Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Khóa luận tốt nghiệp giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại PGD lò đúc chi nhánh ngân hàng việt nam thương tín vietbank tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.09 KB, 93 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một loại hình doanh nghiệp không
những thích hợp đối với nền kinh tế của những nước công nghiệp phát triển mà
còn đặc biệt thích hợp với nền kinh tế của những nước đang phát triển. Ở nước
ta trước đây, việc phát triển các DNVVN cũng đã được quan tâm, song chỉ từ
khi có đường lối đổi mới kinh tế do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng thì
các doanh nghiệp này mới thực sự phát triển nhanh cả về số và chất lượng.
Trong điều kiện của những bước đi ban đầu thực hiện công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước, có thể khẳng định việc đẩy mạnh phát triển DNVVN là
bước đi hợp quy luật đối với nước ta. DNVVN là công cụ góp phần khai thác
toàn diện mọi nguồn lực kinh tế đặc biệt là những nguồn tiềm tàng sẵn có ở
mỗi người, mỗi miền đất nước. Các DNVVN ngày càng khẳng định vai trò to
lớn của mình trong việc giải quyết các mối quan hệ mà quốc gia nào cũng phải
quan tâm chú ý đến đó là: Tăng trưởng kinh tế - giải quyết việc làm.
Nhưng để thúc đẩy phát triển DNVVN ở nước ta đòi hỏi phải giải quyết
hàng loạt các khó khăn mà các doanh nghiệp này đang gặp phải liên quan đến
nhiều vấn đề. Trong đó khó khăn lớn nhất, cơ bản nhất, phổ biến nhất đó là
thiếu vốn sản xuất và đổi mới công nghệ. Vậy DNVVN phải tìm vốn ở đâu
trong điều kiện thị trường vốn ở Việt Nam chưa phát triển và bản thân các
doanh nghiệp này khó đáp ứng đủ điều kiện tham gia, chúng ta cũng chưa có
chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp này một các hợp lý. Vì vậy phải giải quyết
khó khăn về vốn cho các DNVVN đã và đang là một vấn đề cấp bách mà Đảng,
Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng cùng phải quan
tâm giải quyết.
Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho phát
triển DNVVN còn rất hạn chế vì các DNVVN khó đáp ứng đầy đủ điều kiện
vay vốn ngân hàng và khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng thì các doanh nghiệp lại

1



sử dụng vốn chưa hợp lý và hiệu quả. Vì thế việc tìm ra giải pháp nhằm mở
rộng hoạt động tín dụng đối với các DNVVN đang là một vấn đề bức xúc hiện
nay của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các
DNVVN hiện nay, sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Đông Anh
em đã chọn đề tài : “GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI PGD LÒ ĐÚC- CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG VIỆT NAM THƯƠNG TÍN (VIETBANK) TẠI HÀ NỘI” làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về DNVVN và hoạt động tín dụng ngân
hàng đối với DNVVN để hiểu rõ những điểm mạnh, điểm yếu, vai trò, vị trí của
DNVVN trong nền kinh tế; vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển
DNVVN. Trên cơ sở đó, nghiên cứu cụ thể mối quan hệ tín dụng giữa Chi
nhánh NHCT Đông Anh với các DNVVN, thấy được thực trạng của hoạt động
này, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần mở rộng tín dụng cho
các DNVVN của PGD Lò Đúc .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các DNVVN tại PGD Lò Đúc trong
3 quý đầu năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng kết hợp một số phương
pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và thực tiễn như: Phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích hoạt
động kinh tế, phương pháp tổng hợp thống kê…
5. Kết cấu của đề tài
Khóa luận gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Trong đó, phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ và tín dụng ngân
hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.


2


Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại PGD Lò Đúc - Chi nhánh Hà Nội , Ngân hàng Việt Nam Thuơng Tín.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại PGD Lò Đúc - Chi nhánh Hà Nội , Ngân hàng
Việt Nam Thuơng Tín.

3


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.1. Khái niệm
a. Khái niệm doanh nghiệp
Theo khoản 1 điều 4 của Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định thì:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh.
b. Khái niệm DNVVN
Ở Việt Nam, do chưa có tiêu chí xác định cụ thể đâu là doanh nghiệp nhỏ
đâu là doanh nghiệp vừa nên một số cơ quan Nhà nước, một số tổ chức hỗ trợ
đã chủ động đưa ra các tiêu chí quy định DNVVN để phục vụ cho công tác của
mình như:
- NHCT Việt Nam quy định: là doanh nghiệp có dưới 500 lao động, vốn

cố định < 10 tỷ, vốn lưu động < 8 tỷ, doanh thu tháng < 20 tỷ đồng.
- Liên Bộ Lao động và Tài chính: Lao động thường xuyên < 100 người,
doanh thu năm < 10 tỷ, vốn pháp định < 1 tỷ đồng.
- Dự án VIE/US/95/004 Hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam: Lao động < 200
người, vốn đăng kí < 0.4 triệu USD (5 tỷ VND).
Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành nghị định số 90/2001/NĐ - CP
về trợ giúp phát triển DNVVN. Theo nghị định này: doanh nghiệp nhỏ và vừa
là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội cụ thể
của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình

4


trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc
một trong hai tiêu chí nói trên. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên chính thức
quy định về DNVVN. Ý nghĩa nổi bật nhất của nghị định này là đã tạo nên
khung pháp lý cho việc trợ giúp phát triển DNVVN ở nước ta.
Theo nghị định 56/2009/NĐ-CP thì doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở

kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành
ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn
tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí
ưu tiên), cụ thể như sau:
Quy mô

Doanh
nghiệp

siêu nhỏ
Số lao
động

Khu vực

Doanh nghiệp nhỏ

Tổng
nguồn
vốn

Số lao
động

Doanh nghiệp vừa

Tổng
nguồn vốn

Số lao động

I. Nông, lâm nghiệp
và thủy sản

10 người
trở xuống

20 tỷ đồng từ trên 10
trở xuống người đến

200 người

từ trên 20 tỷ từ trên 200
đồng đến
người đến
100 tỷ đồng 300 người

II. Công nghiệp và
xây dựng

10 người
trở xuống

20 tỷ đồng từ trên 10
trở xuống người đến
200 người

từ trên 20 tỷ từ trên 200
đồng đến
người đến
100 tỷ đồng 300 người

III. Thương mại và
dịch vụ

10 người
trở xuống

10 tỷ đồng từ trên 10
trở xuống người đến

50 người

từ trên 10 tỷ từ trên 50
đồng đến 50 người đến
tỷ đồng
100 người

Ngoài ra, DNVVN là một loại hình doanh nghiệp nên nó mang đầy đủ đặc
điểm của một doanh nghiệp. Ngoài ra DNVVN còn có một số đặc điểm riêng.
a. Đặc điểm tạo nên những ưu thế cho DNVVN
- DNVVN có thể hoạt động mà không cần phải đòi hỏi một lượng vốn lớn.
Thêm vào đó lĩnh vực sản xuất kinh doanh thường hướng tới phục vụ trực tiếp

5


đời sống xã hội, chủ yếu nhằm vào những sản phẩm có sức mua cao, nên có thể
huy động được các nguồn lực xã hội, các nguồn vốn còn tiềm ẩn trong dân do
đó các DNVVN có khả năng đầu tư rất đa dạng và linh hoạt. Hơn nữa chu kì
sản xuất kinh doanh ngắn, diễn biến theo mùa nên tốc độ quay vòng vốn nhanh,
từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp.
- Cơ chế tổ chức - quản lý của DNVVN hoạt động tương đối hiệu quả so
với các loại hình doanh nghiệp còn lại. Trong DNVVN, cơ cấu tổ chức thường
nhỏ gọn, ít cấp bậc, thường không bị chồng chéo. Cũng chính vì cơ cấu tổ chức
đơn giản và gọn nhẹ của các DNVVN được đi cùng với cơ chế quản lý, điều
hành hết sức linh hoạt đã đem lại hiệu quả tích cực trong quản trị doanh nghiệp.
Chi phí quản lý của các DNVVN tương đối thấp. Thời gian đưa ra quyết định
của các DNVVN ngắn, do đó có thể đưa ra quyết định nhanh chóng và hiệu quả
đối với những vấn đề liên quan đến sản xuất kinh doanh khiến cho kế hoạch
kinh doanh có thể được xây dựng và điều chỉnh sát với các biến động thực tế

trên thị trường cũng như các nguồn lực nội tại của doanh nghiệp như vốn, nhân
sự, trình độ kỹ thuật…
- Các DNVVN rất năng động và có tính linh hoạt cao. DNVVN có thể sử
dụng linh hoạt các loại máy móc, thiết bị nội địa, dễ dàng thay đổi công nghệ
sao cho phù hợp với yêu cầu của thị trường, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà
không cần nhiều chi phí; có thể kết hợp cả những công nghệ truyền thống với
công nghệ hiện đại, sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện
sản xuất không thuận lợi. Hơn thế, do nhạy cảm với những biến động của thị
trường và khả năng phản ứng lại thị trường cũng rất linh động, các DNVVN có
thể chuyển đổi nhanh mặt hàng sao cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu
dùng; tận dụng được các nguồn nguyên vật liệu, nhân lực tại chỗ.
- DNVVN tồn tại và phát triển ở mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế
và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Với quy mô
khiêm tốn của mình, các DNVVN có thể hoạt động trong cả những lĩnh vực mà
những doanh nghiệp lớn không muốn tham gia hoặc không thể vươn tới, do đó
nó có thể tạo ra một lượng cung hàng hóa đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhất mọi
6


nhu cầu tiêu dùng, dù là nhỏ nhất của tất cả các tầng lớp xã hội. Các DNVVN
có số lượng lớn, phân bố rộng khắp trên cả nước, hoạt động trên tất cả các lĩnh
vực của nền kinh tế và hoạt động dưới nhiều hình thức như DNNN, doanh
nghiệp tư nhân, CTCP, CT TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
các cơ sở kinh tế cá thể khác.
b. Đặc điểm tạo nên những bất lợi cho DNVVN
- Đa phần các DNVVN có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ và luôn trong
tình trạng thiếu vốn, “khát vốn” cho mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu
tư cải tiến máy móc, trang thiết bị mới. Theo kết quả khảo sát điều tra hơn 63
ngàn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho thấy số vốn của các DNVVN
còn rất thấp: khoảng 50% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% doanh

nghiệp có vốn dưới 2 tỷ đồng và có tới 90% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ
đồng (nguồn: Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Bộ Kế hoạch và Đầu
tư).
- Thông tin của các DNVVN thường không minh bạch do hạn chế kiến
thức về kế toán, về thông tin tài chính… nên việc lập kế hoạch tài chính cũng
như lập các báo cáo tài chính thiếu chính xác, không trung thực. Do chính sách
ưu đãi thuế thu nhập đối với DNVVN, một số doanh nghiệp đã cố tình “chế
biến” số liệu, giấu lãi để hưởng chính sách ưu đãi thuế.
- Chủ yếu các DNVVN không có tài sản đảm bảo để vay vốn. Mặt khác
việc chuyển giao quyền sở hữu về vốn góp bằng tài sản chưa rõ ràng minh bạch
gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định tài chính, thẩm định tài
sản đảm bảo.
- Năng lực quản trị điều hành của chủ DNVVN kém, còn thói quen điều
hành quản trị theo kiểu gia đình. Việc lập kế hoạch kinh doanh, phương án kinh
doanh thiếu tính chuyên nghiệp. Chưa biết thu thập và xử lý tốt các thông tin,
khả năng tự điều chỉnh trong nền kinh tế thị trường đầy biến động còn hạn chế.
- Trình độ của người lao động còn hạn chế. Các chủ DNVVN không đủ
khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những người lao
động có tay nghề cao do hạn chế về tài chính. Người lao động ít được đào tạo
7


và bồi dưỡng chuyên môn do kinh phí hạn hẹp vì vậy kỹ năng tay nghề của
người lao động không cao. Ngoài ra, sự không ổn định khi làm việc cho các
DNVVN, cơ hội để phát triển thấp tại các doanh nghiệp này cũng tác động làm
cho nhiều người lao động có kỹ năng tay nghề cao không muốn làm việc cho
khu vực này.
- Hạ tầng cơ sở phục vụ cho sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế, máy
móc thiết bị lạc hậu, chi phí đầu vào cho sản xuất lớn. Hiện nay phần lớn công
nghệ mà các DNVVN đang sử dụng đã lạc hậu hàng chục năm, có khi vài chục

năm, như trong ngành điện tử là khoảng 15 - 20 năm, ngành cơ khí là 20 năm,
70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang
thiết bị trung bình hàng năm chỉ ở mức 5 - 7% so với mức 20% của thế giới. Kỹ
thuật, công nghệ lạc hậu đã kéo theo hiệu quả sử dụng vốn thấp, đồng thời làm
chi phí đầu vào tăng.
- DNVVN thường gặp khó khăn về tiếp cận những nguồn thông tin, công
nghệ tiên tiến. Đó là một trở ngại lớn khó vượt qua do công nghệ mới thường
rất đắt nên các DNVVN thường không đủ nguồn vốn để đầu tư ngay vào lĩnh
vực này.
- Chưa có khả năng liên kết, hợp tác giữa các DNVVN với nhau, với các
hiệp hội, với phòng thương mại, với ngân hàng… Tính thực thi các chính sách
hỗ trợ của Chính phủ còn hạn chế. Dẫn đến năng lực cạnh tranh của các
DNVVN kém.
1.1.3. Vai trò của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam
Kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực vào ngày 01/01/2000, khu vực
kinh tế tư nhân, đặc biệt là các DNVVN trở thành khu vực kinh tế năng động
nhất. Với xuất phát điểm là một nền kinh tế kém phát triển, sản xuất nhỏ lẻ phổ
biến, nên các DNVVN chiếm một tỷ trọng đáng kể trong các loại hình doanh
nghiệp tại Việt Nam. Các DNVVN đã và đang trở thành một lực lượng kinh tế
quan trọng, góp phần vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và đóng góp vào nguồn
thu đáng kể cho Ngân sách Nhà nước. Từ năm 2000 đến năm 2006, Việt Nam
có 207.034 doanh nghiệp dân doanh (chủ yếu là các DNVVN) đăng ký kinh
8


doanh thành lập mới với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 466 nghìn tỷ đồng (tương
đương gần 3 tỷ USD). Trong thời gian qua, các doanh nghiệp dân doanh đã sử
dụng gần 3 triệu lao động, đóng góp hơn 40% GDP và 29% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước, đóng góp khoảng 14,8% tổng thu Ngân sách Nhà nước.
Việc phát triển DNVVN sẽ góp phần đa dạng hóa các thành phần kinh tế, góp

phần đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của đất nước, đẩy nhanh tốc độ phát
triển của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế.
Vai trò của các DNVVN không chỉ thể hiện ở giá trị kinh tế mà nó tạo ra, mà
quan trọng hơn nó có ý nghĩa then chốt trong việc tạo ra công ăn việc làm, xóa
đói giảm nghèo, phát triển đồng đều giữa các vùng, khu vực trong cả nước.
DNVVN còn có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất lưu thông hàng
hóa, cung ứng dịch vụ. Hệ thống cửa hàng sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ vừa và nhỏ đặt ở khắp các đường phố, khu công nghiệp, các tụ điểm
dân cư, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận
tiện.
Với tính năng động cao, các DNVVN còn là trường học khởi nghiệp cho
các doanh nhân và là môi trường tạo mối liên kết, tích tụ vốn để từng bước hình
thành các doanh nghiệp lớn. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp lớn đều hình
thành từ các DNVVN cách đây vài chục năm và mọi người khi làm quen với
môi trường kinh doanh thường bắt đầu với những DNVVN. Từ những DNVVN
các nhà kinh doanh sẽ được làm quen với sự cạnh tranh, tiếp cận các kỹ năng
quản lý cơ bản, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân. Họ sẽ là người lãnh đạo các
doanh nghiệp này phát triển thành các doanh nghiệp lớn hoặc tự tìm kiếm các
doanh nghiệp lớn để phát triển hơn nữa năng lực của mình. Nguồn nhân lực về
quản lý vì thế được nâng cao cả về chất lượng cũng như số lượng.
DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai
thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các DNVVN có thể hoạt động ở khắp mọi nơi thậm chí cả những nơi cơ sở hạ
tầng chưa phát triển như vùng núi, hải đảo, nông thôn. Nhờ đó, doanh nghiệp
có thể khai thác rộng khắp các tài nguyên của từng vùng. Việc nhiều doanh
9


nghiệp, chủ yếu là các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng
núi, vùng sâu vùng xa sẽ góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu của nền kinh
tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công

nghiệp và dịch vụ.
Các DNVVN góp phần làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế. Sự ra đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, cùng
một lĩnh vực sẽ làm giảm tính độc quyền và buộc các doanh nghiệp phải chấp
nhận cạnh tranh, phải liên tục đổi mới, làm ăn có hiệu quả để có thể tồn tại và
phát triển.
DNVVN đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng phong phú, đa
dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. Hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DNVVN đã phát triển hầu khắp các lĩnh vực, rất đa dạng và
phong phú như: nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Nếu trong
những năm trước đây, vốn đầu tư của khu vực tư nhân và số lượng doanh
nghiệp tư nhân thành lập mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại thì
trong thời gian gần đây có xu hướng tăng lên trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, du lịch, xây dựng, giao thông…
1.1.4. Các nguồn huy động vốn của DNVVN
a. Nguồn tài chính phi chính thức
- Vay từ người quen, người thân nhưng lượng vốn huy động không nhiều
và không có sẵn khi cần thiết.
- Vay từ người cho vay nặng lãi, mặc dù không cần tài sản thế chấp và có
thể đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu vay nhưng hình thức này lại có chi phí rất cao.
- Vay thông qua hình thức trả chậm, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các
doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp với nhà cung cấp các yếu tố đầu vào.
Trong việc tài trợ cho các DNVVN, các nguồn tài chính phi chính thức
này có một số lợi thế nhất định là khá linh hoạt, chi phí giao dịch thường thấp
hơn, hơn nữa giao dịch chủ yếu dựa trên cơ sở lòng tinh giữa những người đi
vay và người cho vay nên thường không có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, nguồn
1
0



tài chính này cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: quy mô cho vay nhỏ, ngắn hạn
với chi phí phát sinh cao, chỉ đủ để tài trợ cho những hoạt động mua sắm tài
sản cố định có quy mô nhỏ và đầu tư nhiều lần. Như vậy, các nguồn vốn này
khó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển DNVVN. Do đó, việc tiếp cận với
các nguồn tài chính chính thức được xem là cần thiết cho quá trình tăng trưởng
và phát triển của các DNVVN.
b. Nguồn tài chính chính thức
- Nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước thực hiện chủ yếu thông qua hoạt
động của Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng chính sách xã hội.
- Nguồn tín dụng từ các TCTD hiện hành bao gồm các NHTM quốc
doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, các quỹ tín dụng nhân dân và các công ty cho thuê tài chính. Để mở rộng
sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh, các DNVVN chủ yếu tiếp cận
nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này cũng không
phải dễ dàng. Theo điều tra về thực trạng DNVVN của Cục phát triển Doanh
nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ có 32.28% các DNVVN có khả
năng tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, còn lại các DNVVN rất khó hoặc
không thể tiếp cận được.
- Các chương trình tín dụng của các tổ chức và chính phủ nước ngoài như:
Quỹ phát triển DNVVN của cộng đồng châu Âu (SMEDF), tín dụng hỗ trợ của
ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), dự án phát triển khu vực Mêkông
(MPFD), hỗ trợ của công ty tài chính quốc tế IFC tại Việt Nam…
- Nguồn vốn huy động trên thị trường chứng khoán thông qua việc niêm
yết và phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Tuy nhiên, hình thức huy động vốn này
đối với DNVVN rất khó khăn, bởi những điều kiện niêm yết, phát hành hết sức
chặt chẽ mà các DNVVN khó có thể đáp ứng được.
1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng, phân loại tín dụng ngân hàng

a. Khái niệm tín dụng ngân hàng
1
1


Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc La tinh Creditum có nghĩa là một sự tin
tưởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn
nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi.
Theo K.Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với
một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Theo quan điểm này phạm trù tín dụng có 3 nội dung chủ yếu đó là: tính
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi
vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình
thức tiền tệ hoặc hàng hóa. Quá trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn sau:
- Thứ nhất: phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này,
giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên nhận
được giá trị và cũng chỉ một bên nhượng đi giá trị.
- Thứ hai: sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi
nhận được giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó để thỏa mãn
nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên, người đi vay chỉ được
quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định mà không được quyền sở
hữu về giá trị đó.
- Thứ ba: đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau
khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kì sản xuất để trở về hình thái tiền tệ
thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay.
Việc các ngân hàng thương mại tập trung vốn dưới hình thức huy động và
phân phối vốn dưới hình thức cho vay được gọi là tín dụng ngân hàng.

b. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
* Tín dụng ngân hàng được thiết lập trên cơ sở lòng tin.
Lòng tin là cơ sở đầu tiên để có quan hệ tín dụng. Vì quan hệ tín dụng chỉ
xảy ra khi người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả tiền vay, sẽ sử dụng
vốn vay có hiệu quả. Tuy nhiên, lòng tin thể hiện ở uy tín, tài sản bảo đảm của
1
2


khách hàng hay sự bảo lãnh của bên thứ ba. Điều này rất quan trọng vì nó tạo
nên sự an toàn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
* Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn có thời hạn. Nếu không có
thời hạn thì không thể gọi là quan hệ tín dụng hoàn chỉnh.
Thời hạn trong quan hệ tín dụng phụ thuộc vào thỏa thuận giữa ngân hàng
và khách hàng. Để xác định thời hạn vay ngân hàng căn cứ tính hợp lý giữa
thời hạn đi vay và thời hạn cho vay vốn để giảm thiểu rủi ro thanh khoản. Còn
khách hàng xác định dựa trên cơ sở chu kì sản xuất kinh doanh, thời điểm hình
thành nguồn thu của mình.
* Tín dụng ngân hàng mang tính hoàn trả cả gốc và lãi.
Hoàn trả là thuộc tính vốn có của tín dụng. Vì vốn cho vay của ngân hàng
là vốn huy động của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định
ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt khác, ngân hàng cần phải có
nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như: khấu hao tài sản cố định, trả lương cán
bộ công nhân viên, chi phí văn phòng phẩm… nên người vay vốn ngoài việc trả
nợ gốc còn phải trả cho ngân hàng một khoản lãi.
Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường tín dụng còn mang các đặc trưng
sau:
- Hoạt động tín dụng luôn bị chi phối bởi các quy luật kinh tế khách quan
của thị trường: Quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật
lưu thông tiền tệ.

- Hoạt động tín dụng luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro. Đó là những
khoản lỗ tiềm năng mà ngân hàng phải gánh chịu khi đến hạn khách hàng
không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình.
c. Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác
nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại
tín dụng. Mặt khác, để đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh thì việc cấp tín
dụng phải gắn liền với đối tượng vay, để tạo điều kiện cho sự vận động của vốn

1
3


phù hợp với sự vận động của vật tư hàng hóa thì phải tiến hành phân loại tín
dụng.
* Căn cứ vào thời hạn tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm (một số nước
quy định dưới 2 năm). Tín dụng ngắn hạn được dùng để bổ sung sự thiếu hụt
tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầu sinh
hoạt của các cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín
dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở
rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công
trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay…), cải tiến và mở rộng
sản xuất với quy mô lớn.
* Căn cứ vào đối tượng tín dụng.
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn
lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động

thiếu hụt tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hóa,
cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức
chiết khấu kỳ phiếu.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản
cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn.
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng cấp cho các
nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông
hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa bền chắc như tủ
lạnh, điều hòa, máy giặt…
1
4


* Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng.
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian
tài chính như NHTM hoặc tổ chức tín dụng khác.
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền (hoặc
hàng hóa) với người cần sử dụng tiền (hoặc hàng hóa) đó, không cần phải
thông qua một trung gian tài chính nào cả.
* Căn cứ vào mức độ đảm bảo.
- Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người
bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay.
- Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc
người bảo lãnh đảm bảo cho khoản nợ vay.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của DNVVN
* Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh

nghiệp.
Hiện nay để thực hiện các quyết định đầu tư, doanh nghiệp có thể sử dụng
hai nhóm nguồn vốn là vốn tự có và vốn đi vay. Tuy nhiên nhu cầu vay vốn của
doanh nghiệp không được đáp ứng tối đa mà quy mô của khoản vay còn tùy
thuộc vào các điều kiện, các quy định vay vốn của ngân hàng, của pháp luật…
Mặt khác, nếu quy mô vốn vay quá lớn sẽ làm tăng chi phí trả lãi dẫn đến tăng
giá sản phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy buộc doanh
nghiệp phải xây dựng cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý
nhất các nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm
mục đích tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình
quân rẻ nhất.
* Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho sự ra đời và phát triển của các DNVVN;
tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên,
liên tục và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng không những hỗ trợ cho DNVVN trong quá trình hoạt động và
phát triển mà còn hỗ trợ cho doanh nghiệp ngay từ khi mới hình thành và đi
vào hoạt động ban đầu. Nếu như không có sự hỗ trợ của ngân hàng thì các
1
5


DNVVN sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí không thành lập được. Nhiều
doanh nghiệp ra đời, song do hạn chế về vốn nên không có khả năng sử dụng
công nghệ, thiết bị hiện đại dẫn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
không cao, thiếu sức cạnh tranh và khó đứng vững trên thương trường. Để có
thể hoạt động thường xuyên liên tục các DNVVN phải có đủ vốn để đáp ứng
các nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, tuy nhiên nguồn vốn tự có của doanh
nghiệp lại không thể đáp ứng được nhu cầu cần thiết. Vì vậy vốn tín dụng ngân
hàng là một giải pháp hữu hiệu. Tín dụng ngân hàng còn giúp các DNVVN tái

sản xuất mở rộng, phát triển các ngành nghề mũi nhọn.
* Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN tổ chức sản xuất kinh doanh có
hiệu quả từ đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của DNVVN trên thị
trường.
Đặc trưng của tín dụng ngân hàng không chỉ là tài trợ vốn mà còn phải
đảm bảo hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Do vậy khi sử dụng vốn vay các doanh
nghiệp không phải chỉ thu hồi vốn đủ mà còn phải tìm mọi biện pháp sử dụng
vốn sao cho có hiệu quả nhất. Mặt khác, các ngân hàng chỉ cho vay khi đã thẩm
định đầy đủ, kỹ càng mọi yếu tố liên quan đến doanh nghiệp, trong đó đặc biệt
là tính hiệu quả và khả thi của phương án, dự án kinh doanh cần tài trợ vốn. Vì
vậy, ngay từ khi thiết lập phương án sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đã
phải nghiên cứu và phân tích kỹ về phương án của mình để có thể tăng tính khả
thi của phương án, tăng cường sự tin tưởng của ngân hàng khi quyết định tài
trợ. Ngoài ra trong quá trình cấp tín dụng ngân hàng còn tư vấn giúp cho các
doanh nghiệp có các quyết định đầu tư tốt nhất, đem lại lợi nhuận cao nhất cho
doanh nghiệp. Đồng thời công tác kiểm tra định kỳ của các ngân hàng đã buộc
các doanh nghiệp phải làm ăn đứng đắn, minh bạch, tuân thủ pháp luật. Trên cơ
sở đó năng lực cạnh tranh của DNVVN sẽ ngày càng được nâng cao trên thị
trường.
* Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các
DNVVN thuộc loại hình doanh nghiệp Nhà nước.
1
6


Trong thời gian qua Nhà nước ta đã và đang tập trung tiến hành cổ phần
hóa các DNNN. Cụ thể, các doanh nghiệp sau khi có quyết định cổ phần hóa sẽ
tự phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay các hình thức huy động vốn khác để có
vốn hoạt động. Trước tình hình đó các ngân hàng cũng tập trung phát triển các
dịch vụ trên thị trường chứng khoán nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp huy động

vốn như dịch vụ lưu ký chứng khoán, mua bán cổ phiếu, trái phiếu, bảo lãnh
phát hành, tư vấn tài chính… Hơn nữa các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng
các cổ phiếu, trái phiếu làm tài sản đảm bảo vay vốn tại ngân hàng. Với hình
thức cấp tín dụng này các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi tham gia vào
quá trình cổ phần hóa và đó chính là động lực thúc đẩy quá trình cổ phần hóa
hiện nay.
* Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận nguồn vốn
nước ngoài.
Nếu chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng tốt, các sản phẩm dịch
vụ cung cấp với chất lượng cao, sẽ góp phần tạo ra một cơ sở hạ tầng tài chính
của nền kinh tế vững mạnh, từ đó sẽ tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài
trực tiếp, gián tiếp cũng như các nguồn vốn hỗ trợ phát triển của các tổ chức
nước ngoài. Và như vậy, nguồn vốn để các DNVVN có thể tiếp cận sẽ ngày
càng được mở rộng.
* Tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, từ đó tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi cho DNVVN.
Thông qua tín dụng ngân hàng, có thể kiểm soát được khối lượng tiền
cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Với
việc cung ứng tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế, ngân hàng đã góp
phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện việc dẫn dắt
các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một
cách hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô, góp phần tạo ra một môi
trường kinh doanh ổn định, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp nói
chung và DNVVN nói riêng.
1
7


Như vậy, DNVVN có thể ra đời, tồn tại và phát triển thì rất cần sự hỗ trợ

từ phía ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng là chủ yếu. Qua đó có thể thấy,
việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN là thực sự quan trọng, cần
thiết và đúng đắn, phù hợp với chủ trương, định hướng chính sách tăng cường
hỗ trợ phát triển DNVVN của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
1.2.3. Các phương thức cho vay áp dụng đối với DNVVN
a. Cho vay ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng dành cho doanh nghiệp là loại cho vay
có thời hạn dưới một năm, thường được dùng để bổ sung vốn lưu động thiếu
hụt tạm thời, phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Cho vay ứng trước: là phương thức tài trợ trực tiếp cho người đi vay để
đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn. Bao gồm:
- Cho vay từng lần: là phương thứ cho vay dựa trên cơ sở nhu cầu tín dụng
của từng đối tượng vay cụ thể, như cho vay để mua nguyên vật liệu đối với các
doanh nghiệp sản xuất, cho vay dự trữ hàng hóa để bán đối với các doanh
nghiệp thương mại… Đây là loại cho vay có kì hạn nợ cụ thể gắn liền với chu
kì ngân quỹ của doanh nghiệp. Thông thường, việc xét duyệt cho vay dựa trên
cơ sở hợp đồng kinh tế, đơn đặt hàng, các hóa đơn bán hàng, bản kê bán thành
phẩm hoặc thành phẩm, hoặc có thể dựa trên dự toán ngân sách cho từng loại
tài sản lưu động cụ thể. Loại hình cho vay này thường áp dụng đối với các
doanh nghiệp có trình độ quản trị tài chính yếu, và có nhiều rủi ro hoặc không
có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng. Trên thực tế, các doanh
nghiệp mới thành lập, các doanh nghiệp nhỏ thường áp dụng kỹ thuật cho vay
này.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương pháp cho vay để đáp ứng toàn
bộ nhu cầu thiếu hụt vốn lưu động theo hạn mức tín dụng đã cam kết. Hạn mức
tín dụng là giới hạn tối đa số tiền cho vay mà ngân hàng có thể cung cấp cho
một khách hàng trong một thời hạn nhất định. Ngân hàng xác định hạn mức tín
dụng trên cơ sở phân tích toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp và
doanh nghiệp được sử dụng một cách chủ động tiền vay trong hạn mức thỏa
1

8


thuận đó. Thông thường, ngân hàng định kỳ hạn trả nợ cuối cùng cho toàn bộ
các khoản vay, không định kỳ hạn trả nợ cho từng lần giải ngân. Các doanh
nghiệp có quan hệ tín dụng thường xuyên, trình độ quản trị tài chính tương đối
tốt và doanh nghiệp được xếp hạng tín dụng cao là những doanh nghiệp thường
được áp dụng loại hình cho vay này.
* Chiết khấu: là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng
chuyển nhượng các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để
nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức chiết khấu và hoa hồng
phí (nếu có). Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ
là khá chắc chắn. Tuy nhiên có thể phát sinh các giấy tờ có giá giả mạo, vì vậy
các ngân hàng phải có các biện pháp để hạn chế loại rủi ro này.
b. Cho vay trung, dài hạn
Nguồn vốn vay trung và dài hạn ngân hàng là nguồn vốn quan trọng, đáp
ứng các nhu cầu sau đây của doanh nghiệp:
- Nhu cầu về tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên;
- Trả các khoản nợ hiện hữu;
- Thành lập doanh nghiệp mới hoặc mua lại doanh nghiệp đang hoạt động.
Trong đó tài trợ cho nhu cầu về tài sản cố định và tài sản lưu động thường
xuyên là chủ yếu nhất. Bao gồm:
* Cho vay theo dự án đầu tư: Đây là khoản tín dụng tài trợ cho việc đầu
tư mua sắm tài sản cố định hay xây dựng các công trình được dự tính sẽ mang
lại thu nhập trong tương lai. Thông thường các doanh nghiệp yêu cầu được vay
một khoản trọn gói dựa trên chi phí dự tính của dự án đã đề xuất và cam kết
thanh toán khoản vay làm nhiều lần.
* Cho vay hợp vốn: là hình thức cho vay trong đó một nhóm các tổ chức
tài chính cùng liên kết lại để tập hợp vốn cho một khách hàng vay. Hình thức
cho vay này là cần thiết khi nhu cầu vay vốn của khách hàng vượt quá khả năng

cho vay của một tổ chức tài chính, khi người cho vay muốn phân tán tiền vay
để hạn chế rủi ro; đặc biệt đối với các tổ chức tài chính nhỏ, có trình độ nghiệp
vụ chưa cao muốn thông qua nghiệp vụ này để có thể tiếp cận, học hỏi kinh
1
9


nghiệm, kỹ thuật cho vay của các tổ chức tài chính lớn. Hơn nữa, đối với doanh
nghiệp đi vay thì hình thức cho vay này có thể đáp ứng ngay một lần nhu cầu
vốn lớn, hạn chế chi phí về thời gian và tiền bạc khi phải vay nhiều lần ở nhiều
tổ chức tài chính.
1.3. MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1.3.1. Sự cần thiết mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
a. Đối với ngân hàng
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trước áp lực cạnh tranh ngày
càng gay gắt đặc biệt là với các đối thủ ngân hàng nước ngoài. Yêu cầu cấp
bách đặt ra cho các NHTM Việt Nam phải tiến hành ngay công cuộc đổi mới
một cách toàn diện, một trong những nội dung quan trọng là hoạt động tín dụng
- một hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn (70% - 80%) trên tổng tài sản có
sinh lời và là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chính cho các ngân hàng Việt
Nam.
Hiện nay, chất lượng tín dụng của các NHTM Việt Nam còn kém, tỷ trọng
nợ quá hạn, nợ xấu khá cao. Đặc biệt là các NHTM Nhà nước trong cơ cấu các
khoản mục cho vay, tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước là chủ yếu một thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, bước vào hội nhập
kinh tế quốc tế, nguy cơ nợ quá hạn, nợ xấu tiếp tục gia tăng từ khu vực này là
điều khó tránh khỏi. Đòi hỏi các NHTM cần phải chuyển đổi cơ cấu danh mục
đầu tư cho vay, mở rộng cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (mà chủ
yếu là các DNVVN và kinh tế tư nhân) nhằm phân tán rủi ro giúp các ngân
hàng vừa mở rộng vừa nâng cao chất lượng tín dụng.

Mặt khác, thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển tương đối thuận
lợi, riêng thị trường chứng khoán tuy trong thời gian vừa qua trong quá trình
xây dựng phát triển nhưng vẫn được đánh giá là có tiềm năng phát triển tốt,
điều đó dư báo trong tương lai gần các doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tốt khi
cần huy động vốn sẽ không lựa chọn kênh tín dụng ngân hàng, mà cách gọi vốn
hiệu quả hơn nhiều là từ thị trường chứng khoán, chi phí thấp hơn, nguồn vốn
2
0


ổn định hơn, thủ tục lại đơn giản hơn… Do đó ngân hàng không chỉ phải đối
mặt với việc nguồn vốn huy động bị “chảy” sang thị trường chứng khoán mà
nguy cơ hoạt động tín dụng bị thu hẹp cũng đang đến gần. Điều đó thúc đẩy các
NHTM phải tìm kiếm thị trường ngách mà thị trường đầy tiềm năng đó là
DNVVN và khu vực kinh tế tư nhân.
Hơn nữa, theo xu hướng phát triển, các DNVVN đang ngày càng có vai
trò quan trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. Đặc
biệt là Việt Nam bước vào hội nhập từ một nền kinh tế chưa phát triển,
DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tối đa các nguồn lực cho
đầu tư phát triển, giải quyết công ăn việc làm tạo thu nhập cho dân cư, tăng
GDP. Theo chỉ đạo của Chính phủ đến năm 2011, cả nước sẽ có 500.000 doanh
nghiệp nhỏ và vừa, tạo việc làm cho khoảng 20 triệu người.
Tất cả những điều đó cho thấy việc mở rộng cho vay các DNVVN là giải
pháp phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, phù hợp với chủ trương
đường lối của Đảng và Nhà nước giúp cho các ngân hàng chuyển dịch cơ cấu
hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng hóa các danh mục đầu tư cho vay, phân
tán rủi ro, tăng thu nhập nâng cao vị thế cạnh tranh cho các ngân hàng.
b. Đối với DNVVN
Đa phần các DNVVN luôn trong tình trạng thiếu vốn, “khát vốn” cho mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư cải tiến máy móc, trang thiết bị mới.

Mở rộng tín dụng ngân hàng sẽ giúp các doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội để
tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng hơn, vì hiện tại khả năng tiếp
cận vốn ngân hàng của DNVVN còn rất nhiều hạn chế, trở ngại và khó khăn.
Được cấp vốn tín dụng ngân hàng sẽ là một động lực quan trọng giúp DNVVN
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng tính
cạnh tranh - yếu tố quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Đồng thời
những năng lực, thế mạnh của từng DNVVN sẽ không ngừng được bộc lộ và
phát huy.
c. Đối với nền kinh tế

2
1


Việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN góp phần làm cho
nguồn vốn được luân chuyển hiệu quả, đến những nơi đang thực sự khát vốn
trong nền kinh tế. Một mặt nó thúc đẩy sự phát triển của chính các doanh
nghiệp, mặt khác là cách thức để tăng thu cho Ngân sách Nhà nước thông qua
việc nộp thuế và các nghĩa vụ khác của DNVVN đối với Nhà nước. Ngoài ra,
việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN buộc các ngân hàng phải
phát huy tối đa năng lực của mình và tìm các biện pháp để có thể huy động
vốn, tăng cường tập trung, tích tụ những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, từ đó
mọi nguồn lực về vốn đã được khai thác một cách tối ưu để phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
1.3.2. Khái niệm mở rộng tín dụng
Mở rộng là việc làm cho quy mô, phạm vi lớn hơn trước. Mở rộng tín
dụng ngân hàng là sự tăng lên về doanh số, dư nợ, sản phẩm tín dụng. Như vậy
mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN là những hoạt động tín dụng của
ngân hàng nhằm thỏa mãn và mở rộng hơn nữa đối tượng khách hàng là các
DNVVN. Việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN được xác

định trên một số khía cạnh sau:
* Thứ nhất: Mở rộng tín dụng nghĩa là thỏa mãn tối đa nhu cầu hợp lý
của khách hàng.
Việc cấp tín dụng chỉ thực sự mang lại lợi ích đối với ngân hàng và khách
hàng khi mà khối lượng tín dụng được cấp phát huy hiệu quả của nó. Do đó
ngân hàng cần phải đánh giá chính xác và tính toán sao cho có thể đáp ứng tối
đa nhu cầu hợp lý của khách hàng; đủ để khách hàng có thể tiến hành hoạt động
của mình; không gây thiếu để cho khách hàng không thực hiện được dự án;
song không gây thừa, lãng phí. Mở rộng tín dụng đối với DNVVN còn được
xác định trên cơ sở đa dạng hóa các lĩnh vực cấp tín dụng. Ngân hàng có thể
thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh, thuê mua, tài trợ xuất nhập khẩu…
* Thứ hai: Mở rộng tín dụng cũng có nghĩa là sự đa dạng hóa các đối
tượng khách hàng.

2
2


Đây là một trong các biện pháp ngân hàng thường áp dụng để phân tán rủi
ro vì vốn được san sẻ cho nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Đa dạng hóa
cũng đồng nghĩa với việc không bó hẹp trong phạm vi một số đối tượng khách
hàng nhất định, một số ngành nghề kinh doanh nhất định mà ngân hàng có thể
thực hiện mở rộng tín dụng trên cơ sở thiết lập mối quan hệ tín dụng với nhiều
ngành nghề, nhiều đối tượng hoạt động kinh doanh như: nông, lâm, ngư
nghiệp, công nghiệp, du lịch, vận tải, dịch vụ, xây dựng…
* Thứ ba: Mở rộng tín dụng đồng nghĩa với việc đa dạng hóa các sản
phẩm tín dụng.
Sản phẩm tín dụng của ngân hàng ngày càng đa dạng đáp ứng một cách tốt
nhất mọi nhu cầu của khách hàng. Trên cơ sở thiết lập nhiều hình thức cho vay
như: ngắn, trung, dài hạn; hay cho vay theo hạn mức tín dụng; cho vay từng

lần; cho vay theo hạn mức thấu chi; cho vay đồng tài trợ; cho vay cầm cố giấy
tờ có giá… các doanh nghiệp có thể dễ dàng lựa chọn các hình thức tín dụng
phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của mình.
Như vậy đối với ngân hàng, để mở rộng tín dụng đối với DNVVN ngân
hàng cần phải:
- Mở rộng mạng lưới cấp tín dụng trên cơ sở đó tăng khả năng tiếp cận và
làm đa dạng hóa đối tượng khách hàng.
- Tăng tỷ trọng tín dụng đối với DNVVN trong tổng dư nợ.
- Tiến hành mở rộng thị phần cho vay đối với DNVVN.
1.3.3. Các tiêu thức đánh giá mức độ mở rộng tín dụng ngân hàng đối với
DNVVN
Việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN được thể hiện thông
qua khả năng thỏa mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu của khách hàng là
DNVVN về khối lượng tín dụng, lĩnh vực cấp tín dụng, thông qua việc đa dạng
hóa các sản phẩm tín dụng cho các DNVVN. Trên cơ sở chung đó, mức độ mở
rộng tín dụng ngân hàng DNVVN được đánh giá cụ thể qua các chỉ tiêu sau:
a. Mở rộng số lượng khách hàng DNVVN
* Mức tăng số lượng khách hàng DNVVN.
2
3


MSL = St - St - 1
Trong đó:
MSL: là mức tăng số lượng khách hàng là DNVVN.
St: là số lượng khách hàng DNVVN năm thứ t.
St - 1: là số lượng khách hàng DNVVN năm thứ (t - 1).
* Tốc độ tăng số lượng khách hàng DNVVN.

Trong đó:


MSL
TĐSL = -------- *100%
St - 1

TĐSL: Tốc độ tăng số lượng khách hàng là DNVVN.
MSL: là mức tăng số lượng khách hàng là DNVVN.
St - 1: là số lượng khách hàng DNVVN năm thứ (t - 1).
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ thay đổi số lượng khách hàng DNVVN năm
nay so với năm trước.
* Tỷ trọng số lượng khách hàng DNVVN.

S*
TTSL = ------- *100%
S
Trong đó:
TTSL: Tỷ trọng số lượng khách hàng là DNVVN.
S*: Số lượng khách hàng DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng.
S: Số lượng khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng.
Chỉ tiêu này phản ánh số lượng khách hàng DNVVN chiếm bao nhiêu
phần trăm trong tổng số khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng.
b. Mở rộng doanh số cho vay DNVVN
Doanh số cho vay phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân giúp
doanh nghiệp trong đầu tư cải tiến máy móc, thiết bị, ứng dụng công nghệ mới,
mở rộng sản xuất kinh doanh. Con số và tốc độ tăng giảm của doanh số cho vay

2
4



qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của hoạt động tín dụng là mở rộng
hay thu hẹp.
* Mức tăng doanh số cho vay DNVVN.

MDS = DSt - DSt - 1
Trong đó:
MDS: là mức tăng doanh số cho vay đối với DNVVN.
DSt: là doanh số cho vay đối với DNVVN năm thứ t.
DSt - 1: là doanh số cho vay đối với DNVVN năm thứ (t - 1).
* Tốc độ tăng doanh số cho vay đối với DNVVN.

Trong đó:

MDS
TĐDS = -------- *100%
DSt - 1

TĐDS: Tốc độ doanh số cho vay đối với DNVVN.
MDS: là mức tăng doanh số cho vay đối với DNVVN.
DSt - 1: là doanh số cho vay đối với DNVVN năm thứ (t - 1).
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ thay đổi doanh số cho vay đối với DNVVN
năm nay so với năm trước.
* Tỷ trọng doanh số cho vay DNVVN so với tổng doanh số cho vay.

DS*
TTDS = ------- *100%
DS
Trong đó:
TTDS: Tỷ trọng doanh số cho vay đối với DNVVN so với tổng doanh số
cho vay.

DS*: là doanh số cho vay đối với DNVVN.
DS: là tổng doanh số cho vay của ngân hàng.
Chỉ tiêu này cho biết doanh số cho vay đối với DNVVN chiếm tỷ trọng
bao nhiêu phần trăm trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng.

2
5


×