Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.08 KB, 126 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.................................................................2
3. Lịch sử vấn đề...............................................................................................3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu..............................................................................4
6. Đóng góp mới của luận văn..........................................................................8
7. Cấu trúc của luận văn...................................................................................8
NỘI DUNG.........................................................................................................9

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI....................................9
1.1. Nhà văn Tô Hoài.......................................................................................9
1.1.1 Tiểu sử và quá trình sáng tác...................................................................9
1.1.2. Quan niệm về nghề văn và người viết văn...........................................13
Về hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài...............................................15
Chân dung văn học của Tô Hoài.............................................................................. 15
Tự truyện của Tô Hoài............................................................................................. 20
Chương 2: TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC.......................23
Chung quanh khái niệm về chân dung văn học và chân dung văn học của Tô Hoài
23
Khái niệm 23
Các đặc trưng cơ bản của thể chân dung văn học....................................................24
Chân dung văn học của Tô Hoài.............................................................................. 28
2.2. Đặc sắc trong chân dung văn học của Tô Hoài.......................................35
22.1. Khắc hoạ chân dung trong không khí văn học thời đại........................... 35
2.2.2. Dựng chân dung theo dòng hồi tưởng..................................................49
2.2.4. Dựng chân dung nhà văn trên cái nền phong tục lạ............................. 54

Vietluanvanonline.com


Page 1

i


2.3. Chân dung một số nhà văn và bức chân dung tự hoạ..............................58
Chương 3: TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN....................................................68
Chung quanh khái niệm về tự truyện..........................................................68
Khái niệm

68

Các đặc trưng cơ bản của tự truyện.............................................................................72
Tự truyện trong hành trình văn xuôi Tô Hoài.............................................................76
Đặc sắc trong nội dung của tự truyện của Tô Hoài.....................................76
Nhãn quan sinh hoạt, thế sự........................................................................................85
Tự truyện pha dấu ấn tiểu thuyết.................................................................................93
Đặc sắc trong nghệ thuật viết tự truyện của Tô Hoài
Ngôn ngữ

93

Nghệ thuật trần thuật luôn mang một sắc thái riêng.................................................106
KẾT LUẬN....................................................................................................119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................122

Vietluanvanonline.com

Page 2


ii


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Mười bảy tuổi Tô Hoài đã có một số sáng tác thơ đăng trên Tiểu
thuyết thứ Bảy (Tiếng reo, Đan áo...). Những bài thơ non nớt về nghệ
thuật đã giúp ông hiểu mình và ông sớm chuyển hướng. Từ giã vườn
thơ ông đến với cánh đồng văn xuôi, từ chân trời lãng mạn ông đến với
chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo tuy vẫn mang chất trữ tình. Cảnh đời
thường đã có sức thu hút, hấp dẫn mãnh liệt đối với ngòi bút của nhà
văn Tô Hoài. Với hơn sáu mươi năm viết, ông đã để lại cho nền văn học
hiện đại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, hiếm ai trong các nhà văn hiện
đại so sánh được. Hầu như, ở độ tuổi nào ông cũng có tác phẩm. Vương
Trí Nhàn đã từng đánh giá về sức sáng tác của nhà văn Tô Hoài: “Vừa
vào nghề sớm lại vừa kéo dài tuổi nghề, một sự kéo dài đàng hoàng chứ
không phải lê lết trong tẻ nhạt - đời văn Tô Hoài gợi ra hình ảnh một
dòng sông miên man chảy mang trong mình cả cuộc sống bất tận” [32,tr
.180]...
Nói đến thành công trong sáng tác của Tô Hoài là nói đến những
sáng tác cho thiếu nhi đặc biệt là Dế mèn phiêu lưu ký, và những sáng
tác về đề tài miền núi… Nhưng thật là thiếu sót, nếu không nhắc đến
hai thể chân dung và tự truyện. Có thể đánh giá đây là mảng viết đặc
sắc của Tô Hoài. Cho đến bây giờ, người ta đều nhận ra rằng, cái làm
nên giá trị trong văn chương Tô Hoài là hai thể văn này. Với hai thể
chân dung và tự truyện đã cho ta thấy một Tô Hoài không lẫn với ai,
hóm hỉnh, thông minh, và sống hết mình với nghề văn, nghiệp văn. Và
cũng chính với những thể văn này, lần đầu tiên Tô Hoài đã đem lại cho
độc giả hình ảnh một số “nhân vật lớn” của văn chương nước nhà ở

một cự ly gần, và thấy một sự thật về chân dung của các nhà văn.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, chỉ ra những đặc sắc nổi bật, và khẳng
định những đóng góp, những sáng tạo độc đáo của Tô Hoài trong hai thể văn

3


này, là những vấn đề cần thiết và rất nên làm. Bởi nó là một phần tạo nên sức
sáng tạo bền bỉ của nhà văn Tô Hoài.
Cỏ dại (1944), qua Tự truyện (1977), Những gương mặt (1988), đến
Cát bụi chân ai (1992), và Chiều chiều (1999) là những mảng viết đặc
sắc của Tô Hoài về chân dung và tự truyện. Những tác phẩm này đã để
lại cho độc giả ấn tượng về sức viết của Tô Hoài thật mênh mông, đồ
sộ, với một sức trẻ kéo dài. Nghiên cứu hai thể văn chân dung và tự
truyện của Tô Hoài là nghiên cứu những phần đặc sắc, những phần tạo
nên cái riêng trong phong cách sáng tạo của nhà văn.
Tìm hiểu về nhà văn Tô Hoài ta thấy, lâu nay, các nhà nghiên cứu phê
bình văn học đã dành nhiều sức lực, tâm huyết cho những sáng tác có giá trị
của Tô Hoài. Nhưng những công trình coi hai thể chân dung và tự truyện là
đối tượng nghiên cứu chuyên biệt lại chưa được chú trọng. Cho đến nay, đây
vẫn là một khoảng trống. Nhận thấy điều đó, cho nên chúng tôi đã chọn hai
thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài làm đối tượng nghiên cứu cho
luận văn. Dẫu không phải là điểm nóng, nhưng luận văn vẫn muốn đóng góp
thêm một tiếng nói trong việc nghiên cứu tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà
văn Tô Hoài nói chung, và hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài
nói riêng - những thể loại ghi dấu ấn thành công trong sự nghiệp sáng tác của
Tô Hoài, đồng thời dây còn là những thể văn tạo nên cái riêng trong phong
cách sáng tạo của ông.
2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU


Để thực hiện đề tài này, chúng tôi cần phải đọc, tham khảo các tài liệu có
liên quan đến hai thể văn: chân dung và tự truyện của Tô Hoài.
- Toàn bộ sáng tác về mảng đề tài chân dung và tự truyện của nhà
văn Tô Hoài.
-

Đọc tham khảo những tác phẩm chân dung và tự truyện của

một số nhà văn cùng thời.


-

Đọc những bài nghiên cứu, phê bình về những sáng tác của nhà

văn Tô Hoài, đặc biệt là những bài viết về mảng đề tài chân dung và tự
truyện.
-

Đọc và nghiên cứu một số tác phẩm lý luận làm cơ sở lý luận

có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Đương thời, khi xuất hiện, các tác phẩm của Tô Hoài đã được giới nghiên
cứu văn học chú ý. Tìm hiểu những công trình nghiên cứu văn chương Tô
Hoài, chúng tôi thấy các nhà nghiên cứu đã tập trung và hai hướng tiếp cận
chủ yếu: tiếp cận trên góc độ tổng quan và tiếp cận từ các tác phẩm cụ thể. Có
nhiều công trình nghiên cứu về Tô Hoài, nhưng nghiên cứu về hai thể văn
chân dung và tự truyện của ông thì lại có rất ít, chỉ có một vài ý kiến nằm rải

rác trong các công trình nghiên cứu mang tính khái quát, giới thiệu, mà chưa
thực sự đi sâu nghiên cứu chuyên biệt. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ
điểm duyệt những ý kiến có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu hai thể
chân dung và tự truyện của Tô Hoài.
Người đầu tiên nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê
bình Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, quyển IV (1944), khi giới
thiệu về Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan đã đánh giá về phong cách viết tiểu thuyết
của Tô Hoài.
Sau năm 1945, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng công
trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài cũng tăng không ngừng. Những nhà
phê bình có tên tuổi yêu thích văn chương Tô Hoài như : Nguyễn Đăng
Mạnh, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Vân Thanh, Trần Hữu Tá,
Nguyễn Văn Long, Vương Trí Nhàn, Đoàn Trọng Huy, …
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét khái quát về thể văn tự truyện
của Tô Hoài : "Hồi ký, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của
Tô Hoài… Ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết.


Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của
cái tôi ấy" [43]. Trong lời nhận định của mình, giáo sư đã chỉ ra cho độc giả
thấy một trong những điều làm nên sức hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài, đó
chính là " nhân vật trung tâm" - "cái tôi" của tác giả - cái tôi ấy được soi rọi,
được thể hiện một cách trung thực " một cái tôi khôn ngoan, tinh quái, thóc
mách, lọc lõi, rất mực hiểu mình, hiểu người và có đá chút khinh bạc" [43].
Giáo sư Hà Minh Đức trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra
những nét đặc sắc trong nghệ thuật viết tự truyện : "… Hồi ký và tự truyện
của ông kết hợp được dòng kể tự nhiên, xác thực với ý thức phân tích tỉnh táo
các hiện tượng và phần tâm sự của tác giả" [10].
Cùng với hướng phát hiện đó, giáo sư Phong Lê đã khẳng định sức lôi
cuốn, hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài đối với độc giả : "Đọc tự truyện tôi bỗng

ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể viết hay đến thế về mình, để qua
mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế hiểu cả một bầu khí quyển chung cho
bao thế hệ" [32].
Vân Thanh với bài Tô Hoài qua Tự truyện đã nói đến sự đổi mới về tư
tưởng, và phương pháp nghệ thuật tự truyện của Tô Hoài : "Tự truyện được
viết trên cả quá trình 30 năm, có bộ phận nói lên được sự đổi mới của tư
tưởng, phương pháp nghệ thuật của Tô Hoài. Nếu Cỏ dại là hồi tưởng về thời
thơ ấu được viết vào tuổi hai mươi, trước Cách mạng, thì đến…, Những
người thợ cửi, Đi làm, được viết vào tuổi đời năm mươi của nhà văn trong
những năm 70. Điều kỳ lạ là các mảng sống và chi tiết trước đây cũng như
bây giờ, vẫn cứ gần như tươi rói trong ký ức nhà văn" [32].
Phạm Việt Chương trong Những gương mặt - chân dung văn học Tô Hoài
đã từng nhận xét : "Chúng ta gặp lại Tô Hoài, tác giả của những tác phẩm
phiêu lưu kì thú, khi anh viết một loạt tác giả Việt Nam mà bạn đọc hằng yêu
mến. Một điều dễ nhận, Tô Hoài sống, lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình


viết về họ bằng bút pháp tả thực. Hiện thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm.
Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc, anh điểm những câu kết gây cho
người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do anh vừa kể qua…"[32,tr .404].
Đây là những ý kiến đánh giá mang tính chất khái quát nhất và tiêu biểu
nhất về hai thể văn của Tô Hoài : chân dung và tự truyện. Ngoài ra còn rất
nhiều bài viết nghiên cứu, bàn luận xoay quanh những sáng tác chân dung và
tự truyện Tô Hoài của các nhà nghiên cứu như : Vương Trí Nhàn, Trần Hữu
Tá, Võ Xuân Quế, Trần Đình Nam…
Ở Cỏ dại, mặc dù không gây được tiếng vang như tập Tự truyện sau này,
song cũng được đánh dấu bằng ý kiến của nhà báo, nhà nghiên cứu Võ Xuân
Quế : "Mặc dù còn có một vài hạn chế nhất định về tư tưởng, song nó đã vẽ
lên được bức tranh chân thực về một vùng quê ở ngoại thành Hà Nội. Đó là
cảnh sống nghèo khó, khốn khổ cùng cực, những phong tục tập quán cổ hủ

với những tâm tình u uẩn của người thợ thủ công Nghĩa Đô… Tô Hoài đã
miêu tả thành công các mối quan hệ gia đình, bạn bè, trai gái, làng xóm ở
thôn quê" [45].
Khi nghiên cứu về sáng tác của Tô Hoài, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã
đặc biệt chú ý tới mảng hồi kí trong đó có Cỏ dại. Nguyễn Đăng Mạnh đã
khẳng định : "Nghiên cứu Tô Hoài, không thể không đọc Cỏ dại như một tài
liệu cơ bản, vì tác phẩm cho ta biết một cách cụ thể những gì đã tạo nên tâm
hồn ấy, cây bút ấy..." [42,tr .53].
Nhận định trên đã chỉ ra cho độc giả thấy vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng của tác phẩm Cỏ dại đối với sự hình thành tư tưởng và phong cách của
cây bút tài năng Tô Hoài.
Đến Tự truyện (1973), nhà nghiên cứu Vân Thanh đã đánh giá cao và
cho rằng: “Sau Cỏ dại, Trăng thề, Nhà nghèo… những năm 70, Tô Hoài tiếp
tục bổ sung để có Tự truyện như hôm nay. Theo tôi, nói Tô Hoài trong phần


đặc sắc của anh là nói về mảng đề tài miền núi như ta đã thấy, nhưng đến hôm
nay không thể không nói đến phần ký ức tuổi thơ và tuổi thanh niên của
anh… Tôi cho là Tô Hoài đã thực sự đóng góp vào văn học ta mảng sống
buồn bã vật lộn của một thế hệ tuổi thơ - hoặc được nhìn qua cách nhìn trẻ thơ
đề nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ" [32, tr 399, 403].
Cát bụi chân ai (1990) là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại chân dung văn
học của Tô Hoài. Cát bụi chân ai ra đời, gây xôn xao trong dư luận công
chúng, được bàn cãi nhiều, có khen, chê song điều cốt lõi là không ai không
thừa nhận giá trị nội dung và tài năng nghệ thuật của tác giả cuốn sách. Nó
vừa là tác phẩm có giá trị văn học vừa là cuốn tư liệu có giá trị lịch sử bởi đã
dựng lại đời sống tinh thần của một số cây bút lớn cũng như môi trường mà
nhà văn phản ánh trong đó. Nhà văn Xuân Sách từng nhận xét: "Tác phẩm
mang dấu ấn đậm nhất phong cách Tô Hoài - từ văn phong đến con người.
Thâm hậu mà dung dị, thì thầm và không đơn điệu nhàm chán, lan man tí chút

nhưng không kề cà vô vị. Một chút "u mặc" với cái giọng khơi khơi mà nói ai
muốn nghe thì nghe, không bắt buộc, nghe rồi hiểu đừng cật vấn… Và vì
thế… sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân thực"[32,tr.414]. Còn nhà văn Trần Đức
Tiến thì cho rằng : "Bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã cho thế hệ
cầm bút chũng tôi nhìn một số "nhân vật lớn" của văn chương nước nhà từ
một cự li gần... Bây giờ qua Tô Hoài - chúng tôi được nhìn gần : một khoảng
cách khá "tàn nhẫn" nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc"[32, tr .413].
Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét : Hồi ký Cát bụi chân ai "kể chuyện
những nhà văn, những người bạn mà tài năng văn học không ai chối bỏ được
nhưng đồng thời cũng là những con người bình thường với những tính tốt và
tật xấu như mọi người"[4].


Cát bụi chân ai là tác phẩm được bàn cãi nhiều, có người khen kẻ chê,
song cốt lõi không ai không thể không thừa nhận giá tri nội dung và tài năng
nghệ thuật của Tô Hoài. Nhìn chung khi viết tác phẩm này nhà văn đã phát
huy được mặt mạnh sở trường của mình, trước hết đó là nghệ thuật dẫn
truyện. Hà Minh Đức đã nhận xét về mặt ngôn ngữ : "ngôn ngữ người kể
chuyện trong tác phẩm của Tô Hoài linh hoạt và nhiều màu vẻ. Ông chủ động
trong câu chuyện kể kết hợp kể chuyện và miêu tả tạo nên sự diễn biến uyển
chuyển và linh hoạt của mạch truyện"[10]
Những bài viết trên đã trở thành những ý kiến tham khảo rất hữu ích cho
chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Với đề tài Tô Hoài với hai thể văn : chân dung và tự truyện, người viết
mong muốn có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về chân dung và tự truyện - hai
thể văn đặc sắc của Tô Hoài, đồng thời có dịp hiểu rõ hơn cuộc đời cũng như
phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Tô Hoài.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Luận văn nhằm giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:

- Chỉ ra những đặc sắc của thể văn chân dung và tự truyện của Tô
Hoài.
- Khẳng định những đóng góp của Tô Hoài về mảng chân dung
và tự truyện trong quá trình phát triển của nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng tổng hợp các
phương pháp sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp hệ thống, và một số phương pháp khác.


6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Nghiên cứu một cách có hệ thống về những đóng góp của hai thể văn
chân dung và tự truyện của Tô Hoài, qua đó, góp phần tìm hiểu phong cách
văn xuôi Tô Hoài và những đóng góp đặc sắc của ông cho nền văn xuôi Việt
Nam hiện đại.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Toàn bộ luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu
tham khảo được trình bày trong 3 chương:
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI
CHƢƠNG 2: TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC
CHƢƠNG 3: TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN



NỘI DUNG
Chương 1

TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI
1.1. NHÀ VĂN TÔ HOÀI

1.1.1 Tiểu sử và quá trình sáng tác
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại quê ngoại làng Nghĩa
Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ - nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu
Giấy - Hà Nội. Ông sinh ra, lớn lên gắn bó mật thiết lâu dài với nơi đây. Là
con một gia đình nghèo làm nghề dệt lụa thủ công. Tô Hoài chỉ học hết bậc
tiểu học, sau đó phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy học tư, thợ thủ công,
bán hàng, kế toán tiệm buôn…
Tô Hoài đã tự học để trở thành nhà văn. Ông là một nhà văn có nghề
nghiệp vững vàng với sức sáng tạo công phu dẻo dai, bền bỉ. Cũng giống như
Xuân Diệu, Tô Hoài nêu gương sáng về tinh thần “tay siêng làm lụng mắt hay
kiếm tìm”. Bằng sức lao động cần cù hiếm thấy, với hơn 60 năm viết trong
một đời người, cây bút này có những đóng góp đặc sắc trước và cả sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, Tô Hoài tham gia phong trào thanh niên
phản đế. Năm 1943, gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Sau
Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài tham gia phong trào Nam tiến rồi lên Việt
Bắc làm báo Cứu quốc. Từ năm 1951 về công tác ở Hội văn nghệ Việt Nam,
nhưng vẫn thường xuyên đi với bộ đội, tham gia chiến dịch Biên giới, theo bộ
đội chủ lực tiến vào giải phóng Tây Bắc… Sau hòa bình lặp lại, trong Đại hội
nhà văn lần thứ nhất, năm 1957, ông được bầu làm Tổng thư ký của Hội. Từ
năm 1958-1980 ông tiếp tục tham gia Ban chấp hành, rồi Phó Tổng thư ký
của Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1966-1996 Chủ tịch Hội văn nghệ





Nội. Tô Hoài còn tham gia nhiều công tác xã hội khác, đại biểu Quốc hội, Phó
chủ tịch ủy ban đoàn kết Á - Phi, Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Ấn, ủy viên
Ban chấp hành Hội nghị Việt Xô. Năm 1996 Tô Hoài được tặng giải thưởng
Hồ Chí Minh. Phần thưởng cao quý này đã khẳng định một tài năng, một sức
sáng tạo dồi dào phong phú, mang bản sắc dân tộc đậm đà, phong cách riêng
rõ nét của Tô Hoài.
Có thể thấy hiếm có nhà văn nào lại có tuổi đời và tuổi nghề gắn bó với
công việc sáng tạo nghệ thuật - một “công việc bình dị mà cao đẹp” chung
thủy như Tô Hoài. Tính đến nay, Tô Hoài đã có hơn 60 năm cầm bút với số
lượng tác phẩm gấp đôi tuổi đời. Ông là một trong số những những nhà văn
có những thành tựu và đóng góp hết sức to lớn cho sự trưởng thành và phát
triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với sức viết bền bỉ và số lượng tác
phẩm đồ sộ, ta thấy hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được.
Trước Cách mạng tháng Tám, những sáng tác của ông thể hiện một cây
bút sung sức, một sức viết mạnh mẽ, in đậm cảm quan nghệ thuật và giọng
điệu riêng, không lẫn với ai. Những sáng tác trong thời gian này cũng đóng
góp làm nên dấu ấn đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực Việt Nam.
Từ giã vườn thơ lãng mạn đến với cách đồng văn xuôi hiện thực, Tô Hoài
đã dành hết sức và quyết tâm đi vào con đường của chủ nghĩa hiện thực. Với
một thời gian ngắn, “ trong ngoài ba năm viết như chạy thi”[32,tr.19], Tô
Hoài đã để lại một khối lượng lớn các tác phẩm, làm nên một Tô Hoài mang
dấu ấn riêng. Đến với nghề văn thật tự nhiên. Ông được nhận xét là “một nhà
văn xuôi bẩm sinh” (Trần Đình Nam). Truyện Con dế mèn ra đời, đã có sức
chiếm lĩnh đối tượng độc giả rộng lớn, không chỉ có trẻ con mà ngay cả người
lớn cũng rất thích thú khi đọc nó. Với tuổi đời 20, sáng tạo “nhân vật” dế mèn
trong thế giới các sinh vật nhỏ bé, Tô Hoài đã sớm bộ lộ tài năng đột xuất về
nhiều mặt. Đọc Dế mèn, ta thấy, ở Tô Hoài khả năng hóa thân vào sự sống



của vật và đồng thời đưa đến cho thế giới loài vật sự sống của con người. Sự
chung sống, sự hòa trộn, sự chuyển hóa của hai thế giới đã giúp cho bạn đọc
cảm giác mở rộng, nhân đôi các giới hạn sống. Tuổi đời còn rất trẻ nhưng ngòi
bút của Tô Hoài đã xiết bao linh hoạt. Quan sát kỹ lưỡng và tinh tế. Ngôn ngữ
tự nhiên mà giàu có, có sắc thái giọng điệu riêng, tất cả đều rất sắc nét.
Sau Dế mèn…, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng truyện ngắn của mình
trong miêu tả thế giới loài vật, trong tập truyện O chuột (gồm 8 truyện) (1942).
Xuất thân trong một gia đình nghèo, chất nhân văn trở thành yếu tố tự
nhiên căn bản trong văn chương Tô Hoài. Làng Nghĩa Đô - quê ngoại Tô
Hoài đã trở thành mảng đề tài lớn trong những sáng tác của ông. Những
truyện như Nhà nghèo (1942); Giăng thề (1941); Quê người (1942), Xóm
Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944) đều miêu tả vùng quê thân yêu của
nhà văn.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, trước 1945, ngòi bút Tô Hoài đã
hướng tới hai mối quan tâm, hai đối tượng quan sát. Trong “mảnh vườn” hiện
thực ấy, ông đã dệt lên bức tranh muôn màu của cuộc sống chung quanh
mình, nơi một miền quê gần thành thị đã không còn mấy sự yên lành, thơ
mộng và bên cạnh đó ông còn khao khát cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp
khi vẽ lên bức tranh về thế giới loài vật với những ước mơ, tưởng tượng cao
đẹp. Hai đối tượng tưởng như tách nhau, nhưng thực ra chúng lại hội vào
nhau tạo nên một bức tranh hoàn thiện về một thế giới nghệ thuật chung,
mang cảm quan nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Chính vì vậy, khi
nói đến Tô Hoài, người ta nói đến sự thống nhất của thế giới nghệ thuật ấy.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài là một trong số ít cây bút không phải
trăn trở, ngập ngừng nhiều lắm trước trang giấy. Tác phẩm Vỡ tỉnh là tác
phẩm đầu tiên trong thời gian này.


Mảng đề tài thu hút tâm lực Tô Hoài nhiều hơn và ông cũng đạt được

thành công lớn hơn trong giai đoạn này là cuộc sống con người miền núi. Ông
là người đầu tiên đặt viên gạch xây nền cho văn học viết về các dân tộc ít
người. Ông viết về sự chuyển mình, thay da của vùng đất này trong cách
mạng dân tộc dân chủ (Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc…) và trong những
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (Lên Sùng Đô, Nhật ký vùng cao, Miền
Tây…). Viết về miền núi, tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài là Truyện
Tây Bắc. Tập truyện được nhận Giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm
1954-1955. Truyện Tây Bắc gồm 3 tác phẩm: truyện Mường Giơn và hai
truyện ngắn Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A phủ.
Tập truyện miêu tả cuộc đời thống khổ của những người dân miền núi
đưới ách thực dân Pháp và bọn thổ ti lang đạo. Nỗi khổ ấy tập trung vào
người phụ nữ. Nhờ có nhà văn Tô Hoài, người đọc có được kinh nghiệm
sống, biết được cảnh đau khổ của nhân dân miền núi, làm nảy sinh những cảm
xúc thương yêu đối với con người và vùng đất này.
Nếu như Truyện Tây Bắc ghi nhận bước đổi đời quyết định của đồng bào
Tây Bắc trong Cách mạng dân tộc dân chủ thì Miền Tây là một sự đóng góp
tích cực của Tô Hoài trong việc miêu tả những bước đi đầu tiên đầy gian khổ
của vùng đất này lên xã hội chủ nghĩa. Miền Tây được Giải thưởng Hội nhà
văn Á - Phi năm 1972.
Sau Miền Tây, đề tài về vùng cao vẫn còn được Tô Hoài tiếp tục viết:
Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971); Họ Giàng ở Phìn Sa (1984); Nhớ Mai Châu
(1988). Rõ ràng Tô Hoài vẫn mệt mài theo đuổi nó với một kiên nhẫn không
nản mỏi…
Trở về với những miền thân thuộc qua mảng đề tài chân dung và tự
truyện, mảng đề tài Hà Nội - ngoại ô, quê ông vẫn là đề tài chủ yếu trong
những sáng tác của ông. Dẫu đi bất cứ đâu, Hà Nội vẫn cứ đi theo ông, để làm


thành hành trang, làm nên một vóc dáng Tô Hoài, với hình ảnh “Người Hà
Nội - Văn Hà Nội” [32].

Từ Cỏ dại đến Tự truyện (1978) rồi Những gương mặt (1988), đến Cát
bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) là sự tiếp nối liền mạch hồi ức và sự
trở về trọn vẹn của Tô Hoài với những miền thân thuộc, quê hương yêu dấu
của ông.
Tóm lại, toàn bộ sáng tác của Tô Hoài đã có những đóng góp to lớn và
hết sức quan trọng cho sự phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam. Các
tác phẩm của Tô Hoài đưa đến người đọc những hiểu biết thêm về đời sống,
về ngôn ngữ và cũng chính những sáng tác của Tô Hoài mà người ta hiểu hơn
thế nào là văn chương chân chính, đích thực.
1.1.2. Quan niệm về nghề văn và ngƣời viết văn
Quan niệm về nghề văn:
Mọi hành động đều xuất phát từ một tư tưởng, mà mọi tư tưởng đều bắt
đầu từ một quan niệm. Trong Tự truyện Tô Hoài từng kể: “ Bây giờ khi tôi
quyết định lấy nghề viết nuôi thân tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi
cũng không có mục đích gì, đặt ra trước để rồi thành nghề văn và viết
văn”[19,tr.234-235]. Tô Hoài quan niệm viết văn là một nghề - một nghề
kiếm sống như bất cứ nghề nào. Không hão huyền, không viển vông và ảo
tưởng. Ông bước vào làng văn không ngẫu nhiên nhưng cũng không vì mục
đích nổi danh, thoả mãn sĩ diện của kẻ sĩ. Vì thế ông chọn nghề viết văn là
nghề để kiếm sống, cũng thật dễ hiểu bởi nó thật phù hợp và cũng hết sức
chân chính.
Bước vào nghề, Tô Hoài cũng sớm nhận ra hai mặt của một vấn đề. Ông
đã rất vui mừng nhận những đồng tiền nhuận bút đầu tiên song ông cũng ý
thức được rằng nghề viết văn là nghề hết sức nghiêm túc. Ông đã xác định:
“Nghề viết là nghề phải học suốt đời” và “sẽ không thể viết được gì nếu


không có một trình độ tư tưởng và hiểu đời một cách sâu xa” ,và “nếu nhát sợ
nhu nhược, chủ quan, chỉ quanh quẩn gặm nhấm dăm ba suy nghĩ cũ, đã sẵn
trong đầu, không chịu tiếp xúc và nghiên cứu đời sống, không thể thành

cuộc sống, không xứng đáng cầm bút”[23]. Hơn bao giờ hết, Tô Hoài hiểu
được để cho ra đời những sản phẩm có giá trị, người cầm bút phải: “Rèn
luyện đem đến kết quả, đó là công lao của kiên trì, cố gắng, chịu mày mò,
nghe ngóng, tìm kiếm, thu thập, tích trữ mọi mặt vốn liếng, tư tưởng, văn
hoá, nhiệm vụ” [23].
Xuất phát từ quan niệm nghiêm túc, đúng đắn về nghề viết văn, Tô Hoài
đã dành được ưu thế cho mình trên lĩnh vực hoạt động văn học nghệ thuật nói
chung và với hai thể chân dung và tự truyện nói riêng.
Quan niệm về người viết văn:
Tô Hoài quan niệm người viết văn trước hết họ cũng là người - người lao
động, chỉ khác là họ là người lao động nghệ thuật mà thôi. Là người trong
cuộc nên ông hiểu được rất rõ các bạn đồng nghiệp của mình. Ở họ trước hết
cũng là người như bao nhiêu người bình thường khác. Họ cũng có đầy đủ mọi
vẻ đẹp cao quý và không ít những điều bình thường, thậm chí cũng tầm
thường nữa: “Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã
chứ”[22,tr.385]. Chính cái nhìn giản dị mà chân thực ấy đã khiến cho Tô Hoài
không hề giấu giếm về mình khi xây dựng bức chân dung tự hoạ. Ông ghi lại
cả những câu đùa mỉa mai của các bạn đồng nghiệp khi nhận xét về mình.
Không tô điểm, không cần cường điệu, mà ông cứ đem sự thật ra để kể:
“Chúng tôi cũng có đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã
hội, những ích kỉ ganh ghét nhỏ nhen”[17,tr.16]. Đối với Tô Hoài người viết
văn cũng giống như bất cứ người bình thường nào khác.
Tô Hoài không chỉ nhìn thấy ở họ một con người bình thường mà ông còn
thấy ở họ những tâm hồn nghệ sĩ, mỗi người một vẻ, có tài năng khác nhau. Ở


Tô Hoài tài năng nghệ sĩ được ông rất coi trọng, song ông không cho rằng đó
là siêu phàm bởi vì theo ông trong bất cứ nghề nào thì cũng có những người
tài giỏi, chứ không cứ gì nghề viết.
Quan niệm về nghề viết văn và người viết văn như trên đã chi phối toàn

bộ tư tưởng nghệ thuật trong những sáng tác chân dung và tự truyện của Tô
Hoài, góp phần làm nên sức hấp dẫn ở những sáng tác của ông.
VỀ HAI THỂ VĂN CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI

Chân dung văn học của Tô Hoài
Chân dung văn học là một đề tài mới mẻ và khó. Sự xuất hiện và phát
triển của chân dung văn học được coi là một sự thật ngày càng có ý nghĩa
trong đời sống văn học nói chung và trong lịch sử phát triển của phê bình văn
học nói riêng. Nó đã thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác. Sự khởi
sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp đối tượng, và những gương
mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở thành đối tượng chiếm lĩnh của
chân dung văn học.
Chân dung văn học là thể loại khá mới trong tiến trình văn học Việt Nam.
Vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX, nó mới bắt đầu xuất hiện trên diễn
đàn văn học Việt Nam. Còn trước đó, ở thế kỉ XIX, thời kì văn học trung đại
ta chưa thấy xuất hiện thể loại này. Có lẽ là do quan niệm, do lí tưởng thẩm
mĩ của mỗi tầng lớp giai cấp trong mỗi thời đại khác nhau. Lí tưởng thẩm mĩ
của giai cấp phong kiến thiên về vẻ đẹp truyền thống cổ điển, luôn lấy hình
mẫu những con người từ thế kỉ trước khi mà xung quanh những hình mẫu ấy
đã lấp lánh ánh hào quang, được tô vẽ bởi lòng người mến mộ, muốn nâng lên
thành mẫu hình lí tưởng nhằm phục vụ cho giáo lí phong kiến. Đối tượng
phản ánh của họ là những con người đương đại. Sang đến thời cận đại và đặc
biệt là thời hiện đại, lí tưởng thẩm mĩ của người sáng tác đã có sự đổi khác.
Người ta không thoả mãn với hình mẫu xa xưa, người ta muốn ca ngợi, tìm


hiểu, phát hiện cái đẹp ngay trong cuộc sống đời thường. Không chỉ có nhu
cầu thẩm mĩ, người ta còn có nhu cầu giải quyết những vấn đề đầy tính mâu
thuẫn mà thời đại đặt ra, nhu cầu tự đánh giá và tự bộc lộ mình.
Phải chăng vì thế mà đối tượng phản ánh của thời hiện đại không chỉ là

những mẫu hình lí tưởng mà được mở rộng sang cả những người lao động nói
chung và nhà văn nói riêng. Nhà văn cũng là những người lao động - lao động
nghệ thuật. Ở họ cũng tạo ra những sản phẩm có giá trị như một hàng hoá đặc
biệt. Khi nói về họ, cũng có thể nói được cả những điều mang ý nghĩa cuộc
đời, mang hơi thở thời đại, biểu hiện suy tư của người viết một cách dễ dàng
hơn bao giờ hết. Chính họ đã trở thành đối tượng phản ánh của văn học.
Nhiều nhà văn trong quá trình hoạt động sáng tác văn học nghệ thuật, đã tạo
ra được những tác phẩm xuất sắc, họ vươn tới đỉnh cao nghệ thuật như Nam
Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Thế
Lữ, Nguyễn Bính, Xuân Diệu… Những nhà văn nổi tiếng này dễ thu hút độc
giả - người thưởng thức, và thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác.
Sự khởi sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp đối tượng, và những
gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở thành đối tượng chiếm
lĩnh của chân dung văn học.
Đối tượng của thể chân dung văn học không chỉ là những nhà văn mà còn
là những nhà khoa học, các danh nhân văn hoá, những nhà hoạt động xã hội
nổi tiếng… Họ là những nguyên mẫu trong văn học.
Từ góc độ thể loại, lí luận văn học đã xác định chân dung văn học là một
thể loại đặc thù, thuộc về thể loại kí văn học. Đây là thể loại lấy từ nguyên
mẫu đời sống.
Trước khi cầm bút, Tô Hoài đã từng trải qua cuộc sống gian truân vất vả
của một người thợ, một tiểu thị dân lăn lóc trên đường đời. Nhưng chính từ
kho kinh nghiệm sống

ấy, với năng khiếu quan sát, ghi nhớ đặc biệt sắc sảo,


Tô Hoài đã trở thành nhà văn. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, truyện người
lớn, truyện thiếu nhi, chân dung, tự truyện ...
Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài thể loại chân dung văn học

chỉ chiếm một phần nhỏ, song không phải vì thế mà không có ý nghĩa. Ở
những sáng tác này đã hội tụ được cả tài năng nghệ thuật và phong cách đặc
biệt của Tô Hoài.
Từ những năm 1944, Tô Hoài viết Cỏ dại, đây là tác phẩm mà tác giả tự
dựng lên bức chân dung tự họa của mình. Sau đó đến những năm 50, 60 Tô
Hoài bắt đầu viết một số trang mà chúng tôi gọi là một thứ chân dung văn
học. Viết theo lối kí tuỳ bút có lẽ Tô Hoài có ý thức hơn ai hết về thể văn này
nên ông đã đặt tên cho tập sách của mình là Những gương mặt (NXB Tác
phẩm mới.1986). Trong không khí phát triển chung của thể chân dung văn
học, Tô Hoài lại có thêm Cát bụi chân ai (NXB Hội nhà văn. 1992).
Những tác phẩm này của Tô Hoài là những dòng hồi ký chân thực, tỉ mỉ,
trong đó tác giả đã dựng lại cả một đời sống văn học của một thời kỳ lịch sử
và trên cái nền của đời sống văn học ấy, người ta thấy hiện lên chân dung của
những nhà văn lớn, những cây bút lão thành đã quá cố hoặc đang sống, trong
đó có cả chính chân dung tác giả. Đó là cái nhìn của người trong cuộc với bao
diễn biến vui buồn, những băn khoăn trăn trở, những khát khao náo nức,
những gửi gắm lớn lao... Người ta thấy được những dòng tâm sự về mình. Về
những điều đã và chưa làm được, cũng như thấy cả một hồi ức về tuổi thơ
nhọc nhằn vất vả, quá trình khám phá và nhận thức về con người và xã hội...
Song đó không còn là suy tư của nhà văn nữa mà còn là suy nghĩ của cả một
lớp người viết thời đó.
Những tác phẩm chân dung của Tô Hoài đã cho thấy những kỷ niệm trong
đời tư của các nhà văn, quá trình sống và tồn tại của họ, có cả quá trình hình
thành và khao khát viết, những vui buồn trong sự nghiệp văn chương. Viết


chân dung văn học với Tô Hoài là dịp để giãi bày lòng mình, giải phóng cho
một tâm sự để thể hiện rõ hơn một quan niệm sống, quan điểm nghệ thuật mà
ông không muốn trực tiếp bộc lộ dưới dạng kỷ niệm hay “phát biểu ý kiến".
Những nhà văn được dựng chân dung, họ không có cái độc đáo phi thường

của những bậc tài hoa tài tử mà dung dị giữa đời thường, lẫn với mọi người
trong xã hội. Hãy xem bức chân dung Nguyên Hồng mà Tô Hoài đã tạo dựng
trong tác phẩm của mình: “Chúng tôi đã thuộc tính Nguyên Hồng, cạnh chiếc
ba lô con cóc trên lưng, trong cái cặp đúp da bò nâu xỉn giữ gìn từ ngày trước
cách mạng vẫn được tha đi, Nguyên Hồng xếp từng chồng bản thảo, lại còn
lỉnh kỉnh những hộp tiêm, kim tiêm, nhiều thứ thuốc tiêm, thuốc uống. Ai nhờ
tiêm, Nguyên Hồng tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh, đoán bệnh, và bảo người ta
phải để mình tiêm. Như một thầy thuốc thực sự.... Như thế, nhà văn đi đường
lẫn vào đám đông. Cái quần nâu, tấm áo cánh mồ hôi muối ăn đã bạc cả hai
vai, chiếc mũ lá cọ, đôi dép lốp chẳng khác nào với màu sắc, dáng nét của
những người đi chợ, người nghỉ quán hàng, người trên đường”[17,tr.98]. Hình
ảnh Nguyên Hồng được Tô Hoài tạo dựng qua dòng hồi tưởng như một viên
chức bậc trung giữa đường công vụ - như một lão nông về quê sau chuyến đi
xa - một kẻ lang thang suốt đời đi tìm đất mới, đã phản ánh đúng quan niệm
về nhà văn và nghề văn ở Tô Hoài nói riêng và của xã hội hiện nay nói chung.
Quan niệm đó là: “Nhà văn cũng như nghề văn là cao quý, song nhà văn cũng
chính từ cuộc đời này mà ra”, cho nên Tô Hoài không ngần ngại mà đem họ
ra giữa cái bề bộn phức tạp của đời thường mà suy xét, mà tạo dựng nên. Ông
không nói quá cho ai, tô vẽ lý tưởng ai, nhưng cũng không vì thế mà làm mất
đi niềm yêu quý của độc giả đối với các đối tượng mà ông đã tạo dựng. Viết
chân dung văn học - với Tô Hoài - cũng là dịp để ông tự đánh giá về mình.
Không phải là dịp để người viết đề cao hay giới thiệu về mình trước độc giả.


Mà đây là những trang hồi ức hết sức chân thành, biết tự đánh giá lấy mình
tránh sự tô vẽ bịa đặt, nhất là trong những hình ảnh mà tác giả là người duy
nhất tham gia chứng kiến sự việc.
Với Tô Hoài “hồi ký là một cuộc đấu tranh tư tưởng để viết” và trong
“cuộc đấu tranh tư tưởng” ấy, chắc chắn ngòi bút Tô Hoài đã từng có lúc
lưỡng lự “nên viết hay không nên viết”. Song cuối cùng ngòi bút đầy sức

thuyết phục ấy đã chinh phục bạn đọc chính bởi tính chân thực, khách quan
của những dòng hồi tưởng khi nhà văn dựng chân dung.
Đọc chân dung văn học của Tô Hoài, chắc chắn dư luận không thiếu
người khen kẻ chê, song điều mà không ai không thể không thừa nhận là nó
đầy sức hấp dẫn. Cách viết dí dỏm, giọng điệu tinh quái, ngòi bút Tô Hoài đi
sâu vào đời tư vào những chuyện “vụn vặt” của đời tư các nhà văn, những
mối quan hệ giữa người viết và môi trường được phản ánh, những câu chuyện
xoay quanh tác phẩm và dư luận của công chúng được phản ánh rất rõ trong
những tác phẩm chân dung văn học của Tô Hoài.
Rồi đây, khi mà các thế hệ nhà văn lão thành đã đang sắp kết thúc chặng
đường sáng tác của mình và rồi ai cũng vậy, dù không ai muốn đều phải “ra
đi” theo quy luật của tạo hóa, nền văn chương nước nhà sẽ lần lượt vắng bóng
những tên tuổi từng rạng rỡ một thời như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên
Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Ngô Tất Tố… thì những tác phẩm chân
dung văn học, đặc biệt là chân dung văn học của các nhà văn lớn, sẽ là những
tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận và hiểu hơn về giới nhà
văn. Hơn nữa, nó còn là những nguồn tư liệu quý giá, đáng tin cậy để người
nghiên cứu và giảng dạy có thêm kiến thức để bồi đắp cho thế hệ học sinh mai
sau. Chân dung văn học của Tô Hoài cũng vậy. Chắc chắn, cùng với tên tuổi
của tác giả, nó sẽ còn được nhiều thế hệ độc giả say mê, tìm đọc và trân trọng.


Tự truyện của Tô Hoài
Tô Hoài từng quan niệm viết “tự truyện là một cuộc đấu tranh tư tưởng,
nói đúng thì khoa học, làm sai thì tự đề cao hoặc minh oan… tôi thích trong
con người có nhiều hoạt động một lúc, không thần thánh hóa làm gì… Tôi
thích người bình thường và không tả thành người tầm thường”[11].
Tô Hoài sáng tác tự truyện, hồi ký từ rất sớm. Năm 1943, người đọc đã
thấy Tô Hoài có tập Cỏ dại - kể lại quãng đời thơ ấu của mình. Theo ông, dù
là sáng tác theo thể loại nào cũng phải “Nói được sự thật để khiến cho người

đọc cảm xúc từ đó gây suy nghĩ cho họ”[24].
Vì quan niệm viết tự truyện như là một cuộc đấu tranh tư tưởng nên Tô
Hoài coi tự truyện là một trong những thể loại trong đó rất cần đến sự sáng
tạo của người nghệ sỹ. Đó là những trang ghi chép những sự việc đời tư đã lùi
vào quá khứ, song ghi chép ở đây không phải là một bản sao sự việc hay cũng
không giống như chiếc máy ảnh chụp lại cảnh vật y như thật mà “trong khi
viết, khi chép vốn sống của cả một đời người có ảnh hưởng gián tiếp tới lời và
ý ghi, vì thế mới xuất hiện phong cách ghi chép”[23]. Viết tự truyện là nhằm
đáp ứng những yêu cầu của hiện tại bằng những câu chuyện kể lại về đời tư,
về người thật việc thật ngày hôm qua do chính người kể chuyện chứng kiến
và tham gia vào sự việc.
Một người có vốn sống từng trải, phong phú như Tô Hoài mới có khả
năng viết được thành công “từ những hiện tượng vừa vặt vãnh lại vừa tinh tế
ấy, đôi lúc tưởng ngẫu nhiên đến thế mà có sức ngồi dậy trong sáng tạo chỉ vì
nó đã được cái nền sống già dặn từng trải của anh xét duyệt rồi quyết định cho
trở ra sống lại một lần nữa”[23].
Với tự truyện hay hồi ký, Tô Hoài đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò chủ thể
của nhà văn, với ông đó không phải là những ghi chép đơn thuần, bởi vì “khi
viết theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng tạo cũng không cho phép ta


giản đơn. Bao nhiêu công phu và tâm sức bấy lâu quanh những thông cảm và
hiểu biết rộng của chúng ta về những “mẫu” người thật việc thật ấy, nhưng
hiểu được việc thật ấy sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc thể hiện ghi chép
của anh”[23].
Những hồi ức, những kỷ niệm của cả một đời người bao giờ cũng in đậm
trong trí nhớ và theo ta mãi mãi suốt cuộc đời. Với người viết văn lại càng
phải tạo cho mình những tình cảm, những kỷ niệm sâu sắc. Trong nghệ thuật
và phương pháp viết văn, Tô Hoài từng tâm sự: “Một việc, một người, một
nhận xét ở bất cứ quãng sống nào trong đời khi đạt tới mức thật thiết tha thì

có sức nhập vào, sức thúc đẩy (hoặc sức dằn vặt ta) cho ta những suy đi nghĩ
lại liên tiếp - nghĩa là những mầm mống của sự sáng tạo”. Những mầm mống
ấy phải được cất lên từ “hơi thở” từ mồ hôi và máu của cuộc sống.
Xuất phát từ quan niệm đó Tô Hoài đã viết tự truyện. Những tập Cỏ dại,
Tự truyện… là những dòng hồi ức chân thực, tỉ mỉ, trong đó tác giả đã dựng
lại cả một đời sống văn học của một thời kỳ lịch sử và trên cái nền của đời
sống văn học ấy, người ta thấy hiện lên chân dung tác giả với bao buồn vui,
những băn khoăn trăn trở, những khao khát náo nức, những gửi găm lớn lao…
Người ta thấy những dòng tâm sự của tác giả về những điều đã và chưa làm
được, cũng như thấy cả một hồi ức về tuổi thơ nhọc nhằn vất vả, và quá trình
khám phá và nhận thức về con người và xã hội… Song đó không còn là suy
tư của nhà văn nữa mà còn là suy nghĩ của cả một lớp người viết thời đó. Tự
truyện của Tô Hoài cho ta thấy được những kinh nghiệm trong đời tư của nhà
văn, quá trình sống và tồn tại của nhà văn, có cả quá trình từ nhỏ cho đến lúc
trưởng thành với những khao khát, với những buồn vui trong cuộc sống lúc
bấy giờ.
Viết Cỏ dại (1943) Tô Hoài đã viết về quãng đời thơ ấu nhọc nhằn cay
đắng của mình. Trong tác phẩm ông gửi gắm những cảm xúc về một thời đen
tối. Ngay từ khi ra đời, nó đã được dư luận chú ý.


Sau Cỏ dại là tập Tự truyện viết xong năm 1973, in năm 1976, tái bản lần
thứ hai năm 1984 kể về cuộc sống của người thợ thủ công vùng ngoại ô Hà
Nội, kể về những gian truân, vất vả trên con đường đi tìm “miếng cơm manh
áo”, đi tìm lý tưởng, lẽ sống của người thanh niên trong xã hội cũ. Với giọng
điệu trầm buồn, tác giả kể chuyện mình, chuyện gia đình, làng quê và xa hơn
nữa đó chính là hình ảnh cuộc sống ngột ngạt bế tắc trong những năm trước
Cách mạng ở vùng quê của tác giả. Tô Hoài viết Cỏ dại khi ông mới hai mươi
tuổi. Chàng trai trẻ ấy cũng chỉ như bao người bình thường khác, thậm chí
cuộc sống của anh còn cơ cực, thất nghiệp triền miên, phiêu bạt nhiều nơi,

làm đủ mọi để kiếm sống như sau này nhà văn kể lại trong tác phẩm Tự
truyện của mình. Sau nay, Cỏ dại đã được gom chung vào chùm Tự truyện
làm nên vóc dáng con người của nhà văn. Nhà văn tạo được sức hấp dẫn trong
tự truyện là ở những chuyện “vụn vặt, nhem nhọ”. Với việc khai thác cuộc
sống thực - “cái mạch sống của cuộc đời tạp nham”, Tự truyện đã đem đến
cho người đọc hiểu rõ hơn về thời thơ ấu và trưởng thành của Tô Hoài. Hơn
nữa còn hiểu hơn cả một thời đại mà nhà văn đã sống. Nhà văn viết Tự truyện
nhưng không hề che giấu cái nghèo, túng quẫn của cuộc sống quẩn quanh, tù
túng của những người dân làng Nghĩa Đô, và cái nghèo khổ của cả xã hội lúc
bấy giờ. Toàn những chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh đều được hiện lên trong tác
phẩm của nhà văn. Những chuyện đời thường nhưng lại có sức thu hút, hấp
dẫn độc giả, bởi những chuyện nhà văn viết trong Tự truyện chính là chuyện
của họ, viết về họ, viết về những con người bình thường trong cuộc sống. Nhờ
Tô Hoài mà độc giả có cái nhìn rõ hơn về đời sống - những điều tưởng như
hàng ngày ta va chạm nhưng lại chẳng để lại ấn tượng gì, thì khi đọc chùm Tự
truyện của Tô Hoài ta lại thấy cuộc sống quanh ta tuy “vụn vặt, nhọ nhem”
nhưng cũng hết sức thú vị.


Chương 2

TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC
CHUNG QUANH KHÁI NIỆM VỀ CHÂN DUNG VĂN HỌC VÀ
CHÂN DUNG VĂN HỌC CỦA TÔ HOÀI

Khái niệm
Chân dung văn học là “thể loại văn học đặc thù có nhiệm vụ tương tự như
thể loại chân dung trong hội họa và điêu khắc, miêu tả diện mạo của một con
người cụ thể, có thật, sao cho truyền được thần thái sống động của người đó,
phát hiện đặc điểm riêng cá nhân, độc đáo, không lặp lại của một nhân cách

với thế giới tinh thần của nó.
Khác với hồi tưởng, ghi chép về một con người cụ thể, với tư cách là một
thể loại văn học, chân dung văn học miêu tả con người cụ thể với một quan
niệm xác định về nhân cách.
Phương pháp của chân dung văn học là phương pháp của thể kí. Nó không
thiên về cốt truyện.
Nhà văn phát huy sở trường về quan sát, chọn lựa chi tiết, cử chỉ ngôn
luận, kể cả tác phẩm, tư thế hồi tưởng để dựng lại bộ mặt tinh thần của con
người sao cho truyền được thần thái sống động của con người, thường là nhà
văn, nghệ sĩ hoặc các nhà hoạt động nổi tiếng”[15].
Khi dựng chân dung văn học, tài năng của người sáng tạo là cực kì quan
trọng. Không có năng lực quan sát, không có kinh nghiệm sống với vốn hiểu
biết phong phú, không có những tình cảm, xúc cảm chân chính, mạnh mẽ và
cao đẹp thì không thể tạo dựng được thể chân dung văn học. Khi đã không
sống sâu sắc với chính mình thì làm sao hiểu được sâu sắc đời sống tinh thần
của đồng nghiệp, một đối tượng miêu tả hết sức phong phú và phức tạp về
tinh thần, tình cảm.


×