BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Thu Hằng
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN ĐẠT
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành bởi sự nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ tận tình
của các thầy cô giáo, bạn bè, anh chị em đồng nghiệp và những người thân trong gia
đình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Văn Đạt, giảng viên trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, người đã tận tình chỉ dẫn tôi trong suốt quá
trình xây dựng đề cương và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Ban lãnh đạo, cùng các thầy cô giáo Khoa Lịch
sử, trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức và thực hiện thành
công khóa đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam (2006 – 2009) , tạo cơ
hội học tập nâng cao trình độ về lĩnh vực mà tôi tâm huyết.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường trung học phổ thông Ngô
Quyền, các cơ quan ban ngành của thành phố Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai đã giúp đỡ
tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn Phòng khoa học công nghệ - sau đại học, trường Đại học
sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện thuận lợi để luận văn được hoàn
thành đúng tiến độ.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN - TTCN
: công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
DV
: dịch vụ
GTSX
: giá trị sản xuất
KCN
: khu công nghiệp
NLTS
: nông lâm thủy sản
Nxb
: nhà xuất bản
Ph
: phường
TM
: thương mại
TP
: thành phố
UBND
: ủy ban nhân dân
XHCN
: xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, đạt
được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Kèm theo đó là quá trình đô thị hóa, một
hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, chuyển biến các xã hội nông nghiệp – nông
dân – nông thôn sang các xã hội đô thị - công nghiệp – thị dân. Ở Việt Nam, do sự
phát triển chậm chạp của công nghiệp và thương nghiệp trong lịch sử nên hầu hết
các đô thị mang chức năng tổng hợp, vừa là trung tâm chính trị, vừa là trung tâm
kinh tế, đồng thời giữ vai trò trung tâm văn hóa. Hiện nay, quá trình đô thị hóa gắn
liền với sự phát triển của công nghiệp hóa, mà biểu hiện của nó là sự hình thành các
khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu kinh tế mở có quy mô, chất lượng phát triển
khác nhau.
Cùng với sự phát triển của thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu, Đồng Nai
có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, là một đỉnh trong tam giác tăng trưởng kinh
tế trọng điểm phía nam của cả nước; tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố (Bà Rịa-Vũng
Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng, Bình Thuận, TP. Hồ Chí Minh). Hòa cùng công cuộc
đổi mới của đất nước từ năm 1986, Đồng Nai đang tiến nhanh, tiến mạnh trên con
đường hiện đại hóa nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Nhiều đô thị
đã và đang giữ vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của tỉnh như Biên Hòa,
Long Khánh, Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch. Trong đó, Biên Hòa đã được
nhà nước công nhận là đô thị loại II, trở thành đô thị đối trọng với thành phố Hồ Chí
Minh, nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế đô thị phía Nam của cả nước. Tại Biên
Hòa, nhiều khu công nghiệp khác nhau với quy mô lớn, nhỏ đã được xây dựng, hoạt
động có công suất cao. Giữ vai trò quan trọng, thành phố Biên Hòa nhận được sự
quan tâm của các cấp lãnh đạo, thu hút được nhiều dự án đầu tư từ trong và ngoài
nước, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất – kĩ thuật tương đối phát triển.
Song song với những thuận lợi có được từ vị trí và tiềm năng phát triển, quá
trình đô thị hóa diễn ra ở Biên Hòa còn gặp nhiều khó khăn: bất cập trong quản lí,
tính không đồng bộ trong quy hoạch, những hệ lụy mà đô thị hóa đem lại như môi
trường tự nhiên bị thoái hóa, môi trường văn hóa bị ảnh hưởng và các vấn đề xã hội
khác.
Để thực hiện quá trình đô thị hóa thành phố Biên Hòa theo đúng tinh thần
quy hoạch và tránh những hạn chế, sai lầm có thể mắc phải, cần có cái nhìn cụ thể
và khái quát, xem xét quá trình đô thị hóa ấy diễn ra như thế nào, những nhân tố
khách quan và chủ quan tác động, chi phối. Trên cơ sở đó có những bài học kinh
nghiệm phục vụ cho sự nghiệp chung công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và cả
nước, đặc biệt trong giai đoạn mở cửa, hội nhập với quốc tế. Điều này có ý nghĩa
thời sự, mang tính thực tiễn cao; đồng thời khắc họa sâu thêm kiến thức khoa học
đối với người viết, đảm bảo tính toàn diện trong nghiên cứu lịch sử không chỉ dừng
lại ở lịch sử quân sự - chính trị mà còn là tất cả những gì xảy ra liên quan đến con
người và xã hội loài người.
Là một người dân của tỉnh Đồng Nai, một giáo viên giảng dạy ở trường trung
học phổ thông, tìm hiểu về quá trình đô thị hóa ở thành phố Biên Hòa cũng chính là
tìm hiểu về lịch sử phát triển của vùng đất này trong quá trình hơn 20 năm kể từ
ngày đổi mới. Đó sẽ là những nội dung được truyền đến học sinh trong các giờ dạy
lịch sử địa phương, giáo dục cho các em lòng tự hào và tinh thần trách nhiệm đối
với địa phương.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài
“Quá trình đô thị hóa ở thành phố Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai) giai đoạn 1986 2005” làm luận văn cuối khóa học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của việc nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu sự chuyển biến trên tất cả
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa ở thành phố Biên Hòa trong quá trình đô thị hóa từ năm
1986 đến năm 2005. Nghiên cứu còn làm rõ những tác động của quá trình đô thị hóa
đối với sự phát triển chung của thành phố, rút ra một số đặc điểm và bài học kinh
nghiệm trong quá trình đô thị hóa; từ đó đề ra một số định hướng để làm nền tảng cho
sự phát triển bền vững trong tương lai.
III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đô thị hóa là vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu trên thế giới và trải qua 3
giai đoạn phát triển: giai đoạn tiền công nghiệp, giai đoạn công nghiệp hình thành
và phát triển, giai đoạn hậu công nghiệp. Ở Việt Nam, các đô thị cũng được hình
thành sớm. Cuốn “Đô thị cổ Việt Nam” của Viện sử học, Hà Nội, 1989 đã miêu tả,
giới thiệu 13 đô thị cổ ra đời và phát triển trong khoảng thời gian từ thế kỉ III đến
thế kỉ XIX. Trong đó có những đô thị đã bị mai một hoàn toàn nhưng cũng có
những đô thị tồn tại và liên tục phát triển cho đến hôm nay, trở thành đô thị hiện
đại, tiêu biểu như Thăng Long – Hà Nội. Tuy nhiên vấn đề quy hoạch đô thị chưa
thấy được đề cập đến.
Năm 1995, ấn phẩm “ Đô thị Việt Nam” gồm hai tập của tác giả Đàm Trung
Phường ra đời đánh dấu bước phát triển trong việc nghiên cứu đô thị hóa. Theo giáo
sư “cho đến giữa thập niên 90 vẫn chưa có ai viết sách và tiếp cận một cách có hệ
thống, toàn diện về vấn đề quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam” [48, tr.56].
Tác phẩm nghiên cứu của giáo sư đã đánh giá thực trạng mạng lưới đô thị
Việt Nam hiện nay, nghiên cứu – định hướng phát triển đô thị trong bối cảnh đô thị
hóa thế giới và bước đầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Đồng thời tác
giả còn trình bày mở rộng những khái niệm về đô thị học trong mối quan hệ với
những tiến bộ của khoa học mới, đem đến những thông tin có tính chất tham khảo
về vấn đề đô thị. Có thể xem đây là công trình quan trọng để tiếp cận các vấn đề lí
luận về đô thị nói chung cũng như về đô thị hóa nói riêng. Tuy nhiên, “Đô thị Việt
Nam” có hạn chế là chưa đi sâu vào từng đô thị.
Cuốn sách khác có nội dung liên quan là “Đô thị hóa tại Việt Nam và Đông
Nam Á” của Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á do Nxb thành phố Hồ Chí Minh
ấn hành vào năm 1996. Cuốn sách đã đề cập một cách cụ thể nhiều khía cạnh khác
nhau của hiện tượng đô thị hóa trong bối cảnh lịch sử ngày nay. Chương một đề cập
đến xu thế đô thị hóa của một số thành phố tại Việt Nam và Đông Nam Á, trong đó
nhấn mạnh đến thành phố Hồ Chí Minh, nơi có tốc độ đô thị hóa cao nhất của cả
nước. Chương hai nêu lên những vấn đề đặt ra từ quá trình đô thị hóa như nhu cầu
quản lý đô thị, bảo vệ môi trường, tình trạng tăng dân số cơ học; đồng thời nêu ra
một số kinh nghiệm trong phát triển đô thị của các nước Đông Nam Á. Chương ba
nhấn mạnh đến vấn đề môi trường nhân văn, môi trường văn hóa của con người
trong quá trình đô thị hóa. Chương bốn dựng lại tiến trình đô thị hóa trong lịch sử,
giới thiệu một số đô thị cổ ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Năm 1998, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản cuốn “Đô thị hóa và chính
sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của tác giả
Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử. Ngoài nội dung đề cập đến những vấn đề mang
tính lý thuyết chung về đô thị hóa trong giai đoạn hiện nay: đô thị hóa lấy tăng
trưởng kinh tế, lấy con người làm trung tâm; cuốn sách còn tập trung phân tích,
đánh giá thực trạng đô thị Việt Nam, phát hiện các vấn đề nảy sinh và làm rõ vai trò
quan trọng của các chính sách tác động đến sự phát triển đô thị ở nước ta.
Ngoài ra còn hàng loạt công trình nghiên cứu viết về các vấn đề khác nhau
của đô thị hóa như “Dân số và nhà ở đô thị Việt Nam” của Phạm Văn Trình (Nxb
TP. Hồ Chí Minh, 1996), “Biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay” của Nguyễn
Thanh Tuấn (Nxb Văn hóa thông tin, 2006), “Đời sống văn hóa đô thị và khu công
nghiệp Việt Nam” (Nxb Văn hóa Thông tin, 2005) của tác giả Đình Quang, “Vấn đề
nhà ở đô thị trong nền kinh tế thị trường của thế giới thứ ba” (Nxb Khoa học Xã
hội, 1996), tác giả là Trịnh Duy Luân và Michael Leaf,...
Như vậy, nhìn chung các sách viết về về đô thị hóa ở Việt Nam tương đối
nhiều, đặc biệt trong giai đoạn từ sau năm 1975. Song các công trình này hầu hết
dừng lại ở những vấn đề mang tính lý luận hoặc nghiên cứu về các đô thị lớn: TP.
Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các đô thị loại II như thành phố Biên Hòa ở tỉnh Đồng Nai
chưa thấy được đề cập đến một cách nghiêm túc, đầu đủ.
Điển hình phải kể đến Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thủy với nhan
đề “Quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 – 1996”. Luận án đã
trình bày quá trình đô thị hóa ở các quận huyện ven đô thành phố Hồ Chí Minh như
Quận 8, Bình Thạnh, Tân Bình, Gò Vấp. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả
đã làm rõ quá trình biến đổi của các quận huyện trong khoảng thời gian hơn 20 năm
(1975 - 1996) trên tất cả các mặt, trong đó tập trung vào sự thay đổi về cơ cấu kinh
tế và cơ sở hạ tầng của các địa bàn khảo sát.
Năm 2008, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Tấn Tự nghiên cứu về “Quá
trình đô thị hóa huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh (1986-2003)” đã đóng
góp một cách tiếp cận mới về đô thị hóa, dựng lại bức tranh chuyển đổi từ một vùng
nông nghiệp sang thành thị ở Bình Chánh, đưa ra những nhận xét, kiến nghị cho sự
phát triển trong tương lai.
Tài liệu sớm nhất đề cập đến lịch sử kinh tế xã hội ở thành phố Biên Hòa là
“Gia Định thành thông chí” của tác giả Trịnh Hoài Đức. Cuốn “Biên Hòa – Đồng
Nai 300 năm hình thành và phát triển” (của Nxb Đồng Nai, 1998) được viết nhân
dịp Đồng Nai – Biên Hòa tròn 300 tuổi kể từ khi Nguyễn Hữu Cảnh vào khai phá
năm 1698. Tác phẩm đã trình bày về lịch sử phát triển của vùng đất, đồng thời có đề
cập đến đặc điểm kinh tế Đồng Nai trước và sau thời kì đổi mới cho đến năm 2000.
Tuy nhiên bức tranh về đô thị hóa ở thành phố Biên Hòa vẫn chưa được khắc họa.
Năm 2001, Nxb Đồng Nai cho ra đời ấn phấm “Địa chí Đồng Nai” gồm 5 tập, trình
bày rất cụ thể về lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh nhà trên các nội dung:
tổng quan, lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hóa - xã hội. Thành phố Biên Hòa chỉ được
đề cập đến một cách sơ lược trong sự phát chung đó.
Nhằm tổng kết, đánh giá những kết quả đạt được kể từ ngày giải phóng đến
năm 2000, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xuất bản cuốn “Đồng Nai 25 năm
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội” (năm 2002). Có thể nói đây là tài liệu tham
khảo có giá trị cho chúng tôi khi nghiên cứu về thành phố Biên Hòa. Tiếp đến năm
2005 Nxb Chính trị Quốc gia cho ra đời cuốn “Đồng Nai thế và lực mới trong thế kỉ
XXI”, một tài liệu tham khảo quan trọng, cung cấp cái nhìn khái quát về trình độ,
tốc độ phát triển của tỉnh nhà trong bối cảnh toàn cầu mới, giới thiệu với bạn đọc
toàn cảnh kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện
nay.
Ngoài ra, đề cập đến thành phố Biên Hòa còn có các khóa luận tốt nghiệp
của sinh viên, trong đó phải kể đến đề tài “Công nghiệp hóa – Đô thị hóa và sự
phân hóa giàu nghèo ở thành phố Biên Hòa” của tác giả Lê Thị Kiều Trang, khoa
Địa Lí trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh năm 2004. Đề tài miêu tả một
cách chung nhất sự phát triển của thành phố trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm
2000, trong đó tập trung vào sự phân hóa mức sống của người dân. Tuy nhiên đề tài
chưa làm rõ được những biến đổi về văn hóa – xã hội, đánh giá những tác động mà
quá trình đô thị hóa đem lại.
Trên đây là một số công trình của các tác giả có liên quan đến đề tài mà
chúng tôi đã tham khảo. Chắc chắn rằng sẽ còn những công trình, những bài viết mà
chúng tôi chưa có dịp tham khảo hoặc còn tản mát đâu đó mà chúng tôi chưa có cơ
hội tiếp cận. Trong quá trình viết đề tài, chúng tôi sẽ cố gắng tham khảo tất cả
những công trình của những người đi trước, qua đó có thể kế thừa những kết quả
đạt được, đồng thời bổ sung những khiếm khuyết mà các tác giả chưa đề cập đến
hoặc do lịch sử biến đổi và thời gian vượt qua.
IV. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Như tên đề tài chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình đô thị
hóa diễn ra ở thành phố Biên Hòa ở tỉnh Đồng Nai. Cụ thể đề tài sẽ đi sâu nghiên
cứu quá trình đô thị hóa đã diễn ra như thế nào, những yếu tố nào tác động đến quá
trình ấy và những bài học được rút ra trong quá trình đô thị hóa.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong không gian xác định: thành phố Biên
Hòa của tỉnh Đồng Nai, trong thời gian cụ thể từ năm 1986 đến năm 2005, vì đây là
giai đoạn lịch sử có nhiều biến đổi quan trọng và sâu sắc đối với thành phố Biên
Hòa của tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả nước nói chung.
Để hoàn thành đề tài, nhiệm vụ được đặt ra cần phải thực hiện là:
- Nghiên cứu lí luận về các khái niệm đô thị, đô thị hóa và lịch sử của quá
trình đô thị hóa thành phố Biên Hòa làm cơ sở lí luận cho đề tài.
- Tìm hiểu, điều tra về quá trình phát triển của đô thị Biên Hòa trên các
nội dung kinh tế - xã hội – văn hóa cũng như các vấn đề phát sinh trong quá trình
ấy.
- Rút ra những đặc điểm, bài học kinh nghiệm của thành phố Biên Hòa
trong gần 20 năm (1986 – 2005) tiến hành đô thị hóa, đưa ra những giải pháp có
tính chất tham khảo cho sự phát triển của thành phố.
V. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quá trình thực hiện đề tài là quá trình xử lí tài liệu khác nhau từ các nguồn
tư liệu:
- Các văn bản quy phạm pháp luật, nghị quyết của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, UBND tỉnh Đồng Nai, các văn bản đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai.
- Đặc biệt là các số liệu Thống kê, báo cáo năm của các cơ quan chức năng
có liên quan đến vấn đề đô thị hóa, các văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Biên
Hòa. Đây là cơ sở chính để chúng tôi thực hiện đề tài.
- Tài liệu khác là các sách viết về vùng đất Đồng Nai xưa cũng như Biên
Hòa hiện nay sẽ giúp chúng tôi dựng lại lịch sử phát triển của vùng đất Đồng Nai Biên Hòa đến trước năm 1986.
- Tài liệu thứ tư tạo cơ sở lý luận cho đề tài chính là các chuyên khảo, công
trình nghiên cứu, bài viết, các tham luận khoa học của các tác giả, các nhà nghiên
cứu về đô thị và đô thị hóa.
- Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ thực hiện khảo sát, điền dã để thu thập thêm tư
liệu thực tế cho đề tài và còn các trang Web liên quan đến nội dung đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, phương pháp được sử dụng chủ yếu để
nghiên cứu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Tuy nhiên, vì đô thị hóa
là một quá trình diễn ra phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nên trong
khuôn khổ của luận văn, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều tra thực tế,
phương pháp so sánh sử học, phương pháp nghiên cứu liên ngành: thống kê toán
học, so sánh, tổng hợp … Việc vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
sẽ giúp cho đề tài nghiên cứu có được kết quả xác thực hơn.
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Thông qua việc thực hiện đề tài, chúng tôi tái hiện lại một cách khách quan,
trung thực quá trình đô thị hóa thành phố Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai trong khoảng
20 năm thực hiện đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2005), đồng thời làm sáng tỏ quá
trình chuyển biến của từng thành tố thuộc vấn đề đô thị hóa, đó là sự chuyển biến
của địa phương và cộng đồng tại chỗ trong lĩnh vực nghề nghiệp, văn hóa, lối
sống…trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Luận văn bước đầu phân tích, đánh giá những yếu tố chủ quan và khách
quan tác động đến quá trình đô thị hóa của thành phố Biên Hòa, rút ra một số bài
học kinh nghiệm mang tính chất định hướng, trên cơ sở đó có những đề xuất, kiến
nghị về quá trình đô thị hóa thành phố trong tương lai.
- Dựng lại bức tranh đô thị hóa thành phố Biên Hòa trong thời gian đổi mới,
luận văn đã tiếp cận và hệ thống hóa nhiều tư liệu khác nhau, góp phần nghiên cứu
về lịch sử thành phố Biên Hòa nói riêng và tỉnh Đồng Nai nói chung, đồng thời
phục vụ cho công tác giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông.
VII. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Luận văn ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung gồm có ba chương.
- Chương 1: Tổng quan về đô thị hóa và khái quát quá trình đô thị hóa ở thành
phố Biên Hòa trước năm 1986.
- Chương 2: Những chuyển biến về cảnh quan môi trường, cơ sở hạ tầng và
kinh tế trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Biên Hòa (1986 – 2005).
- Chương 3: Chuyển biến về dân cư và đời sống dân cư ở thành phố Biên Hòa
trong quá trình đô thị hóa (1986 – 2005).
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ KHÁI QUÁT
QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ
BIÊN HÒA TRƯỚC NĂM 1986
1.1. Đô thị và đô thị hóa
1.1.1. Đô thị
Đô thị là một trong những dấu hiệu lâu đời nhất của nền văn minh nhân loại,
bắt đầu có khoảng 4000 năm đến 6000 năm trước đây hoặc lâu hơn nữa. Khi đó, đô
thị chỉ là nơi tập trung khá đông người hoạt động nông nghiệp. Trải qua thời gian,
những đô thị được hình thành sau hàng loạt biến động về dân cư, thủ công nghiệp,
công nghiệp và thương mại. Ngày nay, những thay đổi về khoa học kỹ thuật và kinh
tế làm biến đổi sâu sắc cấu trúc, chức năng, kiến trúc và quy mô dân số đô thị cũng
như tỉ lệ dân cư đô thị.
Nói một cách ngắn gọn và dễ hiểu, đô thị là nơi tập trung dân cư đông với
mật độ dân số cao, lấy hoạt động kinh tế phi nông nghiệp làm ngành kinh tế chính
và có điều kiện sinh hoạt theo hướng tiến bộ, văn minh hơn so với những vùng xung
quanh.
Điều này đã được phản ánh tương đối trọn vẹn trong cách định nghĩa về đô
thị của Bách khoa toàn thư Hoa Kỳ, rằng đô thị (city) như một cách sử dụng thông
thường chỉ một tập hợp dân cứ có quy mô đáng kể, chỉ một nơi mà điều kiện sống
trái ngược với đời sống nông thôn và đời sống hoang dã. Nó là một hiện thực chung
của xã hội văn minh.
Ở Việt Nam, xuất phát từ lịch sử hình thành đô thị cổ, các nhà nghiên cứu
chỉ ra rằng khái niệm đô thị gồm hai thành tố: đô, thành, trấn, xã hàm nghĩa chức
năng hành chính – chính trị; thị có nghĩa là chợ, mang hàm nghĩa kinh tế. Chức
năng chính trị lấn át chức năng kinh tế.
Giáo sư Cao Xuân Phổ đã phát biểu: “Trong tiếng Việt, có nhiều từ để chỉ khái
niệm đô thị: đô thị, thành phố, thị trấn, thị xã,... Các từ đó đều có hai thành tố: đô
thành, trấn, xã hàm nghĩa chức năng hành chính; thị, phố có nghĩa là chợ. Thời
trước, chức năng hành chính lấn át chức năng kinh tế, bộ phận đảm nhận cai quản
đô thị là do Nhà nước bổ nhiệm. Đô thị phương Tây có ít tính chính trị hơn và thiên
về chức năng kinh tế” [47, tr.103].
Tuy nhiên đây không là đặc điểm duy nhất của đô thị Việt Nam thời hiện đại.
Bên cạnh yếu tố “đô”, “thành” còn có những yếu tố khác đóng vai trò quan trọng
như giao thông, điện nước, giáo dục, văn hóa, y tế,... Chính vì vậy theo các tác giả
của công trình khoa học Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị, “Đô thị là điểm dân
cư tập trung với mức độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở
thích hợp, là trung tâm chuyên ngành tổng hợp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện hoặc
một vùng trong tỉnh, huyện” [2, tr.14].
Cách định nghĩa này cũng tương đồng với quan điểm của nhà nước được thể
hiện trong nghị định số 132/HĐBT ngày 5/5/1990 về việc phân loại đô thị và phân
cấp quản lý đô thị. Theo đó, đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản:
1. Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ nhất định.
2. Quy mô dân số nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp hơn).
3. Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên trong tổng số lao động; là
nơi sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hóa phát triển.
4. Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc
điểm từng vùng.
5. Mật độ dân cư được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc điểm
từng vùng.
Cũng theo Nghị định này, ở Việt Nam có 5 loại đô thị:
- Đô thị loại I: là đô thị rất lớn; trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội,
khoa học kỹ thuật, du lịch, giao thông, công nghiệp, giao dịch quốc tế có vai trò
thúc đẩy sự phát triển của cả nước; có số dân từ 1 triệu người trở lên với tỉ suất hàng
hóa cao, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 90% trở lên trong tổng số lao động; có cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng đồng bộ; có
mật độ dân cư bình quân 15.000 người/km2 trở lên.
- Đô thị loại II: là đô thị lớn; trung tâm kinh tế, văn hóa – xã hội, sản xuất
công nghiệp, du lịch – dịch vụ, giao thông, giao dịch quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển của một vùng lãnh thổ; có số dân từ 35 vạn người đến dưới 1 triệu người;
sản xuất hàng hóa phát triển, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 90% trở lên trong
tổng số lao động; mật độ dân cư bình quân là 12.000 người/km2 trở lên.
- Đô thị loại III: là đô thị trung bình lớn; trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
– xã hội, là nơi sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung, du lịch – dịch
vụ; có vai trò thúc đẩy phát triển một tỉnh, hoặc từng lĩnh vực đối với vùng lãnh thổ;
dân số từ 10 vạn người đến dưới 35 vạn người (vùng núi có thể thấp hơn); sản xuất
hàng hóa tương đối phát triển, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên trong
tổng số lao động; cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được
xây dựng từng mặt; mật độ dân cư bình quân 10.000 người/km2 trở lên (vùng núi có
thể thấp hơn).
- Đô thị loại IV: là đô thị trung bình nhỏ; trung tâm tổng hợp chính trị, kinh
tế, văn hóa – xã hội hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, thương nghiệp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một tỉnh hay một
vùng trong tỉnh; dân cư từ 3 vạn người đến 10 vạn người (vùng núi có thể thấp
hơn); là nơi sản xuất hàng hóa, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên trong
tổng số lao động; đã và đang đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và các công trình
công cộng từng phần; mật độ dân cư 8000 người/km2 trở lên (vùng núi có thể thấp
hơn).
- Đô thị loại V: là đô thị nhỏ, trung tâm tổng hợp kinh tế - xã hội, hoặc trung
tâm chuyên ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp,... có vai trò thúc đẩy sự phát triển
của một huyện, một vùng trong tỉnh hoặc một vùng trong huyện; dân số từ 4000
người đến dưới 3 vạn người (vùng núi có thể thấp hơn); tỉ lệ lao động phi nông
nghiệp từ 60% trở lên trong tổng số lao động; bước đầu xây dựng một số công trình
công cộng và hạ tầng kỹ thuật; mật độ dân cư bình quân 6000 người/km2 (vùng núi
có thể thấp hơn).
Đối với đô thị loại I và loại II do Trung ương quản lí.
Đối với đô thị loại III và loại IV do tỉnh quản lí.
Đối với đô thị loại V do huyện quản lí.
Như vậy, theo Nghị định này thì TP. Biên Hòa là đô thị loại III.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đô thị ở Việt Nam phát
triển nhanh chóng về chất lượng và số lượng, đặc biệt là quy mô của các đô thị.
Nghị định 132/HĐBT tỏ ra không còn phù hợp, vì vậy ngày 5/10/2001 Nghị định số
72/2001/ NĐ - CP được ban hành thay thế cho Nghị định 132 về việc phân loại đô
thị và cấp quản lý đô thị. Theo quy định pháp lý về đô thị, đô thị nước ta là các
điểm dân cư tập trung có đủ hai điều kiện sau:
- Đô thị là các thành phố, thị xã, thị trấn được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định thành lập.
- Về trình độ phát triển: 1- Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên
ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ nhất định
nhất định, nhỏ nhất cũng phải là tiểu vùng trong huyện; 2- Quy mô dân số tối thiểu
của nội thành, nội thị là 4.000 người; 3- Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 65% trở
lên trong tổng số lao động của nội thành, nội thị; 4- Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và
các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị đạt 70% mức quy định đối với từng
loại đô thị; 5- Mật độ dân cư được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc
điểm từng vùng, tối thiểu 2000người/km2.
Theo đó, đô thị Việt Nam được chia làm 6 loại:
- Đô thị loại đặc biệt là đô thị rất lớn, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cả
nước, dân số trên 1,5 triệu người, mật độ dân số trung bình trên 15.000 người/km2,
tỉ lệ lao động phi nông nghiệp/tổng số lao động trên 90%.
- Đô thị loại I: là những đô thị lớn có chức năng là trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, du lịch – dịch vụ,... giữ vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ liên tỉnh; quy mô dân số
từ 50 vạn người trở lên, mật độ dân số từ 12.000 người/km2 trở lên với tỉ lệ lao động
phi nông nghiệp lớn hơn hoặc bằng 85%.
- Đô thị loại II: là những đô thị trung bình lớn, phải đảm bảo các chức năng
là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,... trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh hoặc cả
nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên
tỉnh hoặc một số lĩnh vực của cả nước, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp/ tổng số lao
động trên 80%, dân số lớn hơn hoặc bằng 250.000 người, mật độ dân số từ 10.000
người/km2 trở lên.
- Đô thị loại III: là đô thị loại trung bình, giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với vùng liên tỉnh; tỉ lệ lao
động phi nông nghiệp/ tổng số lao động trên 75%, dân số trên 100.000 người, mật
độ dân số từ 8000 người/km2 trở lên.
- Đô thị loại IV: là đô thị loại trung bình nhỏ; giữ vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một vùng trong tỉnh; tỉ lệ lao động phi nông
nghiệp/ tổng số lao động trên 70%, dân số trên 50.000 người, mật độ dân số trung
bình trên 6000 người/km2 trở lên.
- Đô thị loại V: là đô thị loại nhỏ với chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc
chuyên ngành về chính trị, kinh tế, văn hóa và dịch vụ, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của một huyện hoặc cụm xã; tỉ lệ lao động phi nông nghiệp/
tổng số lao động trên 65%; dân số trên 4.000 người; mật độ dân số trung bình trên
2000 người/km2 .
Theo dõi thêm bảng phân loại tổng hợp đô thị trên cơ sở của nhiều tiêu chí
sau:
Bảng 1.1. Phân loại đô thị ở Việt Nam theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP
Loại
Vai trò trung tâm
Dân số
đô thị
(chủ yếu)
(người)
Lao động
phi nông
nghiệp (%)
Một độ
Hạ tầng cơ sở
dân số
(người/km2)
Đặc
biệt
I
II
III
IV
V
Quốc gia
Quốc gia và liên
tỉnh
Quốc gia (một số
lĩnh vực), liên tỉnh
Liên tỉnh (một số
lĩnh vực), tỉnh
Tỉnh, liên huyện
Huyện, tiểu vùng
(cụm xã)
> 1.500.000
> 90
> 500.000
> 85
> 250.000
> 80
> 100.000
> 75
> 50.000
> 70
Đồng bộ, hoàn chỉnh
Nhiều mặt đồng bộ,
hoàn chỉnh
Nhiều mặt tiến tới đồng
bộ, hoàn chỉnh
Từng mặt đồng bộ, hoàn
chỉnh
Từng mặt tiến tới đồng
bộ, hoàn chỉnh
> 15.000
> 12.000
> 10.000
> 8.000
> 6.000
Đã hoặc đang xây dựng,
> 4.000
> 65
chưa đồng bộ và hoàn
> 2.000
chỉnh
Nguồn: [29, tr.142]
Ngoài ra, Nghị định còn đưa ra những tiêu chuẩn phân loại đô thị áp dụng
cho các trường hợp đặc biệt như ở vùng núi, miền cao, vùng sâu, vùng xa,... và quy
định việc phân loại cấp quản lí đô thị gồm:
- Thành phố trực thuộc Trung ương phải là đô thị loại đặc biệt hoặc đô thị loại I.
- Thành phố và thị xã thuộc tỉnh phải là đô thị loại II hoặc đô thị loại III, IV.
- Thị trấn thuộc huyện phải là đô thị loại IV hoặc đô thị loại V.
Tóm lại, ngày nay, đô thị được hiểu là một khu dân cư tập trung có những
đặc điểm:
- Về cấp quản lí, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ra quyết định thành lập.
- Về trình độ phát triển, đô thị phải đạt được những tiêu chuẩn như là trung
tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc trung
ương, vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện...
Ngoài ra, đô thị phải là nơi có dân số tập trung cao và hoạt động sống chủ
yếu của cư dân trong khu vực ấy là những hoạt động phi nông nghiệp...[71, tr.19].
1.1.2. Đô thị hóa
Đô thị hóa được hiểu là một quá trình vận động kinh tế - xã hội – văn hóa
phức tạp, là quá trình nâng cao vai trò của thành phố đối với sự phát triển của xã
hội. Quá trình này bao gồm sự thay đổi trong nhiều lĩnh vực như cơ cấu kinh tế, quy
mô và sự phân bố dân cư, kết cấu nghề nghiệp, cơ sở hạ tầng, lối sống, văn hóa,...
Khái niệm đô thị hóa được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra định
nghĩa tùy theo quan điểm và góc độ tiếp cận.
Trong Từ điển tiếng Việt, để định nghĩa về khái niệm đô thị hóa và nhấn
mạnh hơn vai trò của thành thị đối với sự phát triển xã hội, các tác giả viết: “Đô thị
hóa là quá trình tập trung dân cư ngày càng đông vào các đô thị và làm nâng cao vai
trò của thành thị đối với sự phát triển của xã hội” [86, tr.13].
Từ góc độ dân số, đô thị hóa “...theo nghĩa hẹp là sự phát triển hệ thống
thành phố nhất là các thành phố lớn, tăng tỉ trọng dân số đô thị trong nước, trong
khu vực và thế giới...”
Định nghĩa ngắn gọn hơn “Đô thị hóa là sự phát triển tỉ trọng dân số các khu
vực đô thị” [56, tr.120]. Đây là cách xem xét vấn đề dựa trên chủ yếu sự thay đổi số
lượng dân cư theo hướng tập trung ngày một cao hơn tại một địa điểm, từ đó đánh
giá mức độ đô thị hóa của một thành phố.
Theo các nhà địa lý, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không gian, mật
độ dân cư, thương mại, dịch vụ hoặc các hoạt động khác mang tính chất phi nông
nghiệp tại một khu vực. Quá trình đô thị hóa được thể hiện ở các nội dung:
- Sự mở rộng tự nhiên của dân cư hiện có. Sự thay đổi này thường không
phải là tác nhân chính đối với sự phát triển của đô thị vì mức độ tăng dân số tự
nhiên của thành phố không cao hơn so với vùng nông thôn.
- Sự chuyển dịch dân cư từ vùng nông thôn ra thành thị, nói rộng hợn là sự
nhập cư từ các vùng đến đô thị. Đây là nghuyên nhân chính dẫn tới sự gia tăng dân
số đột biến trên một vùng hay lãnh thổ.
- Sự chuyển dịch đất đai từ mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và đất thổ cư.
Đứng trên lập trường của những nhà quản lý và kinh tế, đô thị hóa “là quá
trình cấu trúc lại chức năng của khu vực nông thôn, là quá trình gia tăng phát triển
công nghiệp và dịch vụ. Và vì vậy đô thị hóa thường được hiểu như là quá trình
song song với sự phát triển công nghiệp và cuộc cách mạng công nghệ, gia tăng các
hoạt động phi nông nghiệp hội tụ trên một không gian nhất định” [71, tr.15].
Dưới góc độ xã hội, bản chất của đô thị hóa là sự khám phá ra các hình thức
sinh hoạt mới của con người bên cạnh sự phá vỡ các quan hệ truyền thống được
hình thành trong dân cư nông nghiệp. Đó là quá trình biến đổi các mối quan hệ theo
kết cấu gia đình - họ hàng – xóm giềng – làng xã – xã hội sang gia đình – đường
phố - xã hội; biến đổi môi trường thiên nhiên sinh thái theo mối giao hòa nhà vườn
– lũy tre làng – đồng lúa sang môi trường thiên nhiên sinh thái theo kết cấu nhà
(chung cư) – đường phố - công sở. Chính vì vậy John Macionis nêu lên trong cuốn
sách giáo khoa xã hội học (1988) rằng “Đô thị hóa không chỉ thay đổi sự phân bố
dân cư trong xã hội mà còn chuyển thể (transform) nhiều kiểu mẫu (patterns) của
đời sống xã hội” [32, tr.70].
Ngoài ra, đô thị hóa còn là sự phổ biến và lan truyền những khuôn mẫu hành
vi, ứng xử vốn đặc trưng của người dân đô thị tới các vùng nông thôn. Nói cách
khác, đó chính là sự lan truyền của lối sống đô thị, văn hóa đô thị. Tác giả Tôn Nữ
Quỳnh Trân trong Văn hóa làng xã trước sự thách thức của đô thị tại thành phố Hồ
Chí Minh nhận định: “Xét trên phương diện cách sống, đô thị hóa là một sự thay đổi
lối sống và đồng thời thay đổi khung cảnh sống. Xét trên quan điểm sinh thái nhân
văn thì đô thị hóa là một quá trình chuyển động làm thay đổi lối sống và cảnh quan
của một hệ thống quần cư từ hệ sinh thái nông thôn sang hệ sinh thái kinh tế xã hội
đô thị. Xét trên bình diện văn hóa thì đô thị hóa là quá trình chuyển đổi văn hóa
làng xã thành văn hóa đô thị...” [70, tr.13].
Có thể thấy rằng đô thị hóa là một phạm trù rộng lớn, đề cập một cách sâu
sắc, toàn diện đến quá trình chuyển đổi mạnh mẽ các lĩnh vực trong đời sống từ
kinh tế, xã hội, văn hóa đến khoa học kỹ thuật và cả không gian cư trú của con
người. Giáo sư Đàm Trung Phường đã tổng kết: “Đô thị hóa là một quá trình
chuyển dịch lao động, từ hoạt động sơ khai nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên
sẵn có như nông, lâm, ngư nghiệp, khai khoáng phân tán trên một diện tích rộng
khắp, hầu như toàn quốc sang những hoạt động tập trung hơn như chế biến sản xuất,
xây dựng cơ bản, vận tải, sửa chữa, dịch vụ thương mại, tài chính, văn hóa xã hội,
khoa học kỹ thuật,... Quá trình đô thị hóa diễn ra song song với động thái phát triển
không gian kinh tế - xã hội, trình độ đô thị hóa phản ánh trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, của nền văn hóa và phương thức tổ chức lối sống xã hội... Do vậy,
có thể nói đô thị hóa là một quá trình diễn biến về kinh tế, xã hội, văn hóa, không
gian gắn liền với những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong đó diễn ra sự phát triển
nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự phát triển đời sống văn hóa,
sự chuyển đổi lối sống và sự mở rộng phát triển không gian thành hệ thống đô thị
song song với tổ chức bộ máy hành chính, quân sự” [48, tr.7].
Mặc dù còn nhiều cách nhìn khác nhau về đô thị hóa nhưng nhìn chung các
nhà khoa học đều thống nhất với nhau đô thị hóa là một vấn đề mang tính tất yếu
khách quan của sự phát triển, có tính phổ biến toàn cầu trên phạm vi rộng lớn. Đó là
hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp diễn ra trong thời gian lâu dài để chuyển biến
các xã hội nông nghiệp – nông dân – nông thôn sang các xã hội đô thị - công nghiệp
– thị dân, là biểu hiện của văn minh nhân loại.
Ngày nay, đô thị Việt Nam nói chung và đô thị Biên Hòa nói riêng đang ở
giai đoạn phát triển mạnh cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có thể
thấy rằng cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra phương thức sản xuất mới, làm
thay đổi lực lượng sản xuất ở cả khu vực nông thôn và thành thị, đồng thời làm
chuyển biến tích cực mối quan hệ sản xuất giữa hai khu vực này. Trong giai đoạn
hiện nay, cách mạng công nghiệp chính là động lực cơ bản của đô thị hóa. Tuy
nhiên hàng loạt vấn đề liên quan đến quá trình đô thị hóa đã và đang đặt ra đối với
các cấp quản lý. Vì vậy, để phát triển đô thị một cách bền vững (bao gồm bền vững
về môi trường, bền vững về kinh tế, về chính trị, về dân số và bền vững về văn hóa)
cần có chiến lược lâu dài và kết hợp hài hòa các thành tố trên.
1.2. Khái quát quá trình đô thị hóa ở thành phố Biên Hòa trước năm
1986
1.2.1. Tổng quan về thành phố Biên Hòa
1.2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Thành phố Biên Hòa về mặt địa lý, nằm ở phía Tây tỉnh Đồng Nai, phía Bắc
giáp huyện Vĩnh Cửu, phía Nam và Tây Nam giáp huyện Long Thành và huyện
Thủ Đức (thành phố Hồ Chí Minh), phía Đông giáp huyện Thống Nhất, phía Tây
giáp huyện Thuận An và huyện Tân Uyên (Bình Dương).
Thành phố có diện tích 154.67km2, dân số đến năm 2005 là 541.495 ngàn
người, trong đó người Kinh chiếm hơn 90%, còn lại là các dân tộc Hoa, Nùng,
Tày,… với 26 đơn vị hành chính cấp cơ sở gồm 23 phường và 3 xã.
Các phường là: An Bình, Bình Đa, Bửu Hòa, Bửu Long, Hòa Bình, Hố Nai,
Long Bình, Long Bình Tân, Quang Vinh, Quyết Thắng, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tân
Biên, Tân Hiệp, Tân Hòa, Tân Mai, Tân Tiến, Tân Phong, Tân Vạn, Thanh Bình,
Thống Nhất, Trảng Dài, Trung Dũng.
3 xã gồm: Hiệp Hòa, Hóa An, Tân Hạnh.
Nằm hai bên bờ sông Đồng Nai nhưng chủ yếu bên phía tả ngạn, Biên Hòa
thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có hai mùa: mùa mưa kéo dài từ tháng 4
đến tháng 11, mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau; nhiệt độ bình quân hàng
năm tương đối cao 270C nhưng chênh lệch giữa các tháng ít (nhiệt độ cao nhất trung
bình năm là 32.50C, nhiệt độ thấp nhất trung bình năm là 230C); độ ẩm bình quân
79%/năm. Lượng nước vào mùa mưa chiếm 85%/năm và chủ yếu là mưa cơn chóng
tạnh. Số giờ nắng trung bình khá cao, ngay trong mùa mưa cũng có trên 5,4
giờ/ngày, vào mùa khô là trên 8 giờ/ngày. Ngoài ra, ở Biên Hòa còn có thuận lợi là
hầu như không có gió bão thiên tai. Vì vậy các hoạt động sản xuất diễn ra được liên
tục, không bị ảnh hưởng nhiều.
Chế độ thủy văn của sông Đồng Nai ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống sông
rạch trong khu vực. Đoạn sông Đồng Nai qua thành phố dài khoảng 10km, phân
thành nhánh phụ tạo nên Cù lao Hiệp Hòa. Sông Đồng Nai chính là nguồn nước mặt
lớn nhất cung cấp nước ngọt cho toàn thành phố, đồng thời đảm bảo nguồn năng
lượng điện phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất.
Về địa chất kiến tạo của thành phố Biên Hòa, có cấu tạo địa chất vùng rìa
Đông – Nam, miền kiến tạo Nam Trung Bộ bao gồm:
- Đá cổ nhất thấy được là các trầm tích, trầm tích núi lửa, phun trào và xâm
nhập Mejojoi với bề dày 100 – 150 m, chủ yếu ở phường Bửu Long.
- Trầm tích lục nguyên Jura sớm lộ ra ở phía Đông – Bắc trên một diện rộng
và chìm dần theo hướng Nam và Tây – Nam. Ở khu vực trầm tích này lộ ra tạo nên
những rừng lồi lớn so với tỉnh trên 8m.
- Các trầm tích phun trào có tuổi từ Jura muộn đến Kreta, lộ ra ở Bửu Long,
Long Bình với thành phần chính là cát kết, cuội kết, andejit.
- Trầm tích trước đệ tứ duy nhất trong vùng (Plioxen N) nằm ở khu vực Hố
Nai, Long Bình, lộ ra dưới dạng đồi gồm sét, sét pha với cao độ đỉnh 5m – 10m đến
40m – 50m, chiều dày thay đổi từ 30m – 70m.
- Trầm tích sông Pleistoxen sớm (aQI - + b) chủ yếu ở khu vực Long Bình,
Hố Nai có cao độ bề mặt từ 10m – 50m.
- Thành tạo Bazan Xuân Lộc chỉ lộ thành một dãy Đông – Nam và rải rác tại
Long Bình. Phần bề mặt đã phân hóa thành đất đỏ dày 3m – 5m.
- Các trầm tích sông trẻ và hiện đại tạo thành các thềm sông có thành phần
thạch học phân lớp từ cát cuội sỏi đến cát pha sét.
Nhìn chung, đất ở Biên Hòa chủ yếu là đất phù sa cổ, đất cát, đất sét,… ít
màu mỡ, do vậy sản xuất nông nghiệp không đem lại hiệu quả cao. Nhưng ngược
lại làm công nghiệp rất tốt vì nền đất có độ chịu lực cao, bình quân 25 kg/cm2. Đó
cũng là một trong những lý do lý giải tại sao Biên Hòa trở thành một đô thị công
nghiệp điển hình của cả nước.
Trong thành phố Biên Hòa có một số điểm khoáng sản, chủ yếu là Kaolin,
Laterít và sét được phân bố:
- Laterít: tập trung nhiều ở phường Long Bình trên diện tích là 3m2 với chiều
dày từ 1m – 3m, tạo thành khối rắn chắc, ở Hố Nai nhiều chỗ bị sói mòn thành sỏi
rắn chắc.
- Sét Kaolin: ở khu vực nghĩa trang với diện tích khá rộng. Tại Tân Mai, tầng
sét Kaolin có màu trắng, cát thạch anh, bột thạch anh.
- Sét gạch ngói: phân bố nhiều ở xã An Hòa (về hướng Long Thành). Ngoài
ra còn có than bùn (ở Hóa An), với diện tích khá rộng, thường lẫn sét màu đen. Vì
vậy, ở Biên Hòa sớm phát triển các nghề truyền thống nổi tiếng: làng gốm Bửu
Hòa, Tân Vạn; nghề khắc đá Bửu Long, sản xuất đồ gỗ và mây tre ở Tân Biên.
Như vậy vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi chính là những yếu tố quan
trọng giúp Biên Hòa tiến nhanh trong quá trình đô thị hóa.
1.2.1.2. Thành phố Biên Hòa trong không gian kinh tế phía Nam
Biên Hòa là thành phố trung tâm của tỉnh Đồng Nai
Trước năm 1986, Biên Hòa đã là thành phố trung tâm của tỉnh Đồng Nai.
Trong 20 năm tiến hành đổi mới, Biên Hòa luôn khẳng định vị trí trung tâm chính
trị, kinh tế và văn hóa, dịch vụ, khoa học kỹ thuật, đầu mối giao thông, giao lưu của
tỉnh, có vị trí quan trọng về an ninh và quốc phòng. Ghi nhận vai trò và sự phát triển
của thành phố, tháng 5 năm 1993 Biên Hòa được Nhà nước chính thức công nhận là
đô thị loại II, có cơ cấu kinh tế công nghiệp – thương mại – dịch vụ và du lịch. Từ
đó đến nay, Biên Hòa luôn luôn xứng đáng là lá cờ đầu trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, là trung tâm công nghiệp quan trọng không những riêng
Đồng Nai mà còn là trung tâm công nghiệp lớn của cả nước, có tốc độ đô thị hóa
nhanh.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Biên Hòa có 80 cơ quan, đơn vị, ban ngành
của Trung ương, quân khu 7 và địa phương. Trong tiến trình đi lên công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thành phố có nhiều khu công nghiệp (KCN) lớn thu hút hàng tỉ USD
vốn đầu tư hàng năm, điển hình là 4 KCN đã được chính phủ phê duyệt với cơ sở hạ
tầng hiện đại, hoàn chỉnh: KCN Biên Hòa 1, KCN Biên Hòa 2, KCN Amata và
KCN Loteco đã đi vào hoạt động với cơ sở hạ tầng đồng bộ. Ngoài ra chính phủ
cũng đã phê duyệt khu công nghiệp Hố Nai và KCN Sông Mây, tỉnh đã quy hoạch
KCN Bàu Xéo.
Một trong những nguyên nhân thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh,
mạnh trong thời gian qua, đưa Biên Hòa trở thành đô thị loại II của cả nước, có vai
trò quan trọng đối với tỉnh, chính là yếu tố con người. Chính quyền thành phố đã có
nhiều biện pháp tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế - văn hóa phát triển; đồng
thời xây dựng hai bản quy hoạch thành phố năm 1993 và năm 2002 để định hướng
sự phát triển mang tính đồng bộ và lâu dài (đến năm 2020).
Biên Hòa trong không gian kinh tế phía Nam
Biên Hòa là cửa ngõ phía Đông Sài Gòn, cách trung tâm thành phố Hồ Chí
Minh 30km theo Xa lộ Hà Nội và Quốc lộ 1A, cách thành phố Vũng Tàu 90km theo
Quốc lộ 51. Ngoài ba đường lộ, Biên Hòa còn có liên tỉnh lộ 16 nối liền với các tỉnh
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh; liên tỉnh lộ 24 đi Trị An; tiếp giáp với quốc lộ
20 để đi Tây Nguyên. Tuyến đường sắt Thống Nhất qua ga Biên Hòa tại phường
Thống Nhất và ga Long Lạc ở phường Tân Hòa. Từ Biên Hòa có thể theo đường
sông đến thành phố Hồ Chí Minh, ra biển và đến các tỉnh miền Tây Nam Bộ - vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó nhận thấy Biên Hòa là một đầu mối giao thông
quan trọng đối với khu vực và quốc gia. Từ Biên Hòa có thể đến nhiều nơi trong
nước.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện nay bao gồm: Thành phố Hồ Chí
Minh, tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, Long An, Bà Rịa-Vũng
Tàu với tổng diện tích là 27.794km2 và tổng dân số là 11.993.000 người. Đây là khu
vực tăng trưởng mạnh nhất của cả nước, thể hiện trên các mặt: mức tăng trưởng
kinh tế bình quân 11,2%/năm, tốc độ tăng GDP là 10,4%. GDP năm 2000: 31,1%,
tổng sản phẩm công nghiệp năm 2000 chiếm 54,48% cả nước với kim ngạch xuất
khẩu là 57,7 triệu USD, hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài lên đến 17.363
triệu USD (chiếm 48,5% cả nước) [38, tr.42]; tập trung hệ thống kỹ thuật hạ tầng
hiện đại gồm đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không, …
Nơi đây hiện có 3 thành phố lớn: TP. Hồ Chí Minh (đô thị cấp quốc gia); đô
thị loại 2: Biên Hòa; Vũng Tàu (đô thị trung tâm vùng) và 6 thị xã, trung tâm cấp
tỉnh (Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Long Khánh, Xuân Lộc, Đồng Xoài, Tây Ninh và Tân
An). Trong đó Biên Hòa là thành phố công nghiệp với năng lực mạnh nhất hiện nay
ở khu vực Nam Bộ, lại nằm ở tâm điểm của vùng kinh tế trọng điểm nên có nhiều
điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh.
Nếu như thành phố Hồ Chí Minh là hạt nhân trong vùng đô thị Nam Bộ thì
Biên Hòa là mắt xích quan trọng trong việc hình thành dải đô thị đối trọng với TP.
Hồ Chí Minh, mà điểm khởi đầu là thành phố Biên Hòa và kết thúc là thành phố
Vũng Tàu, các thành phố nằm trong dải là Biên Hòa - Nhơn Thạch - Long Thành Phú Mỹ - Bà Rịa - Long Đất - Long Hải - Vũng Tàu. Dải đô thị này kéo dài từ giáp
Bình Phước xuống bờ biển Đông theo trục Tây - Bắc - Đông Nam, có độ dài chừng
110km. Theo dự tính đến năm 2020 dải đô thị này sẽ có khoảng 3 triệu dân, đủ đối
trọng được với TP. Hồ Chí Minh khi đó là khoảng 10.000.000 dân, tỉ lệ sẽ là 1/3.
Xu hướng phát triển hiện nay và sắp tới của các đô thị là sát lại gần nhau, tạo
thành các chùm, các chuỗi đô thị. Thành phố Biên Hòa tiếp giáp với quận 9 và quận
Thủ Đức - cửa ngõ của TP. Hồ Chí Minh. Vì vậy khoảng cách địa lý bị thu hẹp
nhanh chóng do cả hai đang trong tiến trình mở rộng về không gian theo kiểu vết
dầu loang. Nếu trước kia đến cầu Sài Gòn mới coi như là đến TP. Hồ Chí Minh, thì
nay đến ngã tư Thủ Đức đã coi như đến sát thành phố.
Hiện tại mối quan hệ giữa Biên Hòa và Hồ Chí Minh ngày càng trở nên mật
thiết. Một bộ phận dân cư TP. Hồ Chí Minh lao động, làm việc tại Biên Hòa. Biên
Hòa phát triển sẽ hỗ trợ cho thành phố Hồ Chí Minh giảm sức ép về dân số, các dịch
vụ xã hội, văn hóa, giáo dục,…. Vì vậy có quan điểm cho rằng Biên Hòa là đô thị vệ
tinh của TP. Hồ Chí Minh [23, tr.16-23].