Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG LÔ ĐOẠN CHẢY QUA ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN – TÀI NGUYÊN NƯỚC

ĐỖ THỊ KIỀU TRANG

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG LÔ
ĐOẠN CHẢY QUA ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG
VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC

Chuyên ngành: Thuỷ văn
Mã ngành: D440224

Hà Nội – 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN – TÀI NGUYÊN NƯỚC


ĐỖ THỊ KIỀU TRANG

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG LÔ
ĐOẠN CHẢY QUA ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG
VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC

Chuyên ngành: Thuỷ văn
Mã ngành: D440224

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
THS. LÊ THU TRANG
KS. NGUYỄN HỒNG HẠNH



Hà Nội - 2015


LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của Khoa Khí tượng thuỷ văn và Tài nguyên nước,
Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, với sự hướng dẫn trực tiếp
của thạc sĩ Lê Thu Trang và kỹ sư Nguyễn Hồng Hạnh, em tiến hành thực
hiện đề tài “Đánh giá chất lượng nước sông Lô đoạn chảy qua địa bàn tỉnh
Tuyên Quang và đề xuất các biện pháp quản lý tài nguyên nước”.
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
và chân thành nhất đến THS. Lê Thu Trang và KS Nguyễn Hồng Hạnh, người
đã quan tâm, dìu dắt và tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm đồ án
tốt nghiệp. Đồng thời em xin cảm ơn các vị lãnh đạo và cán bộ Trung tâm Tài
nguyên và Môi trường – Sở Tài nguyên và Môi trường Tuyên Quang, đã giúp
đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành đồ án tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và các thầy cô trường Đại
Học Tài Nguyên Và Môi Trường Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp em hoàn
thành tốt đồ án tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Khí tượng –
Thủy văn và Tài Nguyên nước đã hết lòng truyền đạt cho em những kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tại trường.
Xin gửi lời cảm ơn đến bố mẹ, toàn thể người thân trong gia đình và
bạn bè đã động viên khuyến khích và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập
cũng như hoàn thành đồ án.
Do thời gian có hạn, năng lực còn hạn chế nên bản đồ án không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của quý thầy cô và bạn bè để đồ án tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2015

Sinh viên thực hiện

Đỗ Thị Kiều Trang


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU


DANH MỤC HÌNH


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTNMT

Bộ Tài Nguyên và Môi trường

BOD

Nhu cầu oxy sinh hoá

COD

Nhu cầu oxy hoá học

COLIFORM

Chỉ tiêu vi sinh


DO

Oxy hoà tan

NH4+

Nồng độ Amoni

pH

Chỉ số thể hiện độ axit hay bazơ của nước

PO43-

Phosphat

QCVN

Quy chuẩn Việt Nam

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TSS

Hàm lượng chất rắn lơ lửng



8

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nước là tài nguyên thiên nhiên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết
yếu của sự sống và môi trường. Tài nguyên nước trên thế giới nói chung và ở
Việt Nam nói riêng đang chịu sức ép nặng nề do biến đổi khí hậu, tốc độ gia
tăng dân số, do sự phát triển của các hoạt động kinh tế - xã hội, đời sống của
con người có liên quan đến sử dụng nước và tình trạng ô nhiễm, suy thoái
nguồn nước ngày càng trầm trọng.
Tuyên Quang là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, phía
Bắc giáp với tỉnh Hà Giang, phía Đông Bắc giáp với tỉnh Cao Bằng, phía
Đông giáp với tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên, phía Nam giáp với tỉnh
Vĩnh Phúc, phía Tây Nam giáp với tỉnh Phú Thọ, phía Tây giáp với tỉnh Yên
Bái. Tuyên Quang nằm ở trung tâm của lưu vực sông Lô, sông Gâm chảy qua
tỉnh theo hướng Bắc-Nam và nhập vào song Lô ở phía Tây Bắc huyện Yên
Sơn chỗ giáp ranh giữa 3 xã Phúc Ninh, Thắng Quân và Tân Long.
Tỉnh Tuyên Quang có điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng; có mạng
lưới sông suối khá dày đặc, mật độ bình quân 900 m/km 2. Trong số đó có lưu
vực chính là sông Lô. Tiềm năng nước mặt, nước ngầm dồi dào, chất lượng
nước tốt, đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội
của tỉnh.
Tuyên Quang từ một tỉnh thuần nông đã và đang dần phát triển không
ngừng vươn lên trong vài năm gần đây. Tốc độ tăng trương GDP tăng, cơ cấu
kinh tế đã chuyển đổi theo hướng công nghiệp và dịch vụ, du lịch. Tuy nhiên
việc tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, xã hội luôn tiềm ẩn nguy cơ về ô
nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh
học.
Song song với quá trình phát triển của nền kinh tế-xã hội, tình trạng ô
nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, chất lượng môi trường đất, nước,

không khí đều có dấu hiệu suy giảm. Việc khai thác và sử dụng nguồn nước
ngầm để cấp cho sinh hoạt đang ngày càng không đáp ứng được nhu cầu của
sự phát triển do trữ lượng và chất lượng nước ngầm đang giảm sút. Xu hướng
chuyển từ nguồn nước ngầm sang nước mặt để xử lý cấp cho sản xuất, sinh
hoạt đang diễn ra mạnh mẽ. Tuy nhiên, nguồn nước mặt tại nhiều sông lớn
cũng đang có dấu hiệu suy giảm về chất lượng và mất khả năng tự làm sạch,
do vậy việc duy trì và bảo vệ nguồn nước tại các lưu vực sông là rất cần thiết.


9

Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước
còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên nhân là việc nhận thức chưa đầy
đủ tầm quan trọng của công tác quản lý thăm dò, khai thác, bảo vệ tài nguyên
nước; ý thức chấp hành pháp luật về tài nguyên nước của một bộ phận dân cư,
cơ quan tổ chức còn thấp, nước thải sinh hoạt, bệnh viện, sản xuất công
nghiệp, chăn nuôi… chưa được thu gom, xử lý triệt để. Tình trạng khai thác
nước, xả nước thải vào nguồn nước không tuân thủ các quy định của pháp
luật. Do đó nguồn nước của tỉnh đã có nhiều biểu hiện suy giảm; chất lượng
nước mặt ở một số nơi đã có biểu hiện bị ô nhiễm cục bộ.
Hiện nay, phần lớn lượng nước thải ở Tuyên Quang chưa được xử lý
hoặc chỉ mới được xử lý sơ bộ và thải vào một số hệ thống sông chính. Trong
đó có sông Lô. Vì vậy, nếu không có những ứng xử kịp thời trong công tác
quản lý nguồn nước sông Lô thì nguy cơ nguồn nước tự nhiên này bị nhiễm
bẩn là khó tránh khỏi. Như vậy để đánh giá chất lượng nước sông Lô một
cách trung thực cần tiến hành phân tích diễn biến chất lượng môi trường nước
sông Lô theo các thông số chọn lọc ở một không gian theo tần số nhất định
trong thời điểm một năm một cách có hệ thống, từ đó sẽ thu được được nhiều
số liệu quan trọng đáp ứng cho công tác đánh giá.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn, được sự đồng ý của Khoa Khí

tượng thuỷ văn và Tài nguyên nước, Trường đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội và với sự hướng dẫn trực tiếp của kỹ sư Nguyễn Hồng Hạnh,
tôi thực hiện đề tài “Đánh giá chất lượng nước sông Lô đoạn chảy qua địa
bàn tỉnh Tuyên Quang và đề xuất các biện pháp quản lý tài nguyên nước.”
để thấy được chất lượng nước sông Lô đoạn chảy qua tỉnh Tuyên Quang. Bên
cạnh đó nhằm thống kê, đánh giá hiện trạng chất lượng nước sông Lô; đề xuất
các giải pháp kiểm soát , xử lý khả thi các nguồn nước thải trước khi xả vào
sông Lô, Phục vụ hiệu quả công tác quản lý Tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang là hết sức cấp bách và cần thiết.
2. Ý nghĩa của đề tài
2.1. Ý nghĩa khoa học
-Nâng cao kiến thức và kỹ năng rút ra kinh nghiệm thực tế, vận dụng
nâng cao kiến thức đã học.
-Củng cố được kiến thức cơ sở cũng như kiến thức chuyên ngành, sau
này có điều kiện tốt hơn để phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường.


10

2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá hiện trạng môi trường, xác định những tác động, áp lực gây
ô nhiễm môi trường sông Lô và mức độ ảnh hưởng của chúng.
- Nâng cao nhận thức của người dân về công tác quản lý và bảo vệ môi
trường tại khu vực sinh sống.
- Giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực môi trường đưa ra
các biện pháp quản lý cũng như các dự án phù hợp nhằm kiểm soát cũng như
hạn chế tác động của các nguồn gây ô nhiễm chất lượng nước sông Lô.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nước tại sông Lô đoạn chaỷ qua địa bàn tỉnh
Tuyên Quang.

- Sông Lô: Bắt nguồn từ Vân Nam Trung Quốc chảy qua Hà Giang
xuống Tuyên Quang. Đoạn qua Tuyên Quang dài 145 km, diện tích lưu vực
2.090 km2. Sông Lô có lưu lượng lớn nhất 11.700 m 3/s, nhỏ nhất 128 m3/s;
mực nước cao nhất (tính theo độ cao mới) là 28,64 m (tháng 7/2001), thấp
nhất là 15,43 m (tháng 5/2005). Sông Lô có khả năng cho phương tiện vận tải
lớn lưu thông và đây là tuyến đường thủy quan trọng nối Tuyên Quang với
các tỉnh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng để thực hiện đề tài gồm có:
4.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp là phương pháp phổ biến thường
được dùng trong nghiên cứu một đề tài. Đây là phương pháp tham khảo tài
liệu sẵn có liên quan đến vẫn đề nghiên cứu. Kế thừa các kết quả nghiên cứu
đã có sẵn, thu thập phân tích qua các báo cáo, đề tài nghiên cứu, các báo cáo
đánh giá tác động môi trường. Phương pháp này là phương pháp truyền thống
nhanh và hiệu quả. Với phương pháp này có thể áp dụng nghiên cứu các
thông tin sau:
-Các thông tin điều kiện tự nhiên, đặc điểm dòng chảy, đặc điểm kinh tế
xã hội, sự phát triển các ngành nông, lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ của
tỉnh Tuyên Quang.
-Các số liệu quan trắc, phân tích chất lượng nước sông Lô đoạn chảy
qua địa bàn tỉnh Tuyên Quang (từ năm 2007 – 2011).


11









4.2. Phương pháp tổng hợp so sánh đối chiếu với QCVN08:2008BTNMT
Từ số liệu cùng thu thập được tính toán được tải lượng ô nhiễm so sánh
với QCVN để đưa ra mức độ ô nhiễm môi trường nước, từ đó so sánh và đưa
ra điểm tối ưu có chất lượng nước phù hợp cho việc xử lý cho sinh hoạt.
5. Kết cấu của đề tài
Nội dung đồ án bao gồm:
Mở đầu.
Chương I: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu.
Chương II: Kết quả nghiên cứu.
Chương III: Các biện pháp quản lý tài nguyên nước
Kết luận và kiến nghị.
Tài liệu tham khảo.


12

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số đặc điểm tự nhiên của tỉnh Tuyên Quang
1.1.1. Vị trí địa lý [2]
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, cách thành phố Hà Nội
khoảng 165Km về phía Bắc.


13

Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh Tuyên Quang
Trong toạ độ địa lý tỉnh Tuyên Quang được xác định như sau:

- Từ 21o29’ đến 22o42’ vĩ độ Bắc;
- Từ 104o50’ đến 105o36’ kinh độ Đông;
Ranh giới hành chính của tỉnh Tuyên Quang:
-Phía Bắc và Tây Bắc giáp với tỉnh Hà Giang và tỉnh Cao Bằng
- Phía Nam giáp với tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc
- Phía Đông giáp với tỉnh Bắc Cạn và tỉnh Thái Nguyên
- Phía Tây giáp với tỉnh Yên Bái
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 586.733 ha, chiếm 1,77 % diện tích của
cả nước (là tỉnh có diện tích tự nhiên lớn thứ 24 so với cả nước và lớn thứ 7
trong tổng số 11 tỉnh thuộc Trung du và miền núi phía Bắc), gồm 7 đơn vị
hành chính cấp huyện (Lâm Bình, Na Hang, Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn
và Thành phố Tuyên Quang) với 141 đơn vị hành chính cấp xã (129 xã, 07
phường và 5 thị trấn), trong đó có 103 xã thuộc vùng khó khăn.
Khoảng cách giữa thủ đô Hà Nội với thị xã Tuyên Quang là 165km.
Theo chiều Đông - Tây, Tuyên Quang cũng có điều kiện trao đổi kinh tế với
một số tỉnh thuộc vùng núi Bắc Bộ, trước hết là với Yên Bái, Thái Nguyên,
Bắc Kạn…
Tuy nhiên, vị trí địa lí cũng tạo ra những khó khăn đáng kể. Đây là một
tỉnh miền núi, lại nằm sâu trong nội địa, hơn nữa, nền kinh tế nhìn chung còn
chậm phát triển, kết cấu hạ tầng lại thấp kém; việc giao lưu trao đổi hàng hoá
với các tỉnh chủ yếu trông cậy vào đường ô tô và một phần đường sông.
Tuyên Quang chưa có đường sắt, đường hàng không…Nên việc trao đổi hàng
hoá, liên kết kinh tế với các tỉnh khác còn gặp nhiều hạn chế.
1.1.2. Địa hình, địa mạo [3]
1.1.2.1. Địa hình
Tỉnh Tuyên Quang có địa hình tương đối đa dạng và phức tạp, bị chia
cắt bởi nhiều dãy núi cao, với trên 70% diện tích là núi đồi. Phần lớn địa hình
có hướng nghiêng từ Bắc-Tây Bắc xuống Nam-Đông Nam. Các dãy núi chính
cũng chạy theo hướng này và có cấu trúc vòng cung rõ rệt, nhưng không kéo
dài liên tục mà bị chia cắt thành những khối rời rạc. Trên địa bàn tỉnh có 5

kiểu địa hình như sau: địa hình núi trung bình (cao 700-1500m), địa hình núi
thấp (cao 300-700m), địa hình đồi thấp (cao dưới 300m), địa hình karst và địa
hình thung lũng.
Sự chênh lệch độ cao địa hình giữa các vùng trong tỉnh khá lớn: nơi cao
nhất là đỉnh Cham Chu (huyện Hàm Yên) với độ cao tuyệt đối là 1.580m, nơi


14

thấp nhất ở phía Nam huyện Sơn Dương với độ cao chỉ từ 23-24m so với mực
nước biển.
Có thể chia Tuyên Quang thành 3 vùng địa hình sau:
- Vùng núi phía Bắc tỉnh gồm các huyện Na Hang, Chiêm Hoá, Hàm
Yên và phía Bắc huyện Yên Sơn, độ cao phổ biến từ 200 – 600 m và giảm
dần xuống phía Nam, độ dốc trung bình 250
- Vùng đồi núi giữa tỉnh gồm: phía Nam huyện Yên Sơn, thị xã Tuyên
Quang và phía Bắc huyện Sơn Dương, độ cao trung bình dưới 500 m và
hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, độ dốc thấp dần dưới 250.
- Vùng đồi núi phía Nam tỉnh là vùng thuộc phía Nam huyện Sơn
Dương, mang đặc điểm địa hình trung du.
1.1.2.2. Địa mạo
Độ dốc địa hình của tỉnh được phân chia thành 4 vùng: vùng có độ dốc
nhỏ hơn 8ochiếm 14,19% tổng diện tích toàn vùng; vùng có độ dốc
8÷15ochiếm 34,57%; vùng có độ dốc 15÷25 ochiếm 26,18%, và vùng có độ
dốc lớn hơn 25o chiếm 20,90%.
1.1.3. Khí tượng, thuỷ văn [12]
1.1.3.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ không khí có ảnh hưởng đến sự lan truyền và chuyển hoá các
chất ô nhiễm trong không khí gần mặt đất hoặc nguồn nước. Nhiệt độ không
khí càng cao thì tác động độc tố lan truyền và chuyển hoá các chất ô nhiễm

trong môi trường càng lớn.
Bảng 1: Nhiệt độ trung bình tỉnh Tuyên Quang
Đơn vị: oC
Tháng
I

II

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

16.1
15.1

14.7
17.8
12.5

22.2
13.7
22.1
20.3
17.6

21.5
21.3
20.7
21.8
16.9

23.1
24.7
24.4
23.4
23.4

26.6
27.0
26.4
28.0
26.4

29.7
28.3

28.7
29.1
29.0

29.4
28.7
28.4
29.4
29.2

28.4
28.6
28.7
27.8
28.4

26.6
27.9
27.6
27.7
27.0

25.0
25.8
25.6
24.5
23.9

19.8
20.4

20.0
20.0
22.2

19.6
17.2
18.9
18.0
16.5

Năm
2007
2008
2009
2010
2011

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang năm 1010 và năm 1011)


15

Tuyên Quang mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có hai
mùa rõ rệt: mùa đông lạnh – khô hanh; mùa hè nóng ẩm mưa nhiều.
Nhiệt độ trung bình năm ở tỉnh Tuyên Quang dao động từ
22,23÷24,84oC. Biên độ dao động nhiệt độ trung bình nhiều năm từ
11,80÷13,60oC. Nhiệt độ bình quân tháng thấp nhất là tháng I, Cao nhất là các
tháng VI, VII và tháng VIII.
Do có sự chi phối giữa gió mùa và địa hình nên mùa đông ở vùng núi
thấp chỉ tương đối rét, mùa hạ tương đối nóng; ở vùng cao, mùa đông rét

buốt.
1.1.3.2. Chế độ nắng
Tổng số giờ nắng trung bình năm trên toàn tỉnh Tuyên Quang là khoảng
1.425 giờ/năm. Trong đó từ tháng V đến tháng XI là thời gian có nắng nhiều
nhất, đạt khoảng 106-238 giờ/tháng; từ tháng XII đến tháng IV năm sau là
thời gian có nắng ít, khoảng 26-202 giờ/tháng.
Bảng 2: Số giờ nắng tỉnh Tuyên Quang
Đơn vị: Giờ
Tháng
Năm
2007
2008
2009
2010
2011

I

II

III

IV

V

VI

VII


VIII

IX

X

XI

XII

56.5
60.7
82.1
52.5
99.8

81.5
27.1
74.6
118.8
31.3

27.8
61.8
55.3
69.8
27.2

79.3
69.4

100.4
56.3
70.1

163.8
145.8
138.7
133.5
169.6

202.3
117.4
180.2
138.7
152.9

173.1
151.8
161.9
195.9
198.8

167.4
143.1
232.9
161.3
208.4

148.4
169.4

235.5
160.7
144.4

113.4
113.3
132.7
108.0
108.1

178.3
135.6
120.1
116.2
145.7

143.3
81.0
72.7
66.8
96.9

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang năm 1010 và năm 1011)

1.1.3.3. Độ ẩm không khí
Độ ẩm không khí trung bình năm 82-86%. Trong đó ở vùng núi cao và
vùng phía Bắc của tỉnh, độ ẩm trung bình năm thay đổi từ 86-88%; ở vùng núi
thấp và vùng phía Nam, độ ẩm trung bình hang năm thay đổi 81-84%.
Bảng 3: Độ ẩm tỉnh Tuyên Quang
Đơn vị: %

Tháng
I

II

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

77
82
81
83
80


80
78
84
79
83

87
82
84
78
84

83
84
85
85
84

80
80
83
84
82

78
82
82
83
83


82
82
86
83
83

85
84
84
87
83

84
84
84
86
85

83
85
84
83
84

78
83
78
85
84


83
81
78
86
75

Năm
2007
2008
2009
2010
2011

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang năm 1010 và năm 1011)

1.1.3.4. Chế độ mưa
Lượng mưa trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang rất phong phú, phân bố và
biến động theo không gian và thời gian, phù hợp với địa hình địa phương và


16

hoàn lưu gió mùa ở miền Bắc nước ta. Chế độ mưa ở Tuyên Quang bị phân
hoá thành hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng V đến
tháng X, mùa khô từ tháng XI đến tháng IV năm sau.
Bảng 4: Lượng mưa tỉnh Tuyên Quang
Đơn vị: mm
Tháng
Năm

2007
2008
2009
2010
2011

I

II

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII


2
20
9
111
12.9

32
44
15
3
12.0

17
78
18
27
115.1

123
101
151
201
57.4

287
167
271
199
235.9


164
132
321
230
180.2

130
210
346
181
207.2

174
365
182
221
224.5

208
264
128
214
262.5

20
187
37
43
87.9


14
157
9
24
35.1

22
6
14
92
24.7

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang năm 1010 và năm 1011.)

Lượng mưa nhiều năm tại Tuyên Quang biến động từ 1.256÷1.697mm,
trung bình 1.488mm. Mùa mưa với tổng lượng mưa từ 994÷1.444mm, chiếm
73,2÷85,8% lượng mưa năm; mùa khô với tổng lượng mưa từ 221÷493m, chỉ
chiếm 14,4÷30,6% lượng mưa năm.
1.1.3.5.Bốc hơi
Lượng bốc hơi trung bình năm biến động từ 430÷1.256mm. Vào mùa
mưa, lượng bốc hơi trung bình tháng thay đổi từ 595÷2.356mm, vào mùa khô
từ 430÷1.047mm.
Bảng 5: Lượng bốc hơi tỉnh Tuyên Quang
Đơn vị: mm
Tháng
Năm
2007
2008
2009
2010

2011

I

II

III

IV

V

VI

VII

VIII

75
62
48
48
51

44
84
43
54
71


55
61
54
56
76

105
74
56
65
56

103
96
83
73
85

112
116
75
76
77

86
89
80
59
85


60
65
67
60
57

IX

X

XI

XII

96
65
65
75
56

84
66
60
61
60

94
71
60
87

51

66
51
57
72
42

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang năm 1010 và năm 1011)

1.1.3.6. Chế độ gió
Về hướng gió: do ảnh hưởng của gió mùa cùng với địa hình bị phân cắt
mạnh nên tần suất hướng gió ở các nơi trong tỉnh rất khác nhau.Trong các
thung lũng, Hướng gió thường trùng với hướng thung lũng. Ở những vùng
đồng bằng hoặc nhiều núi cao, hướng gió thịnh hành thường phù hợp với
hướng gió chính trong mùa. Vào mùa đông, hướng gió thịnh hành là gió Đông
Bắc; vào mùa hè tần suất xuất hiện gió Đông Bắc giảm và chuyển dần sang
gió Đông Nam hoặc Nam.
Về tốc độ gió: tần suất lặng gió nhỏ, khả năng xảy ra tốc độ gió lớn cao đặc
biệt là ở các vùng núi cao như Lâm Bình, Na Hang, Chiêm Hoá, Hàm Yên.


17

Tốc độ gió trung bình toàn tỉnh khoảng 1,3m/s.
1.1.3.7. Thuỷ văn
* Mạng lưới thuỷ văn
Tuyên Quang là tỉnh có mật độ sông suối cao (khoảng 0,9km/km2).
Chế độ thuỷ văn trên địa bàn tỉnh chia làm hai mùa rõ rệt, phù hợp với
hai mùa của khí hậu. Mùa lũ tập trung tới 80% tổng lượng nước trong năm và

thường gây ra ngập lụt ở một số vùng.
Trên địa bàn tỉnh có 3 con sông lớn chảy qua, đó là: sông Lô, sông Gâm
và sông Phó Đáy.
Trong đó sông Lô được bắt nguồn từ Trung Quốc vào Việt Nam nhập
vào sông Hồng ở Việt Trì, dài 470km, diện tích lưu vực là 39.000 km 2 (phần
Việt Nam có diện tích 22.600 km2.
Ở Việt Nam, sông Lô dài 270 km, ít dốc. Đoạn sông Lô chảy trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang có chiều dài 145 km với diện tích lưu vực khoảng
2.090 km2, bao gồm cả trung và hạ lưu sông. Tại khe Lau sông Lô tiếp nhận
nguồn nước của sông Gâm với lượng nước chiếm xấp xỉ 35% tổng lượng
nước của lưu vực sông Lô nên đây cũng là nguyên nhân chính gay ra hiện
tượng thường xuyên bị ngập úng ở Tuyên Quang trước đây.
Sông Lô có lưu lượng lớn nhất khoảng 14.200 m 3/s (đỉnh lũ năm 1971),
lưu lượng nhỏ nhất 80,7 m3/s (tham khảo số liệu quan trắc của tram thuỷ văn
Ghềnh Gà), trung bình khoảng 2000 m3/s; mực nước cao nhất (tính theo độ
cao mới) là 28,64 m; thấp nhất là 14,97 m. Sông Lô có khả năng cho phương
tiện vận tải lớn lưu thông và đây là tuyến đường thuỷ quan trọng nối liền tỉnh
Tuyên Quang với các tỉnh khác.
Nhìn chung, Tuyên Quang là tỉnh có nguồn tài nguyên nước mặt phong
phú, đủ khả năng cung cấp nước sinh hoạt và phục vụ sản xuất của địa
phương. Mạng lưới sông ngòi của tỉnh rất dày, có tiềm năng lớn về thuỷ điện.
Tuy nhiên, do độ dốc dòng chảy lớn, lòng sông hẹp nên vào mùa mưa, sông
suối ở Tuyên Quang hay gây lũ lụt cho các vùng thấp hơn.


18

*Dòng chảy năm
Dòng chảy năm ở Tuyên Quang có xu thế giảm dần từ Tây sang Đông,
nhưng mức độ chênh lệch không lớn.

Dòng chảy sông Lô và các sông nhánh biến động rất lớn. Do vị trí nằm
gần tâm mưa của huyện Bắc Quang (tỉnh Hà Giang) nên lượng mưa năm
nhiều, lớp dòng chảy dồi dào.
*Phân phối dòng chảy năm
-Dòng chảy lũ:
Ở Tuyên Quang, nước lũ tập trung nhanh, lên xuống đột ngột. Mùa
mưa bắt đầu từ tháng V và kéo dài đến hết tháng IX. Những tháng mùa mưa
đều có khả năng sinh lũ; trong đó tập trung nhất vào các tháng VI, VII và
VIII. Đặc biệt là tháng VIII thường có lượng mưa lớn nhất, chiếm khoảng
18% tổng lượng mưa cả năm.
Lũ trên các sông suối nhỏ xuất hiện ngay sau khi mưa chỉ một vài giờ.
Nghĩa là quan hệ mưa và dòng chảy khá chặt chẽ.
-Dòng chảy cạn:
Mùa cạn ở Tuyên Quang bắt đầu từ tháng X-XI đến hết tháng IV-V
năm sau. Dòng chảy kiệt thường có 3 thời kì: thời kì đầu mùa cạn, cạn ổn
định và cuối mùa cạn. Trong đó giai đoạn đầu và giai đoạn cuối mùa cạn dòng
chảy dao động mạnh nhất mang tính chất chuyển tiếp từ mùa lũ sang mùa kiệt
và từ mừa kiệt sang mùa lũ.
1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.2.1. Dân số và lao động
Theo số liệu thống kê năm 2010, dân số trung bình của tỉnh có 730.690
người, chiếm 0,85 % dân số của cả nước và 6,54 % dân số của vùng Trung du
và miền núi phía Bắc (là tỉnh có dân số lớn thứ 7 của vùng). Mật độ dân số
của tỉnh là 124 người/km2, bằng 47,15 % mật độ dân số của cả nước và
105,98 % mật độ dân số của vùng. Dân số của tỉnh phân bố không đồng đều
theo đơn vị hành chính. Huyện Sơn Dương có dân số lớn nhất với 172.628
người, chiếm 23,63 % dân số của cả tỉnh; huyện Na Hang có dân số thấp nhất
với 60.532 người, chiếm 7,95 % dân số của cả tỉnh. Thành phố Tuyên Quang
có mật độ dân số cao nhất với 764 người/km2, cao gấp 6,16 lần mật độ dân số
chung của cả tỉnh; huyện Na Hang có mật độ dân số thấp nhất, chỉ 41

người/km2, bằng 33,06 % mật độ dân số chung của cả tỉnh.


19

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên có biến động không ổn định trong những năm
qua: Năm 2008 là 1,13 %; năm 2009 là 1,33 %, đến năm 2010 là 1,08 %. Trên
địa bàn tỉnh có 22 dân tộc anh em sinh sống; trong đó dân tộc Kinh chiếm tỷ
lệ lớn nhất (48,21 %). Các dân tộc ít người chiếm 51,79 % (Tày chiếm 25,45
%, Dao 11,38 %, Sán Cháy 8 %, H’Mông 2,2 %, Nùng 1,9 %, Sán Dìu 1,6
%...). Các dân tộc H’Mông, Sán Chay, Pà Thẻn... thường sinh sống ở các
vùng cao, vùng xa nên đời sống kinh tế- xã hội còn nhiều khó khăn.
Đến năm 2010, tổng số lao động của toàn tỉnh là 410.080 người, tăng
gấp 1,06 lần so với năm 2005, trong đó chủ yếu là lao động khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước với 377.560 người, chiếm tỷ lệ 92,07 %. Lực lượng lao động
trong tỉnh là rất lớn nhưng chất lượng thấp, chỉ có khoảng 15 % số lao động
đã qua đào tạo. Lao động ở lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp là chủ yếu và
hầu hết chưa qua đào tạo.
1.2.2 Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong giai đoạn 2005 – 2010, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của
tỉnh là 13,53 %. Trong đó GDP bình quân đầu người theo giá trị hiện hành
tăng từ 4,8 triệu đồng năm 2005 tăng lên 14,5 triệu đồng năm 2010.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có bước chuyển
dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với phát triển công nghiệp
chế biến và nhu cầu của thị trường, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế
của cả nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn
2005- 2010, cơ cấu kinh tế ngành chuyển biến tích cực. Tỷ trọng công nghiệp
và xây dựng tăng nhanh, bình quân 2,5 %/năm. Tỷ trọng kinh tế khu vực nông
nghiệp giảm mạnh, bình quân 2,69 %/năm. Khu vực kinh tế nông nghiệp
giảm từ 39,36 % năm 2005 xuống 37,13 % vào năm 2010.

DGP bình quân đầu người theo giá trị hiện hành tăng từ 4,8 triệu đồng
(năm 2005) tăng lên 18,4 triệu đồng (năm 2011).
-Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Kinh tế nông nghiệp giảm từ 39,36% (năm 2005) xuống 37,47% (năm
2011).
Kinh tế công nghiệp-xây dựng tăng từ 21,44% (năm 2005) lên 25,10%
(năm 2011) và ổn định từ năm 2008 đến năm 2011 ở mức 22,07-22,55%
Kinh tế dịch vụ tăng nhanh từ 35,54% (năm 2005) lên 39,98% (năm
2011).
Tuy vậy, chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng khu vực kinh tế còn
chậm, như chăn nuôi và lâm nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng hiện có,
công nghiệp chế biến lâm sản chưa phát triển.


20

Nhìn chung trong những năm qua, tình hình xã hội tỉnh Tuyên Quang
rất ổn định, kinh tế phát triển. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng. Việc tăng
trưởng mạnh của nền kinh tế luôn kéo theo sự gia tăng ô nhiễm môi trường
bởi các chất thải, nhất là nước thải, rác thải rắn và khí thải. Vì vậy việc phân
tích các thành phần môi trường đất, nước, không khí; đánh giá, giám sát chặt
chẽ sự biến động của chúng theo thời gian, không gian cụ thể để phục vụ công
tác quản lý, bảo vệ môi trường cũng như dự báo, cảnh báo các tác động của
môi trường đến toàn bộ nền kinh tế- xã hội của tỉnh là việc làm rất cần thiết.


21

CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về nước

2.1.1. Hiện trạng sử dụng tài nguyên nước trên thế giới
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nước đáp ứng các nhu cầu
của cuộc sống, sinh hoạt, hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng,
giao thông vận tải…Tài nguyên nước trên thế giới có trữ lượng khoảng 1,45
tỷ km3 trong đó trữ lượng nước sông là 12.000 km 3 chiếm khoảng 0,001%
tổng lượng nước.
Đây là nguồn nước chính phục vụ cho nhu cầu của con người. Do vậy nó
đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống, sự phát triển của mọi quốc
gia trên thế giới. Nhưng ngày nay nguồn nước đang bị đe dọa nghiêm trọng,
ngày càng ô nhiễm làm ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, sức khỏe, sự phát
triển của nhân loại.
Các dòng sông ngoài việc cung cấp nước cho mục đích sản xuất, sinh
hoạt, khai thác các nguồn lợi sẵn có thì bên cạnh đó nó cũng là nơi tiếp nhận
một khối lượng chất thải rất lớn từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp. Tốc độ ô nhiễm nước phản ảnh trung thực sự phát triển tiến bộ của
khoa học kỹ thuật.
Do dân số trên trái đất ngày càng tăng nhanh đã gây áp lưc lớn đến tài
nguyên nước trên hành trinh, con người ngày càng xả nhiều chất thải độc hại
và chưa có biện pháp xử lý và quản lý triệt để nguồn nước thải dẫn đến chất
lượng nước ngày càng suy giảm. Hầu hết các hoạt động của con người đều
ảnh hưởng đến chất lượng nước.
Việc xử lý nước thải là một vấn đề rất khó khăn, tốn nhiều thời gian và
tiền của. Ở các nước phát triển, ước tính có khoảng 90% nước thải được đổ
trực tiếp vào song, hồ mà chưa qua bất kỳ biện pháp xử lý nào hoặc có biện
pháp xử lý nhưng không triệt để đã gây ra nhiều ảnh hưởng đến môi trường
nước.
Bên cạnh đó, chất lượng nước sông tại các quốc gia ở khu vực châu Phi
cũng không có tín hiệu khả quan. Hầu hết nước từ các song, suối, ao, hồ và
thủy vực đã khan hiếm nay lại chịu tác động từ nước thải của các hoạt động
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt nên đã bị suy giảm đáng kể cả

về chất lượng và số lượng. [4]
Trong khi đó, tại Trung Quốc, hầu hết các kênh rạch, sông và hồ đang bị
ô nhiễm từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt. Kết


22

quả là nguồn nước của nhiều thành phố và khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng
gây ảnh hưởng đến sức khỏe và hoạt động sống của con người.[21]
Tại Thái Lan tình hình ô nhiễm môi trường nước ở nhiều khu vực cũng
đang trong tình trạng tương tự. Theo kết quả nghiên cứu của Thares Srisatit và
cộng sự cho thấy tại Bangkok môi trường nước tại các khu công nghiệp đang
trong tình trạng báo động. Trong 30 mẫu phân tích thì có đến 27 mẫu cho thấy
các chỉ tiêu BOD5, COD, N tổng vượt tiêu chuẩn cho phép từ 4-6 lần, trong
đó có một số chỉ tiêu như Pb, As vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 7-8 lần. [5]
Hiện nay, sông Hằng là một trong những con sông bị ô nhiễm nhất trên
thế giới vì bị ảnh hưởng nặng nề bởi nền công nghiệp hóa chất, rác thải công
nghiệp và rác thải sinh hoạt chưa qua xử lý tới mức những người mộ đạo
trước kia tôn thờ nguồn nước sông này giờ đây lại trở nên khiếp sợ chính
nguồn nước đó. Chất lượng nước đang trở nên xấu đi nghiêm trọng. [5]
Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng, chất lượng nước tại nhiều con sông
lớn trên thế giới bị ô nhiễm khá nghiêm trọng, hàng ngày hàng giờ phải hứng
chịu các nguồn ô nhiễm khác nhau. Do đó, việc cần làm trước tiên là phải tiến
hành đánh giá, kiểm tra, quan trắc hệ thống sông, để xác định được cụ thể
thành phần của nguồn nước thải gây ô nhiễm, xác định được mức độ ảnh
hưởng của chúng, đồng thời đề xuất những biện pháp nhằm hạn chế sự tác
động tiêu cực đến chất lượng nước sông, nâng cao khả năng cung cấp nước
phục vụ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của con người.
2.1.2.Hiện trạng sử dụng tài nguyên nước tại Việt Nam
Tại Việt Nam, cùng với quá trình gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa,

công nghiệp hóa nên việc sử dụng nước ngày càng tăng cao. Trong khi đó,
quá trình xử lý nước chưa được hiệu quả và vấn đề xử lý các vi phạm lỏng
lẻo, thiếu đồng bộ. Vì vậy, chất lượng nước tại nhiều thủy vực, nhiều con
sông đang xuống cấp nghiêm trọng, nhiều nơi ô nhiễm cục bộ và trong tình
trạng đáng báo động.
Việt Nam có tài nguyên nước khá phong phú, có hơn 2.360 con sông lớn
hơn 10km trong đó có 9 hệ thống sông có diện tích và lưu vực từ 10000 km 2
trở lên.
Phần lớn sông ngòi nước ta đều là nước ngọt, vừa cung cấp nước phục
vụ sinh hoạt của con người, vừa phục vụ cho ngành sản xuất khác. Tuy nhiên,
nước ngọt là nguồn tài nguyên hạn chế và dễ bị suy thoái, nước ngọt rất cần
thiết cho sự sống, phát triển của con người, sinh vật và môi trường.
Nước ta có nền công nghiệp chưa phát triển mạnh, các khu công nghiệp
và đô thị chưa đông lắm nhưng tình trạng ô nhiễm nước đã xảy ra ở nhiều nơi


23

với mức độ nghiêm trọng khác nhau. Nông nghiệp là nghành sử dụng nhiều
nước nhất dùng tưới lúa và hoa màu, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long
và đồng bằng Sông Hồng. Việc sử dụng nông dược và phân bón hóa học càng
góp phần ô nhiễm môi trường nông thôn. Công nghiệp là ngành làm ô nhiễm
nước nhiều nhất. Mỗi ngành có một loại nước thải khác nhau dẫn tới mối khu
vực có mức độ ô nhiễm khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên xả nước
thải vào sông Cầu khiến cho nước sông có màu đen, mặt nước sủi bọt trên
chiều dài hàng chục cây số. Khu công nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn
m3 nước thải của nhà máy hóa chất, thuốc trừ sâu, giấy, dệt…xuống sông
Hồng làm nước sông bị ô nhiễm đáng kể. Khu công nghiệp Biên Hòa, thành
phố Hồ Chí Minh tạo ra nguồn nước thải từ công nghiệp và sinh hoạt rất lớn,
làm nhiễm bẩn tất cả các sông rạch ở đây và cả vùng phụ cận. Nước dùng cho

sinh hoạt của dân cư ngày càng tăng nhanh do dân số tăng nhanh và tốc độ đô
thị hóa nhanh. Nước cống từ nước thải sinh hoạt cùng với nước thải của các
cơ sở thủ công nghiệp trong khu dân cư là đặc trưng ô nhiễm của các đô thị
nước ta. Điều đáng nói là các loại nước thải đều được thải trực tiếp ra môi
trường, chưa qua xử lý, vì ở nước ta chưa có hệ thống xử lý nào đúng nghĩa
như tên gọi.
Theo thống kê, khu vực miền Bắc có hai hệ thống sông chính là sông
Hồng và sông Thái Bình, khu vực miền Trung có hai con sông lớn là sông Mã
và sông Cả, trong khi đó tại miền Nam có hệ thống sông Đồng Nai và sông
Cửu Long là các dòng sông chính. Tuy nhiên, trong những năm qua, quá trình
khai thác và xả thải của con người chưa hợp lý nên đã gây ra những tác động
đáng kể đến chất lượng nước tại các hệ thống sông trên.
Nhìn chung chất lượng nước ở thượng lưu các con sông còn khá tốt,
nhưng vùng hạ lưu phần lớn đã bị ô nhiễm, có nơi ở mức nghiêm trọng.
Nguyên nhân là do nước thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nước thải
sinh hoạt không được xử lý đã và đang thải trực tiếp ra các dòng sông. Chất
lượng nước suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu như BOD, COD, NH4, tổng N,
tổng P cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.
- Sông Đồng Nai: Vùng hạ lưu (tính từ sau hồ Trị An đến điểm hợp lưu với
sông Sài Gòn), ô nhiễm hữu cơ chưa cao (DO = 4 -6 mg/l, BOD = 4 - 8 mg/l)
nhưng hầu như không đạt TCVN đối với nguồn loại A. Ô nhiễm vi sinh và
dầu mỡ rõ rệt, ô nhiễm kim loại nặng, phenol, … chưa vượt tiêu chuẩn, nhiễm
mặn không xảy ra từ Long Bình đến thượng lưu. Vùng thượng lưu nước có
chất lượng tốt, trừ khu vực thành phố Đà Lạt đã bị ô nhiễm nặng do hàm


24

lượng cao của các chất hữu cơ, dinh dưỡng, vi sinh. Khả năng tự làm sạch của
sông Đồng Nai khá tốt .

- Sông Sài Gòn: Mức độ ô nhiễm là nghiêm trọng cả về hữu cơ (DO =
1,5 - 5,5 mg/l; BOD = 10 - 30 mg/l), dầu mỡ, vi sinh, không có điểm nào đạt
TCVN đối với nguồn loại A. Ô nhiễm cao nhất là ở vùng sông chảy qua trung
tâm TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra, sông Sài Gòn còn bị axit hoá nặng do nước
phèn ở đoạn Hóc Môn - Củ Chi (pH = 4,0 -5,5).
- Sông Cầu: Chất lượng nước các sông thuộc lưu vực sông Cầu ngày
càng xấu đi, nhiều đoạn sông đã bị ô nhiễm tới mức báo động. Ô nhiễm cao
nhất là đoạn sông Cầu chảy qua địa phận thành phố Thái Nguyên, đặc biệt là
tại các điểm thải của Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, Khu Gang thép Thái
Nguyên... , chất lượng nước không đạt cả tiêu chuẩn A và B. Tiếp đến là đoạn
sông Cà Lồ, hạ lưu sông Công, chất lượng nước không đạt tiêu chuẩn A và
một số yếu tố không đạt tiêu chuẩn B. Yếu tố gây ô nhiễm cao nhất là các chất
hữu cơ, NO2- và dầu. Ô nhiễm nhất là đoạn từ nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ
tới cầu Gia Bảy, ôxy hòa tan đạt giá trị thấp nhất (0,4 - 1,5 mg/l), BOD5,
COD rất cao (>1000mg/l); Colifom ở một số nơi khá cao, vượt quá tiêu chuẩn
A tới hàng chục lần. Hàm lượng NO2 > 2,0 mg/l và dầu > 5,5mg/l, vượt quá
tiêu chuẩn B tới 20 lần.
- Sông Nhuệ - sông Đáy: Hiện tại, nước của trục sông chính thuộc lưu
vực sông Nhuệ - sông Đáy đã bị ô nhiễm, đặc biệt là nƣớc sông Nhuệ. Chất
lượng nước sông Nhuệ từng lúc (phụ thuộc vào thời gian mở cống Liên Mạc),
từng nơi vượt trên giới hạn cho phép đối với nước loại B. Các sông khác có
chất lượng nước ở mức giới hạn cho phép đối với nước loại B. Nếu không có
biện pháp ngăn ngừa khắc phục, xử lý ô nhiễm kịp thời thì tương lai không xa
nguồn nước sông Nhuệ, sông Đáy không thể sử dụng cho sản xuất được.
Ngoài ra, ô nhiễm nước ở các sông hồ ở nội thành Hà Nội, Tp Hồ Chí
Minh, Tp Đà Nẵng đang ở mức trầm trọng, các chỉ tiêu quan trắc đều vượt
quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, thậm chí hàng trăm lần.
Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng các dòng sông ở Việt Nam đang ngày
càng bị ô nhiễm nghiêm trọng và có xu hướng ngày càng gia tăng do việc xả
nước thải của các cơ sở sản xuất công nghiệp. Nếu chúng ta không có giải

pháp quản lý và xử lý triệt để thì hậu quả sẽ rất khó lường. Vì vậy, cần có quá
trình quản lý chặt chẽ hơn của các cơ quan chức năng cũng như việc tôn trọng
về pháp luật của các cơ sở sản xuất cũng như hoạt động của những người dân
để đảm bảo chất lượng nước tại các con sông.
Chất lượng các hồ ở Việt Nam:


25

Hệ thống hồ, ao, kênh và sông nhỏ tại cá thành phố lớn như Hà Nội, Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Huế tiếp nhận và chuyển nước thải từ các khu công
nghiệp và khu dân cư.
Gần đây hệ thống hồ này bị ô nhiễm nghiêm trọng, vượt quá từ 5 đến
10 lần mức quy chuẩn quốc gia về nguồn nước mặt loại B. Hầu hết các hồ
trong các thành phố đều bị phú dưỡng. Nhiều hồ bị phú dưỡng đột biến và tái
nhiễm hữu cơ.
Các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Hạ Long... Mới đang trong
giai đoạn thiết kế và xây dựng cơ sở xử lý nước thải. Một số các thành phố và
thị trấn nhỏ cũng bắt đầu xây dựng các dự án xử lý nước thải phân tán khu
dân cư.
Hiện nay các hồ chứa nước và hồ điều hoà ở Hà Nội nói riêng và các hồ
trên cả nước nói chung đều bị ô nhiễm, các chỉ tiêu ô nhiễm chủ yếu là: hàm
lượng oxy hoà tan (DO), nhu cầu oxy hoá sinh học (BOD5), nhu cầu oxy hoá
học (COD), kim loại nặng, vi sinh vật đều vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều
lần. Các hồ đều có hiện tượng phú dưỡng, hồ có rất nhiều tảo xanh (đặc biệt
là hồ Ba Mẫu), các hồ gần khu vực dân cư trong nội và ngoại thành các khu
đô thị, thành phố lớn như Hà Nội có lượng Coliform rất lớn vượt tiêu chuẩn
cho phép (QCVN 08:2008/BTNMT cột B) từ 100 đến trên 200 lần, vào mùa
khô có thể vượt tới 700 lần.
Chất lượng nước các hồ vào mùa khô ô nhiễm hơn mùa mưa do mùa khô

ít mưa, lượng nước trong các ao hồ giảm, nhìn chung chất lượng nước được
cải thiện hơn đối với một số hồ đã được kè và tách riêng nước thải. Hiện
tượng đổ đất lấn chiếm và vứt rác xuống hồ khá phổ biến đã thu hẹp không ít
diện tích mặt nước các hồ, đặc biệt đối với các hồ chưa được kè bờ và chưa có
đường hành lang xung quanh hồ. Tại nhiều hồ, hoạt động nuôi cá vẫn diễn ra
ngay cả khi nguồn nước ở đây bị ô nhiễm trầm trọng.
2.1.3. Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước
Sự gia tăng dân số cùng với tăng trưởng nhanh về công nghiệp hóa và đô
thị hóa đã làm tăng nhu cầu về nước trong khi nguồn nước sẵn có không tăng
lên. Điều này làm suy thoái nghiêm trọng nguồn nước cả về chất lượng và số
lượng. Theo kết quả khảo sát mức độ ô nhiễm ở một số hệ thống sông lớn trên
toàn quốc và một số đoạn chảy trọng điểm, đem so sánh với chất lượng tiêu
chuẩn nước thì hầu hết không đạt tiêu chuẩn. Những tên sông như Tô Lịch,
Kim Ngưu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai - Sài Gòn, Thị Vải,…nước các dòng sông
này ngày một đen đặc, bốc mùi hôi thối, ô nhiễm nghiêm trọng và không thể


×