Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Hiệp định đối tác xuyên thái bình dương (TPP) - cơ hội và thách thức của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.67 KB, 15 trang )

GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1. Đôi nét về TPP

Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Partnership Agreement –
TPP) có nguồn gốc là Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương
(Trans – Pacific Strategic Economic Partnership – Hiệp định P4); được sáng lập và ký
kết vào ngày 03/06/2005 bởi 4 nước Singapore, Chile, New Zealand, Brunei. Kể từ
năm 2007, các nước thành viên P4 đã quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của hiệp
định này về các vấn đề dịch vụ tài chính, đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ về khả năng
tham gia hiệp định của nước này. Tháng 9/2008 Mỹ quyết định tham gia đàm phán P4
mở rộng, tháng 11/2008 Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ việc quan tâm tham
gia đàm phán hiệp định (riêng Việt Nam tham gia đầy đủ từ tháng 11/2010). Kể từ khi
P4 được mở rộng hiệp định này được đặt tên lại là: Hiệp định Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Tiếp đến là sự tham gia của Malaysia vào tháng 11/2010, Canada
và Mexico tháng 10/2012 và Nhật Bản vào tháng 3/2013. Như vậy, TPP đã có tất cả
12 quốc gia thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương tham gia đàm phán; với sự góp
mặt của một số nền kinh tế lớn, nếu thành công đây sẽ là một khu vực kinh tế với quy
mô gần 800 triệu dân, chiếm 40% GDP và 1/3 giá trị thương mại toàn cầu.
Ngày 5/10/2015 vừa qua sau 19 vòng đàm phán và hàng loạt các cuộc tiếp xúc riêng
rẽ cũng như giữa các bộ trưởng, hiệp định TPP đã kết thúc quá trình đàm phán và
chuyển sang giai đoạn chờ chính phủ và quốc hội các nước phê duyệt. TPP đang được
xem là một hiệp định mẫu mực cho thế kỷ 21, không chỉ bởi mức độ tự do hóa
thương mại và sự mở cửa đầu tư sâu rộng chưa từng có, mà còn do sự vượt trội về
tầm vóc và sức ảnh hưởng của nó so với các hiệp định khác. 1 Cụ thể là: Về thuế quan,
1 Về lĩnh

vực đàm phán TPP đã tổng kết được 21 hạng mục: Tiếp cận thị trường hàng hóa, quy
tắc xuất xứ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, SPS (Vệ sinh và Kiểm dịch thực phẩm), TBT (Hàng
rào kỹ thuật trong thương mại)….
1




cắt giảm hầu hết các dòng thuế quan (ít nhất 90%), thực hiện ngay hoặc với lộ trình
rất ngắn; về dịch vụ, tăng cường mở cửa các lĩnh vực dịch vụ nhất là với dịch vụ tài
chính; về đầu tư, tăng cường các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng như
bảo vệ nhà đầu tư; về quyền sở hữu trí tuệ, tăng mức độ về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ thêm một bậc so với WTO; về SPS, TPT, siết chặt hơn các yêu cầu về vệ sinh dịch
tễ và rảo cản kỹ thuật; về cạnh tranh và mua sắm công, thúc đẩy tăng cường cạnh
tranh, về các vấn đề lao động và phi thương mại khác, tăng cường quy định về bảo hộ
lao động, quyền lợi người lao động và các đòi hỏi về môi trường đối với hàng hóa.
2. Bối cảnh Việt Nam tham gia đàm phán gia nhập TPP

Xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác và hòa bình vẫn là xu thế phổ biến và bao trùm lên
tình hình chung toàn cầu; hầu hết các quốc gia trên thế giới tích cực thúc đẩy phát
triển kinh tế, đồng thời gia tăng hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường thế
giới ngày càng phát triển và có nhiều những vai trò ảnh hưởng sâu rộng hơn đến toàn
bộ đời sống nhân loại. Các hiệp định hợp tác song phương, các khu vực mậu dịch tự
do giữa các nước, hợp tác kinh tế quốc tế và toàn cầu diễn ra mạnh mẽ, hàng loạt các
cơ chế, mô hình hợp tác kinh tế quốc tế ra đời và đạt được nhiều những thành công
(WTO, APEC, ASEAN, NAFTA…)
Bản thân Việt Nam cũng có nhiều vấn đề nội tại thúc đẩy quá trình gia nhập kể trên,
quyết định hơn cả là về yếu tố kinh tế. Sau hơn 30 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã
có nhiều những chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được những con
số ấn tượng từ 4.4% giai đoạn 1986-1990, đã tăng lên 8.2% giai đoạn 1991-1995 và
7.6% giai đoạn 1996-2000. Bước sang thế kỷ 21, nền kinh tế vẫn đạt mức tăng trưởng
tương đối cao, ở mức trên 6%/năm, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc
hậu GDP/người năm 2003 ở mức 471 USD/năm thì năm 2015 đã đạt 2.300 USD/năm;
quy mô kinh tế đã đạt trên 200 tỷ USD 2. Tuy nhiên, trong những năm qua đặc biệt từ
khi tham gia WTO (2007), một phần do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài
2Nhìn


lại 30 năm đổi mới: Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế, Báo Nhân dân.
2


chính toàn cầu, mặt khác do tồn tại những yếu kém, những hạn chế về động lực phát
triển và đổi mới nên nền kinh tế Việt Nam đã có bước chững lại so với các giai đoạn
trước đây. Giai đoạn từ 2007 – 2011 tăng trưởng kinh tế Việt Nam chỉ đạt 6.5%,
không đạt chỉ tiêu 7.5 – 8% đã đặt ra trước đó, năm 2009 thậm chí tăng trưởng kinh tế
chỉ đạt mức 5.3%3, và tình hình lạm phát tăng cao; một điều đáng nó nữa là các lĩnh
vực kinh tế then chốt cần được phát triển mạnh như công nghiệp – xây dựng và dịch
vụ đều có bước thụt lùi. Vì vậy, tham gia TPP chính là cơ hội để Việt Nam thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đặc biệt khi mà trong những năm qua kinh tế Việt Nam chủ yếu
dựa vào đầu tư công và thương mại quốc tế. Trong khi việc sử dụng ngân sách bừa bãi
để kích cầu, cùng với việc sức mua thị trường còn nhỏ và khối doanh nghiệp còn yếu
thì việc gia nhập TPP chính là lối thoát cho thị trường và động lực cho phát triển kinh
tế.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam tích cực và quyết tâm tham gia vào TPP là một yếu tố
khá bất ngờ vì xét toàn diện, Việt Nam là nước có nền kinh tế yếu nhất, sức cạnh tranh
kém và hệ thống pháp luật lỏng lẽo, đồng thời cũng chưa thực sự có nhiều kinh
nghiệm để tham gia một sân chơi thực sự sâu rộng như TPP. Song, việc Hoa Kỳ tham
gia và sức hấp dẫn của thị trường này, cùng với nội tại Việt Nam cần thay đổi và thúc
đẩy phát triển chính là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình nói trên. Cụ thể là, sau
khi gia nhập WTO tốc độ cải cách và hội nhập của Việt Nam còn chậm, các doanh
nghiệp nhà nước vẫn được coi là xương sống của nền kinh tế song có mức tăng
trưởng chậm, kém hiệu quả; đồng thời việc cải cách các doanh nghiệp này cũng khó
khăn do có nhiều ràng buộc, đặc biệt là sức ép cải cách chưa đủ. Kết hợp với đó là sự
sụt giảm nguồn vốn đầu tư do khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu (2008) đã gây
khó khăn không hề nhỏ cho nền kinh tế, hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước cũng
lâm vào phá sản. Thực tế kể trên, đòi hỏi việc Việt Nam phải có những biện pháp

mạnh tay để khắc phục, tạo sức ép cải cách đồng thời xây dựng một nền kinh tế thị

3 Tổng

cục thống kê
3


trường thực sự; TPP chính là một trong những công cụ đang được mong đợi sẽ góp
phần to lớn cho bước đi nói trên.
Chính thực tế từ xu hướng toàn cầu, cùng với sự hấp dẫn của TPP kể từ khi Mỹ gia
nhập cùng những lĩnh vực và phạm vi điều chỉnh của hiệp định nói trên, cũng như nhu
cầu từ chính thực tại Việt Nam cần những tiền đề để thúc đẩy quá trình đổi mới và hội
nhập toàn diện, đã thúc đẩy Việt Nam tích cực tham gia vào quá trình đàm phán hiệp
định TPP. TPP là động lực để Việt Nam thay đổi, cải cách một cách mạnh mẽ, đồng
bộ về chiến lược, phương thức vận hành và tạo ra động lực mạnh mẽ để phát triển
kinh tế. Đây là thời cơ lớn cho Việt Nam nếu biết tận dụng và phát huy nội lực của
mình; song để làm được điều này đòi hỏi sự tập trung, quyết tâm của cả hệ thống
chính trị.
3. Cơ hội

Với quy mô của TPP cũng như việc tham gia của 2 trong 3 nước nhập khẩu hàng đầu
các mặt hàng của Việt Nam, TPP chính là cơ hội để Việt Nam gia tăng hơn nữa giá trị
xuất khẩu. Việc gia nhập TPP của Việt Nam rõ ràng sẽ góp phần không nhỏ vào việc
nâng cao vị thế của Việt Nam trong khía cạnh cạnh tranh kinh tế, thương mại và thu
hút đầu tư nước ngoài. Xét về kinh tế, các chuyên gia và các công trình nghiên cứu
đều cho rằng, Việt Nam sẽ là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP, trong đó chỉ
tính riêng xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2025 sẽ tăng thêm 25.8%4.
Một là, cơ hội tăng trưởng mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu đặc biệt là các mặt hàng
Việt Nam có nhiều lợi thế và kinh nghiệm. Trong đó, đầu tiên phải kể đến ngành dệt

may, hiện nay dệt may vẫn đang là ngành hàng xuất khẩu chủ lực với tốc độ tăng
trưởng cao (giai đoạn 2004 – 2014 là 19%, đóng góp từ 10 – 15% GDP) với thị phần
từ 4-5% thị phần toàn cầu5. Với kinh nghiệm, quy mô xuất khẩu cùng với việc xóa bỏ
thuế trong tương lai thì đây chính là cơ hội lớn cho dệt may Việt Nam; hiện nay thị
4

Số liệu nghiên cứu của East – West Center.

5

Hiệp hội Dệt – May Việt Nam.
4


trường TPP đang chiếm gần 60% kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may, trong đó
riêng Hoa Kỳ chiếm 43%, và Nhật Bản là 11% thị phần. Với cam kết đưa mức thuế về
0%, thì chỉ tính riêng thị trường Hoa Kỳ (với khoảng 1000 dòng thuế, và mức thuế
17.5%)6 ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước cơ hội vô cùng to lớn.
Đối với ngành Thủy sản, chỉ tính riêng trong năm 2012 hai thị trường chủ lực là Hoa
Kỳ và Nhật Bản đã chiếm khoảng 35% kim ngạch xuất khẩu 7; bên cạnh đó các sản
phẩm nông sản như gạo, hồ tiêu, cà phê…của Việt Nam cũng có cơ hội, chỉ tính riêng
xuất khẩu gạo các nước TPP cũng chiếm tới 25,26% kim ngạch xuất khẩu, trong đó
thị trường lớn nhất là Malaysia, tiếp đến là Hoa Kỳ 8. Tuy các dòng thuế còn rất ít và
mức thuế suất áp dụng của các nước TPP cho hai mặt hàng trên của Việt Nam là
tương đối thấp, song cơ hội đối với Việt Nam vẫn rất sáng sủa khi mà nhu cầu của các
thành viên TPP vẫn lớn và Việt Nam cũng không có nhiều đối thủ cạnh tranh.
Hai là, cơ hội lớn về thu hút đầu tư nước ngoài trước hết là về vốn. Việc tham gia vào
TPP giúp Việt Nam tiếp cận gần hơn đến các thị trường rộng lớn, đồng thời việc minh
bạch hóa, cải thiện môi trường đầu tư, chính sách pháp luật, quyền sở hữu trí tuệ… sẽ
là yếu tố thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc các quốc gia khác ở ASEAN hay Trung

Quốc tăng cường đầu tư cho Việt Nam để tận dụng lợi thế thành viên TPP của Việt
Nam là hoàn toàn có cơ sở, bên cạnh đó cơ hội thu hút đầu tư từ chính các nước thành
viên TPP cũng là sáng sủa. Bên cạnh việc thu hút nguồn vốn, chính TPP cũng mang
lại cơ hội cho việc thu hút công nghệ nguồn, cải thiện tình trạng kém phát triển về
công nghệ; từ các quốc gia như Hoa Kỳ, New Zealand, Australia… góp phần thúc đẩy
Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu.

6

Báo cáo năng lực cạnh tranh, Hiệp hội Dệt – May Việt Nam.

7

Cơ hội TPP: Thủy sản và chăn nuôi.

Hà Văn Hội (2015), Tham gia TPP cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt
Nam,Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, số 1/31, tr 1-10.
8

5


Ba là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế đất nước. Việc tham gia TPP sẽ
giúp Việt Nam có thêm điều kiện để triển khai những chủ trương về hội nhập quốc tế
mà Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra, đây cũng chính là cơ hội để Việt Nam tăng cường
quan hệ với các đối tác lớn, các đối tác chiến lược như Mỹ, Nhật Bản. Đồng thời việc
tích cực, quyết tâm tham gia TPP với các điều khoản mới, mạnh mẽ, có đòi hỏi cao về
sức cạnh tranh, tự do hóa, sản phẩm, dịch vụ, môi trường… chứng tỏ cho quyết tâm
đổi mới mạnh mẽ của chính phủ Việt Nam; đây chính là cơ sở làm tăng tính hấp dẫn,
uy tín của thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.

Bốn là, góp phần vào việc hình thành một cơ cấu kinh tế toàn diện hơn, giảm thiểu sự
lệ thuộc vào một thị trường nhất định. Với một nền kinh tế cơ bản là gia công lắp ráp,
việc tham gia TPP với những đòi hỏi rất cao về nguồn gốc xuất xứ chính là cơ sở để
kích thích các nhà đầu tư nội địa cũng như đầu tư nước ngoài đầu tư sản xuất phụ
kiện, linh kiện tại Việt Nam, tạo nguồn nguyên liệu sản xuất ngay tại chỗ. Ngoài ra,
việc nhập siêu hay phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc trong những năm
qua cũng đang được hy vọng sẽ được giảm thiểu do sự cạnh tranh khốc liệt từ TPP.
Năm là, cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế hướng xuất khẩu, thể chế
kinh tế thị trường được hoàn thiện hơn cùng với việc cải cách hệ thống doanh nghiệp
trong nước đang là những yếu tố nội tại được kỳ vọng lớn góp phần thay đổi bộ mặt
đất nước. Bên cạnh đó, việc tiếp cận gần hơn với các thị trường rộng lớn, và cơ hội to
lớn thúc đẩy quá trình thu hút đầu tư nước ngoài là kịch bản đang được đánh giá rất
sáng sủa mang lại bộ mặt mới cho kinh tế Việt Nam. Theo đó, dự báo GDP Việt Nam
khi gia nhập TPP sẽ tăng lên khoảng 235 tỷ USD vào năm 2025, với tỷ lệ tăng khoảng
14.27% so với thời điểm hiện tại9.
Sáu là, cơ hội thúc đẩy cải cách cơ thể chế, tái cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế, đặc biệt là việc hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường. Sau 30 năm đổi mới
nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành công đáng khích lệ, đồng thời quá
9

East – West Center.
6


trình này cũng chứng minh việc mở cửa và hội nhập chính là cơ sở quan trọng để thúc
đẩy phát triển nền kinh tế. TPP được xây dựng với một yêu cầu chung là sự cạnh tranh
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước; thực tế
đặt ra cho Việt Nam là phải tạo cơ sở cho việc tham gia một sân chơi chung hoàn toàn
bình đẳng và minh bạch, khác với nền kinh tế còn nhiều bảo hộ và ưu tiên khối doanh
nghiệp nhà nước như hiện tại. TPP tồn tại những quy định rõ ràng về cơ sở pháp lý,

luật chơi chung không cho pháp việc ưu tiên, hay đối đãi khác biệt với bất kỳ doanh
nghiệp nào. Với yêu cầu minh bạch và sự ràng buộc pháp lý cao, đây chính là tiền đề
quan trọng để Việt Nam thay đổi cơ cấu pháp lý, luật chơi, tiến hành cải cách và đổi
mới thị trường một cách sâu rộng và toàn diện, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của
các thành phần kinh tế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như quốc gia.
4. Thách thức

Trong số các quốc gia tham gia đàm phán hiệp định TPP Việt Nam là một quốc gia
đang phát triển với trình độ phát triển thấp nhất trong khối, thách thức mà Việt Nam
phải đối mặt khi tham gia TPP là không hề nhỏ.
Một là, thách thức về mở cửa thị trường và gia tăng sự cạnh tranh. Nhìn chung năng
lực cạnh tranh của Việt Nam còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều kẽ hở và bất cập
hơn hẳn các quốc gia khác, bên cạnh đó mức thuế bảo hộ về hàng hóa nhập khẩu của
Việt Nam là cao hơn hẳn các quốc gia khác. Điều này đặt ra một thực tế khi đàm phán
TPP kết thúc và có hiệu lực việc điều chỉnh giảm nhanh và cắt bỏ hầu hết các loại thế
sẽ gây khó khăn không hề nhỏ cho nền kinh tế. Vì vậy, nếu không chuẩn bị tốt, nền
kinh tế và hệ thống doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp vô cùng nhiều khó khăn đặc biệt là
công nghiệp nặng, công nghiệp ô tô, các ngành chăn nuôi lợn, gà, bò… Kể cả đối với
các ngành vốn được coi là có thế mạnh là nông sản cũng có nguy cơ đối mặt với khó
khăn bởi hình thức sản xuất manh mún, thiếu đồng bộ và chất lượng chưa cao.
Độ mở của nền kinh tế Việt Nam thực chất còn thấp, và còn được bảo hộ nhiều hơn
bất cứ quốc gia thành viên TPP nào; các FTA Việt Nam tham gia chủ yếu đang ở cấp
7


độ 1, trong khi TPP đang được coi là một FTA điển hình, vượt trên cả FTA cấp độ 3.
Nhìn nhận một cách thực tế, thị trường dịch vụ, lao động, khoa học – công nghệ… ở
Việt Nam vẫn chưa phát triển hoàn chỉnh, hoặc còn đang manh nha, chịu sự bảo hộ
lớn của nhà nước. Vì vậy, khi TPP chính thức có hiệu lực Việt Nam sẽ đứng trước
nguy cơ cạnh tranh và đầu tư mạnh mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài vào các lĩnh

vực này, kể cả đối với các lĩnh vực mà Việt Nam đang bắt đầu manh nha thị trường
hóa là dịch vụ viễn thông và dịch vụ tài chính. Để bảo đảm sự phát triển, đồng thời
đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu mà luật chơi của TPP đặt ra đnag là một thách thức
lớn cho Việt Nam về kinh doanh và chính sách công.
Hai là, thách thức về tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động của các doanh
nghiệp. Trước tiên là sự trì trệ của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam, nếu không tích
cực thay đổi chính sách và phương thức quản lý lạc hậu, thì cơ hội lớn sẽ trôi qua
nhanh chóng. Một bài học đắt giá cho hệ thống doanh nghiệp Việt Nam là quá trình
hội nhập WTO, các tính toán, nghiên cứu đã chỉ ra vô số những cơ hội cho Việt Nam
trong quá trình gia nhập tổ chức này; song thực tế nền kinh tế Việt Nam lại không tận
dụng được cơ hội thậm chí rơi vào thời kỳ suy thoái. Xuất phát từ chính việc thiếu
một chính sách rõ ràng, một chiến lược đồng bộ về cải cách, về khai thác cơ hội và
những bước đi lâu dài chính là nguyên nhân thất bại. Tham gia TPP với những quy
định ràng buộc chặt chẽ và rõ ràng về quy tắc xuất xứ đòi hỏi Việt Nam và các doanh
nghiệp muốn tham gia cuộc chơi và đủ sức cạnh tranh cần tái cơ cấu, phát triển toàn
diện, thay vì chỉ tập trung gia công phải phát triển mạnh mẽ công nghiệp phụ kiện và
cung cấp nguyên liệu. Ví dụ như ngành dệt may, ngành hàng được coi là có lợi thế
hàng đầu khi gia nhập TPP cũng đòi hỏi các sản phẩm dệt may phải có hàm lượng
TPP lên đến 70%; song thực tế những năm qua, ngành công nghiệp cho hỗ trợ cho dệt
may phát triển chưa đồng bộ, nguyên liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc; như vậy, khi
tham gia TPP đồng nghĩa Việt Nam đứng trước sự lựa chọn hoặc phát triển hiệu quả
ngành công nghiệp hỗ trợ dệt may để thu về lợi ích đầy đủ, hoặc nhập nguyên liệu từ

8


các nước TPP với giá thành cao, sức cạnh tranh giảm thiểu và lợi ích thu được giảm
sút đáng kể.
Bên cạnh đó, về vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là việc cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, tạo môi trường cạnh tranh công bằng và phát triển thực lực cho khối

doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng là một bài toán khó. TPP đặt ra bài toán cạnh tranh
công bằng giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước,
doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp quốc doanh; đây chính là bài toán khó cho
kinh tế Việt Nam khi khối doanh nghiệp nhà nước vốn được biết đến với vai trò
xương sống của nền kinh tế, là công cụ bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô và nguồn
thu cho ngân sách (chiếm khoảng 40% GDP). Các cam kết từ TPP có thể gây ra
những tiêu cực cho Việt Nam như tình trạng thất nghiệp và phá sản ở các doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Để chuẩn bị cho TPP Việt Nam đã tiến hành cổ
phần hóa hàng loạt những doanh nghiệp nhà nước, song việc ồ ạt thay đổi chính sách
phát triển có thể gây ra những hệ lụy khó lường cho nền kinh tế; hơn nữa, việc cổ
phần hóa có mang lại hiệu quả hoạt động hay không vẫn là một câu hỏi cần thời gian
kiểm chứng, đặc biệt khi mà năng lực cạnh tranh của khối doanh nghiệp này vốn
không được đánh giá cao nếu mất đi sự bảo hộ.
Ba là, thách thức về cải cách thể chế, cũng như xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp,
chặt chẽ. Cải cách thể chế ở đây là cải cách các quy định về việc đấu thầu về công
khai, các hoạt động mua sắm chính phủ vốn vẫn đang được duy trì một cách thiếu
công khai rõ ràng. Việc phá bỏ những quy định về đấu thầu, mua sắm chi tiêu công
vốn vẫn được xem là nhạy cảm sẽ là một bài toán không dễ dàng đối với Việt Nam vì
vốn dĩ nó chịu nhiều sự ràng buộc, và ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều nhóm lợi
ích khác nhau. Đồng thời, việc cam kết và thực hiện các quy định mang tính sâu rộng
của Việt Nam đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải nhanh chóng xây dựng và kiện toàn
hơn nữa hệ thống pháp luật, đặc biệt về sở hữu trí tuệ, môi trường, chất lượng sản
phẩm… cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện tại hệ thống pháp luật Việt Nam bị
đánh giá là còn nhiều những bất cập và kẽ hở, bên cạnh đó việc soạn thảo và triển
9


khai thực thi pháp luật cũng còn nhiều yếu kém; các cách đánh giá phát triển, các số
liệu báo cáo thống kê còn nhiều bất cập, chưa nắm bắt cho phù hợp với tiêu chuẩn
quốc tế. Vì vậy, để tham gia sâu rộng, hiệu quả và tránh những hệ lụy về sau này, một

đòi hỏi rất bức thiết là phải nhanh chóng kiện toàn hệ thống luật pháp, triển khai có
hiệu quả các quy định pháp luật, các chỉ tiêu chất lượng, phương thức đánh giá tương
xứng với toàn cầu. Song, đây là một bài toán không hề dễ dàng đối với Việt Nam.
Bốn là, sức ép từ các yếu tố phi thương mại. TPP được đánh giá là môt hiệp định vượt
trội và có những quy định rất khắt khe về sở hữu trí tuệ, về môi trường, xuất xứ sản
phẩm… đây là những thách thức cực kỳ lớn cho một quốc gia đang phát triển như
Việt Nam; thực tế, trong quá trình đàm phán những vấn đề phi thương mại là một
trong những vấn đề khó giải quyết nhất của TPP nói chung và Việt Nam nói riêng.
Những quy định về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam còn rất lỏng lẻo và yếu kém, thực tế
việc vi phạm bản quyền tác giả và sở hữu trí tuệ ở Việt Nam diễn ra vô cùng tràn lan
và khó kiểm soát. Việt Nam đang đứng hàng thứ 22 thế giới về vi phạm bản quyền với
tỷ lệ lên đến 81% năm 2011. Như vậy, để tham gia vào sân chơi TPP và tránh lâm vào
cảnh kiện tụng triền miên Việt Nam cần nhanh chóng kiện toàn hệ thống pháp luật, và
có những triển khai đồng bộ, rộng khắp để giảm thiểu những rủi ro.
Việc tham gia TPP với các điều khoản về sở hữu trí tuệ, các cam kết về môi trường,
chất lượng… cũng làm tăng cơ hội cho Việt Nam có môi trường cạnh tranh lành
mạnh, hiệu quả hơn; đây là tiền đề thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nhất là nguồn
vốn từ Mỹ. Tuy nhiên, nguy cơ của các điều khoản trên là rất lớn đặc biệt đối với các
ngành sản xuất và y tế của Việt Nam. Trước tiên, ngành y dược Việt Nam phải chịu
sức ép lớn về sản xuất, bản quyền sáng chế, nhãn hiệu… chắc chắn giá thuốc sẽ tăng
cao, chi phí y tế sẽ trở thành gánh nặng của xã hội. Các sản phẩm nông nghiệp cũng
đối mặt với nguy cơ tăng giá và chi phí sản xuất tăng cao do những quy định ngặt
nghèo về bảo hộ, về xuất xứ và chất lượng sản phẩm… với chi phí cho quá trình sản
xuất tăng, các sản phẩm phụ trợ sản xuất (phân bón, giống, thuốc trừ sâu…) cũng tăng
giá và đòi hỏi tính chuyên môn hóa cao dẫn đến nguy cơ xóa sổ nền sản xuất nông
10


nghiệp nhỏ lẻ, hộ gia đình mang tính manh mún của Việt Nam. Để điều tiết, và giảm
thiểu sự ảnh hưởng đến nền kinh tế, mà trực tiếp hơn cả là người dân hệ thống chính

trị cần có những biện pháp cụ thể và kịp thời để hạn chế nhất sự ảnh hưởng tiêu cực
và xáo trộn của vấn đề trên, đặc biệt khi đời sống người dân còn thấp.
Năm là, khoảng cách lớn về trình độ phát triển. Đây là một thách thức mang tính bao
quát bao trùm những thách thức đã được nêu. Xét về trình độ phát triển, năng lực cạnh
tranh hệ thống pháp lý… Việt Nam còn có mức chênh lệch lớn đối với các nước khác.
Việt Nam chưa có một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa, kinh tế Việt Nam chưa bảo
đảm được tính công bằng, cạnh tranh công khai và minh bạch; các quy luật đặc trưng
của nền kinh tế thị trường như cung – cầu, cạnh tranh… còn bị bỏ ngõ hoặc hạn chế.
Cạnh tranh trong nền kinh tế Việt Nam mới chủ yếu về yếu tố sản phẩm, các nhân tố
về lao động, vốn, khoa học – công nghệ… chưa đóng góp đủ vai trò của một nền kinh
tế thị trường thực chất.
Quá trình tự do hóa thương mại của Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được
xu thế toàn cầu. Dù Việt Nam đã tham gia WTO được gần 10 năm, song các quy định
về tiêu chuẩn lao động, pháp luật, sở hữu trí tuệ… còn thiếu và yếu. Chính việc hội
nhập chưa sâu, và nguyên tắc Chọn – Cho với thời hạn dài đẽ khiến quá trình đổi mới
tư duy và quyết tâm đổi mới bị trì trệ. Bên cạnh đó, quan hệ thương mại của Việt Nam
với các nước cũng còn yếu kém, chưa khai thác đúng tiềm năng, các sản phẩm gia
công, nguyên liệu thô chiếm tỷ trọng cơ bản, các mặt hàng mang lại giá trị kinh tế
thực sự cao còn ít.
Sáu là, những tác động đến chính sách đối ngoại. Mặc dù sân chơi TPP là sân chơi về
kinh tế, song trong một môi trường quan hệ quốc tế chứa đựng nhiều những mối liên
hệ ràng buộc, Việt Nam cũng cần có những tính toán hợp lý để hài hòa quan hệ với
các bên nhằm tránh rơi vào tình trạng trở thành con bài của các nước lớn. Một chính
sách ngoại giao khôn khéo, biết cách cân bằng lợi ích của các bên và phát huy tốt nội

11


lực của bản thân chính là cơ sở để bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc, và bảo đảm được
chính sách ngoại giao “độc lập – tự chủ”.


5. Đánh giá và đề xuất về quá trình Việt Nam gia nhập TPP

Việc tham gia bất cứ một sân chơi hay một quan hệ nào đều có tính hai mặt của nó,
nhìn vào thực tế TPP một hiệp định lớn, vượt trội về phương thức đã và đang đem đến
cho Việt Nam hàng loạt cơ hội song cũng không có ít thách thức. Xét một cách lý trí,
việc tích cực tham gia vào TPP của Việt Nam là một bước đi được đánh giá là táo bạo
và đúng đắn xét cả về khía cạnh kinh tế và chính trị, đối ngoại.
Xét về mặt thời điểm, đây là một thời điểm thích hợp để Việt Nam gia nhập hiệp định
kể trên. Nếu nhìn nhận một cách toàn diện, thì việc Việt Nam gia nhập TPP là đúng
đắn với xu thế toàn cầu cũng như hoàn cảnh trong nước. Thực chất, tuy tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam trong những năm qua đã có dấu hiệu chững lại, động lực cho
nền kinh tế đang mất dần đi, trong khi đó nhu cầu phát triển kinh tế nước nhà là hết
sức bức thiết đặc biệt khi mà kinh tế đang trở thành một mặt trận và một xu thế cạnh
tranh quyền lực toàn cầu. TPP là cơ sở để tạo cú hích cho nền kinh tế Việt Nam, tạo
động lực để đổi mới và phát triển nền kinh tế toàn diện. Hơn nữa, nền kinh tế Việt
Nam bộc lộ nhiều khuyết điểm yếu kém, những yếu kém này càng bộc lộ rõ khi Việt
Nam hội nhập sâu rộng hơn vào thị trường toàn cầu, những yếu kém này thực chất là
yếu kém từ trong nội tại, từ tư duy và tính cố hữu của nền kinh tế. Vì vậy, nếu xét cho
cùng TPP không mang lại những thách thức cho Việt Nam mà góp phần chỉ ra những
thách thức đó, đồng thời chỉ ra sự bức thiết về việc giải quyết những thách thức nói
trên; như vậy, TPP chính là động lực, là cơ sở để Việt Nam thay đổi, bài toán hiện tại
chỉ còn là cách thức và quyết tâm của Việt Nam trước những nguy cơ và lợi ích đang
đối mặt.
Cùng với đó, yếu tố cơ hội và lợi ích mà TPP mang lại là vô cùng to lớn. Cơ hội về
phát triển kinh tế, về phát triển thị trường, các ngành sản xuất, năng lực cạnh tranh…
12


một cách hiệu quả và toàn diện. Đồng thời đây cũng là cơ sở để Việt Nam tiếp tục

công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa trên cơ sở tham gia sâu hơn vào
thị trường toàn cầu, hoàn thiện hệ thống pháp lý và nền kinh tế thị trường.
Rõ ràng rằng, cơ hội của Việt Nam là rất lớn, song thách thức cũng không hề nhỏ; để
tận dụng triệt để các cơ hội và hạn chế tối đa những rủi ro, Việt Nam cần:


Cần có những thay đổi cụ thể về thể chế, cải cách môi trường pháp lý và kiện
toàn hệ thống pháp luật. Như đã đề cập ở trên, hệ thống pháp lý, luật pháp và thể
chế của Việt Nam còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ và chưa bảo đảm theo khuôn
khổ và thông lệ chung quốc tế. Với một sân chơi như TPP đòi hỏi Việt Nam cần
nhanh chóng có những thay đổi và kiện toàn hệ thống kể trên. Tuy rằng, đây là
một quá trình khó khăn, đòi hỏi không ít thời gian và chi phí; song chúng ta cũng
cần phải xác định rõ đây là nhân tố bức thiết và quan trọng để giúp Việt Nam
khai thác tốt cơ hội, hoàn thiện một môi trường minh bạch và hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế. Mặc khác, chính sự cải thiện các yếu tố kể trên là cơ sở quan trọng hàng
đầu cho việc thay đổi môi trường kinh doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh và
cải tổ nền kinh tế trong nước, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài; yếu tố mà

Việt Nam đang tìm kiếm và cần thiết nhất trong giai đoạn phát triển này.
• Thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, minh bạch và rõ ràng trong cạnh tranh và
mạnh tay với tham nhũng. Trong những năm qua Việt Nam đã có nhiều tiến bộ
trong công tác thủ tục hành chính, song những tồn tại bất cập vẫn còn nhiều;
đồng thời nạn tham nhũng cũng là một nguy cơ ăn mòn sức mạnh kinh tế và hệ
thống chính trị. Bài toán đặt ra là Việt Nam cần mạnh tay và có tư duy, chiến
lược rõ ràng cho việc xử lý tồn tại trên đặc biệt khi Việt Nam đang có thứ hạng
rất cao về tình trạng tham nhũng. Một yêu cầu khác của quá trình hội nhập là tính
minh bạch trong cạnh tranh, đây là yếu tố được các nhà đầu tư nước ngoài hết
sức quan tâm, tham gia sân chơi TPP với những quy định khắt khe về cạnh tranh
là cơ sở để Việt Nam chuyển mình. Để làm tốt việc này, ngay từ bây giờ Việt
Nam phải có chiến lược rõ ràng về cạnh tranh kinh tế, về khối doanh nghiệp nhà

13


nước và ngoài nhà nước để tránh bị bất ngờ khi chính thức hội nhập sâu rộng.
Đồng thời đây cũng chính là cơ sở để nâng cao sức khỏe cho doanh nghiệp nước
nhà, nâng cao năng lực hoạch định chiến lược phát triển, năng lực cạnh tranh
doanh nghiệp và quốc gia.
• Tăng cường công tác đào tạo nhân lực và nguồn lao động. Tham gia vào TPP
nước ta đứng trước thách thức rất lớn về lao động và việc làm đặc biệt khi phân
công lao động quốc tế trở nên sâu rộng và thành yếu tố cạnh tranh. Nếu không có
chiến lược rõ ràng, lao động Việt Nam sẽ thất thế và trở thành gánh nặng cho xã
hội. Bên cạnh đó, cũng cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực trình độ cao để
bắt kịp với xu thế, với nhu cầu phát triển và hội nhập; đặc biệt là nhân lực trong


các lĩnh vực về khoa học – công nghệ.
Tiếp tục đẩy mạnh cổ phẩn hóa doanh nghiệp nhà nước, tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi minh bạch và công khai, tạo cơ sở cho các cá nhân tổ chức ở
rộng ngành nghề kinh doanh, xây dựng doanh nghiệp. Việt Nam xét cả về quy
mô dân số, tiền năng và số lượng doanh nghiệp đang tồn tài thì vẫn còn rất nhiều
cơ sở cho việc phát triển các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đặc
biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ (được hưởng lợi nhiều hơn khi tham gia TPP).
Vì vậy, chính phủ cần có những biện pháp ưu tiên thực sự đối với việc phát triển
mở rộng doanh nghiệp, kinh doanh và thúc đẩy thành lập doanh nghiệp mới; mà
trước tiên là các chính sách về vốn, về môi trường đầu tư, về minh bạch hóa cạnh
tranh và thông tin cạnh tranh. Đây chính là cơ sở để khai thác hiệu quả nên kinh

tế, tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có và lao động dồi dào.
• Cần có những thông tin cụ thể, rõ ràng, tích cực tuyên truyền và thông tin về TPP
đến mọi tầng lớp nhân dân, các đơn vị kinh tế và doanh nghiệp. TPP đặt ra cơ hội

lớn, nhưng thách thức vô cùng nhiều, vì vậy chúng ta cần có những tính toán
chiến lược rõ ràng và công khai đến công chúng để tăng sự hiểu biết, thúc đẩy
quá trình sáng tạo và các bước đi mới, sáng tạo nhằm tạo ra động lực xã hội khai
thác hiệu quả những lợi thế.

14


6. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Gia nhập Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương: Cơ hội và thách thức đối với

Việt Nam và ASEAN.
2. Chu Hồng Thắng (2014), Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương: Tiến trình

đàm phán và những vấn đề đặt ra, Luận văn Thạc sĩ, Đại học KHXH&NV
(ĐHQGHN), Hà Nội.
3. Hà Văn Hội (2015), Tham gia TPP cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của

Việt Nam,Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, số 1/31, tr 1-10
4. Kỷ yếu hội thảo quốc tế (2014), Gia nhập hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình
Dương: cơ hội và thách thức đối với Việt Nam và ASEAN, Đại học KHXH&NV
(ĐHQGHN), Hà Nội.
5. Cơ hội TPP: Thủy sản và chăn nuôi
.
6. Nhìn lại 30 năm đổi mới: Những thành tự nổi bật trong phát triển kinh tế.
/>8400202-danh-gia-tong-quat-va-bai-hoc-kinh-nghiem.html
7. Agreement on the Trans-Pacific Partnership, opportunities and challenges - Our
actions.
/>8. New Challenges for Trade and Innovation Workshop, East – West Center.
/>9. Opportunities and challenges when Vietnam joins TPP.

/>10. The Trans – Pacific Parnership and Asia – Pacific Intergration: A Quantitative
Assessment, East – West Center.
/>file=1&type=node&id=33123

15



×