LỜI MỞ ĐẦU
Từ thiên niên kỷ thứ VIII trước Công nguyên, Ấn độ và Trung hoa cổ đại đã
trở thành trung tâm văn minh lớn của xã hội loài người lúc bấy giờ và từ đó
các hệ thống lý luận xuất hiện, triết học đã ra đời và tồn tại cho đến tận ngày
nay…Trung Quốc là nơi hình thành và phát triển của nhiều trường phái triết
học lớn của Châu Á cũng như toàn thế giới, trong đó gồm có các học thuyết
như: Nho giáo, Đạo lão, Âm dương gia, Pháp gia,…Trong đó Nho giáo do
Không Tử sáng lập, từ khi xuất hiện đến cuối thời phong kiến, Nho Giáo
luôn là một trong những trường phái triết học đóng vai trò quan trọng và có
ảnh hưởng không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở nhiều nước Châu Á trong đó
có Việt Nam. Tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng một cách sâu sắc tới đời sống
tinh thần của người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Triết học Nho giáo
chủ yếu bàn về các vấn đề chính trị, đạo đức luân lý. Người Việt đã rất thông
minh nắm lấy cơ hội kế thừa và tiếp biến quá trình truyền bá Nho giáo của
người Trung Hoa vào Việt Nam theo tinh thần thực tiễn của dân tộc. Trong
quá trình du nhập, tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Nho giáo đã góp phần to
lớn trong việc kiến tạo bộ mặt văn hoá, xây dựng đời sống tinh thần Việt
Nam. Đặc biệt, chúng ta lại không thể không nói tới con người Việt với
phương châm sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần
“Nho giáo”, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân
tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, đó chính là
bản sắc riêng của con người Việt Nam. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: "
Tư tưởng chính trị - đạo đức học thuyết Nho giáo Trung hoa và sự ảnh
hưởng của nó đới với đời sống tinh thần của người Việt Nam xưa " làm đề
tài cho tiểu luận của mình.
1
CHƯƠNG 1: TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO TRUNG
HOA VÀ HỌC THUYẾT ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ
1.1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo Trung hoa
Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000 năm phát triển
và biến đổi. Cơ sở của
Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời
Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Nho giáo được Khổng Tử, tên thật
là Khâu, hay còn gọi là Trọng Ni, người nước Lỗ (551 - 479
trước Công nguyên, thời Xuân Thu - Chiến quốc) phát triển
tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá
các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là
người sáng lập ra Nho giáo. Khổng Tử là người mở đường vĩ
đại của lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Ông là nhà triết
học, nhà chính trị và là nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung quốc
cổ đại. Ông đã hệ thống những tri thức tư tưởng đời trước và
quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức chính trị riêng,
gọi là Nho giáo. Học thuyết của ông được hai nhà tư tưởng là
Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển. Mạnh Tử theo
hướng duy tâm, Tuân Tử theo hướng duy vật. Trong lịch sử
sau này dòng Khổng Mạnh có ảnh hưởng lâu dài nhất. Từ nhà
Hán trở đi, Nho giáo được nhiều nhà tư tưởng phát triển và
sử dụng theo môi trường xã hội của nó. Từ đời Hán đến đời
Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh truyện để lưu
truyền. Đường Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống
nhất quốc gia, liền cho kinh học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải,
hiệu đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Tà tuyên, Lễ
ký thành bộ Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện
kinh học từ đời Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành
sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đường. Khổng học càng
được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông nói rất rõ
“Nay trẫm yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo
của Chu Không coi như chim thêm cánh, như cá gặp nước,
không thể không có được”. Từ đó, Khổng Tử với đế vương,
với chính phủ các triều đại đều có quan hệ như Đường Thái
Tông hình dung. Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào
thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà Tống, vị hoàng đế khai quốc là
Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì nghi lễ long
trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng thiếu đễ, vua còn
2
thân chủ trì khoa thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho
học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng ta
thường gọi đó là Lý học. Nội dung và kết cấu của Lý học hết
sức rộng lớn, bắt đầu từ Hàn Dũ đời nhà Đường, trải qua nỗ
lực của Tôn Phục, Thạch Giới, Hồ Viên, Chu Đôn Di, Thiệu
Ung, Thương Tái, Trình Di, Trình Hạo đời Bắc Tống cho đến
Chu Hi đời Nam Tống là người tập đại thành hoàn chỉnh hệ
thống tư tưởng Lý học. Lý học trình Chu nhấn mạnh Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín như lễ trời (thiên lý) dùng học thuyết Khổng
Mạnh làm nguồn gốc, hấp thu thêm các học thuyết tư tưởng
của Phật giáo, Đại giáo cung cấp sự nhu yếu cho xã hội quân
chủ chuyên chế. Chu Hi tập chú giải thích các kinh điển Nho
gia như Luận ngữ, Mạnh Tử trở thành những sách giáo khoa
bắt buộc của sĩ tử trong xã hội phong kiến
và là tiêu chuẩn pháp định trong khoa cử của chính phủ.
Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học
của Trần Lượng, Diệp Thích, phái Tâm học của Vương Dương
Minh cũng đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu một phần tư
tưởng cơ bản của ông. Những học thuyết này đều được lưu
truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội văn
hoá Trung Quốc. Vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng,
được các vương triều đua nhau đề xướng nên Nho học thuận
lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng xã hội,
từ rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành
tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc, là cơ sở văn hoá
của tín ngưỡng và tập tính.
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết
chính trị nhằm tổ chức xã
hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là
phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng
lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người
thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm
chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp,
phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc
đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối
tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm
quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết
phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người
3
quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo k hông đơn
giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu
thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả
nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó
là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như
họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng
mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời,
biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào
con người sẽ được gọi là Mệnh. Nhìn chung hệ tư tưởng Nho
giáo khi hình thành và phát triển đã là hình thái ý thức của
giai cấp thống trị trong xã hội phong k iến ở Trung Quốc. Đối
với nó thì ngũ luân, ngũ thường, hay tam cương ngũ thường
là những cái tuyệt đối. Đối với nó xã hội phong kiến không
phải chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người, luân lý
phong kiến không chỉ là một hình thái ý thức của giai đoạn
ấy, như họ nói:
“Quân thần chi nghĩa vô sở đào ư thiên địa chi gian”
Hay là: “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến” (Đổng Trọng Thư)
Đạo ở đây tức là tam cương, ngũ thường.
1.2. Học thuyết Đức trị của Khổng Tử
Nho giáo đề ra chủ trương trị nước bằng đạo đức, nghĩa là
lấy đạo đức để cảm hóa con người, cốt để con người biết tự
trọng, xấu hổ mà không vi phạm pháp luật. Trong tư tưởng
đức trị, người cầm quyền không chỉ lấy đức để trị nước cho
thiên hạ theo về, mà còn phải nêu gương đạo đức cho thiên
hạ học tập.
Đức của người cầm quyền được thể hiện qua ba phạm trù cơ
bản, đó là Nhân , Lễ và Chính danh.
Nhân là phạm trù đạo đức cao nhất và bao trùm nhất với nội
dung của nó là yêu thương con người (nhân giả ái nhân);
nhân là trung thứ, tức suy ta ra người: những gì mình muốn
thành đạt thì giúp người khác cùng đạt; những gì mình không
muốn thì đừng làm cho người (kỷ sở đạt nhi đạt nhân; kỷ sở
bất dục, vật thi ư nhân); Hiếu đễ là gốc của nhân; ước thúc
bản thân, tuân thủ lễ để làm người có nhân (khắc kỷ phục vi
nhân).
Lễ bao gồm lễ nghi tế và nghi thức ứng xử. Nho giáo chú
trọng cả hai phương diện, song nghi thức ứng xử được các
nhà sáng lập của nó đề cập nhiều hơn, bởi lẽ lễ là nguyên tắc
4
ứng xử của con người, theo đó điều là “trái lễ thì không nhìn,
trái lễ không nghe, trái lễ không nói, trái lễ không làm”. Nhà
vua lấy lễ để sai khiến bề tôi, còn bề tôi lất trung mà thờ
vua. Khổng Tử khẳng định học thuyết ủa ông chỉ thuật lại lời
thánh hiền đời xưa không sáng tác gì thêm (thuật nhi bất
tắc), còn lễ thì ông theo nhà Chu.
Chính danh là biện pháp chống lại sự tiếm quyền, vượt
quyền. Mỗi người đều có bổn phận của mình và hoạt động
trong phạm vi bổn phận mang tính tiền định đó. Bởi lẽ,
“danh có chính thì lễ nhạc mới cất lên được và dân đỡ lúng
túng (trong các hoạt động sống của mình)”. Như vậy, danh
gắn liền với định phận (tiền định).
Ba phạm trù đạo đức ấy là điều kiện cần nhưng chưa đủ.
Khổng Tử còn yêu cầu người cầm quyền phải có trí và dũng.
Trí để phân biệt phải trái, dũng là có đủ can đảm để làm việc
nghĩa. Ngoài ra ông còn yêu cầu người cầm quyền phải
“cung, khoan, tín, mẫn, huệ”.
Đây là những quan điểm cơ bản của Nho giáo mà sau khi Nho giáo du nhập
vào Việt Nam thì những quan điểm này sẽ có những ảnh hưởng sâu sắc
trong đời sống tinh thần, chính trị, xã hội của người Việt Nam. Và thực tế thì
cho đến nay Nho giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo, chi phối dời sống tinh thần
người Việt.
Chương II: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam :
Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi
phối cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của
Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp
dụng ít nhiều lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh
hưởng của Nho giáo chưa đáng kể. Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở
Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn
liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh văn hóa, Nho giáo góp
phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát triển và mở
rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở rộng và phát
triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự
xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra
5
nhanh hơn, đồng bộ hơn việc thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt
Nam thời bấy giờ. Nếu không có sự xâm lược của các thế lực phong kiến đối
với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập vào xã hội Việt Nam, nhưng quá
trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng bộ. Sự du nhập Nho giáo Việt
Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực hiện bởi
các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng đỡ,
cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với
Phật giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn
chưa xác lập được vị trí độc tôn trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn
năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập dân tộc đã nỗ ra,
nhưng hầu như không có sự tham gia của các nhà nho. Chiến thắng trên sông
Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra
thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật giáo có
vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô,
Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn
và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền
đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà
nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào thời điểm này sự
đóng góp của các nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu
hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh
Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc
ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước. Sang thời
Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về sau,
Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh
vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp
luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị
bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến
đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho
học - Nho giáo không thể không thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được
thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền
thống Việt Nam khá sâu đậm. Đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp và
phong kiến ở Việt Nam đã hủy bỏ chế độ học tập và thi cử theo Nho học.
Tuy vậy, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng lâu dài đến xã hội và con người Việt
Nam về sau .
2. Ảnh hưởng của nho giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
xưa:
Trong thời kỳ phát triển xã hội cổ đại Việt Nam, Nho giáo
với hệ thống tư tưởng
chính trị của mình đã tích cực góp phần xây dựng các nhà nước
phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây
6
dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao
sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.
- Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là
người “học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm
qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học . Nho giáo làm nền tảng
lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội
dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý
nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi
trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần
nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết
học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra
một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là
động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho
giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong
đó có Việt Nam.
- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học
hành, tu dưỡng đạo
đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội
ngày càng phát triển văn minh hơn.
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn,
bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các
làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp
phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty
hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anhem, bạn-bè”.
- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong
năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng
nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái
quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên
hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ
quốc và trung hậu với nhân dân.
- Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ
thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của
vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt
Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân
dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm
tiêu diệt những quân tàn bạo.
Tuy nhiên trong thời kỳ này, sự đóng góp của Nho giáo vào đời
sống tinh thần của
người Việt Nam vẫn có nhiều mặt không tích cực như: Không như
Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng
cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông
7
nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự
tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động,
sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị.
Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn
định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn
khiến đất nước không thể phát triển.
- Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn
dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.
- Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét
trong tâm mà không
hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều
tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này
làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷthuật sau một thời
gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây
vốn xuất hiện sau.
Đến thời kỳ cách mạng dân tộc: Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho
giáo đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát
triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ
vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt
Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa
đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức quân đội và chất
lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành
động. Bác Hồ k hi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại
bỏ những tư tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam
lúc bấy giờ. Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc
hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó nhằm
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
- Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ
Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp
nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp
bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế
độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua.
- Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên
chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của
dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách
mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức
mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc.
8
- Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ
chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình.
Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ
nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và
quản lý đất đai.
- Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít
tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt
niềm tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc.
- Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục
tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho
giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành
những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần
nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã
sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu
dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho
giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một
khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.
9
KẾT LUẬN:
Nho giáo tồn tại thực ở nước ta hàng chục thế kỷ. Trong thời gian lâu dài
như thế, ở vị trí ý thức hệ chính thống nó chi phối khá nhiều mặt đời sống
tinh thần của dân tộc ta. Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi
mặt đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới: dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sự phát triển của
kinh tế, văn hóa, giáo dục,…. Đời sống vật chất tinh thần của người dân
được nâng cao. Bên cạnh đó là sự du nhập của văn hóa, lối sống của Phương
Tây ngày càng mạnh mẽ hơn đã làm thay đổi nhất định trong suy nghĩ, các
phong tục tập quán của người Việt cũng như những tư tưởng của Nho giáo ở
Việt Nam. Nho giáo tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống tinh
thần của Người Việt như trước nhưng nó vẫn còn hiện diện bám sát chúng ta
và tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực.
Những tư tưởng bảo thủ, hủ nho sẽ là những cản trở không nhỏ cho quá trình
chuyển đổi đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần phải
biết chắt lọc, tiếp thu và phát triển những tư tưởng của Nho giáo, xem xét kỹ
lưỡng những ảnh hưởng của Nho giáo trong quá trình xây dựng và bảo vệ
đất nước, giữ lại những ảnh hưởng tích cực, những nét văn hóa Nho giáo tốt
đẹp trong dân gian như thờ cúng tổ tiên, các hội làng, tinh thần yêu nước,
truyền thống nhân đạo, các quy tắc ứng xử trong gia đình…vận dụng những
tư tưởng đó vào việc giáo dục, đào tạo con người, xây dựng gia đình, xã hội
an lành, hạnh phúc là điều rất hay, rất cần thiết. Và xa hơn là kế thừa những
cái tốt vì lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì sự toàn thắng của chủ nghĩa
Mác, tức là nhấn mạnh lập trường cách mạng thực tiễn trong thời kỳ mới,
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
10