Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luận văn Nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng tại công ty Tây Hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.87 KB, 107 trang )

MỞ ĐẦU
Vấn đề hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay đang được bàn đến rất nhiều trên
các thông tin đai chúng, đặc biệt sau khi Việt Nam ra nhập tổ chức thương
mại WTO. Đảng và Nhà nước đã khẳng định điều này sẽ mang đến nhiều cơ
hội những cũng sẽ ẩn chứa nhiều thách thức mà ta sẽ phải đối mặt.
Muốn Việt Nam vững bước trên con đường hội nhập thì ta phải giải
quyết triệt để các vấn đề nổi cộm trong xã hội hiện nay. Hiện nay, một trong
những vấn đề gây bức xúc nhiều trong giới dư luận chính là việc các công
trình đầu tư lớn của Nhà nước bị đổ sập. Năm vừa qua là năm liên tiếp sập các
công trình xây dựng như vụ sập cầu Cần thơ, cao ốc Pacific cuối năm
1997 . . . Nó thật sự là thảm họa đã cướp đi sinh mạng của nhiều người và gây
thiệt hại hàng tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế
thế nào để giải quyết được tình trạng chất lượng công trình đang ngày càng bị
vi phạm một cách nghiệm trọng như vậy. Phải chăng chúng ta nên quan tâm
đúng mức hơn nữa đến vấn đề nâng cao chất lượng công trình? Đúng vậy, vấn
đề này đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết trong toàn xã hội, trong đó doanh
nghiệp xây dựng giữa vai trò hết sức quan trọng bởi họ chính là những người
trực tiếp thực hiện các công trình. Do vậy, các doanh nghiệp cần chủ động
hơn nữa trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng để tránh
xảy ra những tình trạng đáng tiếc như trong năm vừa qua.
Công ty Tây Hồ là đơn vị thuộc tổng cục Công nghiệp quốc phòng, được
thành lập năm 1996, từ đó đến nay Công ty đã tham gia nhiều công trình xây
dựng cơ bản và tất cả các công trình đến nay vẫn trong quá trình sử dụng tốt.
Nhưng cũng có một số công trình trong khi đang thi công đã gặp sự cố về
chất lượng. Mặc dù Công ty đã kịp thời phát hiện và khắc phục nhưng dù sao
thì nó cũng đã gây tổn thất về mặt tài chính cho Công ty và làm giảm sức

1


cạnh tranh của Công ty với các đối thủ trên thị trường xây dựng. Thật ra đây


là vấn đề cũng hay mắc phải của các doanh nghiệp Việt Nam, do trình độ máy
móc kỹ thuật không cao và quan trọng hơn là trình độ quản lý chất lượng
công trình còn yếu vì khái niệm quản lý chất lượng công trình chỉ mới du
nhập vào nước ta trong mấy năm gần đây. Chính vì những lý do đó mà em
quyết định chọn đề tài cho chuyên đề của mình là : “Nâng cao hiệu quả công
tác quản lý chất lượng công trình xây dựng tại Công ty Tây hồ”. Chuyên
đề gồm các phần chính sau:
Chương 1: Tổng quan về quản lý chất lượng công trình.
Chương 2: Thực trạng của công tác quản lý chất lượng công trình tại
Công ty Tây Hồ.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
chất lượng công trình tại Công ty Tây Hồ.
Trong quá trình nghiên cứu em đã sử dụng hai phương pháp chủ yếu là
phương pháp nghiên cứu tài liệu và phương pháp phân tích, điều tra.
Em rất cám ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn và tập thể
ban lãnh đạo của Công ty Tây Hồ đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành tốt chuyên đề thực tập.
Mặc dù đã cố gắng hết sức để viết tốt chuyên đề này nhưng thiếu xót là
điều khó tránh khỏi . Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của thầy và
đơn vị thực tập.
Em xin chân thành cám ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Bích Ngọc.

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH.


1.1. CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM.
1.1.1. Chất lượng sản phẩm.
1.1.1.1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và được sử
dụng rất phổ biến trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Tuy nhiên, để
hiểu rõ và đầy dủ về khái niệm chất lượng sản phẩm thì thật không hề đơn
giản. Bởi đây là một phạm trù phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ
thuật, kinh tế và xã hội. Đứng ở những góc độ khác nhau và tùy theo mục
tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh có thể đưa ra những quan niệm về chất
lượng sản phẩm thành những nhóm chủ yêu sau:
- Quan niệm siêu việt: cho rằng chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo
nhất của sản phẩm.
Quan niệm này quá tính trừ tượng bởi chất lượng sản phẩm không thể
xác định một cách chính xác.
- Quan niệm theo hướng công nghệ: cho rằng chất lượng sản phẩm là
tồng hợp những đặc tính bên trong sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh
được, phản giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng yêu cầu
định trước cho nó, trong những yêu cầu xác định về kinh tế xã hội.
Ưu điểm của quan niệm này là có thể dễ dàng đánh giá được chất lượng
đơn thuần về mặt kỹ thuật và ở mặt tương đối tĩnh.

3


Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm là dễ dẫn đến nguy cơ làm cho chất
lượng không kịp thời cải tiến, không gắn chặt với nhu cầu thị trường và dẫn
đến kết quả là tiêu thụ sản phẩm kém.
- Quan niệm theo hướng khách hàng: theo hướng này có rất nhiều
chuyên gia nổi tiếng như:

Theo W.E.Deming: “ Chất lượng là mức độ dự đoán trước về tính đồng
đều và có thể tin cậy được, tại mức chi phí thấp và được thị trường chấp
nhận”.
Theo Philip B.Crosby trong quyển “ Chất lượng là thứ cho không” đã
diễn tả: “ Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu”.
Theo A. Feigenbaum: “ Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp của sản
phẩm dịch vụ mà khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được
mong đợi của khách hàng”.
Hầu hết các tác giả đều khẳng định chất lượng sản phẩm chính là mức độ
thỏa mãn nhu cầu hay sự phù hợp với những đòi hỏi của khách hàng. Từ đó
mà mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm
đạt được. Chất lượng sản phẩm không chỉ là các chỉ tiêu kỹ thuật mà cả về
những yêu cầu về mặt kinh tế xã hội.
Điểm đặc biệt nổi bật của quan niệm này là ở chỗ chất lượng sản phẩm
luôn gắn bó chặt chẽ với nhu cầu và xu hướng vận động của nhu cầu thị
trường nên sản phẩm phải thường xuyên cải tiến, đổi mới phù hợp cho thích
ứng với đòi hỏi của khách hàng.
- Ngoài ra, xuất phát từ việc nhấn mạnh đến mục tiêu chủ yếu của từng
doanh nghiệp theo đổi nhằm thích ứng với đòi hỏi của thị trường như lợi thế
cạnh tranh, tính hoàn thiện không ngừng của sản phẩm, khả năng vượt những
đòi hỏi của khách hàng,…ta còn có các quan điểm khác về chất lượng sản

4


phẩm như:
Quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng của nhà nước Liên Xô
(IOCT: 15467:70): “Chất lượng sản phẩm là tổng thể những thuộc tính của nó
quy định tính thích hợp sử dụng của sản phẩm để thỏa mãn những nhu cầu
phù hợp với công dụng của nó”.

Quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng Quốc tế ISO: “Chất lượng
là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của nó thể hiện được sự thỏa mãn
nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của
sản phẩm mà người tiêu dung mong muốn.”
Cho tới nay quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được mở rộng hơn
nữa, “Chất lượng là sự kết hợp giữa các đặc tính của sản phẩm thỏa mãn
những nhu cẩu của khách hàng trong giới hạn chi phí nhất định. Trong thực tế
ta thấy rằng các doanh nghiệp không theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá
nào mà luôn đặt nó trong một giới hạn về công nghệ, kinh tế, xã hội.
1.1.1.2. Phân loại chất lượng sản phẩm.
Qua sự phân tích nghiên cứu, các chuyên gia chất lượng sản phẩm đã
đưa ra 6 loại chất lượng sản phẩm như sau:
Chất lượng thiết kế: là chất lượng thể hiện những thuộc tính chỉ tiêu của
sản phẩm được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu thị trường được định ra để
sản xuất, chất lượng thiết kế được thể hiện trong các bản vẽ, bản thiết kế, các
yêu cầu về vật liệu chế tạo, những yêu cầu về gia công, sản xuất chế tạo, yêu
cầu về bảo quản, về thử nghiệm và những yêu cầu hướng dẫn sử dụng. Chất
lượng thiết kế còn gọi là chất lượng chính sách nhằm đáp ứng đơn thuần về lý
thuyết đối với nhu cầu thị trường, còn thực tế có đạt được điều đó hay không
thì nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.

5


Chất lượng chuẩn: là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó
được phê duyệt trong quá trình quản lý chất lượng và người quản lý chính là
các cơ quan quản lý và chính chỉ có họ mới có quyền phê chuẩn. Sau khi phê
chuẩn rồi thì chất lượng này trở thành pháp lệnh, văn bản pháp quy.
Chất lượng thực tế: là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản
phẩm và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất, trong quá trình sử dụng sản

phẩm.
Chất lượng cho phép: là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất lượng
chuẩn và chất lượng thực tế của sản phẩm. Chất lượng cho phép do cơ quan
quản lý chất lượng sản phẩm, cơ quan quản lý thị trường, hợp đồng quốc tế,
hợp đồng giữa đôi bên quy định.
Chất lượng tối ưu: biểu thị khả năng toàn diện đáp ứng nhu cầu của thị
trường trong điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất. Nó nói
lên mối quan hệ giữa chất lượng sản phẩm và chi phí.
Chất lượng toàn phần: là mức chất lượng thể hiện mức tương quan giữa
hiệu quả có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng chi phí để
sản xuất và sử dụng sản phẩm đó.
1.1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng ta có thể chia
thành hai nhóm yếu tố chủ yếu. Đó là nhóm yếu tố bên ngoài và nhóm yếu tố
bên trong.
• Nhóm yếu tố bên ngoài:
* Nhu cầu của nền kinh tế:
Ở bất cứ trình độ nào, với mục đích sử dụng gì, chất lượng sản phẩm bao
giờ cũng bị chi phối, rằng buộc bởi hoàn cảnh, điều kiện nhu cầu nhất định

6


của nền kinh tế, được thể hiện ở những mặt sau:
- Nhu cầu của thị trường: là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất
lượng. Trước khi tiến hành thiết kế, sản xuất sản phẩm, cần phải tiến hành
nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân
tích môi trường kinh tế - xã hội, nắm bắt chính xác các yêu cầu chất lượng cụ
thể của khách hàng cũng như những thói quen tiêu dung, phong tục tập quán,
văn hóa lối sống, khả năng thanh toán của khách hàng …để có đối sách đúng

đắn.
- Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất: đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề
nội tại của bản thân nền sản xuất xã hội nhưng việc nâng cao chất lượng
không thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế.
- Chính sách kinh tế: hướng đầu tư, hướng phát triển loại sản phẩm nào
đó cũng như mức thỏa mãn các loại nhu cầu được thể hiện trong các chính
sách kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
* Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật:
Trong thời đại ngày nay, trình độ chất lượng của bất cứ sản phẩm nào
cũng gắn liền và bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, đặc biệt
là sự ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hướng chính
của việc áp dụng các kỹ thuật tiến bộ hiện nay là:
- Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế.
- Cải tiến hay đổi mới công nghệ.
- Cải tiến sản cũ và chế thử sản phẩm mới.
* Hiệu lực của cơ chế quản lý:
Có thể nói rằng khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi
tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế quản lý của mỗi nước.

7


Hiệu lực quản lý nhà nước là đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất
lượng sản phẩm, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm bảo uy
tín và quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dung.
Mặt khác, nó còn góp phần tạo tính tự chủ, độc lập, sáng tạo trong cải
tiến chất lượng sản phẩm của các tổ chức, hình thành môi trường thuận lợi
cho việc huy động các nguồn lực, các công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng
những phương pháp quản lý chất lượng hiện đại.
• Nhóm yếu tố bên trong tổ chức.

Trong phạm vi một tổ chức thì có 4 yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm ( được biệu thị bằng quy tắc 4 M), đó là:
- Men (con người): lực lượng lao động trong tổ chức (bao gồm tất cả
thành viên trong tổ chức, từ cán bộ lãnh đạo đến nhân viên thừa hành). Năng
lực, phẩm chất của mỗi thành viên và mối liên kết giữa các thành viên có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng.
- Methods (phương pháp): phương pháp công nghệ, trình độ tổ chức
quản lý và tổ chức sản xuất của tổ chức. Với phương pháp công nghệ thích
hợp, với trình độ quản lý và tổ chức sản xuất tốt sẽ tạo điều kiện cho tổ chức
có thể khai thác tốt nhất các nguồ lực hiện có, góp phần nâng cao chất lượng
sản phẩm.
- Machines (máy móc thiết bị): khả năng về công nghệ, máy móc thiết
bị của tổ chức. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị có tác động rất lớn trong
việc nâng cao những tính năng kỹ thuật của sản phẩm và nâng cao năng suất
lao động.
- Materials (nguyên vật liệu): vật tư, nguyên nhiên liệu và hệ thống tổ
chức đảm bảo vật tư, nguyên nhiên liệu của tổ chức. Nguồn vật tư, nguyên

8


nhiên liệu được đảm bảo những yêu cầu chất lượng và được cung cấp đúng số
lượng, đúng thời hạn sẽ tạo điều kiện đảm bảo và nâng cao chất lượng sản
phẩm.[1]
1.1.2. Quản lý chất lượng.
1.1.2.1. Khái niệm về quản lý chất lượng.
Quản lý chất lượng là một khái niệm rộng xét từ khái niệm “quản lý” và
“chất lượng”. Theo định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO)
nêu trong Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000:
- Chất lượng là mức độ đáp ứng yêu cầu của một tập hợp các đặc tính

vốn có.
- Quản lý chất lượng được hiểu là các hoạt động nhằm điều chỉnh và
kiểm soát một cơ quan, tổ chức về (vấn đề) chất lượng.
Theo các định nghĩa này ta có thể thấy phạm vi quản lý là rất rộng. Tuy
nhiên, đứng ở phạm vi quốc gia quản lý chất lượng được thực hiện chủ yếu ở
hai cấp độ chính là Nhà nước và Doanh nghiệp. Xét về đối tượng, đối tượng
của quản lý chất lượng chính là các sản phẩm của tổ chức, trong đó bao gồm
hàng hóa, dịch vụ hoặc quá trình.[2]
1.1.2.2. Sự ra đời của quản lý chất lượng trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ta sẽ chỉ xét quản lý chất lượng ở cấp doanh nghiệp. Hoạt động quản lý
chất lượng trong các doanh nghiệp hay nói rộng hơn là của các tổ chức không
phải là nhà nước hết sức đa dạng do tính chất hoạt động của các tổ chức này.
Theo Bộ Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000 được thông qua lần đầu tiên vào
[1]

Quản lý chất lượng trong các tổ chức _ Nxb Thống kê( từ trang 35-37)

[

2] Trang web: Công ty cổ phần cơ giới, lắp máy & xây dựng – VIMECO

9


năm 1987 (ISO 9000:1987), đến năm 2000 bộ tiêu chuẩn này đã được sửa đổi
bổ xung lần thứ ba với ký hiệu ISO 9000:2000. Đây là sự thay đổi về chất đối
với bộ tiêu chuẩn này, đó chính là sự thay đổi khái niệm “đảm bảo chất
lượng” bằng “quản lý chất lượng”. Khái niệm “quản lý chất lượng” không chỉ
dành cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, mà còn

cho tất cả các tổ chức khác như tổ chức sự nghiệp: Nhà trường, bệnh viện,
viện nghiên cứu…và cả các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính
trị. Nghĩa là có thể áp dụng cho tất cả những tổ chức nào muốn nâng cao hiệu
quả hoạt động của mình nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng tăng của
khách hàng khi sử dụng sản phẩm của mình. Khái niệm sản phẩm ở đây theo
đó cũng hết sức rộng: ‘nó là kết quả của một quá trình hoạt động của con
người’. Đây cũng là hệ quả tất yếu của quá trình quản lý chất lượng của thế
giới trước tác động của quá trình toàn cầu hóa nói chung và tự do hóa thương
mại nói riêng đang ngày càng sâu rộng. Các phương pháp quản lý chất lượng
gồm:
- Kiểm tra chất lượng (Quality Inspection) với mục tiêu để sàng lọc các
sản phẩm không phù hợp, không đáp ứng yêu cầu, có chất lượng kém ra khỏi
các sản phẩm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, có chất lượng tốt. Mục đích là chỉ có
sản phẩm đảm bảo yêu cầu đến tay khách hàng.
- Kiểm soát chất lượng (Quality Control – QC) với mục tiêu ngăn ngừa
việc tạo ra, sản xuất ra các sản phẩm khuyết tật. Để làm được điều này, phải
kiểm soát các yếu tố như con người, phương pháp sản xuất, tạo ra sản phẩm
(như dây truyền công nghệ), các đầu vào (như nguyên, nhiên vật liệu…),
công cụ sản xuất (như trang thiết bị công nghệ) và yếu tố môi trường (như địa
điểm sản xuất).
- Kiểm soát chất lượng toàn diện (Total Quality Control – TQC) với mục

10


tiêu kiểm soát tất cả các quá trình tác động đến chất lượng kể cả các quá trình
xảy ra trước và sau quá trình sản xuất sản phẩm, như khảo sát thị trường,
nghiên cứu, lập kế hoạch, phát triển, thiết kế và mua hàng; và lưu kho, vận
chuyển, phân phối, bán hàng và dịch vụ sau khi bán hàng.
- Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management – TQM) với

mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách hàng ở
mức tốt nhất có thể. Phương pháp này cung cấp một hệ thống toàn diện cho
hoạt động quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và
huy động sự tham gia của tất cả các cấp, của mọi người nhằm đạt được mục
tiêu chất lượng đã đặt ra.
Sự liệt kê các phương pháp quản lý chất lượng nêu trên cũng phản ảnh
sự phát triển của hoạt động quản lý chất lượng trên phạm vi thế giới diễn ra
trong hàng thế kỷ qua, thông qua sự thay đổi tư duy của các nhà quản lý chất
lượng trong tiến trình phát triển kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ
của thế giới.
Ngoài các bộ tiêu chuẩn của ISO về hệ thống quản lý chất lượng (ISO
9001), nhiều các hệ thống khác cũng đang được các doanh nghiệp Việt Nam
xem xét áp dụng, như ISO 14001 – hệ thống quản lý môi trường, HACCP –
Hệ thống Phân tích các nguy cơ và Kiểm soát các điểm trọng yếu trong lĩnh
vực nông sản thực phẩm, GMP – Quy chế thực hành sản xuất tốt trong lĩnh
vực dược và thực phẩm, OHSAS 18001 – Hệ thống quản lý an toàn và sức
khỏe nghề nghiệp, SA 8000 Hệ thống trách nhiệm xã hội và các hệ thống
quản lý chất lượng tích hợp hoặc đặc thù như ISO 22000 Hệ thống quản lý an
toàn thực phẩm (food chain), ISO/TS 29001 Công nghiệp dầu khí và hóa dầu
– Hệ thống quản lý chất lượng trong các ngành công nghiệp đặc thù- yêu cầu
đối với các tổ chức cung cấp sản phẩm và dịch vụ.

11


Ngoài các doanh nghiệp, việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp và các cơ quan hành
chính nhà nước cũng được quan tâm. Điều này chứng tỏ quản lý chất lượng
ngày càng trở nên quan trọng và được áp dụng sâu rộng trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống.

1.1.2.3. Các nguyên tắc quản lý chất lượng
Nguyên tắc 1: Định hướng bởi khách hàng.
Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu
những nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng để không chỉ đáp ứng mà
còn vượt cao hơn sự mong đợi của họ.
Nguyên tắc 2: Sự lãnh đạo.
Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối của
doanh nghiệp. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi trường nội bộ trong doanh
nghiệp để hoàn toàn lôi cuốn mọi người trong việc đạt được các mục tiêu của
doanh nghiệp.
Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người.
Cong người là nguồn lực quan trọng nhất của một doanh nghiệp và sự
tham gia đầy đủ với những hiểu biết và kinh nghiệm của họ rất có ích cho
doanh nghiệp.
Nguyên tắc 4: Quan điểm quá trình.
Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quảkhi các nguồn và các
hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình.
Nguyên tắc 5: Tính hệ thống.
Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên

12


quan lẫn nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 6: Cải tiến liên tục.
Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng thời cũng là phương pháp của mọi
doanh nghiệp. Muốn có khả năng cạnh tranh và mức độ chất lượng cao nhất,
doanh nghiệp phải liên tục cải tiến.
Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện.
Mọi quyết định và hành động của hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh

muốn có hiệu quả phải được xây dựng dựa trên việc phân tích dữ liệu và
thông tin.
Nguyên tắc 8: Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng.
Doanh ngiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau và mối quan hệ
tương hỗ cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.
1.2. QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH.
1.2.1. Khái niệm quản lý chất lượng công trình.
Thông thường, xét từ góc độ bản thân sản phẩm xây dựng và người thụ
hưởng sản phẩm xây dựng:
Chất lượng công trình được đánh giá bởi các đặc tính cơ bản như: công
năng, độ tiện dụng; tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật; độ bền vững, tin cậy;
tính thẩm mỹ; an toàn trong khai thác, sử dụng, tính kinh tế; và đảm bảo về
tính thời gian (thời gian phục vụ của công trình).
Rộng hơn, chất lượng công trình xây dựng còn có thể và cần được hiểu
không chỉ từ góc độ của bản thân sản phẩm và người hưởng thụ sản phẩm xây
dựng mà còn cả trong quá trình hình thành sản phẩm xây dựng đó với các vấn
đề liên quan khác. Một số vấn đề cơ bản trong đó là:

13


- Chất lượng công trình xây dựng cần được quan tâm ngay từ trong khi
hình thành ý tưởng về xây dựng công trình, từ khâu quy hoạch, lập dự án, đến
khảo sát, thiết kế, thi công... đến giai đoạn khai thác, sử dụng và dỡ bỏ công
trình sau khi đã hết thời hạn phục vụ. Chất lượng công trình xây dựng thể
hiện ở chất lượng quy hoạch xây dựng , chất lượng dự án đầu tư xây dựng
công trình, chất lượng khảo sát, chất lượng các bản vẽ thiết kế...
- Chất lượng công trình tổng thể phải được hình thành từ chất lượng của
nguyên vật liệu, cấu kiện, chất lượng của công việc xây dựng riêng lẻ, của các
bộ phận, hạng mục công trình.

- Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm,
kiểm định nguyên vật liệu, cấu kiện, máy móc thiết bị mà còn ở quá trình hình
thành và thực hiện các bước công nghệ thi công, chất lượng các công việc của
đội ngũ công nhân, kỹ sư lao động trong quá trình thực hiện các hoạt động
xây dựng.
- Vấn đề an toàn không chỉ là trong khâu khai thác, sử dụng đối với
người thụ hưởng công trình mà còn là cả trong giai đoạn thi công xây dựng
đối với đội ngũ công nhân, kỹ sư xây dựng;
- Tính thời gian không chỉ thể hiện ở thời hạn công trình đã xây dựng có
thể phục vụ mà còn ở thời hạn phải xây dựng và hoàn thành, đưa công trình
vào khai thác, sử dụng;
- Tính kinh tế không chỉ thể hiện ở số tiền quyết toán công trình chủ đầu
tư phải chi trả mà còn thể hiện ở góc độ đảm bảo lợi nhuận cho các nhà thầu
thực hiện các hoạt động và dịch vụ xây dựng như lập dự án, khảo sát, thiết kế,
thi công xây dựng...
- Vấn đề môi trường: cần chú ý không chỉ từ góc độ tác động của dự án
tới các yếu tố môi trường mà cả các tác động theo chiều ngược lại, tức là tác

14


động của các yếu tố môi trường tới quá trình hình thành dự án.[1]
1.2.2. Nội dung cơ bản của hoạt động quản lý chất lượng công trình.
Chất lượng công trình là tổng hợp của nhiều yếu tố hợp thành, do đó để
quản lý được chất lượng công trình thì phải kiểm soát, quản lý được các nhân
tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình, bao gồm: con người, vật tư, biện
pháp kỹ thuật và áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến. Cụ thể các yếu tố như sau:
1.2.2.1. Về con người.
Để quản lý chất lượng công trình tốt thì nhân tố con người là hết sức
quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình. Cán bộ phải là

những kỹ sư chuyên ngành có nhiều kinh nghiệm trong công tác, có phẩm
chất, đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm cao. Và công nhân phải có tay nghề
cao, có chuyên ngành, có sức khỏe tốt và có ý thức trách nhiệm cao và đều là
công nhân được đào tạo cơ bản qua các trường lớp. Nếu kiểm soát tốt chất
lượng cán bộ, công nhân thì sẽ kiểm soát được chất lượng công trình góp
phần vào việc quản lý tốt chất lượng công trình.
1.2.2.2. Về phương pháp.
Trình độ quản lý nói chung và trình độ quản lý chất lượng nói riêng là
một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy mạnh tốc độ cải tiến, hoàn
thiện chất lượng công trình. Trong đó quản lý kỹ thuật thi công công trình là
một khâu quan trọng trong quản lý chất lượng công trình. Phương pháp công
nghệ thích hợp, hiện đại, với trình độ tố chức quản lý tốt thì sẽ tạo điều kiện
tốt cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.2.2.3. Về thiết bị
Máy móc thiết bị có tác động rất lớn trong việc nâng cao chất lượng
[

1] TS. Bùi Ngọc Toàn - Nguồn tin: T/C Giao thông vận tải, số 12/2006

15


công trình vì vậy cần phải quản lý tốt máy móc thiết bị, luôn đảm bảo đầy đủ
số lượng và chất lượng máy móc thiết bị cho các công trình thi công. Đặc biệt
trong quá trình thi công, tổ chức phải luôn có phương án dự phòng về máy
móc thiết bị để đảm bảo quá trình thi công được liên tục khi xảy ra các sự cố
hư hỏng, có đội ngũ công nhân vận hành máy và thợ sửa chữa máy móc thi
công chuyên nghiệp. Máy móc được thường xuyên kiểm tra bảo dưỡng và sửa
chữa định kỳ theo chế độ hiện hành.
1.2.2.4. Về vật tư.

Quản lý nguồn nguyên vật liệu sao cho chúng phải đảm bảo đúng yêu
cầu chất lượng và chỉ định của thiết kế.
Quản lý sao cho việc cung ứng nguyên vật liệu phải đảm bảo đầy đủ về
số lượng, thời gian và khối lượng dự trữ nguyên vật liệu tại công trường theo
đúng yêu cầu.
1.2.3. Một số chỉ tiêu đánh hiệu quả công tác quản lý chất lượng công
trình.
1.2.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý chất lượng công trình
theo các giai đoạn của quá trình thi công.
Giai đoạn chuẩn bị thi công: Hiệu quả quản lý chất lượng trong giai
đoạn chuẩn bị thi công thể hiện ở việc đảm bảo các điệu kiện khởi công công
trình:
- Số lượng và chất lượng của các hồ sơ tài liệu kỹ thuật có liên quan
được đảm bảo đúng quy định.
- Số lượng và chất lượng của các yếu tố: vật tư, máy móc thiết bị và lực
lượng lao động tập kết tại công trường theo đúng kế hoạch.
- Kết quả giải phóng mặt bằng.

16


- Các điều kiện về giao thông, điện nước và các yêu cầu kỹ thuật khác.
Giai đoạn thi công: trong giai đoạn thi công, hiệu quả công tác quản lý
chất lượng thể hiện ở:
- Chất lượng của biện pháp thi công.
- Chất lượng của vật tư, thiết bị sử dụng và lắp đặt vào công trình.
- Tiến độ thi công có được đảm bảo không?
- Lực lượng lao động và máy móc thiết bị thi công tại từng khâu công tác
có phù hợp với bảng tiến độ thi công được lập không?
- Chất lượng của từng khối lượng công tác hoàn thành theo bản vẽ thiết

kế.
Giai đoạn nghiệm thu bàn giao và bảo hành công trình: hiệu quả quản lý
chất lượng trong giai đoạn này thể hiện ở:
- Hoàn thành đầy đủ các hồ sơ liên quan.
- Tỷ lệ sai hỏng so với thiết kế khi thực hiện đánh giá toàn diện chất
lượng công trình.
- Sự hài lòng của khách hang.
- Chất lượng của công tác bảo hành công trình.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý chất lượng công trình
theo từng nội dung của hoạt động quản lý chất lượng.
• Chỉ tiêu về vấn đề quản lý con người.
- Trình độ của cán bộ quản lý
- Trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý kỹ thuật.
+ Cán bộ kỹ thuật: kỹ sư thiết kế, kỹ sư tư vấn, kỹ sư giám sát và cán bộ

17


quản lý kỹ thuật là những người có vai trò quan trọng trong hệ thống quán lý
chất lượng. Họ trực tiếp chỉ dẫn hoạt động của các công nhân trên công
trường, đưa ra các phương án thi công thích hợp, giải quyết các sự cố phát
sinh ngoài ý muốn trên công trường, kiểm tra giám sát chất lượng vật tư đưa
vào sử dụng trong quá trình thi công. Do vậy, trình độ của cán bộ kỹ thuật,
quản lý kỹ thuật có ý nghĩa trọng đến hiệu quả công tác quản lý chất lượng.
+ Tỷ lệ cán bộ quản lý kỹ thuật so với số lượng công trình thi công hàng
năm.
Do khả năng quản lý của con người có hạn, vì vậy tỷ lệ cán bộ quản lý
kỹ thuật so với số lượng các công trình cần quản lý ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới
hiện quản công tác quản lý chất lượng. Điều này đặc biệt quan trọng khi mà
công tác kiểm tra chất lượng trong xây lắp đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có mặt

tại công trường. Tỷ lệ này cũng phản ánh phần nào năng lực của cán bộ quản
lý kỹ thuật.
+ Tỷ lệ giữa tổng thời gian lãng phí so với tổng thời gian làm việc theo
kế hoạch của công nhân.
+ Thời gian lãng phí bao gồm: thời gian ngừng việc do yêu cầu của côgn
nghệ như thời gian đông kết xi măng, thời gian lãng phí do công nhân, thời
gian lãng phí do nguyên nhân tổ chức.
Chỉ tiêu này phản ánh trình tổ chức lực lượng lao động hợp lý hay
không. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ công tác quản lý con người chưa
hiệu quả.
• Chỉ tiêu về quản lý chất lượng máy móc, thiết bị.
+ Phần trăm hoàn thành kế hoạch.
Hm = ( Ttt / Tkh) x 100%

18


Trong đó:
+ Ttt là thời gian làm việc thực tế bình quân của máy móc, thiết bị
(ngày/tháng).
+ Tkh là thời gian làm việc theo kế hoạch bình quân của máy móc, thiết
bị (ngày/ tháng)
+ Hm là phần trăm hoàn thành kế hoạch
Với chỉ tiêu này ta có thể đánh giá công tác quản lý chất lượng máy móc
thiết bị. Nó cho biết công tác quản lý máy móc thiết bị có hiệu quả hay
không, nếu hoàn thành đúng kế hoạch điều đó chứng tỏ công tác quản lý sử
dụng sử dụng máy móc tốt, và công tác lập kế hoạch rất tốt. Ngược lại thì
chứng tỏ công tác quản lý sửa dụng máy móc không tốt.
• Chỉ tiêu về vấn đề quản lý vật tư.
+ Tỷ lệ thất thoát vật tư trong quá trình thi công (Ktt)

Ktt = (VTtt / VTmv) x 100%
Trong đó:
VTtt: số lượng vật tư mất mát, hư hỏng trong quá trình thi công.
VTmv: số lượng vật tư mua theo khối lượng công tác xây lắp.
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá hiệu quả của công tác quản lý vật tư
Ktt ≥ 5% cho thấy sự yếu kém trong công tác quản lý vật tư và ngược
lại.
+ Tỷ lệ vi phạm chất lượng vật tư (Kvpcl)
Kvpcl = (Số lần phát hiện vi phạm / tổng số công trình thi công) x 100%.
Chỉ tiêu này trực tiếp phản ánh hiệu qnar cuản công tác quản lý chất

19


lượng.
Kvpcl càng thấp thì hiệu quả quản lý chất lượng càng lớn.
Trong điều kiện nước ta hiện nay cần phấn đấu nhằm giảm tỷ lệ này
xuống dưới 3%.
1.2.3.3. Một số chỉ tiêu khác đánh giá hiệu quả công tác quản lý chất
lượng.
- Tỷ lệ thiệt hại cá biệt (tgi)
tgi = (( CPtc + CPsc) / CPsx ) x 100%
Trong đó:
CPtc: chi phí thi công hạng mục công trình phá đi làm lại.
CPsc: chi phí sử chữa.
CPsx: chi phí sản xuất trong kỳ.
- Tỷ lệ thiệt hại chung:
Tg = ∑ Cti / ∑ Ci
∑ Cti: tổng thiệt hại.
∑ Ci: tổng chi phí sản xuất trong kỳ.

ΔTg = Tg1 – Tgo
Δtg = tg1 – tgo
Nếu Δtg > 0 cho thấy chất lượng sản phẩm trong kỳ giảm và ngược lại.
Nếu ΔTg < 0 cho biết tỷ lệ thiệt hại bình quân trong kỳ tăng và ngược
lại.
- Tỷ lệ chi phí phòng ngừa so với tổng chi phí sản xuất trong kỳ.

20


Đây là loại chi phí liên quan đến việc lập kế hoạch, hoàn thiện và duy trì
hệ thống quản lý chất lượng, đào tạo cán bộ, kiểm tra đo lường hệ
thống….Việc tăng chi phí phòng ngừa sẽ góp phần làm giảm các chi phí sai
hỏng hoặc không đạt. Do đó chỉ tiêu này cũng có thể dùng để đánh giá hiệu
quả của hoạt động quản lý chất lượng.
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ
CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY
DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.3.1. Vai trò của ngành xây dựng trong quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước.
Xây dựng cơ bản có thể coi là một ngành sản xuất vật chất, ngành duy
nhất tạo ra cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất, đời sống y tế, quốc
phòng, giáo dục và các công trình dân dụng khác.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hoạt động xây
dựng cơ bản góp phần to lớn vào việc tạo ra cơ sở hạ tầng cho các ngành
khác. Nhìn vào cơ sở hạ tầng của các ngành đó ta có thể thấy được trình độ
phát triển, hiện đại của ngành đó như thế nào.
Nhờ có việc thi công các công trình xây dựng đô thị hóa nông thôn mà
nó đã góp phần vào việc cải thiện khoảng giữa thành thị và nông thôn, nâng
cao trình độ văn hóa và điều kiên sống cho những người dân vùng nông thôn,

từ đó góp phần đổi mới đất nước.
Ngoài ra, ngành xây dựng còn đóng góp rất lớn vào tổng GDP của cả
nước. Sự phát triển của ngành cho thấy sự lớn mạnh về nền kinh tế đất nước.
Các cơ sở hạ tầng, kiến trúc đô thị càng hiện đại càng chứng tỏ đó là một đất
nước có nền kinh tế phát triển, có nền khoa học công nghệ tiên tiến và mức

21


sống của người dân nơi đây rất cao.
1.3.2. Tình hình chất lượng công trình xây dựng nói chung hiện nay ở
nước ta.
1.3.2.1. Những mặt đã đạt được trong công tác nâng cao chất lượng
công trình xây dựng ở nước ta.
Từ khi Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới, ngành xây dựng có cơ hội
lớn chưa từng có để phát triển. Thành công của công cuộc đổi mới đã tạo điều
kiện vô cùng thuận lợi cho ngành xây dựng vươn lên, đầu tư nâng cao năng
lực, vừa phát triển, vừa tự hoàn thiện mình, và đã đóng góp không nhỏ vào
tăng trưởng kinh tế đất nước. Các doanh nghiệp của ngành không ngừng lớn
mạnh về mọi mặt, làm chủ được công nghệ thiết kế và đã thi công xây dựng
được những công trình quy mô lớn, phức tạp mà trước đây phải thuê nước
ngoài.
Chúng ta đã tự thiết kế, thi công nhà cao tầng, nhà có khẩu độ lớn, các
công trình ngầm và nhiều công trình đặc thù khác. Bằng công nghệ mới,
chúng ta đã xây dựng thành công hầm Hải Vân, hầm qua Đèo Ngang, nhiều
loại cầu vượt sông khẩu độ lớn, các nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn
mà chính chúng ta đang chứng kiến. Các đô thị mới, khang trang, hiện đại đã
và đang mọc lên bằng chính bàn tay, khối óc con người Việt Nam.Qua thử
thách, nhiều doanh nghiệp xây dựng nhanh chóng trưởng thành, khẳng định vị
thế.

Đồng thời trong thời gian qua, Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Ban Thường
vụ Công đoàn Xây dựng Việt Nam phát động ‘Cuộc vận động đảm bảo và
nâng cao chất lượng công trình, sản phẩm xây dựng, giai đoạn 2001 – 2005’.
Cuộc vận động này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng và có ý nghĩa thiết
thực về kinh tế – xã hội.

22


Trong 5 năm qua, cuộc vận động đã thu hút 290 doanh nghiệp (DN)
hành nghề xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí xây dựng thuộc các
thành phần kinh tế, các Bộ, Ngành hưởng ứng tham gia. Kết quả 5 năm đã có
548 công trình, sản phẩm vật liệu xây dựng, cơ khí xây dựng được tặng
thưởng huy chương vàng và bằng chất lượng cao; 34 lượt DN được tặng cờ
đơn vị xuất sắc về đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình sản phẩm xây
dựng hàng năm; 574 tập thể và cá nhân được tặng bằng khen của Bộ trưởng
Bộ Xây dựng và của Ban Thường vụ công đoàn Xây dựng Việt Nam. Hệ
thống quản lý chất lượng của các đơn vị tham gia cuộc vận động đã được
củng cố, hoàn thiện theo các tiêu chí của tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc
tế ISO – 9001.
1.3.2.2. Những bất cập về vấn chất lượng công trình xây dựng hiện
nay.
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều có gắng trong việc đảm bảo, nâng cao,
kiểm soát chất lượng công trình và cũng đã đạt được một số thành tích đáng
kể. Tuy nhiên, số lượng công trình kém chất lượng hoặc vi phạm về chất
lượng vẫn còn khá nhiều. Vấn đề này đã gây nhiều bức xúc trong xã hội.
Theo văn bản số 1058 gửi Bộ trưởng Bộ xây dựng mới đây báo cáo về tình
hình chất lượng công trình xây dựng năm 2007.
Theo báo cáo của UBND thành phố, TPHCM hiện có 1.884 công trình
xây dựng, trong đó có 258 công trình (CT) mới khởi công (có 148 CT dân

dụng), 713 CT đang thi công (224 CT dân dụng) và 913 CT đã hoàn thành
đưa vào sử dụng (361 CT dân dụng).
Năm 2007, TPHCM đã xảy ra 24 sự cố công trình, trong đó 9 sự cố
thuộc cấp độ nhẹ, 8 sự cố cấp độ vừa và 7 sự cố cấp độ nghiêm trọng.
Trong thời gian qua, thành phố xảy ra nhiều vụ việc xây dựng nhà cao

23


tầng, công trình có quy mô lớn không phép, sai phép vi phạm quy trình quản
lý chất lượng công trình dẫn đến những thiệt hại lớn về tài sản, ảnh hưởng đến
đời sống sinh hoạt của nhiều người dân, gây bức xúc trong xã hội.
Theo Phó chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Hữu Tín, sự cố CT xây
dựng có thể xảy ra ở bất kỳ loại CT nào và đều có thể gây ra những hậu quả
nghiêm trọng.
Ở quận 8 và huyện Bình Chánh, dù xây dựng nhà cấp 4 nhưng do thi
công không cẩn thận đã gây ra hậu quả chết người hay sự cố gây sập đổ bất
ngờ cho nhiều căn nhà trên đường Nguyễn Cửu Vân (quận Bình Thạnh).
Dù cao ốc Pacific , Sài Gòn Recidences là CT cấp đặc biệt nhưng do
biện pháp thi công tầng hầm sai phép và không an toàn nên đã gây lún sụt,
nghiêng, hư hỏng các CT lân cận.
Bên cạnh đó, tại các tỉnh, thành phố trên cả nước cũng có nhiều công
trình xây dựng tư nhân đã xảy ra sự cố ngay khi đang thi công, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng của người lao động cũng như sự an toàn của các
công trình lân cận. Điển hình có vụ sập nhà số 106/9I Điện Biên Phủ
(TPHCM) hồi tháng 1/2007; sập sàn bê tông nhà đang xây tại khu tái định cư
dự án Chợ đầu mối Hóc Môn (TPHCM) ngày 24/4/2007; sập sàn sênô nhà tại
xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh (TPHCM) ngày 28/5/2007;...
Trong năm 2007, Sở XD đã tổ chức nhiều đoàn kiểm tra, thường xuyên
kiểm tra các CT xây dựng và tiến hành xử lý nghiêm hàng chục trường hợp vi

phạm.
Báo cáo của UBND thành phố còn cho biết tuy đã phân cấp nhưng ý
thức, trách nhiệm của nhiều quận – huyện còn kém. Nhiều sự cố CT xảy ra,
cơ quan quản lý nhà nước mới tiến hành xử phạt, thống kê sau khi báo chí
phát hiện, đưa tin. Theo ông Nguyễn Hữu Tín, sắp tới TPHCM sẽ quy trách

24


nhiệm cụ thể đối với địa phương để xử lý những trường hợp trên.
Theo UBND thành phố, do lực lượng cán bộ chuyên trách vừa yếu, vừa
thiếu nên việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chất lượng CT xây
dựng trên địa bàn chủ yếu còn tập trung vào các CT xây dựng từ nguồn vốn
ngân sách hoặc CT do thành phố quản lý trực tiếp trong các KCX, KCN tập
trung, CT phục vụ tái định cư…
Các CT vốn tư nhân tuy ngày càng có quy mô lớn nhưng cơ quan chức
năng không thể kiểm tra hết nếu không có chế độ báo cáo nghiêm ngặt với
mẫu biểu chi tiết, khoa học. Năm 2007, Sở XD tổ chức 2 đoàn kiểm tra các
CT dân dụng đã có giấy phép xây dựng và đang trong gia đoạn thi công, kết
quả là đã phát hiện, đề xuất các biện pháp chấn chỉnh, ngăn ngừa kịp thời các
vi phạm. Tuy nhiên, rất nhiều chủ đầu tư …đã không hợp tác, thậm chí có
trường hợp còn gây khó khăn cho đoàn kiểm tra.[1]
1.3.3. Ý nghĩa của việc nâng cao công tác quản lý chất lượng công trình
xây dựng.
CLCTXD là một vấn đề sống còn được Nhà nước và cộng đồng hết sức
quan tâm. Nếu ta quản lý CLCTXD tốt thì sẽ không có chuyện công trình
chưa xây xong đã đổ do các bên đã tham ô rút ruột nguyên vật liệu hoặc nếu
không đổ ngay thì tuổi thọ công trình cũng không được đảm bảo như yêu cầu.
Vì vậy việc nâng cao công tác quản lý CLCTXD không chỉ là nâng cao chất
lượng công trình mà còn góp phần chủ động chống tham nhũng chủ động

ngăn ngừa tham nhũng, ngăn ngừa thất thoát trong xây dựng. Theo kết quả
thực tế cho thấy, ở đâu tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của nhà nước về
quản lý chất lượng công trình thì ở đó chất lượng công trình tốt.
1] Việt Báo - Theo_Tien_Phong_huy thinh_ Thứ hai, 03 Tháng ba 2008, 10:35 GMT+7

[

25


×