Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

ĐÔ THỊ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CHUYỂN ĐỔI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VÀ NHỮNG PHƯƠNG PHÁP MỚI TRONG QUẢN LÝ ĐÔ THỊ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.23 KB, 30 trang )

Hà nội thiên niên kỷ-Thành phố quá khứ và tương lai
Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà nội – 12/13 tháng 10,năm 2010

Tóm tắt tham luận
Mục lục
BÁO CÁO DẪN LUẬN
Giáo sư Terry McGee
Giáo sư danh dự về Địa lý
Giám đốc danh dự Viên nghiên cứu Châu Á
Trường Đại học British Columbia
Vancouver, Canada

Hà Nội – những thách thúc trong thế kỷ 21 ”Sự vĩ đại của một thành phố được
cho là gì?”
Bài thuyết trình này kỷ niệm lịch sử, sự kiên cường và sức mạnh của Hà Nội qua 1000 năm
trước khi nó đi vào thế kỷ 21. Trong thế kỷ này vai trò của Hà Nội sẽ trở nên ngày càng phức
tạp như chính quyền quốc gia, trong đó Hà Nội là thủ đô, và chính quyền thành phố cũng như
người dân Hà Nội phải đối mặt với những thách thức mới trong thế kỷ 21. Đây là (1) lập kế
hoạch cho sự thay đổi môi trường, (2) định hình lại các hệ thống năng lượng của thành phố,
(3) chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối mặt với sự cạnh tranh và bất ổn kinh tế toàn cầu, và (4) tạo
ra một thành phố sống tốt. Đây sẽ là nhiệm vụ không dễ dang, điều đó có nghĩa là sự nhấn
mạnh vào phát triển kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay sẽ phải được cân bằng với các
chính sách ưu tiên để tạo ra một thành phố hay một khu vực kiên cường, bền vững. Đô thị này
trong tương lai sẽ cần phản ứng và chính sách mới.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
• Ông Trần Ngọc Chính
Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam
Nhìn nhận những vấn đề về Quy hoạch Thủ dô Hà nội
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
• Ông DANIEL BIAU
Giám đốc Vụ Hợp tác kỹ thuật và Hợp tác khu vực, Chương trình định cư con người LHQ


Thách thức trong quản lý đô thị ở Châu Á và Hà Nội nói riêng


Chuyên đề 1: Thành phố trong quá trình chuyển đổi
1.1. Ông Chye Kiang Heng
Hiệu trưởng Trường thiết kế và môi trường
Đại học quốc gia Singapore

Đô thị hóa ở Trung quốc: quá khứ, hiện tại và những bài học kinh nghiệm
Quá trình đô thị hóa có một lịch sử lâu dài ở Trung Quốc. Cho đến thế kỷ 19, các thành phố
lớn nhất đều ở Trung Quốc. Sau một thời gian gián đoạn khoảng hơn ba mươi năm sau Giải
phóng Cộng sản, quá trình đô thị hóa một lần nữa được đẩy nhanh do hệ quả của cải cách
kinh tế vào năm 1978 nhằm định hướng theo nền kinh tế thị trường. Không chỉ tỷ lệ đô thị
hóa tăng nhanh, kích thước vật lý của các thành phố, cũng do vậy, mở rộng đáng kể. Trong
bối cảnh Trung Quốc hiện nay, quá trình đô thị hóa đang nhanh chóng mở rộng đi kèm với
tăng trưởng kinh tế cao nhưng cũng ẩn chứa nhiều cạm bẫy đặc biệt khi các hình thức
chuyển đổi đô thị, và các tác động của nó có liên quan lẫn nhau.
Bài báo trình bày một số bài học kinh nghiệm của Trung Quốc gần đây và những điều cần
tránh trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng tại Châu Á. Chúng bao gồm sự phổ biến và
những hậu quả của tình trạng tái sử dụng đất nhiều lần, những tòa nhà chung cư lớn, mạng
lưới đường thưa thớt và các cộng đồng khép kín phổ biến.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
1.2. Ông Shigehisa MATSUMURA
Viện nghiên cứu Nikken Sekkei

ĐÔ THỊ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CHUYỂN ĐỔI
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VÀ NHỮNG PHƯƠNG PHÁP MỚI
TRONG QUẢN LÝ ĐÔ THỊ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ở Việt Nam, sự tự do hóa và toàn cầu hóa kinh tế trong quá trình thực hiện chính sách đổi
mới đã mang lại sự phục hồi kinh tế thông qua đầu tư tư nhân và nước ngoài, tình hình phát

triển đô thị ở hầu hết các thành phố đã được nâng lên một bước đáng ngạc nhiên. Đặc biệt,
trung tâm kinh tế ở miền Nam Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh nơi đã có cơ sở thử
nghiệm nền kinh tế thị trường ngay từ trước ngày thống nhất Việt Nam năm 1975 đã bắt kịp
nhanh hơn với những biến đổi kinh tế trong tình hình phát triển đô thị so với Hà Nội và hầu
hết các thành phố khác.
Bài phát biểu của tôi có thể tóm tắt thành 3 điếm như sau: (1) tình hình và đặc điểm chung
của sự phát triển đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền kinh tế
chính trị đang trong quá trình chuyển đổi, (2) nhà nước đương thời quản lý đô thị và các vấn
đề liên quan và(3) các biện pháp đổi mới được chính quyền thành phố lựa chọn trong công
tác quản lý đô thi để giải quyết các vấn đề này.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––

2


1.3. Ông Ngô Trung Hải
Viện trưởng Viện Kiến trúc, Quy hoạch Đô thị và Nông thôn, Bộ Xây dựng

Các đô thị Việt Nam trong quá trình chuyển hóa
Mô hình kinh tế xã hội với từng kiểu mẫu nhà nước đã tạo ra các sản phẩm mô hình đô thị
đặc thù của từng thời kì. Những đô thị Việt Nam chủ yếu được hình thành từ chế độ phong
kiến và được mở rộng theo kiểu mẫu qui hoạch thuộc địa của Pháp và tiếp tục chịu ảnh
hưởng của mô hình qui hoạch đô thị từ các nước Đông Âu trong các giai đoạn tiếp theo.
Và đang diễn tiến theo mô hình các thành phố phát triển theo xu hướng các nước đã phát
triển với cơ chế thị trường có định hướng vĩ mô, có sự kiểm soát và tác động của chính phủ
và chính quyền đô thị. Đặc điểm giữa ranh giới giữa nông thôn và thành thị không rõ nét nhiều nơi tạo ra hiện tượng đô thị hoá giả tạo. Tốc độ đô thị hoá chậm trong những năm
chịu ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung bao cấp - có xu hướng lập lại, đột biến kéo dài
theo chu kì tăng trưởng 10 - 20 năm. Cấu trúc không gian trong quá trình chuyển hoá dễ
chấp nhận xu hướng hoà nhập nhưng vẫn còn lưu giữ yếu tố chính về cấu trúc và lối sống
truyền thống. Con đường phát triển gắn với bền vững dựa trên khả năng thích ứng hay chủ

động hơn là Tương thích chắn chắn sẽ là con đường dễ chấp nhận đối với hệ thống đô thị
Việt Nam.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
1.4. Ông James H. Spencer (Mỹ)
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa
Phó Giáo sư, Sở Quy hoạch vùng và đô thị
Đại học Hawaii, Hoa Kỳ

Toàn cầu hóa và đô thị hoá:
Nông-công nghiệp hóa, Gắn Quản trị vào một nền kinh tế bản địa
Bài viết này khám phá những thay đổi nhanh chóng và đầy kịch tính đã xảy ra trong nền
kinh tế khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21. Đặc biệt, nó sẽ
xem xét những thay đổi trong các hình thức sản xuất nông nghiệp, tăng trưởng của các khu
định cư đô thị, và sự tăng trưởng bùng nổ của mặt hàng xuất khẩu có chú ý đặc biệt đến quy
mô của các công ty, cổ phần cho công nhân, và các khía cạnh kinh tế khác của các ngành
công nghiệp chế biến thực phẩm. Sử dụng nguồn dữ liệu từ thực nghiệm, bài báo này cũng
sẽ đi sâu vào một nghiên cứu thực địa chi tiết về ngành công nghiệp cá basa và nó đã thay
đổi như thế nào trong hai thập kỷ qua ở cấp độ trang trại và hộ gia đình, để đưa ra những
thảo luận về việc những thay đổi bắt nguồn từ kỹ thuật sản xuất địa phương đã dẫn đến sự
biến đổi của đồng bằng sông Cửu Long trở thành một trong những "đô thị" trung tâm trong
nền sản xuất toàn cầu. Bài viết này cũng sẽ lập luận rằng cấu trúc cụ thể của nền kinh tế khu
vực đồng bằng ven sông là dựa trên một mạng lưới dày đặc các mối quan hệ đầu vào-đầu ra
cho các sản phẩm liên quan định hình nên nền kinh tế khu vực. Với hình thái kinh tế đó, thì
khái niệm nền kinh tế bản địa mang đậm mối quan hệ đầu vào đầu ra chặt chẽ gắn liền với
các vấn đề vănhóa, kinh tế, xã hội cũng sẽ được đưa ra.

3


Chuyên đề 2: Bảo tồn các di sản

2.1. Laurent Pandolfi
Giám đốc Viện nghiên cứu Đô thị

Sự bảo tồn và phát triển của khu phố Pháp ở Quận Hoàn Kiếm
Các quy định sẽ thành công nếu nó phù hợp với tình hình xã hội và kinh tế của khu phố:
- Vấn đề cụ thể của một số tòa biệt thự được sử dụng bởi một số hộ gia đình, ví dụ như việc
phân lô đất
- Giá trị đất đai lớn và tiềm năng đất bất động sản cao.
Đổi mới các tòa nhà thuộc quyền sở hữu công cộng và nâng cao chất lượng của không gian
công cộng là những việc làm đầu tiên cần thực hiện. Khách du lịch quốc tế là một nguồn
thu nhập tiềm năng của di sản đô thị Hà Nội – di sản duy nhất bây giờ ở châu Á. Quy định
này cần được đưa vào một quy định bảo quản chung, rộng hơn cho toàn bộ trung tâm lịch
sử của Hà Nội bao gồm Hoàng Thành Thăng Long, khu Ba Đình , khu 36 phố phường, khu
phố Pháp và khu vực Bùi Thị Xuân.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
2.2.

Ông Hoàng Đạo Kính
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt nam

“Bảo tồn và phát triển tiếp nối các di sản đô thị ở Việt Nam”
Di sản của nền xây dựng đô thị ở Việt Nam khá khiêm tốn. Có ba nguyên nhân: kiến trúc
tạo nên bằng các vật liệu kém bền vững; các cuộc chiến tranh hủy hoại và nền kinh tế hàng
hóa tư bản chủ nghĩa chậm phát triển. Các di sản đô thị trên mặt đất hầu hết có niên đại từ
đầu thế kỷ 19. Có thể phân biệt:
Các đô thị sở hữu các di sản
Đô thị - di sản
Nhìn nhận di sản đô thị không chỉ từ phương diện quỹ vật chất, mà cả từ di sản văn hóa đô
thị, nếp sống đô thị đặc trưng và sống động, thì rất nhiều đô thị, trong đó có nhiều đô thị
nhỏ, đang sở hữu những di sản đô thị, cần được bảo lưu và phát triển nhằm tạo nên bản sắc

cho chúng trong quá trình hiện đại hóa.
Điển hình cho đô thị sở hữu các di sản đô thị là Hà Nội. Điển hình cho đô thị - di sản là
thành phố Huế.
Tác giả đưa ra các quan điểm:
Các di sản đô thị không những cần bảo tồn, mà còn cần có sự phát triển tiếp nối để trở
thành những thành phần sống động trong cơ thể đô thị hiện đại hóa.
Để giải quyết mẫu thuẫn đối kháng giữa bảo tồn và phát triển, cần lấy cải tạo làm cầu nối.
Cải tạo vừa đảm bảo được đòi hỏi duy trì những giá trị và đặc điểm mang tính chất di sản,
vừa đảm bảo được sự thích ứng với các nhu cầu của cuộc sống hiện đại, làm cho các dự án
bảo tồn mang tính khả thi.

4


Các di sản đô thị không nên công nhận theo Luật Di sản năm 2001, như là di tích lịch sử và
văn hóa, mà theo những quyết định của chính quyền sở tại, đảm bảo sự duy trì và phát triển
trong các quy hoạch và chương trình hiện đại hóa của mỗi thành phố./.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
2.3

Ông Nguyễn Quốc Thông
Tổng biên tập Tạp Chí Xây dựng

Đặc điểm Quy hoạch và Kiến trúc truyền thống Hà Nội
Bài viết nêu những đặc điểm của quy hoạch và kiến trúc truyền thống Hà Nội, chủ yếu tập
trung vào các mô hình cấu trúc đô thị, cách tổ chức không gian mở, không gian linh hoạt
được đánh giá là những giá trị, cũng như quy luật phát triển và những kinh nghiệm rút ra từ
quá khứ góp phần tạo nên bản sắc văn hóa đô thị của Hà Nội. Trên cơ sở đó đóng góp ý kiến
về việc nên vận dụng trong giai đoạn chuyển tiếp nền kinh tế hiện nay đồng thời cả 2 mô hình
đô thị truyền thống và hiện đại ở những vị trí tương ứng khác nhau trong đô thị thích ứng với

những đặc điểm phát triển kinh tế xã hội và văn hóa Hà Nội. Nghĩa là phát triển 2 tuyến
không gian: Tuyến hiện đại, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và tuyến truyền thống chủ yếu
là khu vực cư trú theo mô hình đô thị truyền thống Việt Nam. Đi theo các mô hình là những
giải pháp tổ chức không gian kiến trúc đô thị đối với từng khu vực cụ thể, nhằm mục tiêu bảo
tồn và phát triển các giá trị đặc trưng của quy hoạch và kiến trúc Hà Nội.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
2.4.

Bà Lê Thị Bích Thuận

Phó Viện trưởng Viện Kiến trúc, Quy hoạch Đô thị và Nông thôn

Bảo tồn phố cổ Hà Nội có sự tham gia của cộng đồng hướng tới một đô thị sống
tốt (Trường hợp phố Tạ Hiện)
Cải tạo phố cổ Tạ Hiện Hà Nội để bảo tồn không gian văn hóa sống của người dân cho phù
hợp với nhu cầu cuộc sống hiện tại, can thiệp có chọn lọc không làm mất đi sự cổ kính
nguyên bản mà còn phát huy những giá trị có tính chất nổi bật di sản kiến trúc và đô thị phố
cổ Hà Nội - khu 36 phố phường,Thăng Long-Hà Nội và đặc biệt công tác bảo tồn có sự
tham gia của chính những cư dân đang sống tại các khu phố này.
1.Quy trình nghiên cứu và thực hiện
2. Một số quan điểm cơ bản cho việc tiến hành cải tạo, bảo tồn, tôn tạo phố Tạ Hiện
3. Phương án cải tạo
4. Công tác bảo tồn có sự tham gia của người dân
5. Có sự trao đổi với người dân, không áp đặt chủ quan duy ý chí trong viÖc thực hiện công
tác bảo tồn
6. Không làm theo phong trào
7. Hiệu quả của Dự án cải tạo mặt đứng một đoạn phố Tạ Hiện
+ Góp phần khôi phục và phát huy những giá trị di sản văn hóa vật thể và phi thể phố cổ Hà Nội.
+ Rút kinh nghiệm tiếp tục triển khai các tuyến phố khác trong khu vực phố cổ Hà Nội.


5


+ Làm rõ hơn vai trò trung tâm và có tính quyết định của người dân trong việc tham gia
công tác bảo tồn phố cổ Hà Nội
+ Nâng cao hiệu quả của không gian công cộng, phần nào tái tạo những sinh hoạt truyền
thống của đoạn phố này nhằm tăng sức hút du lịch cho khu phố cổ Hà Nội.

Chuyên đề 3 – Biến đổi khí hậu và phát triển đô thị bền vững
3.1.

Ông Michael WAIBEL

Khoa Địa lý kinh tế
Trường Đại học Hamburg, Đức

Biến đổi khí hậu tại Việt Nam:
Thách thức và cơ hội phát triển đô thị theo hướng bền vững
Mặc dù Việt Nam đã chỉ đóng góp một phần nhỏ trong việc tạo ra các vấn đề về biến đổi
khí hậu, nhưng lại là một trong những nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Các mối đe
dọa nghiêm trọng của biến đổi khí hậu dường như gây nguy hiểm cho sự tiến bộ lớn mà
nước ta đã đạt được trong hai thập kỷ qua. Bài viết này nhằm thảo luận về những thách
thức và cơ hội đối với phát triển đô thị bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt
Nam. Những thách thức xuất phát từ việc làm thế nào để lựa chọn kết hợp đúng đắn giữa
biện pháp thích ứng và giảm nhẹ, ví dụ. Việt Nam được cho rằng là quốc gia bị ảnh hưởng
rất lớn nên tập trung vào sự thích nghi, nhưng cũng nên có những khu vực trọng điểm để
tập trung phát triển các biện pháp giảm nhẹ. Trong sự tôn trọng sau này, việc xúc tiến thích
nghi với khí hậu và năng lượng-hiệu quả trong vấn đề nhà ở có thể đóng một vai trò then
chốt.
Biến đổi khí hậu và phát triển đô thị có mối liên kết với nhau chặt chẽ và thường tương tác

tiêu cực. Trong quá trình sâu hơn nó chỉ ra rằng phần lớn các biện pháp đối phó với biến
đổi khí hậu có thể được sử dụng từ các công cụ để phát triển đô thị bền vững. Bài viết đưa
ra kết luận với một số phản ánh về vai trò của nhà nước trong các vấn đề thay đổi khí hậu.
Hưởng ứng và quan tâm tới biến đổi khí hậu cần thiết có sự tham gia từ tất cả các bộ phận
của xã hội. Tuy nhiên, nhà nước và đại diện của mình nên giáo dục người dân bằng những
dẫn chứng cụ thể. Cuối cùng bài viết đưa ra lập luận rằng thay đổi khí hậu cũng có thể được
xem như là một cơ hội. Các mối đe dọa to lớn của biến đổi khí hậu có thể hỗ trợ việc thực
hiện các giải pháp quản lý sáng tạo nhằm khắc phục tình trạng phân mảnh thể chế, và phân
chia trong các ngành hiện nay.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
3.2.

Bà Đỗ Tú Lan

Phó Cục trưởng Cục Phát triển Đô thị, Bộ Xây dựng

Những thách thức và ứng phó của Việt Nam:
Các hành động của giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu ở khu vực đô thị
Biến đổi khí hậu được dự đoán sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế toàn cầu trong tương
lai gần, đặc biệt là các vùng ven biển. Việt Nam có hệ thống đô thị phần lớn nằm trong khu
6


vực ven biển là rất dễ bị tổn hại với biến đổi khí hậu và sự tăng lên của mực nước biển. Một
số thay đổi luân phiên cần được thực hiện nhằm thích ứng với thay đổi này và giảm thiểu
tác động. Bài thuyết trình này nhìn chung giải thích tình hình hiện tại của phản ứng biến đổi
khí hậu trong hệ thống đô thị Việt Nam ven biển, đặc biệt là những hạn chế và thích ứng
với biến đổi khí hậu ở các thành phố lớn. Các tác động của biến đổi khí hậu được dự báo và
các biện pháp để giảm thiểu chúng bao gồm sửa đổi quy hoạch khu vực, thích ứng địa
phương và hợp tác quốc tế. Các nhà nghiên cứu nhằm mục đích để xây dựng các chương

trình nghiên cứu về đô thị ven biển để thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng
cao, để tạo cơ hội cho các khu vực đô thị ven biển cùng tham gia với cộng đồng quốc tế
trong nỗ lực nhằm làm giảm tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, và để đảm
bảo phát triển bền vững của đô thị ven biển và thực hiện thành công Đề án phát triển kinh tế
của Việt Nam đến năm 2020. Đối với các bước tiếp theo, triệt để khảo sát và đánh giá về
tình hình hiện tại của biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng ở vùng ven biển đô thị tại Việt
Nam phải được triển khai.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
3.3.

Yannick Millet

Hội đồng Xây dựng xanh

Biến đổi khí hậu tại Việt Nam: Tiềm năng của các toà nhà xanh
Những toà nhà này đem lại tiềm năng to lớn cho việc giảm phát thải khí nhà kính trong bối
cảnh biến đổi khí hậu. Điều này đặc biệt đúng với trường hợp của Việt Nam, nơi mà sự
bùng nổ kinh tế liên tục hiện đang dẫn đến một số lượng lớn các hoạt động xây dựng. Bài
thuyết trình của chúng tôi sẽ thông báo về việc tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam - Hội
đồng Công trình Xanh (VGBC), được thành lập là tổ chức phi lợi nhuận trong năm 2007.
Mục đích chính của nó là để xây dựng một môi trường xây dựng xanh ở Việt Nam. Hội
đồng này đã được Bộ Xây dựng Việt Nam chính thức công nhận vào tháng 3 năm 2009.
Ngoài ra vào tháng 12 năm 2007, VGBC được Hội đồng Công trình Xanh Thế giới công
nhận như là một "hội đồng công trình xanh đang nổi lên" , và vào tháng Chín năm 2009,
VGBC trở thành một phần của WGBC - Châu Á Thái Bình Dương Network. VGBC theo
đuổi các mục tiêu để trở thành tiêu điểm cho các học viện, chính phủ và khu vực tư nhân để
thúc đẩy xây dựng một môi trường thích ứng và bền vững hơn, cũng như xây dựng năng lực
và xác định số liệu công trình xanh trong quá trình chuyển đổi thị trường. Các hoạt động
bao gồm việc phát triển một hệ thống công cụ hỗ trợ việc xây dựng các tòa nhà xanh, gọi là
Công cụ đánh giá LOTUS, việc xác định và thực hiện một chương trình đào tạo chính thức

Green và chương trình Tư vấn kỳ thi, việc tạo ra một cơ sở dữ liệu xanh, dài hạn nghiên cứu
về khả năng phục hồi thay đổi khí hậu đối với môi trường xây dựng và nâng cao nhận thức
về thực tế công trình xanh thông qua các hội thảo và các nguồn lực trực tuyến.
––––––––––––––––––––––––––––––––––––– • ––––––––––––––––––––––––––––––––––––

7


3.4.

Bà Ngô Thị Tố Nhiên

ISET

Năng lượng mặt trời ở Việt Nam: Tiềm năng cho phát triển đô thị bền vững
Cùng với tốc độ phát triển đô thị, nhu cầu sử dụng năng lượng ở khu vực đô thị của Việt
Nam đã tăng rất nhanh, đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng, Nha Trang,... Sự phát triển đô thị đã mang đến hàng trăm dự án xây dựng như
khách sạn, tòa nhà văn phòng và các trung tâm thương mại,... Theo như thống kê của Tổng
công ty điện lực Việt Nam, số lượng điện năng sử dụng cho thương mại và khu vực dân
sinh chiếm 50% tổng số điện năng tiêu thụ. Cứ mỗi dự án xây dựng 10.000m2 sàn thì mỗi
năm tổng điện năng tiêu thụ có thể đạt từ 1,5–2 triệu KWh, trong đó điện năng dùng cho
điều hòa nhiệt độ chiếm 40–50%.
Sự phát triển của đô thị và sự thiếu hụt điện năng trong những năm gần đã là các yếu tố
khiến Chính phủ Việt Nam đẩy mạnh việc phát triển nguồn năng lượng thay thế. Năng
lượng tái tạo đã là một trong những lựa chọn cho sự phát triển bền vững ở một số đô thị
trên thế giới, và cũng đã được xem là tiềm năng lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là năng
lượng mặt trời tuy nhiên nguồn năng lượng này chưa được tận dụng triệt để ở Việt Nam.
Với vị trí địa lý gần xích đạo, Việt Nam có tổng sản lượng bức xạ nhiệt mặt trời trung bình
khoảng 5 kWh/m2/ngày, số giờ nắng trung bình khoảng 2.000 giờ/năm ở hầu hết các tỉnh.

Điều đó chứng tỏ điều kiện tự nhiên của Việt Nam rất thuận lợi cho sự phát triển và sử
dụng năng lượng mặt trời.
Dưới góc độ phát triển hệ thống năng lượng bền vững cho đô thị trong tương lai, bài báo
này sẽ đề cập đến một số giải pháp ứng dụng năng lượng mặt trời ở các đô thị nhằm đảm
bảo an ninh năng lượng cho sự phát triển bền vững ở các thành phố lớn, đồng thời góp phần
đáng kể vào việc giảm lượng khí thải từ việc tiêu thụ điện lưới, tạo ra khả năng có thêm
việc làm và cơ hội kinh doanh mới tại Việt Nam.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––
3.5.

Bà Lê Thị Bích Thuận

Phó Viện trưởng Viện Kiến trúc, Quy hoạch Đô thị và Nông thôn

Phát Triển “Kiến Trúc Xanh” Tại Việt Nam
Bài viết tập trung vào các nội dung sau: Giới thiệu thực trạng hệ thống các văn bản, Nghị
định, chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Quy
chuẩn xây dựng.v.v “Kiến trúc xanh” truyền thống ở Việt Nam: Kinh nghiệm quý báu về
kiến trúc nhiệt đới trong việc chọn hướng nhà, tổ chức thông gió tự nhiên trong công trình,
xử lý mái, phên, liếp, rèm cửa để che nằng, cây xanh...
Thực trạng việc thực hiện “kiến trúc xanh” ở Việt Nam hiện nay: Năng lượng tiêu thụ cho
khu vực các tòa nhà, đặc biệt là các công trình nhà ở và công trình công cộng cao tầng ngay
từ năm 1994 đã chiếm khoảng 23% - 24% trên tổng số năng lượng tiêu dùng. Thực trạng về
quản lý và thúc đẩy “kiến trúc xanh” ở Việt Nam: Việt Nam hiện thiếu hụt các loại vật liệu
thân thiện với môi trường; trong công tác quản lý quy hoạch, kiến trúc và phát triển đô thị

8


hoàn toàn chưa quan tâm tới vấn đề hiệu suất năng lượng của công trình xây dựng cao tầng

và thương mại, chưa có những hướng dẫn và quy định cụ thể trong thẩm định cấp giấy phép
xây dựng.
Tiêu chí đánh giá và thang điểm xét thưởng theo 5 tiêu chí: Thiết kế không gian cho việc
tiết kiệm năng lượng. Mức tiết kiệm năng lượng sau khi tòa nhà được cải tạo lại (≥20%).
Thiết kế phần kiến trúc của tòa nhà. Thiết kế thiết bị kỹ thuật được sử dụng trong toà nhà.
Quản lý và bảo dưỡng. Tình hình sử dụng vật liệu tiết kiệm năng lượng cho các công trình
xanh:Trong danh mục tiêu chuẩn Việt Nam hiện nay, xem xét riêng các tiêu chuẩn về vật
liệu xây dựng cho Kiến trúc xanh còn rất hạn chế. Việc xã hội hóa vấn đề Kiến trúc xanh:
Các tài liệu về “kiến trúc xanh” lưu hành tại Việt Nam chưa nhiều và chưa được phổ cập
rộng rãi.

Chuyên đề 4 – Di dân và sự thay đổi về hình thái quy hoạch – kiến trúc đô thị
4.1. Ông Doãn Minh Khôi
Viện trưởng Viện Kiến trúc Quy hoạch,Trường Đại học Xây dựng
Ông Hoàng Anh

Định cư và sự thay đổi kiến trúc và hình thái đô thị
Từ trong lịch sử, vấn đề Định cânh định cư đã trở thành phổ biến trong các vùng quê Việt
nam. Quá trình đô thị hóa đã khiến một bộ phận dân cư dịch chuyển không gian sống của
mình ra đô thị, hoặc tái định cư không gian ở của mình, để rồi kéo theo nó là sự thay đổi
hình thức và kiểu cách cấu thành không gian sống của họ.
Bài nghiên cứu giới thiệu sư đa dạng của các hình thái kiến trúc đô thị trong tổ chức môi
trường ở của người dân đô thị, phù hợp với các kiểu định cư khác nhau qua các giai đọan
phát triển. Điều đáng chú ý là, trong sự biến đổi hình thức không gian ở luôn có sự pha trộn
giữa các yếu tố cũ và mới, văn hóa bản địa và quốc tế, để trở thành sự hài hòa trong phát
triển. Những phân tích được giới hạn trong trường hợp nghiên cứu về Hà nội, thành phố
1000 năm tuổi.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
4.2. Ông Trương Văn Quảng
Phó Viện trưởng Viện Kiến trúc, Quy hoạch Đô thị - Nông thôn


Xu hướng và hình thái học đô thị Việt Nam trong quá trình chuyển đổi
Nhiều nghiên cứu cho rằng về hình thái học, đô thị Việt Nam như là một sự chuyển tiếp
kéo dài từ làng sang đô thị theo khái niệm phổ biến. Các khu phố cổ hoặc cũ ở Hà Nội, Hội
An và Huế phản ánh khá đầy đủ những đặc điểm xã hội và hình thái học kiến trúc của cấu
trúc đô thị Việt cổ truyền. Cũng do các đặc điểm trên mà bản thân trong nhiều đô thị hiện
còn tồn tại nhiều cấu trúc làng, xã, nhiều cụm, quần thể công trình kiến trúc cổ tôn giáo, tín
ngưỡng như đình, đền, chùa… được coi như các "không gian lịch sử, văn hóa, cộng đồng"
được lưu giữ trong lòng đô thị...
Xu hướng chung của các đô thị Việt Nam hiện nay là phát triển nhanh, mở rộng cả về qui
mô diện tích đất đai lẫn qui mô dân số, về chất lượng... Cấu trúc và hình thái học đô thị Việt
9


Nam theo đó cũng có những thay đổi. Tuy nhiên, đô thị Việt Nam vẫn còn khả năng tồn tại
các "không gian lịch sử, văn hóa, cộng đồng" ngay trong lòng đô thị theo cách thức phát
triển của chúng... Tất cả những điều đó cho thấy, quá trình đô thị hóa của Việt Nam có
những đặc điểm rất riêng. Nó đòi hỏi phải có cách tiếp cận phù hợp trong công tác qui
hoạch, xây dựng và quản lí đô thị...
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
4.3. Ông Bruce Campbell
Đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam

Cơ hội và thách thức cho quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Bài trình bày sẽ đưa ra những đánh giá tóm tắt về các xu hướng di cư trong nước theo số
liệu thu được từ cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà Ở năm 2009 và mối liên hệ của các xu
hướng này với quá trình đô thị hóa đang diễn ra ở Việt Nam. Bài trình bày sau đó sẽ nêu chi
tiết hơn về năm thách thức chính liên quan đến di cư trong nước đối với quá trình phát triển
kinh tế xã hội cần được các nhà hoạch định chính sách và các đối tác phát triển ở Việt Nam
lưu tâm hơn. Đó là: nhu cầu cần có các số liệu về di cư trong nước hướng tới công tác xây

dựng chính sách dựa trên bằng chứng; khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản bao gồm cả
người di cư; di cư an toàn; quy hoạch đô thị tính tới quyền lợi của người di cư; và nghiên
cứu khả năng thúc đẩy di cư trong nước vì mục tiêu phát triển con người. Bài trình bày này
dựa trên nghiên cứu của Liên Hợp Quốc (LHQ) tại Việt Nam có tiêu đề “Di dân trong
nước: Cơ hội và thách thức cho quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam”, do Nhóm
Điều phối chương trình về Chính sách Kinh tế Xã hội của LHQ thực hiện.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
4.4.

Bà Nguyễn Hồng Thục
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Định cư đô thị và nông thôn ở Việt Nam hiện nay
Chuyên đề 5 – Sự tham gia của cộng động trong quy hoạch
5.1.

Ông Đỗ Hậu

Tổng Thư ký Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam

Sự tham gia của cộng đồng trong quy hoạch đô thị
Một số bài học kinh nghiệm ở các nước Đông Nam Á
Ngày nay, quá trình lập và thực hiện quy hoạch có sự tham gia của cộng đồng đang dành được sự chú ý đáng kể trong nhiều quốc gia trên thế giới. Kinh nghiệm của các nước phát triển,
đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu Á như: Thái Lan, Singapore, Indonesia,
Philipines… đã chỉ ra những thế mạnh và hiệu quả to lớn của quá trình quy hoạch và phát
triển đô thị với sự tham gia của cộng đồng. Việt Nam đang trong thời kỳ hiện đại hóa và công
nghiệp hóa nhanh chóng. Cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị tr-

10



ường có sự điều tiết của Nhà nước, sự đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực quy hoạch và quản lý
đô thị là yêu cầu thực tế khách quan và mang tính cấp bách. Trong quá trình đổi mới này, sự
tham gia của cộng đồng trong quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị còn là vấn đề khá mới
mẻ, cần được chú ý triển khai nghiên cứu và vận dụng trong điều kiện Việt Nam.Bài tham
luận giới thiệu một số bài học kinh nghiệm thực tiễn tốt tại một số nước Đông Nam Á trong
lĩnh vực cộng đồng tham gia trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch nhằm trao đổi và vận
dụng những kinh nghiệm tốt tại các đô thị ở Việt nam trong thời gian tới.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
5.2. Ông Nguyễn Tố Lăng
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Thiết kế đô thị có sự tham gia của cộng đồng
Thiết kế đô thị mới được đề cập ở Việt Nam trong thời gian gần đây, tuy nhiên, việc triển
khai thiết kế đô thị hiện nay đã được toàn xã hội, cộng đồng quan tâm một cách đáng kể và
rộng khắp. Thiết kế đô thị được hiểu theo nhiều cách khác nhau bởi các học giả và các tổ
chức chuyên môn nhưng vẫn có điểm thống nhất là tạo dựng các không gian đô thị sinh
động, phục vụ tốt nhất cho nhu cầu sống của con người. Thiết kế đô thị càng có ý nghĩa khi
thu hút được sự quan tâm, tham gia của mọi người, cả cộng đồng, một yếu tố hết sức cần
thiết trong thời đại ngày nay, đặc biệt tại các nước đang phát triển. Bài viết giới thiệu sơ
lược một số khái niệm về thiết kế đô thị, cộng đồng và sự tham gia của cộng đồng, và công
tác thiết kế đô thị có sự tham gia của cộng đồng.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
5.3. Bà Nguyễn Thị Hiền
Kiến trúc sư, Thạc sỹ Kinh tế và Quản lý Công, Tư vấn Phát triển Đô thị

Sự tham gia của các tầng lớp xã hội trong quy hoạch và quản lý không gian
công cộng
Đất nước ta đang ở trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng, trong đó Nhà nước cam kết thực
hiện chính sách phát triển bền vững, xây dựng các thành phố có điều kiện sống tốt. Một

thành phố sống tốt cần được điều hành tốt, trong đó các chuyên gia cho rằng các nhà quy
hoạch và quản lý cần làm việc không chỉ vì người dân mà còn phải cùng với người dân. Sự
tham gia của người dân ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam.
Không gian công cộng là nơi thể hiện rõ nhất cuộc sống đô thị. Nó có nhiều giá trị đặc biệt.
Về thể chất, nó cung cấp một môi trường thiên nhiên lành mạnh, giúp cho con người phục
hồi sức khỏe và khả năng lao động. Về kinh tế-xã hội, nó giúp tăng cường sự gắn kết và hỗ
trợ giữa những người có nền tảng và viễn cảnh khác nhau. Về văn hóa, nó là nơi diễn ra các
hoạt động cộng đồng có thể tạo ra nét đặc trưng của một thành phố. Về chính trị, nó là nơi
mọi người có thể tập hợp thể hiện chung chí hướng như chống tệ nạn xã hội hay ủng hộ việc
bảo vệ môi trường v.v. Hiện trạng của không gian công cộng tại Hà Nội là 1) không gian
công cộng đang bị thu hẹp, 2) không gian công cộng hiện có không được quản lý tốt, và 3)
không gian công cộng không được quan tâm đầy đủ khi phát triển các khu đô thị mới. Tình

11


trạng này do 1) quỹ đất hạn hẹp, 2) sự quản lý yếu kém của nhà nước, trong đó thiếu sự
tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định.
Bài viết này đề cập tới khía cạnh sự tham gia của người dân trong quy hoạch và quản lý
không gian công cộng. Cần định nghĩa rằng sự tham gia của người dân là sự tham gia của
các nhóm liên quan hoặc có quan tâm nhưng không trực tiếp tham gia vào việc hoạch định
và thiết kế, thẩm định hoặc phê duyệt dự án, đầu tư, quản lý và khai thác không gian công
cộng, nhưng có thể biểu đạt quan điểm và đóng vai trò của bên đối trọng. Nội dung bài viết
này là kết quả của một nghiên cứu của Trung tâm Hành động Vì Đô thị mà tác giả là người
thực hiện vào năm 2008. Nghiên cứu này xem xét khung pháp lý về sự tham gia, đánh giá
hiện trạng sự tham gia của các tầng lớp xã hội trong quy hoạch và quản lý không gian công
cộng, lấy trường hợp về sự can thiệp gần đây của các nhà đầu tư tư nhân vào Công viên
Thống nhất làm trường hợp nghiên cứu và đưa ra một số đề xuất nhằm cải thiện quy trình
quy hoạch và quản lý không gian công cộng.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––

5.4.

Bà Phạm Thúy Loan
Viện Quy hoạch và Kiến trúc Đại Học Xây dựng

Hà nội, một thành phố châu Á của văn hóa bản địa
Hà Nội là thành phố có bề dày hơn 1000 năm tuổi và đang nỗ lực vươn lên thành đô thị tầm
cở quốc tế và trong khu vực. Mặc cho ai kia trăn trở, lạc quan hay bi quan về tương lai của
thành phố, Hà Nội vẫn chuyển đổi theo cách riêng ‘rất bản năng’. Trong sự vận động theo
xu hướng chung có tính quy luật của nền kinh tế thị trường thời toàn cầu hóa, cùng với sự
phổ cập trên phạm vi quốc tế của kiến trúc cao tầng và xe hơi, Hà Nội vẫn là một thành phố
dễ dàng được nhận ra với những khác biệt rõ rệt so với những thành phố châu Á khác.
“Hãy đến Hà Nội để cảm nhận cuộc sống” (“come to Hanoi to experience life”).
Bài viết này muốn mô tả về Hà Nội của những biến đổi không gian theo dòng chảy lịch sử
trong mối quan hệ biện chứng với văn hóa đô thị của Hà Nội, gắn liền với những thay đổi
về chính trị, kinh tế và xã hội. Logic của sự lộn xộn mang tính bản sắc của Hà Nội có thể
tìm thấy trong kết cấu xã hội và đặc điểm văn hóa đô thị ở Hà Nội mang đầy tính chất
‘nông thôn’ và tính quá độ ‘nông thôn – thành thị’, thường ngược với tính hiện đại – với
các biểu hiện về trật tự, hợp ly, chuẩn hóa, công năng hóa… Đặc điểm văn hóa này lại là hệ
quả của những ‘quá độ’ kéo dài và liên tục về kinh tế, chính trị và xã hội do điều kiện đặc
thù Việt nam và những biến đổi chung toàn cầu, mà nơi phản ánh rõ nét nhất là Hà Nội.
Hà Nội - thành phố phát triển theo lối ‘tự cấu trúc’ rất mãnh liệt.

12


Chuyên đề 6 – Sự chuyển đổi vùng ngoại thành
6.1.

Ông Michael Leaf


Trường ĐH Quy hoạch vùng và cộng đồng
Trường đại học British Columbia, Vancouver, Canada

Vùng ven đô của thành phố Hồ Chí Minh, Việt nam
Vùng ven đô là một cảnh quan ước lượng và biến đổi liên tục, một cảnh quan không ngừng
vận động. Đặc tính chuyển dịch là một trong những đặc điểm của vùng ven đô, và thực sự,
nảy sinh một mối quan tâm chính trong suy nghĩ về tương lai của đô thị hóa trong khu vực
Đông Nam Á. Việc chuyển đổi được nêu ở đây là không chỉ giữa các ngành hay không gian
thông thường được coi là nông thôn và đô thị; có lẽ nghiêm trọng hơn, đó là một quá trình
chuyển đổi theo thời gian. Xem xét tốc độ và quy mô của sự thay đổi, (và thậm chí cả trung
gian), hệ quả sau cùng trở thành một vấn đề của sự nghiên cứu.
Mối quan tâm của tôi ở đây là dành cho các học thuyết mục đích, là điều có thể phân biệt
được sự phân chia cơ bản giữa quan điểm về sự hội tụ của các mô hình đô thị hóa trên toàn
cầu theo thời gian và các trường hợp đặc biệt nhấn mạnh, nếu không phải là duy nhất, các quy
trình và mô hình đô thị hóa trong khu vực . Phải chăng các thành phố Đông Nam Á đang ngày
càng trở nên giống các thành phố ở các nước phát triển, hay các đặc điểm địa phương cụ thể
như việc hình thành và tồn tại của các vùng”desakota” (vùng liên kết giữa thành thị và nông
thôn) dẫn đến các hình thức mới của đô thị hóa không giống như của khu vực trung tâm? Và
nếu sau này, những đặc điểm gì là tạo nên hình thức mới của đô thị hóa?
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
6.2.

Ông Haryo WINARSO

Trường Đại học Quy hoạch Kiến trúc và phát triển chính sách
Viện công nghệ Bandung, Indonesia

Vùng đô thị ven đô Jakarta: Chuyển đổi kinh tế và gốc rễ của đổi mới
Phát triển đất tư nhân đã đô thị hóa nhiều hơn 30,000 ha đất nông thôn ở vùng ven đô

Jakarta, tạo ra các trung tâm phát triển khác tại Jakarta Vùng đô thị. Dấu hiệu cho thấy bây
giờ các hoạt động đang tạo ra quá trình đô thị hóa tại các vùng ven đô đặc trưng bởi sự di
chuyển ra bên ngoài của phân khúc phong phú của dân số Jakarta tới các vùng đô thị ven đô
và dân số ngày càng tăng của khu vực nông thôn gần các khu vực phát triển. Bài viết này đề
cập đến các vấn đề thông qua việc trình bày các hình thái kinh tế xã hội năng động và gốc
rễ của đổi mới đô thị diễn ra trong khu vực. Có ý kiến cho rằng quá trình đô thị hóa ven đô
trong khu vực đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội của vùng ven đô Jakarta chủ yếu là nông
thôn thành đô thị và đồng thời tạo cơ hội cho đổi mới cơ sở để đối phó với tác động của
chuyển đổi.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––

13


6.3. Ông Gabriel Fauveaud
Nghiên cứu sinh Chuyên ngành Địa lý học
Trường đại học Sorbonne, Paris

Hình ảnh từ các vùng ngoại vi thủ đô Phnom-Penh: Khi các vùng biên
đối mặt với thành phố
Sự phát triển đô thị ở các nước đang phát triển cho thấy sự cần thiết phải suy nghĩ lại về cơ
chế lan rộng đô thị và sự tiến hóa của không gian đô thị. Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa
được liên kết với sự phát triển đô thị và vai trò của " các thành phố trên thế giới". Nhưng
các thành phố lớn không phải là nơi duy nhất bị ảnh hưởng bởi sự quốc tế hóa và lực lượng
những nhà lãnh đạo đô thị, người suy nghĩ, xây dựng và quản lý thành phố.
Trong bài báo này, chúng tôi xem xét các khu vực ngoại vi như là cốt lõi của chuyển đổi
hiện đại của các hình thái không gian ở Phnom-Penh. Giữa năm 1975 và 1979, chính phủ
Khmer Đỏ đã tiêu diệt đời sống đô thị. Kể từ những năm 1990, Phnom- Penh hồi phục
trung tâm thủ đô và bị ảnh hưởng đặc biệt bởi sự hội nhập mới của Campuchia trong bối
cảnh khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh phát triển, các khu vực ngoại vi Phnom-Penh phải

được xem xét như là "không gian để chinh phục". Được hỗ trợ bởi một hệ thống phức tạp
các nhà lãnh đạo cá nhân và cả thể chế, tăng trưởng nhanh và biến đổi của các khu vực
ngoại vi là những tấm gương của sự tiến hóa này. Khu vực công nghiệp, các dự án quy mô
lớn và các nhà cầm quân chiến lược nhấn mạnh sự cần thiết để vượt qua hệ thống phân cấp
truyền thống của không gian đô thị.
Thông qua việc tiếp cận địa phương và toàn cầu, bài báo này đưa ra việc xem những vùng
ngoại vi của thủ đô Phnom-Penh như là kết quả của quá trình phân mảnh đô thị bên trong
một môi trường đô thị liên tục thay đổi. Nhưng câu hỏi liên quan đến quy hoạch và quản lý
thành phố, quan hệ quyền lực và thay đổi xã hội được đặt ra.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
6.4. Ông Edsel E. Sajor
Viện công nghệ Châu Á, Bangkok

Những thách thức về chất lượng nước ở Thái Lan và Việt Nam
trong bối cảnh biến đổi ven đô thị và toàn cầu hoá
Trong các nước khu vực Mekong, do quá trình toàn cầu hóa, đô thị hóa ven đô biến đổi và
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên nước địa phương. Điều này có thể xảy ra theo hai
cách - thông qua xâm nhập vào các khu vực nông nghiệp của việc sử dụng đất đô thị có tác
động tiêu cực tới nguồn nước địa phương, hoặc thông qua đa dạng hóa kinh tế hộ gia đình và
sự tham gia của họ trong các hoạt động kinh doanh riêng lẻ mà trực tiếp gây xáo trộn và tái
tạo lại việc sử dụng nguồn nước đã tồn tại từ trước đây. Bài viết này nghiên cứu những hệ quả
sau đó thông qua việc sử dụng hai nghiên cứu tại hai địa phương cụ thể trong huyện Sam
Rauen, Thái Lan và tại xã Văn Môn, Việt Nam. Các trường hợp này cho thấy bằng cách nào
việc sử dụng nước trong hoạt động kinh doanh của hộ gia đình làng lại tạo ra nhu cầu mới đối
với chất lượng nước thích hợp trong kênh thủy lợi (trong trường hợp của Sam Ruaen) và /

14


hoặc tạo ra nguồn nước ô nhiễm mới làm suy thoái hệ thống sông ngòi và thủy lợi hiện nay (

trong trường hợp của Văn Môn), điều đó gây nguy hiểm cho phương thức sử dụng nước
truyền thống của các cơ quan địa phương và đào sâu sự tranh cãi về chất lượng nước.
Các tổ chức liên quan đến vấn để đất và nước hiện nay ở Thái Lan và Việt Nam, chủ yếu vẫn
vận hành theo cơ chế đơn tập trung, quản lý hành chính phân chia theo lãnh thổ, cũng như
thiếu các công cụ và năng lực phân tán liên quan đến sản xuất hộ gia đình là thực tế vô i ch
trong quản lý nước và môi trường giữa các phát triển này. Tác giả biện luận cho một quan
điểm rõ ràng về vấn đề quản lý nước tại vùng ven đô trong trong mối quan hệ nông thôn-đô
thị, trong số đó, nên giải quyết cả vấn đề về số lượng lẫn chất lượng nước, các vấn đề xuyên
địa phương và toàn quốc gia, và quan trọng nhất, là tính thương mại phức tạp giữa sinh kế và
môi trường, giữa sức khỏe tại gia đình và cộng đồng.

Chuyên đề 7 – Biến đổi khí hậu và Phát triển đô thị bền vững: Tương tác của các
đô thị Việt Nam
7.1.

Ông Stephen Tyler

Chủ tịch Quản lý nguồn lực (ISET)
7.2.

Bà Karen MacClune

Viện Nghiên cứu biến đổi môi trường

Khả năng phục hồi của các thành phố Việt Nam tới sự biến đổi khí hậu trong
một tương lai không bền vững
Biến đổi khí hậu đặt ra một loạt các vấn đề cho sự phát triển của các thành phố tại Việt
Nam. Thông qua tổ chức “mạng lưới các thành phố Châu Á ứng phó với biến đổi khí hậu”,
ba thành phố ở Việt Nam đang bắt đầu giải quyết những vấn đề này. Bài thuyết trình này
giới thiệu các phương pháp tiếp cận đang được sử dụng và xem xét làm thế nào để áp dụng

được cho các thành phố khác tại Việt Nam và ở các nơi khác.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
7.2.

Ông Kỷ Quang Vinh

Giám đốc trung tâm giám sát môi trường và thiên nhiên (CENREM)

Sống chung với lũ: Đô thị hoá và biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long trong vùng nông nghiệp
phát triển mạnh và đông dân cư. Lịch sử của khu vực này gắn liền với những biến động
theo mùa của dòng sông và khu vực đồng bằng màu mỡ khổng lồ. Nhưng tương lai sẽ rất
khó để dự đoán: dòng sông đang thay đổi, bão đang gia tăng, và mực nước biển đang tăng
lên. Không có đất cao, do đó, thành phố phải tập thích ứng với điều đó. Bài thuyết trình này
đánh giá các vấn đề chính và những tác động có thể của việc di dân như nhiều đồng bằng bị
ngập lụt khác.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––

15


7.3.

Ông Thái Văn Quảng
Bà Lê Thị Thu Hạnh

Khoa phát triển Nông thôn và nông nghiệp Thành phố Đà Nẵng

Những thách thức trong vấn đề khí hậu và phát triển đô thị ở Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng đã thông qua một chính sách phát triển bền vững nhấn mạnh đến môi

trường chất lượng cao, và mong muốn của thành phố cho các mục tiêu về du lịch và văn
hóa, cũng như vị trí chiến lược của mình cho giao thông vận tải và thương mại. Nhưng
thành phố rất dễ bị tổn hại bởi bão và lũ lụt nghiêm trọng, do đó những điều kiện hấp dẫn
của thành phố có thể bị đe dọa bởi biến đổi khí hậu trong tương lai. Dự thảo kế hoạch kêu
gọi các thành phố mở rộng vào các khu vực dễ bị tổn hại bởi lũ lụt. Hạn hán và nước biển
dâng có thể đe dọa tới nguồn cung cấp nước của thành phố khi thành phố được mở rộng.
Làm thế nào để các quan chức chính quyền địa phương hiểu rõ hơn và xem xét cả những rủi
ro của khí hậu hiện tại và trong tương lai?
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
7.4.

Ông Huỳnh Cao Vân

Phó giám đốc phòng nghiên cứu môi trường và nguồn lực thiên nhiên

Biến đổi khí hậu và các thành phố nhỏ ven biển: Ví dụ của Quy Nhơn
Quy Nhơn là thủ phủ của tỉnh Bình Định, nhưng vẫn còn một thành phố nhỏ. Lịch sử của
nó gắn liền với ngành công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy, hải sản rất phát triển, nhưng
ngành công nghiệp này đang đi xuống. Trận lũ bất ngờ nghiêm trọng ở vùng ngoại ô của
thành phố Quy Nhơn trong năm 2009 đã cho thấy những rủi ro trong việc phát triển quy
hoạch đô thị và cơ sở hạ tầng không đồng bộ tại khu vực này. Liệu tình hình trong tương lai
có trở nên nghiêm trọng hơn? Và làm thế nào các vùng hay xảy ra lũ lụt và hệ sinh thái đầm
phá có thể được bảo tồn bền vững trong sự phát triển đô thị, thay vì phát triển thành các
nguy cơ cao hơn?

Chuyên đề 8 – Thành phố sống tốt
8.1.

Bà Trần Thị Kiều Thanh Hà - HealthBridge Hà Nội
Bà Stephanie Geertman -


HealthBridge Hà Nội

Xu hướng phát triển đô thị ở Hà Nội và tác động đến lối sống, hạnh phúc, và sức
khỏe cộng đồng. Thành phố sống tốt nhìn từ khía cạnh y tế công cộng
Hà Nội ngày nay là thành phố bị thống trị bởi xe máy và sự phát triển ngày càng gia tăng
của xe ô tô. Đi bộ trở thành việc gần như không thể, với không khí ồn ào và có mùi, và
không gian công cộng đang dần biến mất. Trong khi đó người dân và các nhà quy hoạch lại
đang mơ ước về một thành phố xanh, trong đó mọi người có thể đi bộ, hít thở không khí
trong lành, tận hưởng một không gian hòa bình và yên tĩnh, và trẻ em có thể chơi một cách
an toàn ngoài trời- một thành phố sống tốt.

16


Bài viết này định nghĩa một thành phố sống tốt từ góc độ y tế công cộng. Nó mô tả các xu
hướng phát triển đô thị của Hà Nội hiện tại và tác động của nó đến sức khỏe công cộng, lối
sống và hạnh phúc. Như một lời mời để thảo luận này cũng đề xuất một số giải pháp thay
thế cho một Hà Nội lành mạnh hơn và sống tốt hơn.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
8.2.

Ông Phạm Sỹ Liêm

Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ Tầng (IUSID)
Xây dựng thành phố Hà Nội sống tốt
Từ chốt : Cộng đồng sống tốt, đô thị sống tốt; Giai đoạn phát triển mới; Chương trình phát
triển đô thị sống tốt.
Tóm tắt: Trong 20 năm Đổi mới, kinh tế Thành phố Hà Nội phát triển nhanh, mức sống
người dân được nâng cao. Cùng lúc nhiều “căn bệnh đô thị” xuất hiện và ngày càng trầm

trọng. Trước các thách thức đó, đô thị sống tốt phải trở thành mục tiêu phát triển hướng tới
sự bền vững của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn sắp tới. Xây dựng đô thị sống tốt có
nghĩa là vừa coi trọng chất lượng và hiệu quả của phát triển kinh tế đô thị, vừa đặt con
người vào trung tâm của sự phát triển, phát huy dân chủ, coi trọng các giá trị nhân văn và
chất lượng cuộc sống tinh thần và vật chất của mọi người dân.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
8.3.

Ông K.C HO
Khoa xã hội học trường đại học quốc gia Singapore
Ông Lam Kit
Khoa xã hội học trường đại học Hồng Kông

Tranh luận về thành phố: Đặt chiến lược tiếp thị so sánh với vị trí trong các thành phố
Châu Á Thái Bình Dương
Một luồng chỉ trích trong các tài liệu về những dự án đầu tư lớn và du lịch đô thị là xu
hướng của các nỗ lực tiếp thị cho "chủ đề và thuần hóa" của môi trường đô thị (Chang,
2000; Gotham, 2005). Trong quá trình đó, vị trí bị xóa sạch vì sự đa dạng của nó bởi các
hoạt động khác nhau mà thường hình thành nền tảng của nội thành bị trục xuất hoặc theo
quy định hoặc biến mất thông qua các nguồn lực trong thị trường.
Chúng tôi sẽ muốn kiểm tra trong ba điều kiện mà các huấn luyện của môi trường ít khả
năng được hoàn thành: (a) khi quy định là yếu và đẩy các ngành phi chính thức vào những
nơi có chủ đề (Bangkok), (b) khi quy định này là mạnh mẽ và có một chính sách chính thức
để mang lại những hoạt động cộng đồng vào các địa điểm theo chủ đề (Singapore), (c) và
khi cộng đồng mạnh mẽ và có một thỏa hiệp về liên kết xã hội, các hoạt động phi lợi nhuận
vào các địa điểm theo chủ đề (Hong Kong).
Các phân tích của các trường hợp này sẽ cho thấy, mặc dù sự hợp tác giữa vốn của công ty
và cơ quan quản lý doanh nghiệp trong tiếp thị địa điểm như thế nào, điều kiện theo ngữ
cảnh địa phương trong các hình thức lợi ích phức tạp của giới chức trách và các tác động
lẫn nhau tiếp theo của nguồn vốn, của nhà nước, và cộng đồng sẽ tiếp tục chi phối kết quả.


17


Mặc dù những kết quả này biểu hiện trong các hình thức khác nhau và thay đổi theo tốc độ
khác nhau, vấn đề này chỉ ra rằng thông qua các quy định, rò rỉ và thỏa hiệp, chúng có thể
được hòa nhập và sự đa dạng được bảo tồn.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
8.4. Bà Nguyễn Thị Hạnh
Phó Cục trưởng Cục Phát triển Đô thị - Bộ Xây dựng
Hà Nội thành phố trong tương lai – Một góc nhìn sinh thái
Ý tưởng về đô thị sinh thái có nguồn gốc từ những năm 80 của thập kỷ XX và đã được công
bố công khai lần đầu tiên bởi các học giả Đức, nó liên quan trực tiếp đến các cuộc tranh cãi
về trách nhiệm đối với hệ sinh thái vốn đã được đưa ra từ những năm 60. Các khái niệm đô
thị sinh thái đầu tiên được tập trung vào sự trao đổi xảy ra trong đô thị (vòng tròn năng
lượng, nước, chất thải, khí thải,…). Thủ đô Hà Nội - “Thành phố trong quá khứ và tương
lai” đã được lập quy hoạch chung để phát triển với những định hướng lớn cho một tương lai
xa, với góc nhìn về đô thị sinh thái chúng ta cùng nhau thảo luận nhằm hướng tới một viễn
cảnh “Hà Nội là thành phố Xanh – Bền vững về môi trường và trở thành Đô thị sinh
thái,…” như Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050 đã
xác định.

Chuyên đề 9: Giao thông, môi trường và quy hoạch vùng đô thị
9.1.

Ông Lê Hồng Kế

Giám đốc Trung tâm Bảo vệ môi trường và Quy hoạch Phát triển Bền vững
Tác động của Biến đổi khí hậu và Nước biển dâng và sự ứng phó để phát triển đô thị
bền vững ở Việt nam

1. Phần mở đầu:
BĐKH và NBD là hiện tượng môi trường với quy mô rất lớn trên phạm vi toàn cấu mà
trong đó, Việt Nam là một quốc gia chịu tác động nặng nề nhất. Tác động này không những
ảnh hưởng đến vấn đề ô nhiẽm môi trường với quy mô lớn mà còn tác động không nhỏ đến
sự PTBV nói chung và PTĐTBV nói riêng.
2. Nội dung chính:
- Hệ thống đô thị Việt Nam hiện nay có khoảng trên 750 đô thị lớn nhỏ các loại, trong đó có
mộ số thành phố lớn theo dự báo sẽ bị tác động trức tiếp bỡi BĐKH và NBD như thành phố
Rạch Giá, Cần Thơ ở ĐSCL, thành phố Vũng Tàu, thành phố HCM ở Vùng Đông Nam bộ,
hầu hết các thành phố ven biển miền Trung như Nha Trang, Tuy Hoà, Đà Nẵng, Hội An,
Sầm Sơn, Hải Phòng, Hạ Long, Mống cái...
- Tình hình thực trạng ảnh hưởng bởi BĐKH và NBD trong thập kỹ qua đối với các đô thị
nói chung và các đô thị nêu trên là quá rõ. Thông qua công tác điều tra khảo sát của dự án
BĐKH và NBD tại khu vực đô thị đã chứng minh tình hình này.
- Vậy để ứng phó tình hình nói trên về BĐKH và NBD, hê thống đô thị Việt Nam cần làm
gì? Rất nhiều việc cần làm nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất là điều tra khảo sát, nhận biết
18


đầy đủ nhằm đề ra Chương trình hành động cụ thể để ứng phó với BĐKH và NBD tại khu
vực đô thị.
3. Kết luận và kiến nghị:
Vai trò các bên trong việc ứng phó với BĐKH và NBD tại khu vực đô thị?
Rà soát và đổi mới công tác Quy hoạch và quản lý phát triển đô thị nhằm ứng phó vơi
BĐKH và NBD?
Cơ hội và thách thức.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
9.2.

Ông Clément Musil

Trường đại học Paris III
Bà Christiane Molt
Cố vấn quốc tế Viện nghiên cứu đô thị

Xây dựng hệ thống giao thông công cộng ở Hà Nội: Những bức thiết và sự ràng buộc
Hiện nay, cảnh quan đô thị của Hà Nội được đánh dấu bởi một sự gia tăng lớn của xe tư
nhân. Ô tô và xe máy tràn ngập khắp các đường phố làm cho tình trạng giao thông khó
khăn. Để giảm ùn tắc, chính phủ Việt Nam phải lập kế hoạch xây dựng hệ thống vận tải
công cộng (PTS), trong đó bao gồm các đường tàu điện ngầm và tuyến đường xe buýt. Bên
cạnh đó, tình trạng tắc nghẽn giao thông và các vấn đề ô nhiễm ngày càng đang trở nên
quan trọng. Hơn nữa, mạng lưới giao thông công cộng măc dù đang được chuẩn bị triển
khai lại đang bị chậm trong khâu giải phóng mặt bằng.
Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào các tham luận được tổ chức bởi cơ quan chính
quyền và các giải pháp đề xuất ngắn hạn và dài hạn để đối phó với những vấn đề này.
Trong khi khái niệm phát triển bền vững và giao thông bền vững được trình bày như là một
mục tiêu trong chính sách của địa phương, chúng tôi kiểm tra các dự án giao thông công
cộng thông qua lăng kính của hội nhập. Với việc cấp thiết phải hành động, khái niệm về hội
nhập là ở đây được xem như là một hạn chế, nhưng cũng là một điều kiện “sine qua non”
cho việc xây dựng và quản lý các hệ thống giao thông để tạo điều kiện di chuyển cho tất cả,
cũng như cho việc giảm phát thải khí gây ô nhiễm . Bài báo này kết luận rằng công nghệ kỹ
thuật, hệ thống phương tiện vận tải hiện đại sẽ hữu ích nếu sự hòa nhập của hệ thống vận tải
công cộng vào quy hoạch đô thị được bảo đảm.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
9.3.

Ông Hoàng Vĩnh Hưng

Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
Quy hoạch đô thị bền vững để ứng phó với biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu không chỉ là vấn đề của môi trường hay vấn đề của một ngành riêng lẻ mà

là vấn đề của phát triển bền vững, một trong những thỏch thức lớn nhất đối với nhõn loại
trong thế kỷ 21. Quá trình đô thị hoá nhanh, làm gia tăng phát thải khí nhà kính, là một
trong những nguyên chính nhân tạo ra biến đổi khí hậu. Ngược lại, biến đổi khí hậu cũng
19


đặt người dân của các thành phố phải đối mặt với các rủi ro về khí hậu như bão, lụt, sói lở
và nước biển dâng. Tác động của biến đổi khớ hậu đối với Việt Nam là nghiờm trọng và là
một nguy cơ hiện hữu cho các mục tiờu phỏt triển bền vững của đất nước nhất là phát triển
đô thị. Trong bối cảnh đó, quy hoạch đô thị có thể được coi như một cách tiếp cận hiệu quả
để ứng phó với biến đổi khí hậu
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
9.4.

Bà Tô Thị Minh Thông
Không gian công cộng – hạt nhân quan trọng trong quá trình phát triển Hà Nội

Không gian công cộng (KGCC) là các không gian đô thị dành cho các hoạt động chung của
mọi người không phân biệt tầng lớp, lứa tuổi, giới tính, giàu nghèo, phục vụ đời sống sinh
hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thương mại, sức khỏe, vui chơi, giải trí của nhân dân
đô thị. KGCC nối kết các công trình công cộng trong các khu ở. Không gian công cộng Hà
nội có từ thời phong kiến, thời Pháp thuộc, thời xây dựng mới từ 1954 - 1985, thời xóa bỏ
bao cấp phát triển kinh tế thị trường đến nay 2010 với sự đổi thay phát triển chậm.
KGCC ngày nay phát triển trong hệ trung tâm phi tầng bậc linh hoạt, mềm dẻo (gốc - nhánh
- mạng): trung tâm chính đô thị, các trung tâm chuyên ngành có thể kết hợp thêm các trung
tâm đơn vị ở - KGCC cần được quan tâm đặc biệt trong tương lai, đó là: Không gian cây
xanh, trung tâm đi bộ, vỉa hè, không gian tâm linh, di tích lịch sử, không gian văn hóa thể
thao, không gian thương mại, dịch vụ, không gian chợ, không gian công cộng.

Chuyên đề 10: Không gian công cộng

10.1. Bà Liling Huang
Giám đốc Viện Quy hoạch Xây dựng trường đại học Đài Loan
Khi một thành phố sống tốt trở thành một thương hiệu:
Xem xét tác động của các chính sách tái phát triển đô thị lên đô thị sống tốt ở Đài Bắc
Bài báo này phân tích các chính sách tái phát triển đô thị trong những thập kỷ vừa qua tại
Đài Bắc. Ba chính sách chính phủ lớn được thảo luận, bao gồm bán đất đai của chính phủ
trên quy mô lớn, tiến hành các siêu dự án thông qua quan hệ đối tác công-tư, và thúc đẩy
chính sách đổi mới theo hướng thị trường. Nghiên cứu này sẽ xây dựng làm thế nào tất cả
họ đã giúp củng cố một xã hội đô thị dựa trên quyền sở hữu và kinh tế bất động sản trong
khi các tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp bị phân chia trong thành phố.
Thảo luận này cũng sẽ giải thích làm thế nào những thành tựu của cộng đồng huy động từ đầu
những năm 1990, mà đã được hiện thực hóa như các không gian công cộng, di sản lịch sử và
các giá trị xã hội đa dạng, đang được quét sạch bởi quá trình biến đổi to lớn không gian đô thị
và quyền năng phục hồi để phát triển đất thương mại trong nền kinh tế toàn cầu và cạnh tranh
sâu hơn trong đầu tư đô thị. Hy vọng rằng, trong Hội nghị thiên niên kỷ Hà Nội, trường hợp của
Đài Bắc có thể coi như là một ví dụ để thảo luận và cảnh báo cho những người muốn giữ các
thành phố sống tốt của chúng ta mãi mãi thành không gian công cộng.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––

20


10.2. Ông Mike Douglass
Trợ lý giám đốc trung tâm nghiên cứu toàn cầu hóa, Đại học Hawaii
Không gian công cộng, thành phố công cộng - tương lai của các thành phố sống tốt ở
châu Á
Một thành phố sống tốt là một thành phố công cộng. Đây là một thành phố mà được xác
nhận hàng ngày trong không gian của nó và mọi người công dân có thể công khai tự do tụ
tập cho cuộc sống tốt đẹp. Ở những nơi này tất cả người dân xem những người hàng xóm
cũng như những người xa lạ cùng học tập để phù hợp và chia sẻ không gian theo cách xây

dựng một cuộc sống xã hội mà nguồn gốc của nó là sự kiên cường của người dân và thành
phố. Các kiến trúc bản địa và các khu phố mọc lên hằng ngày bổ sung vào không gian công
cộng để tạo ra môi trường sống đô thị độc đáo mang đậm ý nghĩa của số phận chung và bản
sắc xã hội, mạnh mẽ. Trong những năm gần đây, những không gian này phải chịu áp lực rất
lớn bởi các thành phố trên khắp thế giới, đặc biệt là ở châu Á nơi mà quá trình chuyển đổi
đô thị đang cất cánh. Và chính phủ các nước đang chuyển sang chiến lược tự do mới để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc tư nhân hóa sử dụng đất và đất đô thị. Bán đất
công cho mục đích thương mại và sự dịch chuyển của thị trường mở kèm theo các cửa hàng
nhỏ dọc theo đường công cộng, các tòa nhà tư nhân thuộc tất cả các loại hình cũng đang
diễn ra trên quy mô lớn.
Quy mô chuyển đổi rộng của các hộ gia đình có thu nhập vừa và thấp từ các khu phố của
họ tạo thuận lợi cho việc phát triển tràn lan các siêu dự án hiện đại trong thành phố. Điều
này phù hợp với các khu nhà ở lớn và các dự án đô thị mới triển khai tại khu vự nông thôn
với khu dân cư tư nhân liên hệ mật thiết với cộng đồng lớn và được đảm bảo an ninh bởi
lực lượng bảo vệ tư nhân. Những xu hướng này tác động tới các khả năng thành phố trở
thành một cộng đồng khép kín hoàn hảo, làm giảm cơ hội cho các cư dân đô thị đóng vai
trò hợp tác trong quản lý. Các thành phần của không gian đô thị thành tư nhân hóa, bảo vệ
vùng đất và vùng đặc quyền làm tăng nhận thức của khoảng cách giữa con người và sự bất
bình đẳng trong việc tiếp cận dịch vụ đô thị cơ bản và những tiện nghi.
Thay thế cách làm là xác đáng, tuy nhiên. Hầu hết các phát sinh từ xã hội dân sự như là một
cơ sở tự tổ chức để duy trì và tạo ra xã hội mới có ý nghĩa cảnh quan đô thị, bao gồm các
kiến trúc lịch sử, không gian công cộng và môi trường xây dựng có lợi cho tính liên tục của
cuộc sống phố phường. Bất cứ loại dự án ở nơi nào đã đạt thành quả, đều tạo ra mối liên kết
mới cho thành phố tốt đẹp hơn, và sức thu hút của chúng đến những người muốn học hỏi
kinh nghiệm có thể tiếp cận từ quy mô các khu phố cho tới cả thành phố, quốc gia và thậm
chí quốc tế. Chúng tạo ra lợi ích kinh tế cho thành phố và có thể phân phối các lợi ích rộng
rãi hơn giữa các cư dân.
Bài báo trình bày quan điểm cho rằng Hà Nội ở giữa giai đoạn phát triển của một thành phố
cộng đồng với một thành phố tư nhân. Bằng cách khai thác khả năng có thể trong tương lai
của từng hình thức của thành phố thông qua đánh giá so sánh của các nước khác ở châu Á,

sự cần thiết phải giữ lại các ý tưởng của một thành phố như là một lĩnh vực mở cửa cho tất
cả và điều chỉnh bởi các cư dân của nó trở nên cấp thiết hơn cả. Không gian công cộng là
nền tảng để duy trì một thành phố công cộng.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
21


10.3. Ông Jerry Finin
Trung tâm Đông Tây Hawaii
Hai Thành Phố của Philippine trong quá trình chuyển đổi: Bài học kinh nghiệm cho
Thành Phố Hà Nội
Công tác lập quy hoạch cho sự phát triển của thành phố Hà Nội trong tương lai có thể được
hưởng lợi từ phân tích so sánh về trường hợp tăng trưởng đô thị của các thành phố khác trong
khu vực. Bài tham luận này sẽ tập trung vào những khái niệm của Mỹ và Tây Ba Nha về
không gian công cộng ở Manila và thành phố Baguio của Philippines. Trong khi tác động của
thời kỳ thuộc địa tiếp tục hình thành những ý niệm về quy mô và không gian, sự chuyển đổi
to lớn trong thời kỳ sau ngày độc lập, đặc biệt mối quan hệ giữa khu vực nhà nước và tư nhân
rất quan trọng trong việc tìm hiểu không gian công cộng đang được định nghĩa lại hiện nay ở
Philippines. Đặc biệt quan trọng hơn nữa là phương thức mà đa thể chế, quản trị xã hội và
tham nhũng đã và đang.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
10.4

Ông Henry Mochida

Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa - Đại học Hawaii
Ông Nguyễn Hảo
Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa - Đại học Hawaii
“Khiêu vũ trong công viên”: Hà Nội và Thiên niên kỷ mới (phim và thảo luận)
Trong năm 2010 Hà Nội kỷ niệm 1.000 năm là thủ đô của Việt Nam. "Dancing in the Park"

là một phép ẩn dụ cho sức sống của thành phố qua thời gian, được thể hiện trong đời sống
xã hội được tạo ra bởi người Hà Nội trong không gian công cộng. Mỗi buổi sáng từ 6-8 giờ
trước khi được chính thức mở cửa trong ngày, Công viên Thống Nhất đầy những người
thuộc mọi lứa tuổi đến tập thể dục, chơi thể thao, đi bộ và chạy bộ, ngồi và trò chuyện – tất
cả cùng tham gia với bạn bè và người lạ vào buổi khiêu vũ nhảy múa tập thể . Công viên
này có tiềm năng đặc biệt ý nghĩa cho người dân Hà Nội như là một không gian công cộng
chung, đồng thời còn báo hiệu sự thống nhất quốc gia sau chế độ thực dân. Tuy nhiên, khi
Hà Nội bước vào thiên niên kỷ mới mở ra một kỷ nguyên mới của đầu tư toàn cầu, công
viên đã trở thành một mục tiêu cho phát triển thương mại tư nhân, là hình thức đang đe dọa
thú vui tận hưởng cuộc sống của người dân thành phố.
Bộ phim ngắn là sự tán dương thành phố Hà Nội, cho thấy thành tựu của đất nước thông
qua việc giải quyết, gìn giữ không gian công cộng của nhân dân. Bài viết này sẽ tập trung
vào tầm quan trọng của việc bảo tồn không gian công cộng và vai trò của truyền thông
trong việc nâng cao nhận thức xã hội. Bộ phim ngắn “Dancing in the Park” sẽ được trình
chiếu và tiếp theo đó là mục hỏi và đáp với các nhà làm phim.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––

22


Chuyên đề 11: Thành phố trong tương lai
11.1. Ông Michael DiGregorio
Trung tâm nghiên cứu toàn cầu hóa, Đại học Hawaii
Trong dòng chảy của đất đai :Tương lai của những ngôi làng ngoại ô phía Tây Hà Nội
Hà Nội là nơi duy nhất tồn tại cấu trúc của mối quan hệ vẫn tiếp tục cho đến ngày nay giữa
các thành phố và vùng nông thôn điều đã biến mất ở những nơi khác của châu Á. Trong các
hình thức cổ xưa của mối quan hệ đó, các thành phố vốn đã tồn tại như là một khu đô thị
nhỏ có dân số và nền văn hóa bị chi phối bởi tầng lớp quý tộc trong chính phủ, thương mại
và đời sống tinh thần. Thủ đô đã được kết nối với các làng trong khu vực xung quanh bởi
dòng chảy lao động, thực phẩm và hàng hóa sản xuất, sau này thường được sản xuất theo

"giấy phép hoàng gia". Sự hội nhập của thành phố và nông thôn cũng có nghĩa là sự phân
chia khu vực văn hóa tương đối nhỏ, mặc dầu có sự khác biệt trong của cải, bởi vì điều phổ
biến trong giới quý tộc là họ đều trở về làng xã quê hương của mình, nơi họ tái tạo nền văn
hóa và quyền lực của thủ đô trong việc thực hiện các nghi lễ trong các đền thờ, chùa, miếu.
Quy hoạch đô thị hiện nay hoặc quên hay đã bỏ qua các mối quan hệ lịch sử này. Được
minh chứng rõ ràng rằng tất cả vùng quê trên các bản đồ quy hoạch đều được tô một màu
xanh lá cây đồng nhất Trên thực tế, hơn nửa dân số của Hà Nội hiện đang sống ở làng..
Trong nhiều trường hợp, mật độ định cư của những ngôi làng này là bằng hoặc lớn hơn các
thành phố. Khi đất nông nghiệp được giao để xây dựng các khu đô thị mới,những ngôi làng
này đang trở thành một cái gì đó của phần phụ trong quá trình đô thị hóa. Tìm hiểu các mối
quan hệ lịch sử giữa thành phố và nông thôn, và phát triển các chiến lược để duy trì mối
liên hệ tích cực này sẽ là cần thiết để hòa nhập các làng vào không gian của thành phố.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
11.2. Bà Lã Thị Kim Ngân
Viện trưởng - Viện Quy hoạch Xây dựng Hà Nội (HUPI)
Diện mạo Thăng Long – Hà Nội trong tương lai
Thủ đô được xứng tầm với những vị thế vai trò là trung tâm đầu não chính trị hành chính
của Quốc gia, trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và cũng là vùng Thủ đô,
trung tâm lớn của cả nước về văn hóa - khoa học - đào tạo, và một trung tâm kinh tế tri
thức, trước hết diện mạo Thăng long - Hà nội cần biểu đạt được đầy đủ các giá trị và không
gian đặc trưng trên.
Quá khứ - hiện tại - tương lai là mối quan hệ cân bằng hài hòa giữa các không gian Bảo tồn
- Cải tạo - Phát triển. Đòi hỏi các nhóm giải pháp ứng xử hết sức tinh tế, thân thiện với con
người, thân thiện với môi trường tự nhiên - xã hội - đầu tư, môi trường pháp lí, phù hợp với
khả năng nguồn lực và vóc dáng của tạo hóa.
Trân trọng tôn vinh những giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống, kiến trúc, cảnh quan tự
nhiên; Cải tạo thay thế các không gian xuống cấp chưa đủ tiện nghi để phát triển tạo ra
những giá trị mới là những động thái cần thiết của đô thị. Và ước mơ sẽ là hiện thực khi mà
trong mỗi chúng ta đều hướng về chắt chiu, gạn lọc, chăm chút một cách cẩn trọng từng chi


23


tiết của đô thị, Thăng long - Hà nội sẽ là Thủ đô có diện mạo độc đáo trên thế giới, khiêm
nhường mà tinh tế, điểm đến của du khách thập phương
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
11.3. Bà Sylvie FANCHETTE
Viện Nghiên cứu phát triển
Bà Juliette SEGARD
Nghiên cứu sinh trường đại học La Défense
Các làng nghề thủ công đối mặt với đô thị hóa-Những thách thức của thành phố Hà nội
trong tương lai
Với sự mở rộng của Hà Nội, hành chính trên địa bàn tỉnh Hà Tây cũ và trên thực tế về
những tỉnh lân cận khác, các làng nghề ngàn năm tuổi đang phải đối mặt với những thay
đổi to lớn về kinh tế, xã hội và chính trị. Thật vậy, sự biến mất của các vùng đất nông
nghiệp – thay vào đó là các khu dân cư mới, khu công nghiệp - các chính sách phát triển cơ
sở hạ tầng cũng như sự tiến hóa của thị trường và nền kinh tế đang định hình một bối cảnh
mới và môi trường mới cho các làng nghề này. Do đó, đô thị hóa bên ngoài và bên trong là
nhấn mạnh sự tập trung truyền thống của các làng nghề, tạo ra những thách thức mới cho
người dân và cho các cơ quan công quyền.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
11.4. Ông Paul Schuttenbelt
Công ty Tư vấn giải pháp đô thị
Hà nội, thiết kế chi tiết hay tầm nhìn chiến lược
Thách thức ngày càng cao tạo cạnh tranh cho chính quyền thành phố trong kinh doanh toàn
cầu đi xa hơn đến việc cung cấp môi trường đầu tư tối ưu: nhà nước của khu thương mại
nghệ thuật, các khu tổ hợp dân cư, các tòa nhà chọc trời cao ngất với những tiện nghi văn
phòng hiện đại và những ưu đãi khác để thu hút người mua tiềm năng và các nhà đầu tư tới
thành phố. Do vậy các thành phố của Việt Nam đã nhập cuộc đua, với Hà Nội, hiện đại hóa
trung tâm thành phố với tốc độ nhanh chóng trong mục tiêu để trở thành "Singapore hoặc

Bangkok kế tiếp. Tuy nhiên, trong thời gian mười năm, chúng tôi sẽ có thể cho biết các
thành phố này cách biệt bao lâu? Có phải Hà Nội đang trên bờ vực của việc mất đi bản sắc
của chính mình?
Một tính năng khác biệt của Hà Nội là hệ thống các hồ và cây xanh, trong khi các công
trình xây dựng được thu nhỏ lại theo kích thước của con người. Hà Nội có những thứ đáng
bị ghen tị bởi bất kỳ nhà tiếp thị thành phố nào khác trên thế giới, đó là hàng ngàn năm lịch
sử và văn hóa, cái luôn tồn tại trong đời sống tinh thần của người dân Hà Nội, là văn hóa
ẩm thực, là các lễ hội, đền chùa và khu phố cổ ở trung tâm thành phố.
Thực tế đô thị Hà Nội hiện nay là:
• Phát triển đô thị ở Hà Nội có mức độ tác động cao chưa chính thức lên quá trình phát
triển.
• Cơ sở hạ tầng lạc hậu là rất lớn và cần đầu tư nhiều vào hệ thống cơ sở hạ tầng là điều có

24


thể gây nguy hiểm cho việc gìn giữ các di sản, cấu trúc xã hội, không gian mở và nền văn
hóa nông nghiệp gắn liền với nước (tất cả đều quan trọng đối với phát triển bền vững).
- Đất công và các vấn đề lấn chiếm dai dẳng.
• Giá đất cao đẩy người nghèo vào các vùng đất khô cằn.
• Mặc dù Hà Nội không góp một phần chính vào hiệu ứng phát thải khí nhà kính, tuy nhiên
vấn đề giảm thiểu tác động ngày càng tăng của hiện tượng này không được chú ý nhiều tại
đây.
• Hà Nội mở rộng nhanh chóng, vươn tới các khu vực nông thôn, nhưng cũng tạo ra một
lượng carbon lớn, giảm khả năng thoát nước, và để lại một cơ cấu quản lý đô thị bị phân
mảnh.
• Có rất ít sự tham gia của khu vực tư nhân , khu vực đáng lẽ là động lực chính của phát
triển đô thị .
Kế hoạch cho Hà Nội vì vậy phải lùi trở lại một bước. Trước hết, phải xem xét những chỉ
đạo, hướng đi của thành phố. Thay vì thiết kế chi tiết cần một định hướng chiến lược. Văn

hóa và di sản có thể được coi như là một cơ sở mạnh mẽ cho chiến lược này. Hà Nội là Thủ
đô văn hóa Hà Nội của châu Á có thể làm cho Hà Nội bước ra khỏi đám đông và trở thành
một thành phố trẻ năng động với một trái tim có tuổi, thông minh và xinh đẹp.

Chuyên đề 12: Sự chuyển đổi của vùng ngoại thành
12.1. Ông Erik Harms
Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á
Xây dựng Thủ Thiêm
Bài viết này nhằm mục đích mở một cuộc trò chuyện về việc phá dỡ và xây dựng lại các
phường Thủ Thiêm tại TP Hồ Chí Minh. Nằm về phía nam của trung tâm thành phố lịch sử
tại quận 2, qua sông Sài Gòn, các nhà phát triển và quy hoạch thành phố đang tìm cách san
bằng hoàn toàn khu vực này", và kiến thiết khu vực thành một khu vực phát triển. Mục tiêu
đạt ra đơn giản là xây dựng một khu đô thị mới hiện đại đáng mơ ước, là giải phóng mặt
bằng khu đất này và biến ước mơ trở thành hiện thực. Bài báo này mô tả những hy vọng và
ước mơ được nêu lên trong dự án và đối chiếu các tham luận trái chiều cũng như bất ổn xã
hội liên quan đến quá trình phát triển đô thị lớn.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––– • –––––––––––––––––––––––––––––––––––––
12.2. Bà Fanny Quertamp
Trung tâm hỗ trợ quản lý phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
Ngổn ngang đô thị và quản trị đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
Kể từ tháng Giêng năm 2010, Luật Quy hoạch đô thị ban hành một cách tiếp cận lập kế
hoạch chiến lược mới mà dường như để sửa đổi các khái niệm quy phạm thông thường. Các
phương pháp quy hoạch dựa trên đặc điểm địa lý và kinh tế xã hội của các khu vực khác
nhau bao gồm cả khu vực thành thị và vùng ven đô. Những khu vực mới này không đưa ra
25


×