuyết học tập gọi là thiếu kỹ năng
một cách vô thức (không biết mình là thiếu kỹ năng); Sau đó chúng ta ý thức được
thiếu thốn kỹ năng của bản thân và lợi ích của các kinh nghiệm học tập; giai đoạn
tiếp theo chúng ta đạt tới mức dùng các kỹ năng một cách có ý thức; cuối cùng sau
một thời gian áp dụng, thực hành, chúng ta có thể đạt tới cấp độ dùng kỹ năng một
cách vô thức.


14
- Tác giả Hà Thị Đức [42] và các cộng tác viên lại quan tâm nghiên cứu quy
trình tự học của sinh viên như quy trình làm việc với sách giáo khoa và quy trình
nghiên cứu khoa học Tác giả Trần Thị Minh Hằng [56] trong luận án tiến sĩ của
mình lại đi sâu nghiên cứu một số các yếu cơ bản trong tự học của sinh viên và
cũng đưa ra một số nhóm kỹ năng như sau: Nhóm kỹ năng định hướng gồm: kỹ

năng tiếp nhận và phát hiện vấn đề, kỹ năng lập kế hoạch tự học.; Nhóm kỹ năng
thực hiện hoạt động tự học gồm: Kỹ năng đọc sách, kỹ năng giải quyết nhiệm vụ
nhận thúc, kỹ năng thực hành...; Nhóm kỹ năng tự kiểm tra đánh giá hoạt động tự
học: kỹ năng kiểm tra, kỹ năng đánh giá hoạt động tự học. Tác giả Trần Quốc
Thành [121] với quan niệm bồi dưỡng kỹ năng học tập cho sinh viên là điều kiện để
thực hiện quy trình đổi mới ở đại học đã đưa ra một số kỹ năng học tập cần rèn
luyện cho sinh viên gồm: Kỹ năng định hướng, kỹ năng thiết kế, kỹ năng thực hiện,
kỹ năng kiểm tra, đánh giá. Theo tác giả muốn hình thành kỹ năng học tập giáo viên
cần hình thành cho sinh viên trong quá trình dạy học.
- Tác giả Đặng Thành Hưng [73], [75], [76], [77], [78], [79] nghiên cứu hệ
thống KN dạy học hiện đại trong đó có đề cập đến căn cứ để xác định KNHT
chung và trình bày chi tiết cấu trúc của những KNHT trong môi trường học tập hiện
đại gồm:
+ Nhóm những KN nhận thức học tập
+ Nhóm những KN giao tiếp và quan hệ học tập
+ Nhóm KN quản lý học tập.
- Tác giả Vũ Trọng Rỹ [116] và các thành viên đề tài cấp Bộ B96-49-32
nghiên cứu về hình thành KNHT cho học sinh phổ thông cơ sở, trong đó đề cập đến
một cách hệ thống các vấn đề lí luận về sự hình thành KNHT như là tổng quan
những vấn đề nghiên cứu về KNHT.
- Tác giả Nguyễn Văn Phương [113], Trần Văn Hiếu [60], Nguyễn Thị Tính
[128], Trần Anh Tuấn [133], [134], Nguyễn Thị Thanh [118], [119], Nguyễn Thị Bích
Hạnh [55], Bùi Ngọc Lâm [95], Nguyễn Thị Kim Liên [97] trong luận án tiến sĩ và các
công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành đã đưa ra các quan niệm:
- Kỹ năng học tập dựa trên nguồn kiến thức, theo dấu hiệu bên trong và bên
ngoài, theo quá trình nhận thức, theo độ phức tạp của quá trình nhận thức. Các tác
giả xác định HTKNHT như: KN học với sách giáo khoa, KN tự học.


15

- Kỹ năng học tập của SV bao gồm ba nhóm thành phần đó là: nhóm KN lập
kế hoạch hoạt động học tập; nhóm KN tổ chức việc học và nhóm KN tự kiểm tra, tự
đánh giá việc học của bản thân.
- Kỹ năng học tập bao gồm: nhóm KNHT trên lớp; nhóm KN đọc tài liệu học
tập và nhóm KN xêmina.
Kỹ năng học tập đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ: Vai trò
của KNHT đối với người học, các KNHT cần có ở người học, mô tả các KN đó và
khẳng định vai trò của giáo viên đối với việc dạy KNHT cho người học. Một số
KNHT cụ thể đã được một số tác giả đi sâu nghiên cứu tìm ra biện pháp rèn luyện
như KN ôn tập, KN đọc sách [24], [31], [32], [84], [89], [98], [99], [155], [167],...
1.1.3. Nghiên cứu về phát triển KNTN và XLTT học tập
Trên cơ sở coi KNTN và XLTTHT là một KNHT và trong phạm vi đề tài
này chúng tôi quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu KNTN và XLTTHT của SV.
- Liên quan đến KNTN và XLTTHT của SV có nhiều tác giả trên thế giới quan
tâm nghiên cứu như: D.Denise Chalmer và R.Richard Fuller [153]; Paul Trewer
[168], Craig Rusbult [154], Mary holmer [162], Colin Rose và Malcolm J. Nicholl
[16], Jean A. Reynolds [159], Kanyik, Robert an Shankman, Florence V. [161]
- Paul Trewer [168] nghiên cứu về kỹ năng học tập có liên quan tới học ở đại
học đã giới thiệu và phân tích các kỹ năng như: Quản lý thời gian, xác định mục
tiêu, tập trung tư tưởng, nghe, ghi chép, đọc sách, siêu nhận thức, nhớ kiểm tra, giúp
đỡ, kỹ năng học hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tra cứu, kỹ năng quyết
định, lập sơ đồ khái niệm, tư duy phê phán.
- Tác giả D. Denise Chalmer và R. Chard Fuller [153] đã đưa ra một hệ
thống các chiến lược cần dạy cho SV như: Các chiến lược thu thập thông tin xử lý
các thông tin, các chiến lược xác nhận kết quả học tập và chiến lược quản lý cá
nhân. Các tác giả cho rằng giáo viên là người chịu trách nhiệm dạy và quản lý các
chiến lược học tập của sinh viên để họ thực hiện sao cho có hiệu quả và phù hợp với
môn học.
- Ngoài tác giả Denise Chalmer và Chard Fuller [153], tác giả


Joe

Landsberger [92] khi nghiên cứu về học tập cũng cho rằng học tập cũng cần có
chiến lược và đã đưa ra một số kỹ năng, nguyên lý học tập đúc rút ra từ quá trình


16
học tập thực tế như: Kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, bài kiểm tra được sử
dụng tài liệu, chuẩn bị bài và làm bài thi vấn đáp, những kỹ năng viết cơ bản, lập
dàn ý và viết nháp...với mục đích giúp sinh viên ứng dụng và thành công trên con
đường học tập.
Tác giả Craig Rusbult [154] đã đưa ra danh mục các kỹ năng học tập mà sinh
viên cần luyện tập và cách thực hiện từng kỹ năng cụ thể đó là trí nhớ, tập trung tư
tưởng, đọc nghe và tích cực, chuẩn bị thi, sử dụng thời gian một cách có hiệu quả.
Goeffrey Fetty [49] khi nghiên cứu về cách thức dạy học nhằm ứng dụng tốt
nhất trong thực tế dạy học, ông đã đặt vị trí của mình vào vị trí của người học để
tìm ra cách học. Trên cơ sở nghiên cứu các trường phái tâm lý học ông cho rằng học
là thực hiện một kỹ năng cụ thể đòi hỏi phải thoả mãn các nhu cầu như: Giải thích
(Học sinh cần phải hiểu vì sao phải thực hiện kỹ năng đó như vậy); Làm tri tiết
(Học sinh cần phải phát hiện một cách chính xác cái mà ta trông chờ ở các em phải
làm và phải làm như thế nào); Sử dụng (Học sinh cần sử dụng thực hành kỹ năng đó);
Kiểm tra và hiệu chỉnh (Việc thực hiện của các em cần được các em và giáo viên
thường xuyên kiểm tra vả hiệu chỉnh); Ghi nhớ (học sinh cần phải có phương tiện hỗ
trợ ghi nhớ); Ôn lại và sử dụng lại (Đây là việc cần thiết để nội dung học cũ không bị
quên); Đánh giá (Người học phải được kiểm tra trong thực tế để cả người học và
người dạy thực sự yên tâm về nội dung học); Thắc mắc (người học luôn đòi hỏi và có
cơ hội để nêu câu hỏi). Đây được xem là kinh nghiệm học thành công.
Thông tin với vấn đề tiếp nhận và xử lý thông tin của con người nói chung đã
có một số tác giả nghiên cứu. Vấn đề thông tin và việc tiếp nhận thông tin như thế
nào để đáp ứng được nhu cầu thông tin hiện nay cũng được nhiều nhà khoa học hiện

nay đề cập đến ở những khía cạnh và mức độ nhất định như tác giả Vũ Đình Cự
với "Khoa học - Công nghê - lực lượng sản xuất hàng đầu" [19], [20], Lê Hữu
Nghĩa và Phạm Duy Hải với "Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học
- công nghệ" [108], Nguyễn Duy Thông "Thông tin và phản ánh" [127], Trần Hồng
Lưu với "Sức mạnh thông tin trong xã hội hiện đại" [100].
Dưới góc độ tự học, tự tiếp nhận và xử lý thông tin học tập với tư duy con
người nói chung và tư duy người học nói riêng đã có một số công trình và tác giả
nghiên cứu. Tiểu biểu là các tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức [66], Nguyễn
Văn Hộ và Hà Thị Đức [67], Lê Khánh Bằng [5],…


17
Hiện nay, thực hiện Nghị Quyết của Chính phủ về “đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục ĐH Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020” BGD&ĐT đã ban hành Quy
chế đào tạo ĐH và CĐ hệ chính quy theo HCTC, theo Quyết định số
43/2007/BGD&ĐT ngày 15/8/2007 [10]. Hiện nay, các trường ĐH và CĐ đang
chuyển từ học phần niên chế sang HCTC, phương pháp dạy học hướng vào SV, đòi
hỏi người học phải phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sang tạo trong học tập để
đáp ứng được các mục tiêu học tập.
Vấn đề KNTN và XLTTHT của SV là một KNHT quan trọng nhưng đến nay
ít người quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc, chuyên biệt và có hệ thống.
Chưa có những công trình nghiên cứu đầy đủ về nó như là một hoạt động học tập,
phương pháp học tập độc lập để đưa ra những chỉ dẫn giúp cho GV và SV tổ chức
quá trình dạy và học một cách có hiệu quả. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra những
biện pháp phát triển KNTN và XLTTHT cho SV không chỉ có ý nghĩa về mặt lí
luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc góp phần nâng cao chất lượng
dạy học, hiệu quả đào tạo của các cơ sở giáo dục ĐH.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước trên cho thấy
phần lớn các tác giả đi vào nghiên cứu KNHT của học sinh phổ thông, các công
trình nghiên cứu về KNHT của SV còn ít. Những đóng góp của các tác giả trên về

KN và KNHT là rất đáng trân trọng và là cơ sở quan trọng cho đề tài nghiên cứu
này. Các tác giả nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau như nghiên cứu các
KNTN và XLTTHT bên trong là các thủ thuật, thao tác trí tuệ, hoạt động tư duy trong
học tập. Các KNTN và XLTTHT bên ngoài là cách thức tiến hành các công việc như
đọc sách, tra cứu tài liệu, tổ chức công việc,…Cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về các KNTN và XLTTHT trong đào tạo theo HCTC.
1.2. Học chế tín chỉ trong giáo dục đại học
1.2.1. Khái niệm học chế tín chỉ
Học chế tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của
một người học bình thường để học một môn học cụ thể [37], [132], [163], [125].
Học chế tín chỉ cho phép SV đạt được văn bằng qua việc tích lũy các kiến
thức khác nhau để đo lường bằng một đơn vị xác định căn cứ trên khối lượng lao
động học tập trung bình của một SV gọi là TC (credit).
Trong các từ điển bách khoa [148], [29], [112] các tài liệu về giáo dục ĐH
có nhiều định nghĩa khác nhau về TC. Theo định nghĩa của James Quann (ĐH Quốc


18
gia Washington): TC học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của
một người học bình thường để học một môn học cụ thể bao gồm: (1) thời gian lên
lớp; (2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đó
được quy định ở thời khóa biểu; và (3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu,
giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...; đối với các môn học lý thuyết 01 TC là
một giờ học trên lớp (với 02 giờ chuẩn bị bài ở nhà) trong vòng một tuần và kéo dài
trong một học kỳ 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay trong phòng thí nghiệm
- ít nhất là 02 giờ trong vòng 01 tuần (với 01 giờ chuẩn bị bài ở nhà); đối với việc tự
nghiên cứu - ít nhất là 03 giờ làm việc trong 01 tuần [53], [95], [101], [125], [150].
Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo học kỳ. Một năm
học có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình đào tạo của một
ngành học nhất định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy kiến thức của

sinh viên, sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho một ngành học thì được cấp
bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường.
1.2.2. Đặc trưng của học chế tín chỉ
Quyết định số 43/2007/QĐ - BGD&ĐT về ban hành “Quy chế Đào tạo đại
học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ” (gọi tắt là Quy chế 43) đã xác
định rõ các đặc điểm và yêu cầu của đào tạo TC [10].
Đào tạo theo TC là phương thức đào tạo tiên tiến, có tính nhân văn và tính
hiệu quả cao, đồng thời đã và đang là xu thế tất yếu ở các trường ĐH. Dưới đây là
một số đặc điểm và cũng là ưu thế của phương thức đào tạo theo TC.
- Trao quyền chủ động cho SV và đòi hỏi cao tính chủ động của họ
Đào tạo theo TC với đặc điểm là “hướng tới người học, lấy người học là trung
tâm” và cá nhân hoá quá trình đào tạo mà các hệ thống khác không có được. Mặt
khác, cho phép SV chủ động tiến tới văn bằng đại học bằng lựa chọn nhiều cách tổ
hợp các đơn nguyên kiến thức có số TC khác nhau (tức là có giá trị khác nhau);
Trong đào tạo theo TC, mỗi môn học chỉ kéo dài và chấm dứt sau một học
kỳ. Do đó, đòi hỏi SV phải chủ động hơn trong việc học. Việc kiểm tra đánh giá
được tiến hành bằng nhiều hình thức đa dạng và cũng kéo dài trong suốt học kỳ nên
gánh nặng thi cử được giảm nhẹ, nhưng cũng không cho phép SV được chây lười.


×