Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn vận DỤNG một số PHƯƠNG PHÁP dạy học LỊCH sử NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH cực của học SINH ở TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.62 KB, 24 trang )

SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị : THPT LONG PHƯỚC
_________________
Mã số: …………………

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
LỊCH SỬ NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT

Người thực hiện: Phan Thị Giang
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn: Lịch sử
- Lĩnh vực khác:
Có đính kèm:
Mô hình
Phần mềm

Phim ảnh

Hiệnvật khá

Năm học:2015-2016
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
1

Người thực hiện: Phan Thị Giang


Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Phan Thị Giang
2. Ngày tháng năm sinh : 27/02/1977
3. Nam/Nữ: Nữ
4.Địa chỉ: Tổ 8, Ấp Phước Hòa, Xã Long Phước, Huyện Long Thành, Tỉnh
Đồng Nai
5. Điện thoại: 01692768178
(NR): 0613559574
6. Fax:
E-mail:
7. Chức vụ: Giảng dạy Lịch sử
8. Nhiệm vụ được giao: Tổ trưởng Tổ Sử- Địa.
Giảng dạy môn Lịch sử lớp 12A5,7,8,9,10,11,12 và 10A1,2,3,8,9
9. Đơn vị công tác: THPT Long Phước –Long Thành - Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử Nhân
- Năm nhận bằng: 2000
- Chuyên ngành đào tạo: Cử nhân chuyên ngành giảng dạy Lịch sử
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC:
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Lịch sử
- Số năm có kinh nghiệm: 15 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ Vận dụng một số phương pháp dạy học Lịch sử để giáo dục truyền thống yêu
nước cho học sinh THPT
+ Vận dụng một số phương pháp dạy học Lịch sử nhằm phát huy tính tích cực

của học sinh ở trường THPT
MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Các nhà tâm lý đã khẳng định: tư duy là một trong những năng lực nhận
thức của con người nói chung, học sinh nói riêng.“Tư duy là quá trình nhận thức
phản ánh bản chất, những mối quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng
trong hiện thực khách quan mà ta chưa biết”1. Tư duy là hoạt động trí tuệ bao gồm
các thao tác: phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khát quát hoá.
Một số người có quan niệm, môn Lịch sử không phát triển tư duy, bởi nó
gắn liền với việc học thuộc, ghi nhớ sự kiện, không cần thông minh, chỉ cần chịu
khó. Đây là một quan niệm hết sức sai lầm, bởi khi học Lịch sử, quá trình nhận
thức của học sinh đi từ tri giác tài liệu đến tạo biểu tượng rồi phân tích, so sánh,
1

Nguyễn Thị Côi, Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông, NXB Đại học
2
Sư phạm, H, 2006.

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
đối chiếu… để tìm ra dấu hiệu bản chất tức là hình thành khái niệm, rút quy luật,
bài học lịch sử. Tất nhiên, muốn có hoạt động phân tích, so sánh, tổng hợp… phải
kích thích tư duy.
Tuy nhiên, thực tế trong dạy học hiện nay, tình trạng học vẹt, thụ động, thiếu
sự sáng tạo vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Để thực hiện được mục tiêu giáo dục

“đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Định hướng trên đã được pháp
chế hóa trong Luật Giáo dục:“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”2
Đáp ứng yêu cầu trên, chúng ta đang đổi mới phương pháp dạy học lịch sử,
trọng tâm đó là phải phát huy được tính tích cực chủ động trong học tập của học
sinh. Chính vì vậy, tôi đã chọn vấn đề: Vận dụng một số phương pháp dạy học
Lịch sử nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở trường THPT . Với chuyên
đề này tôi đã áp dụng trong dạy học ở bài 14, bài 17, bài 19, bài 23 Lớp 10 và bài
16 Lớp 12( Chương trình cơ bản).
II/ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
Để nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử, trong những năm gần đây ở
các cuộc thi, hội nghị chuyên đề ngày càng có nhiều tiết học tốt, tiết dạy tốt của
các giáo viên giỏi theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực. Tuy nhiên,
tình trạng phổ biến vẫn là phương pháp dạy học truyền thống thầy đọc trò chép.
Ngay từ năm 1963, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khuyên người học “Phải tự nguyện,
tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ... phải hoàn thành cho được.
Do đó mà phải tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần
chịu khó, cố gắng không lùi bước trước bất kì khó khăn nào trong việc học tập.”.
Tại hội nghị tổng kết phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” của ngành giáo dục
(năm 1963), Bác Hồ lại căn dặn “Việc học tập tránh lối học vẹt, các cháu không
nên học gạo, học vẹt,...Học phải suy nghĩ, phải có liên hệ với thực tiễn, phải có thí
nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau”.
Trong những năm gần đây, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan,
chất lượng học tập Lịch sử ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Nhất là trong kì thi

tuyển sinh Đại học năm 2010-2011 có tới 98,7 % bài thi môn Lịch sử dưới điểm
trung bình. Đặc biệt trong hai năm nay ở kỳ thi Tốt nghiệp THPT Quốc gia cho
thấy số lượng thí sinh đăng ký môn Lịch sử là rất ít, quá ít, thậm chí có những hội
đồng thi không có thí sinh nào. Bên cạnh đó, biểu hiện của việc giảm sút chất
lượng bộ môn là tình trạng coi thường, nhớ nhầm sự kiện, không hiểu Lịch sử,
2

3

Luật Giáo dục

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
không vận dụng bài học, xu hướng học lệch của học sinh, tô hồng, bóp méo lịch
sử... Trong thực tế ở trường, ngay cả những học sinh có kết quả học lực khá-giỏi,
khi hỏi về cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai diễn
ra và kết thúc vào thời gian nào?. Hoặc là năm sinh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh,
nhiều em trả lới rất lúng túng, thậm chí không nhớ.
Tuy nhiên trong dạy học lịch sử, nhiều trường hợp đã không tận dụng được
khả năng tạo ra sự xúc động, sự rung cảm của học sinh trước các nhân chúng, sự
kiện, hiện tượng lịch sử, hành động lịch sử... Do đó tác dụng giáo dục của bộ môn
bị hạn chế rất nhiều trong quá trình học.
Khi tiến hành bài học lịch sử, giáo viên thường mắc phải hai sai lầm: Thứ nhất
thoát li hẳn nội dung sách giáo khoa. Thứ hai là lặp lại nguyên văn bài viết của sách
giáo khoa. Chưa áp dụng được cách dạy học theo sơ đồ Đairi. Trong những năm 70

của thế kỷ trước, N.G.Đairi đã cảnh báo: “Giảng như trong sách giáo khoa hoặc
tách rời khỏi sách giáo khoa đều không đúng, nhất là không tính đến điều kiện cụ
thể: tính chất của tài liệu học tập, chất lượng của bài học trong sách giáo khoa và
lứa tuổi học sinh”.
Chính vì vậy, để tạo hứng thú học tập ở học sinh, giải pháp mà tôi đưa ra là
“Vận dụng một số phương pháp dạy học Lịch sử nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh ở trường THPT” sẽ có tính khả thi và có khả năng thay thế một phần
giải pháp đã có, giúp kích thích quá trình học tập, tư duy của học sinh, từ đó các
em khắc sâu nội dung kiến thức Lịch sử.
III .TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP:
Để đảm bảo cho giờ học Lịch sử đạt hiệu quả tốt thì việc vận dụng các phương
pháp dạy học, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh là cả một quá trình chuẩn
bị và đòi hỏi người giáo viên lên lớp phải có một nghệ thuật sư phạm vừa hồng vừa
chuyên, một nghiệp vụ chuyên môn vững vàng. Chính vì vậy, trong đề tài này, tôi
có vận dụng một số phương pháp để dạy học Lịch sử, nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh ở bài 14, bài 17, bài 19, bài 23 Lớp 10 và bài 16 Lớp 12 (Chương
trình cơ bản) với 4 giải pháp như sau:
1/ Phương pháp sử dụng lược đồ, tư liệu lịch sử, tranh, ảnh lịch sử...
2/ Phương pháp dạy học liên môn.
3/ Phương pháp so sánh, đối chiếu.
4/ Phương pháp sử dụng sơ đồ hóa.
1. Phương pháp sử dụng lược đồ, tư liệu lịch sử, tranh, ảnh lịch sử..
Lược đồ, tranh, ảnh lịch sử....trong sách giáo khoa là một phần của đồ dùng
trực quan trong quá trình dạy học. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn
kiến thức, có tác dụng giáo dục tư tưởng, tính cách mà còn phát triển tư duy cho
4
Người thực hiện: Phan Thị Giang
Trường THPT Long Phước



SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
học sinh. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới tư duy trừu tượng. Từ việc quan sát
thường xuyên, giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát
các vật thể một cách khoa học, có phân tích, giải thích để đi đến những khái quát,
rút ra nhận xét, kết luận về các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy ra trong quá khứ
được nhìn nhận đánh giá ở hiện tại.
Trên cơ sở những sự kiện lịch sử cụ thể, chính xác, giáo viên vận dụng linh
hoạt hệ thống phương pháp dạy học lịch sử để tạo biểu tượng có hình ảnh về sự
kiện, nhân vật lịch sử. Từ đó, gợi ý, hướng dẫn học sinh suy nghĩ rút ra những kết
luận, những bài học lịch sử cho hiện tại và tương lai. .
Ví dụ: Khi giảng bài 23: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất
đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỷ XVIII”, nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh trong học lịch sử, lòng yêu quý, kính trọng các vị anh hùng dân tộc, cụ thể là
anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ, giáo viên lựa chọn những sự kiện cơ
bản thể hiện vai trò của ông trong việc bước đầu hoàn thành sự nghiệp thống nhất
đất nước; đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc...đưa đất nước dần dần
ổn định sau nhiều thế kỷ bị chia cắt; kết hợp với tường thuật diễn biến trận đánh Ngọc
Hồi – Đống Đa (Tết Kỷ Dậu -1789) trên lược đồ.
Lược đồ
diễn biến trận
đánh Ngọc Hồi –
Đống Đa (Tết Kỷ
Dậu -1789)

Để minh
họa thêm cho
bài tường thuật
trận Đống Đa,
quân Tây Sơn

tiến vào Thăng
Long thêm sinh
động, giáo viên
có thể đọc bài
thơ của Ngô
Ngọc Du- nhà
thơ đương thời,
ghi lại không
khí tưng bừng
của ngày chiến
thắng:
“Giặc đâu tàn
bạo sang điên
cuồng

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước

5


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,
Như trên trời xuống dám ai đương
Một trận rồng lửa giặc tan tành,
Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,

Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh
Mây tạnh mù tan trời lại sáng
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
"Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta”3

Trên cơ sở những nguồn kiến thức đã học, giáo viên đặt câu hỏi: “Em biết gì
về Quang Trung - Nguyễn Huệ và đánh giá vai trò của ông?”, cùng với hệ thống
câu hỏi gợi mở:
- Vai trò của Quang Trung - Nguyễn Huệ trong sự nghiệp thống nhất đất nước?
- Vai trò của Quang Trung - Nguyễn Huệ trong sự nghiệp chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ đất nước?
- Vai trò của Quang Trung - Nguyễn Huệ trong việc xây dựng chính quyền
mới?
Từ những phân tích về cuộc đời và sự nghiệp của Quang Trung - Nguyễn Huệ,
học sinh càng hiểu sâu sắc hơn về những nhận xét, đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về ông:
…“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
Mấy lần đánh đuổi quân Xiêm, quân Tầu.
Ông đã chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng,
Cho nên Tầu đã làm hung.
Dân ta vẫn cứ giữ non sông nhà.”4
Chính vì vậy, “Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời Bà
Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung.v.v. Chúng ta phải ghi nhớ
công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh
hùng.”
2/ Phương pháp dạy học liên môn:
Theo tinh thần các văn bản chỉ đạo của Bộ GDĐT: Công văn số 3535/BGDĐT5 GDTrH ngày 27 tháng 5 năm 2013 về việc Hướng dẫn triển khai thực hiện
phương pháp “Bàn tay nặn bột” và các phương pháp dạy học tích cực khác; Công

văn số 791/HD-BGDĐT ngày 25 tháng 6 năm 2013 về việc hướng dẫn thí điểm
phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thông. Dạy học liên môn (dạy học
tích hợp), trở thành chủ đề mà hiện nay Bộ GD&ĐT, các Sở, các cấp học đều quan
tâm. Dạy học liên môn nhằm hình thành và phát triển ở học sinh những năng lực
cần thiết trong cuộc sống. Tổng hợp kiến thức của các môn học có sự tương tác với
3
4

Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGK Lịch sử 10, tr125
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, tr.225 -226.

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước

6


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
nhau. Đặc biệt trong đó có năng lực vận dụng kiến thức, năng lực tổng hợp để giải
quyết các tình huống thực tiễn, các câu hỏi, bài tập hàng ngày. Không chỉ đối với
Lịch sử mà còn đối với các môn như Văn học - Địa lý- Giáo dục công dân...
Với thói quen dạy học truyền thống của người giáo viên là chỉ truyền đạt,
chuyển tải kiến thức của từng môn học đơn lẻ. Trong xu thế cải cách giáo dục, đổi
mới phương pháp dạy học của ngành giáo dục nước nhà, đòi hỏi người giáo viên
phải biết tích hợp các môn khoa học( khoa học tự nhiên, khoa học xã hội), dạy cho
học sinh cách thu thập, liên hệ, chọn lọc các sự kiện lịch sử, vấn đề trong các môn
học...Làm cho học sinh biết vận dụng kiến thức của môn học này để củng cố kiến
thức của các môn học khác.

Với phương pháp này tôi đã áp dụng tích hợp môn Lịch sử- Địa lý- Văn họcGDCD trong bài 16 Lịch sử lớp 12 và Lịch sử lớp 10 giai đoạn thế kỷ XXV( chương trình cơ bản)
Ví dụ 1: Khi dạy bài 16 phần II.3 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo
cách mạng. Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương(5/1941): Để tìm hiểu về hoàn cảnh của Hội nghị lần thứ VIII, trước tiên
giáo viên đưa ra một số câu hỏi nhằm phát huy tính tích của học sinh:
1/ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước khi nào và trong hoàn cảnh lịch
sử như thế nào?
2/ Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại chọn thời điển này để trở về và sự trở về của
người có ý nghĩa gì?
Bằng những kiến thức lịch sử đã học, học sinh nhớ lại kiến thức cũ đã học để
trả lời. Sau đó giáo viên chốt lại. Sự trở về của Nguyễn Ái Quốc là một sự trở về
đúng thời điểm, đúng lúc cách mạng Việt Nam cần tới vai trò của một vị lãnh tụ uy
tín và tài năng, giàu kinh nghiệm cách mạng, cần có vai trò lịch sử của một cá nhân
kiệt xuất. Ngày 28/1/1941, sau gần 30 năm bôn ba khắp nơi trên thế giới, Nguyễn
Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã vượt qua cột
mốc số 108 biên giới Việt- Trung trở về tổ quốc hoạt động tại Pắc Bó- Cao Bằng.

Cột mốc số 108 và lán
Khuổi Nậm, nơi
Nguyễn Ái Quốc triệu tập
Hội Nghị VIII.

Pắc Bó- Cao Bằng là một trong những dấu ấn quan trọng, mở ra thời kỳ phát triển mới
của cách mạng nước nhà, từng bước đưa dân tộc Việt Nam đi tới những thắng lợi vẻ vang. Nhân
7

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước



SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
dân các dân tộc Cao Bằng vinh dự, tự hào được thay mặt nhân dân cả nước đón Người trở về sau
gần 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân. Từ đây, Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà
Quảng (Cao Bằng) trở thành đại bản doanh của căn cứ Việt Bắc, trở thành chiếc nôi của cách
mạng Việt Nam.
Bằng những kiến thức Địa lý lớp 12 đã học, ở bài 16: Đặc điểm dân số và phân bố dân cư
nước ta và bài 32: Vấn đề khai thác thế mạnh ở Trung du miền núi Bắc Bộ. Giáo viên đưa ra câu
hỏi:
1/ Em hãy cho biết ở vùng Trung du Đồng bằng Bắc Bộ( trong đó có Cao Bằng) bao gồm
có những dân tộc nào sinh sống ở đây?
2/ Em hãy cho biết vị trí địa lý của Cao Bằng( Phía Đông , phía Tây, phía Nam của Cao
Bằng giáp với những tỉnh nào)?
Từ những kiến thức Địa Lý đã học , giáo viên tiếp tục đưa ra câu hỏi:
3/ Vì sao Nguyễn Ái Quốc chọn Pắc Bó- Cao Bằng là nơi xây dựng căn cứ địa cách mạng
của cả nước?
Sở dĩ Nguyễn Ái Quốc chọn Pác Bó- Cao Bằng để về nước hoạt động và xây dựng căn cứ
địa cách mạng, đây không phải sự lựa chọn tình cờ, ngẫu nhiên, mà là một sự tính toán kỹ, vì
điểm đứng chân hết sức quan trọng, nó có ý nghĩa đối với sự phát triển về sau của cách mạng.
Lúc đầu, Người dự kiến về nước theo một hướng khác, nhưng qua nghiên cứu kỹ truyền thống
lịch sử, phong trào cách mạng và địa thế của Cao Bằng, với tầm nhìn chiến lược của một vị lãnh
tụ thiên tài, Người nhận thấy Cao Bằng là nơi có nhiều yếu tố thuận lợi để xây dựng căn cứ địa
cách mạng của cả nước.Cao Bằng là tỉnh miền núi, biên giới, có đường biên giới với Trung Quốc
dài hơn 333 km, vừa có đường bộ, đường thuỷ sang Trung Quốc nên thuận lợi cho giao thông
liên lạc; có các tuyến đường bộ đi xuống Lạng Sơn, Thái Nguyên… Địa thế Cao Bằng hiểm trở,
ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa là địa bàn bọn thực dân Pháp khó kiểm soát. Từ Cao Bằng khi
lực lượng cách mạng phát triển, cơ sở Việt Minh mở rộng có thể nhanh chóng “Đông tiến”
xuống Lạng Sơn, “Nam tiến” xuống Thái Nguyên và “Tây tiến” sang Hà Giang, Tuyên Quang
cũng như các tỉnh vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ. Cao Bằng hội tụ đủ điều kiện trở thành một

trong những bàn đạp chiến lược đầu tiên của thời kỳ khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc. Tuy
nhiên, yếu tố quan trọng góp phần đi đến quyết định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là "Cao Bằng
có phong trào tốt từ trước”, là nơi sinh sống của hàng chục vạn đồng bào các dân tộc: Tày, Nùng,
Dao, Mông, Kinh, Lô Lô, Hoa…, các dân tộc luôn đoàn kết gắn bó với nhau, một lòng theo
Đảng, không ngừng đấu tranh chống thực dân, phong kiến. Từ tháng 10/1940, khi còn ở nước
ngoài đang trên đường trở về Tổ quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: “Căn cứ địa Cao
Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề
sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát
triển về Thái Nguyên và thông xuống
nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn
quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể
giữ”. Với nhận định đúng đắn đó, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt qua mốc 108
(cũ) biên giới Việt - Trung về đến Pắc Bó. Lòng bồi hồi, xúc động khi đặt bước chân đầu tiên lên
dải đất quê hương, Người lặng đi trong phút giây thiêng liêng được về với Tổ quốc, với đồng bào
sau gần 30 năm xa cách. Phút giây đó, sau này Người kể lại: “Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi
chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới
tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động”5[ TÀI LIỆU INTERNET].
Như vậy qua kiến thức Lịch sử, khi học bài 16 Địa lý lớp 12 các em biết thêm về Cao bằng
là một trong những địa danh ghi dấu ấn lịch sử của cách mạng nước nhà, trở thành đại bản doanh
của căn cứ Việt Bắc, trở thành chiếc nôi của cách mạng Việt Nam.
5

8

Tài liệu Internet.

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước



SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
Bằng những kiến thức Văn học Lớp 11 đã học ở bài : Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế
kỷ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945.
Lúc ra đi tìm đường cứu nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành mới 21 tuổi và sau gần
30 năm buôn ba khi trở về nước Người đã tóc điểm hoa râm. Hình ảnh trở về của Người đã được
nhà thơ Tố Hữu khắc họa lại trong bài “Trường ca theo chân Bác”

... “Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ..
Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi nǎm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!...”
Giáo viên đưa ra câu hỏi:
Cảm nhận của em khi đọc khổ thơ trên của nhà thơ Tố Hữu?
Sau bao nhiêu năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc vào mùa xuân
năm 1941( ngày 2 tháng 1 năm 1941 AL). Pắc Bó thay mặt đất Mẹ, đón người con vĩ đại nhất
của dân tộc sau gần 30 năm xa cách. Có những lúc Nguyễn Ái Quốc đã về rất gần với Tổ quốc
như những năm 1924,1930 nhưng chưa một lần về thăm quê hương. Vì điều kiện, hoàn cảnh
nước nhà chưa cho phép, Người đứng bên kia Tổ quốc hướng về đất Mẹ mà nước mắt rưng rưng.
Mùa xuân năm 1941, lần đầu tiên Người vui xuân trên mảnh đất thân yêu. Đoạn thơ trên thể hiện
niềm xúc động của nhà thơ Tố Hữu về Người. Thể hiện lý tưởng của Nguyễn Ái Quốc là đã tìm
ra con đường giải phóng dân tộc. Niềm xúc động không chỉ có con người mới cảm nhận được,

mà kể cả vạn vật xung quanh đều có chung cùng sự đồng cảm đó. Sự đồng cảm ấy
được thể hiện qua hình ảnh con chim hót, cây cối cũng vui lây...

Người trở về với quê hương cùng với chân lý sáng ngời của chủ nghĩa MácLênin, Người đã cùng toàn Đảng, nhân dân cả nước đoàn kết, quyết tâm chiến đấu.
Trải qua nhiều gian khổ, hi sinh, mất mát, đau thương, đưa cả dân tộc thoát khỏi
đêm dài nô lệ:
“Luận cương của Lê-nin theo người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình Đất nước phôi thai”
Người đi tìm hình của nước- Chế Lan Viên.
Qua đoạn thơ trên giáo viên đưa ra câu hỏi: Qua bốn câu thơ trên em hãy phân
tích tình yêu của Bác đối với quê hương, đất nước?
Ngày Bác ra đi chỉ có hai bàn tay trắng với khát khao cháy bỏng là muốn cứu
nước giải phóng dân tộc. Bước chân đầu tiên khi trở về Tổ quốc, là giây phút
thiêng liêng, bồi hồi, đầy cảm xúc khó tả.. Người như lặng đi bên cột mốc 108 biên
9

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
giới Việt – Trung, mảnh đất địa đầu của Tổ quốc, rồi Người cúi xuống cầm nắm
đất lên hôn, một hành động hiếm gặp nhưng đầy xúc động. Người cảm nhận sự
sống của “hình Đất nước” đang phôi thai trong lòng mình. Nhà thơ Chế lan Viên
đã diễn đạt phong cách gần gũi, giản dị, lòng yêu nước vô cùng sâu nặng của Bác
Hồ, với trái tim yêu nước nồng nàn. Người đã đánh đổi tuổi trẻ, tuổi thanh xuân
của mình để giành lấy mùa Xuân cho dân tộc, độc lập- tự do cho đất nước.
Rõ ràng, sự trở về của Người trực tiếp lãnh đạo cách mạng- triệu tập Hội nghị
BCHTW lần thứ VIII là một sự kiện hết sức quan trọng cho cách mạng nước nhà

lúc bấy giờ. Từng bước đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và
trong thời đại hiện nay, Việt Nam đang trên đường phát triển thì những bài học của
Người vẫn còn nguyên giá trị.
Như vậy qua kiến thức Lịch sử, khi học bài: Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX
đến cách mạng tháng Tám năm 1945-Văn học Lớp 11. Học sinh sẽ hiểu được, hình ảnh của
Nguyễn Ái Quốc không chỉ đi vào thơ ca Việt Nam, mà Nguyễn Ái Quốc còn là một vị lãnh tụ
tài ba, dám nghĩ dám làm. Một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất,

đã đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình trên thế giới.
Người đã hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, đặc biệt là đã tìm ra con đường cứu nước
giải phóng dân tộc.

Ví dụ 2: Khi dạy bài 19: “Những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm ở các thế kỷ
X-XV” Lịch sử lớp 10:
Trong bài này khi dạy trên lớp tôi đã áp dụng kiến thức của các các môn học
Lịch sử- Văn học-GDCD.
Khi giảng phần I.2 bài 19: “Những cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm ở
các thế kỷ X- XV”, nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo dục học
sinh lòng yêu quý, kính trọng các vị anh hùng dân tộc, cụ thể là anh hùng dân tộc
Lý Thường Kiệt, giáo viên lựa chọn những sự kiện cơ bản, kết hợp với bức tranh
Lý Thường Kiệt, phòng tuyến sông Như Nguyệt và lược đồ trận đánh trên sông
Như Nguyệt khi trình bày về phần nguyên nhân, diễn biến, kết quả...

Lý Thường
Kiệt chỉ huy
đánh thành
Ung Châu
10

Người thực hiện: Phan Thị Giang


Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
§

Phòng
tuyến sông
Như
Nguyệt
Trận
Như
Nguyệt
năm 1077
Trên cơ sở những nguồn kiến thức, giáo viên đặt câu hỏi:
1. Trước mưu đồ của nhà Tống, chủ trương đối phó của Lý Thường Kiệt là gì? Em
có nhận xét gì về chủ trương và hành động của Lý Thường Kiệt?
2. Kháng chiến chống Tống thời Lý được coi là cuộc kháng chiến rất đặc biệt
trong lịch sử: Hãy cho biết những đặc biệt ấy là gì?.
Tiếp theo giáo viên yêu cầu học sinh trình bày những nét chính diễn biến cuộc
kháng chiến chống Tống trên lược đồ.
Sau khi học sinh trình bày, giáo viên nhận xét và hoàn chỉnh tường thuật diễn biến
như sau:
...Năm 1077, quân Tống tiến tới bờ bắc sông Cầu, chia làm hai cánh quân:
một cánh quân tập trung ở bến sông Như Nguyệt, còn cánh quân kia đóng ở Thị
Cầu. Hai lần quân Tống đóng bè tiến sang bờ nam, nhưng đều bị quân ta đánh trả
quyết liệt, phải lui về bờ bắc. Thời gian kéo dài làm cho quân Tống mệt mỏi, ốm
đau, bệnh tật và khủng khoảng về tinh thần bởi nỗi ám ảnh từ bài thơ Thần trong

đền Trương Hống, Trương Hát. Chính lúc đó quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy
phản công, quân địch 10 phần chết tới 5 hoặc 6 phần. Sau khi được quân ta chủ
động đề nghị giảng hòa, quân Tống vội vã rút quân về nước. Cuộc kháng chiến
chống Tống kết thúc, quân ta giành thắng lợi.6
Bằng những kiến thức Văn học đã học ở cấp 2 và lớp 10 ở bài: Khái quát văn học trung đại.
Học sinh đã được tìm hiểu về bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt.
Nguyên bản chữ Hán bài thơ:
NAM QUỐC SƠN HÀ
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
6

[ Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên môn lịch sử 10, trang 134]
11

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Tạm dịch:
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Qua bài thơ Nam quốc sơn hà, Giáo viên đưa ra câu hỏi:
1/Tác dụng của việc đọc bài thơ vào ban đêm trong đền Trương Hống, Trương Hát?
2/ Em hãy cho biết hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của bài thơ Thần?
Thông qua tiết học Lịch sử giúp học sinh củng cố lại những kiến thức trong bộ môn Văn
học. Khi nói về tác dụng của việc đọc bài thơ vào ban đêm trong đền Trương Hống, Trương Hát.
Đó chính là để khích lệ, thúc dục tinh thần sục sôi quyết tâm đánh giặc của quân sĩ. Bài Hịch như
một lời hiệu triệu của quân dân nhà Lý lúc bấy giờ. Đồng thời, uy hiếp tinh thần quân Tống, làm
cho kẻ thù thêm hoang mang, dao động.
Còn ý nghĩa của bài thơ: Thứ nhất khẳng định chủ quyền Quốc gia thiêng thiêng, ý thức độc
lập tự chủ. Thứ hai Bài thơ bất hủ này cũng là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt
Nam.
“ Để lưu truyền công danh sự nghiệp của các vua chúa, các sự kiện lịch sử...vào thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20, triều đình nhà Nguyễn đã cho khắc nhiều bộ sách sử và các tác phẩm văn chương
( trong đó có bài Nam quốc sơn hà) để ban cấp cho các nơi. Quá trình hoạt động đó đã sản sinh
ra một loại hình tài liệu đặc biệt, đó là mộc bản.

Mộc bản
triều

Nguyễn

12

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT


Bản khắc gỗ và bản dập bài “Nam quốc sơn hà” trong Mộc bản triều Nguyễn
tại khu trưng bày ngoài trời (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV - Đà Lạt).
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công
nhận ngày 31 tháng 7 năm 2009. Mộc bản là những bản gỗ khắc chữ Hán- Nôm ngược dùng để
in ra các sách được sử dụng phổ biến dưới triều Nguyễn. Hiện có 34.555 tấm mộc bản đang được
bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4 - trực thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, có
nội dung rất phong phú và được chia làm chín chủ đề: lịch sử, địa lý, quân sự, pháp chế, văn thơ,
tôn giáo - tư tưởng - triết học, ngôn ngữ - văn tự, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo dục.
Tài liệu mộc bản triều Nguyễn được hình thành chủ yếu trong quá trình hoạt động của Quốc
sử quán triều Nguyễn (được thành lập năm 1820 dưới thời vua Minh Mạng) tại Huế. Ngoài ra,
tài liệu này còn bao gồm cả những ván khắc in được tập hợp từ Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà
Nội) được đưa vào Huế và lưu trữ ở Quốc Tử Giám (Huế) dưới thời vua Minh Mạng và Thiệu
Trị. Từ năm 1960, Mộc bản triều Nguyễn được chuyển vào Đà Lạt.
Đây là khối tài liệu đặc biệt quý hiếm, do giá trị về mặt nội dung, đặc tính về phương pháp
chế tác và những quy định rất nghiêm ngặt của triều đình phong kiến về việc ấn hành và san
khắc, những tài liệu này được coi là quốc bảo, chỉ những người có trách nhiệm và thẩm quyền
làm việc tại Quốc sử quán mới được tiếp xúc và làm việc với chúng. Nội dung của khối tài liệu
mộc bản triều Nguyễn rất phong phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt về xã hội Việt Nam dưới
triều Nguyễn.
Về lịch sử: có 30 bộ sách gồm 836 quyển, ghi chép về lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương
dựng nước cho đến triều Nguyễn. Đây là nguồn tư liệu đáng tin cậy và có tính chính xác cao.
Trong 34.619 tấm Mộc bản, có một bản khắc bài “Nam quốc sơn hà”. Đây là bản khắc gỗ cổ
nhất bài thơ “Nam quốc sơn hà” còn lại cho đến ngày nay. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” khẳng
định chân lý: Nước Nam là một quốc gia lãnh thổ riêng, cương giới rạch ròi, quyền độc lập tự
chủ của dân tộc là thiêng liêng bất khả xâm phạm.
13

Người thực hiện: Phan Thị Giang


Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
Thông qua từng nét khắc trên tài liệu Mộc bản triều Nguyễn được thế giới công nhận là Di
sản tư liệu cuả nhân loại đã khẳng định nước ta không chỉ có những anh hùng trong trận mạc mà
còn rất nhiều những nhà văn hoá lỗi lạc được cả thế giới ghi danh. Từ đó, có thể khẳng định giá
trị lịch sử vô giá nằm trong khối Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới. Đúng như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ngay từ năm 1946 “Tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt trong
công cuộc kiến thiết quốc gia”, khẳng định giá trị của tài liệu lưu trữ luôn góp phần to lớn vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay.
Như vậy ngoài giá trị về mặt sử liệu, Mộc bản triều Nguyễn còn có giá trị về nghệ thuật, kỹ
thuật chế tác. Nó đánh dấu sự phát triển của nghề khắc ván in ở Việt Nam. Chính vì những tính
chất quan trọng và giá trị cao mà trong thời kỳ phong kiến và các nhà nước trong lịch sử của Việt
Nam đã rất chú tâm để bảo quản những tài liệu này”.7
Bằng những kiến thức Giáo dục công dân đã học ở bài 14 lớp 10- Công dân với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh ở trường
phổ thông. Giáo viên đặt câu hỏi:
1/ Em hãy đọc và nhận xét tình cảm của tác giả đối với Tổ quốc qua đoạn thơ sau:
NAM QUỐC SƠN HÀ
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Lý Thường Kiệt
2/

“ Các vua Hùng đã có công dựng nước.
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Em hiểu như thế nào về lời dạy của Bác?
3/ Thanh niên học sinh cần phải làm gì để thực hiện trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc?.

Với những câu hỏi gợi mở này sẽ phát huy được tính tích cực, kích thích
tinh thần tự học của học sinh và thông qua tiết học Lịch sử giúp học sinh củng cố
được kiến thức của môn học GDCD. Đặc biệt là giáo dục học sinh truyền thống
yêu nước bao đời nay của dân tộc ta. Lòng yêu nước, tình yêu quê hương đất nước
và tinh thần sẵn sàng đem hết khả năng của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc.
Trách nhiệm bảo vệ giang sơn đất nước mà cha ông ta chúng ta đã đổ bao mồ hôi,
xương máu mới gây dựng được.
Và trong bối cảnh hiện nay, trên thế giới cũng như nhiều nơi trong khu vực
vấn đề xung đột, mâu thuẫn, tranh chấp thường xuyên xảy ra. Nhất là vấn đề biển
Đông trở thành “ điểm nóng” mà cả thế giới quan tâm. Qua đó nhằm bồi dưỡng,
nâng cao nhận thức, giáo dục học sinh hơn bao giờ hết tinh thần đoàn kết, truyền
thống yêu nước càng phải được phát huy. Để từ đó, bản thân các em thấy được
trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
7

[ Danh nhân Việt Nam qua Di sản tư liệu – Mộc bản triều Nguyễn- Cục văn thư và lưu trữ nhà nước]
14

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
3. Phương pháp so sánh, đối chiếu:

Đây là phương pháp mà ở các bài giảng thường ngày giáo viên vẫn thường áp
dụng, rất dễ sử dụng và đạt kết qủa cao. So sánh các sự vật, hiện tượng, sự kiện
lịch sử...Qua đó giúp cho học sinh nhận ra được điểm giống và khác nhau của một
vấn đề. Trên cơ sở so sánh đó giáo viên có thể đặt các dạng câu hỏi để học sinh trả
lời. Từ đó hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét, bổ sung, đánh giá, nhận định...nhằm
phát huy khả năng nhận biết, nhận xét, đánh giá vấn đề của học sinh. Và cuối cùng
giáo viên đưa ra kết luận rõ ràng, ngắn gọn, giúp học sinh dễ hiểu và tiếp thu bài
tốt.
Ví dụ: Khi dạy bài 17 Lịch sử lớp 10, phần II: Phát triển và hoàn chỉnh nhà
nước phong kiến ở các thế kỉ XI-XV. Giáo viên hướng dẫn các em lập bảng so
sánh nhà nước Đại Việt thời Lý-Trần với thời vua Lê Thánh Tông theo mẫu sau:
Nội dung

Lý-Trần

Thời Lê sơ

Tổ chức bộ
máy
nhà
nước

Luật pháp

Quân đội

15

Người thực hiện: Phan Thị Giang


Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
Nội
dung

Tổ
chức
bộ
máy
nhà
nước

Luật
pháp

Quân
đội

Lý-Trần

Thời Lê sơ

- Chính quyền Trung uơng:

- Chính quyền Trung uơng:

+ Từng bước được hoàn thiện và tổ

chức chặt chẽ, vua đứng đầu đất
nước và nắm mọi quyền hành cao
nhất về chính trị, các cơ quan hành
pháp như sảnh, viện ,đài.
+ Giúp vua trị nước có Tể tướng,
một số đại thần và bên dưới là các
cơ quan sảnh, viện, đài.

+ Vua đứng đầu đất nước, trực
tiếp quyết định mọi công việc.
+ Chức Tể tướng và Đại thần bị
bãi bỏ thay vào đó là lục bộ (Bộ
Binh; Hình; Lại; Hộ; Công;
Lễ).
+ Ngự sử đài, Hàn lâm viện có
quyền hành cao hơn.

- Chính quyền địa phương:
+ Cả nước chia thành lộ, trấn. Dưới
lộ là các phủ, huyện, châu. Xã là
đơn vị hành chính cơ sở. Đứng đầu
xã là Xã quan.
+ Thời Lý, Trần và Lê sơ, Kinh đô
Thăng Long trở thành đô thị lớn với
nhiều phố phường và chợ (36 phố
phường) - Trung tâm buôn bán và
làm nghề thủ công.

- Chính quyền địa phương
+ Bỏ các lộ,trấn cũ chia cả

nước làm 13 đạo thừa tuyên.
Mỗi đạo thừa tuyên có 3 ty phụ
trách: quân sự, dân sự và an
ninh.
+ Dưới đạo là các Phủ, huyện,
châu. Xã vẫn là đơn vị hành
chính cơ sở. Đứng đầu xã là Xã
trưởng, do dân bầu.

- Nhà Lý : Ban hành bộ Hình thư- - Quốc triều hình luật (Luật
bộ luật thành văn đầu tiên của nước Hồng Đức) gồm hơn 700 điều.
ta, góp phần ổn định trật tự XH.
- NhàTrần : Ban hành bộ Hình luật
riêng.
-Tổ chức quy cũ. Cấm binh bảo vệ - Tổ chức theo chế độ “Ngụ
nhà vua và kinh thành . Lộ Binh ở binh ư nông”, trang bị đầy đủ
các địa phương, được tuyển chọn vũ khí.
theo chế độ “ngự binh ư nông”

Sau khi hướng dẫn học sinh quan sát bảng so sánh, giáo viên kết hợp với Sách
giáo khoa, sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lí-Trần và tổ chức bộ máy nhà
nước thời Lê sơ. Giáo viên đưa ra câu hỏi:
1/ Điểm khác nhau giữa tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê sơ với thời Lý- Trần?
2/ So với tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý- Trần, em có nhận xét gì về tổ chức bộ
máy nhà nước thời Lê sơ?
16

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước



SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
Tổ
chức bộ
máy nhà
nước
Tể tướng
Tổ chức
bộ
máy
nhà nước
Sảnh th

Vua

Đại thần

Viện

Đài

ời Lí-Trần
thời Lê sơ
Môn
Từ Thượng
Hạ
Thư
những

sảnh
sảnh

Hàn
lâm
viện

Quốc sử
viện

Ngự
Sử
đài

kiến thức đã học, giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra điểm khác giữa tổ chức bộ
máy nhà nước thời Lê sơ với thời Lý- Trần theo 3 tiêu chí sau (Tổ chức bộ máy
nhà nước trung ương, Hệ thống các đơn vị hành chính( địa phương), cách đào tạo
và tuyển chọn quan lại)
1. Điểm khác:
*Tổ chức bộ máy nhà nước trung ương:
- Thời Lý- Trần: Đã hoàn chỉnh, đơn giản, gọn nhẹ, không cồng kềnh.
- Thời Lê sơ: Thời Lê Thánh Tông đã hoàn chỉnh, đạt mức độ cao và chặt chẽ hơn.
* Hệ thống các đơn vị hành chính:
- Thời Lý- Trần: Cả nước chia thành nhiền lộ, trấn. Dưới lộ, trấn là các phủ, huyện,
châu. Người đứng đầu xã là Xã quan.
- Thời Lê sơ: Thời Lê Thánh Tông cả nước chia thành 13 đạo thừa tuyên. Mỗi đạo
đều có 3 ti phụ trách các mặt dân sự, quân sự, an ninh. Dưới đạo là các phủ, huyện,
châu.Người đứng đầu xã là Xã trưởng, do dân bầu.
* Cách đào tạo và tuyển chọn quan lại:
- Thời Lý- Trần: Phần lớn các quan chức cao cấp là quý tộc vương hầu hoặc con

em quan lại. Khi giáo dục phát triển, nhà nước bắt đầu đưa những người đỗ đạt ra
làm quan.
- Thời Lê sơ: Phải có học mới được tuyển dụng để làm quan, giáo dục thi cử trở
thành nguồn đào tạo và tuyển chọn quan lại là chủ yếu.
Như vậy cùng với những kiến thức các em đã nắm được ở phần đầu, chắc chắn
rằng các em sẽ dễ dàng so sánh được giữa hai tổ chức bộ máy nhà nước lúc bấy
giờ.
2. Từ kiến thức so sánh ở trên các em rút ra nhận xét về tổ chức bộ máy nhà
17
Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
nước thời Lê sơ.
- Tạo ra bộ máy quản lí hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương làm cho tổ chức
bộ máy nhà nước ngày càng chặt chẽ ,hiệu quả hơn, tạo điều kiện ổn định về chính
trị và phát triển kinh tế.
- Tạo ra sự thống nhất trong bộ máy quản lý của nhà nước quân chủ mới, là sự
hoàn chỉnh bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
- Tạo ra uy lực, quyền uy của nhà vua trong việc cai quản đất nước, giàm bớt cơ
quan trung gian, bộ phận quan lại cồng kềnh, tăng cường quản lý cấp địa phương.
→ Chứng tỏ bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế thời Lê đạt đến mức độ cao
và hoàn thiện
4. Phương pháp sử dụng sơ đồ hóa.
Đây là một trong những phương pháp nhằm rèn luyện kĩ năng thực hành, vận
dụng kiến thức nhằm giúp học sinh hệ thống hóa những kiến thức Lịch sử qua sơ
đồ hóa.

Ví dụ 1: Khi dạy bài 14, Lịch sử lớp 10: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt
Nam. Để hiểu được đời sống vật chất- tinh thần của người Việt cổ, giáo viên
hướng dẫn cho học sinh hoàn chỉnh sơ đồ về đời sống vật chất- tinh thần của người
Việt cổ
Trên cơ sở phân tích, trình bày, giải thích sơ đồ, giáo viên đưa ra câu hỏi: Em
có nhận xét gì về đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Cổ?

18

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT

ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT
- TINH THẦN CỦA
NGƯỜI VIỆT CỔ

ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT

MẶC
ĂN
-Nữ mặc
- Gạo tẻ
áo,váy.

- Gạo nếp

-Nam đóng Nhà sàn
- Thịt cá
khố, cởi
- Rau củ
trần

ĐỜI SỐNG TINH THẦN

Sùng bái
thần linh,
thờ cúng
tổ tiên

Tổ chức
cưới
xin, ma
chay
,lễ hội

Có tập quán
,nhuộm răng
đen, ăn trầu,
xăm mình,
dùng đồ
trang
sức

Đời sống vật chất- tinh thần của người Việt cổ khá phong phú, đa dạng
, giản dị, chất phác, nguyên sơ, hòa nhập với thiên nhiên.


Trên cơ sở phân tích sơ đồ, từ đó rút ra kết luận, đời sống vật chất- tinh thần
của người Việt cổ khá phong phú, đa dạng, giản dị, chất phác, nguyên sơ, hòa nhập
với thiên nhiên, gắn chặt với thiên nhiên. Để học sinh hiểu được đây là thời kỳ đảm
bảo “nguyên tắc vàng” trong thời kỳ cổ đại ở nước ta.

19

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT

IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
Qua thời gian thực hiện sáng kiến này trong giảng dạy, tôi nhận thấy được là đa
phần các em có hứng thú hơn trong việc tìm tòi, trao đổi, thảo luận về một vấn đề
nào đó. Tôi đã ra một đề kiểm tra với đề bài: Lập bảng so sánh nhà nước Đại Việt
thời Lý-Trần với thời Lê sơ( Lê Thánh Tông) theo những nội dung sau: Tổ chức bộ
máy nhà nước, Luật pháp, Quân đội. Em có nhận xét gì về tổ chức bộ máy nhà
nước thời Lê sơ?
Kết quả của bài kiểm tra trước và sau khi tôi thực đề tài này như sau:
Kết quả trước khi thực hiện đề tài:
Lớp

Sĩ số

Kết quả
Ghi


học

Giỏi

Khá

T. Bình

Yếu

Kém

sinh
10A8

45

3

10

27

5

0

10A9


45

1

9

20

12

3

chú

Kết quả sau khi thực hiện đề tài:
Kết quả

Sĩ số
Lớp

học

Ghi

Giỏi

Khá

T. Bình


Yếu

Kém

sinh
10A8

45

7

17

19

2

0

10A9

45

5

12

23

5


0

chú

Trong thời gian năm học vừa qua tôi có tham gia giảng dạy bên khối bổ túc
trường cao đẳng nghề Lilama. Tôi cũng đã có áp dụng giảng dạy theo phương pháp
của đề tài mà tôi đang thực hiện này. Kết quả tôi thấy đề tài này có tính khả thi đối
với các lớp 10, 11, 12.

20

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT

Kết quả trước khi thực hiện đề tài:
Kết quả
Lớp

Sĩ số
học

Ghi
Giỏi


Khá

T. Bình

Yếu

Kém

sinh
10A6

45

0

7

25

8

5

10A7

46

0

6


24

9

7

chú

Kết quả sau khi thực hiện đề tài:
Lớp

Sĩ số
học

Kết quả
Ghi
Giỏi

Khá

T. Bình

Yếu

Kém

sinh
10A6


45

2

9

28

4

2

10A7

46

1

10

27

5

3

chú

KẾT LUẬN
Bài học lịch sử giữ một vai trò quan trọng, hình thức tổ chức cơ bản của quá

trình dạy học. Hiệu quả bài học là vấn đề mấu chốt, có thể nói là một mục tiêu
quan trọng của việc dạy - học. Hiện nay, bên cạnh những kết quả đạt được, chất
lượng dạy học của môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông chưa cao, chưa phát huy
tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo, kích thích ở các em lòng say mê học hỏi,
ham hiểu biết về Lịch sử.
Xuất phát từ thực trạng trên, vấn đề đổi mới giáo dục được đặt ra bức thiết,
trong đó phải tiến hành bước đột phá là đổi mới cách tiến hành bài học Lịch sử
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Vận dụng một số phương pháp dạy học
lịch sử nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đòi hỏi phải chuyển từ phương
pháp dạy học “thầy nói, trò nghe”, “thầy đọc, trò chép” sang phương pháp dạy học
21
Người thực hiện: Phan Thị Giang
Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
mới. Trong đó, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ học tập của học
sinh, còn học sinh phải chủ động tham gia vào quá trình hoạt động học tập, được
tạo điều kiện ở mức càng cao càng tốt hoạt động tự phát hiện, tự khám phá, tự tìm
kiếm kiến thức, hình thành năng lực sáng tạo, rèn luyện khả năng tự học. Như thế
cũng không có nghĩa là: cần để cho học sinh hoạt động độc lập bằng mọi giá mà
phải luôn luôn có sự hỗ trợ hướng dẫn đắc lực của giáo viên. Đối với bộ môn Lịch
sử, việc tiếp nhận, xử lí các thông tin từ sử liệu là khâu đầu tiên, tất yếu của quá
trình nhận thức quá khứ, không được bỏ qua, không thể coi nhẹ, bởi Lịch sử không
thể tái hiện lại.
Mặt khác, vận dụng một số phương pháp dạy học lịch sử nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh, vai trò của người giáo viên càng quan trọng, có tính chất
quyết định. Muốn đạt được như vậy, mỗi người giáo viên không chỉ luôn luôn học tập
để nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng các kỹ năng, kỹ xảo mà còn bồi dưỡng cho

mình những kiến thức dạy học bộ môn, sự tương tác giữa kiến thức các môn...đặc biệt là
về bài học lịch sử và các biện pháp để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ
thông nhằm đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới dạy học hiện nay.
Đề tài: Vận dụng một số phương pháp dạy học lịch sử nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh ở trường THPT, mà tôi trình bày trong đề tài này còn nhiều thiếu sót. Rất
mong sự đón nhận, nhiệt tình đóng góp của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp để bản thân
tôi có cơ hội học hỏi, rút kinh nghiệm bổ sung để đề tài được tốt hơn, hoàn thiện hơn, phục
vụ cho công tác giảng dạy của mình ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
V. ĐỀ XUẤT:
- Cung cấp thêm các đĩa phim về các sự kiện lịch sử nhằm phục vụ cho công việc
giảng dạy.
- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo.
- Tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học bộ môn
Lịch sử để giáo viên có nhiều cơ hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm của các thầy
cô đi trước cũng như đồng nghiệp ở các trường khác.
-

Tổ chức các cuộc “về nguồn” cho cả giáo viên và học sinh.

-

Gặp gỡ tiếp xúc các nhân chứng lịch sử.

-

Tăng cường đầu tư, soạn giảng các tiết học liên môn, chủ đề

-

Tổ chức các cuộc thi đố vui lịch sử .


VI. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Nguyễn Thị Côi, Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở
trường phổ thông, NXB học Sư phạm, H, 2006.Đại
2.
Luật Giáo dục.
22

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
3.

Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGK Lịch sử 10, tr125, NXB Hà Nội 2007
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, tr.225 -226.
5.
Tài liệu Internet.

4.

6.

[ Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên môn lịch sử 10, trang 134, NXB Giáo dục 2006.


7.

[Danh nhân Việt Nam qua Di sản tư liệu – Mộc bản triều Nguyễn- Cục văn thư

và lưu trữ nhà nước].
- Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử. NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chương trình và sách giáo khoa
môn Lịch sử lớp 12, NXB Giáo dục, 2008.
-

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 (Ban Cơ bản).

-

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo viên Lịch sử lớp 12 (Ban Cơ bản).

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chương trình và sách giáo khoa
môn Lịch sử lớp 10, NXB Giáo dục, 2008.
-

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 (Ban Cơ bản).

-

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo viên Lịch sử lớp 10 (Ban Cơ bản)
Long Thành ngày 20 tháng 05 năm 2016

Xác nhận của Tổ chuyên môn


Lê Thị Y Na

Người thực hiện

Phan Thị Giang

23

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước


SKKN: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT

24

Người thực hiện: Phan Thị Giang

Trường THPT Long Phước



×