THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến. Một số biện pháp kích thích trẻ 5- 6 tuổi hoạt động tích cực
trong giờ học vẽ.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến. Phát triển thẩm mỹ.
3. Tác giả.
Họ và tên. Vũ Thị Huyền
Nữ
Ngày tháng/năm sinh: 18/ 10/ 1985.
Trình độ chuyên môn. Đại Học.
Chức vụ, đơn vị công tác. Giáo viên lớp 5 Tuổi Trường MN Thái Học.
Điện thoại: 0902183474.
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến. Trường Mầm non Thái học
Địa chỉ: Khu dân cư Ninh chấp 6 - Phường Thái Học - Thị xã Chí Linh Tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203586408
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu. Lớp 5 tuổi Lạc Sơn-Trường MN Thái
Học.
6. Các điều kiện cần thiết áp dụng sáng kiến.
+ Có đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị về đồ dùng, đồ chơi.
+ Giáo viên yêu nghề mến trẻ, tâm huyết tận tụy với nghề, có trình độ
chuyên môn đạt chuẩn trở lên.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu. Từ tháng 08/ 2014 đến tháng 2 năm
2015.
HỌ TÊN TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN
(ký và ghi rõ họ tên)
Vũ Thị Huyền
1
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Đề tài. Một số biện pháp kích thích trẻ 5- 6 tuổi hoạt động tích cực trong giờ
học vẽ. Sáng kiến đưa ra nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ tại
trường mầm non . Đây là những kiến thức được tổng hợp từ những kinh
nghiệm mà bản thân đã tích luỹ trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ kết hợp
với việc trao đổi học hỏi đồng nghiệp cùng các nguồn thông tin mà tôi đã mạnh
dạn đưa ra để áp dụng cho trẻ 5 tuổi hoạt động tích cực trong giờ học vẽ.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy hoạt động tạo hình đến với trẻ mầm non nói
chung và độ tuổi 5 tuổi nói riêng vẫn còn chưa sâu và đa dạng, đa số trẻ chưa
hứng thú tham gia vào hoạt động tạo hình, trẻ còn lúng túng khi thực hiện các
thao tác tạo hình như vẽ, xé dán, nặn, cắt dán, tô mầu... Được sự giúp đỡ của
Ban giám hiệu nhà trường, các bậc phụ huynh tạo mọi điều kiện nên tôi đã
mạnh dạn đưa những biện pháp vào giảng dạy để từ đó tìm ra những điểm còn
yếu, kém trong hoạt động tạo hình nhất là hoạt động vẽ cho trẻ.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Để áp dụng sáng kiến cần có những điều kiện sau:
+ Có đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị về đồ dùng, đồ chơi.
+ Giáo viên yêu nghề mến trẻ, tâm huyết tận tụy với nghề, có trình độ
chuyên môn đạt chuẩn trở lên.
Đề tài này được tiến hành nghiên cứu và thực hiện tại lớp 5 tuổi, trường mầm
non nơi tôi công tác từ thời điểm tháng 8/2014 đến tháng 2/2015. Thấy được
hoạt động tạo hình đối với trẻ là rất cần thiết và quan trọng vì vậy tôi đã mạnh
dạn đưa ra một số biện pháp nhằm kích thích trẻ 5 -6 tuổi hoạt động tích cực
trong giờ học vẽ .
3. Nội dung sáng kiến.
- Trong nội dung sáng kiến của mình, tôi đã chỉ ra được những điểm yếu
của trẻ trong hoạt động tạo hình như số trẻ có kĩ năng vẽ yếu có tỉ lệ cao, khả
năng phối mầu còn hạn chế. Khả năng sắp xếp, bố cục tranh của trẻ còn rất yếu,
số trẻ không đạt lên đến 11 trẻ chiếm 30.1%. Có đến 27.1% số trẻ chưa biết
2
cách nhận xét bài của mình, bài của bạn. Qua khảo sát, tôi thấy kỹ năng vẽ của
trẻ không đồng đều, hầu hết trẻ kỹ năng còn đạt và không đạt, trên cơ sở đó tôi
đã đề xuất 5 biện pháp sau:
- Biện pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức.
- Biện pháp 2: Luyện kĩ năng thực hành.
- Biện pháp 3: Tăng cường cơ sở vật chất.
- Biện pháp 4: Giáo viên biết cách kiểm tra, đánh giá sản phẩm của trẻ,
dạy trẻ nhận xét bài mình, bài bạn.
- Biện pháp 5: Khuyến khích bằng vật chất.
Một trong những lý do tôi lựa chọn nội dung đó là kích thích trẻ 5-6 tuổi hoạt
động tích cực trong giờ học vẽ vì hoạt động tích cực trong giờ học vẽ giúp trẻ có
điều kiện tiếp thu cái đẹp, cái tốt trong xã hội, trải nghiệm các xúc cảm, tình
cảm trong giao tiếp, học hỏi về các kỹ năng xã hội và đánh giá các hành vi văn
hóa xã hội qua các sản phẩm của trẻ..Để trẻ có đủ tự tin khám phá thế giới xung
quanh mình.
Những biện pháp này có khả năng áp dụng và triển khai rộng rãi ở tất cả
các lớp trong trường mầm non . Với từng điều kiện thực tế của lớp , tùy vào
khả năng của giáo viên và học sinh mà mức độ áp dụng có sự chênh lệch phù
hợp. Trong mỗi biện pháp tôi đều trình bày rất chi tiết cách áp dụng sáng kiến
giúp giáo viên có thể dễ dàng thực hiện.
Việc áp dụng sáng kiến sẽ mang lại những lợi ích thiết thực đó là:
- Giúp giáo viên hiểu sâu hơn, có kinh nghiệm nhiều hơn trong cách tổ
chức hoạt động tạo hình cho trẻ nhất là trong giờ học vẽ.
- Giúp trẻ có kĩ năng vẽ tốt hơn, trẻ có khả năng phối màu tốt hơn, và đặc
biệt là trẻ rất mạnh dạn tự tin vào khả năng của mình do được cô giáo và các
ban động viên, cổ vũ
- Phụ huynh quan tâm hơn đến việc học của con mà nhất là cùng kết hợp
với giáo viên và nhà trường để có những biện pháp tốt nhất để dạy trẻ vẽ.
3
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Áp dụng sáng kiến “ Một số biện pháp kích thích trẻ 5-6 tuổi hoạt động tích
cực trong giờ học vẽ” vào công tác giảng dạy các môn tạo hình nói chung và
môn dạy trẻ vẽ nói riêng, tôi nhận thấy rằng các tiết học quả thực rất thu hút trẻ
Trong sáng kiến tôi đã nêu 1 số biện pháp để phát triển ở trẻ khả năng hoạt
động trí tuệ như: óc quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng qua việc trẻ khám
phá thế giới xung quanh. Nhờ hoạt động trong giờ học vẽ giúp trẻ phát triển
khả năng phối hợp giữa tay và mắt để hoàn thiện một số kỹ năng cơ bản., trẻ
tích cực tham gia vào các hoạt động do cô giáo tổ chức, đồng thời trẻ hoạt động
hết khả năng của mình nhằm tạo nên những sản phẩm đẹp với mong muốn làm
cho cô giáo và các bạn khác thích thú và khen trẻ, bài vẽ của mình sẽ được cô
trưng bày cùng với bài của những bạn khác để làm đẹp cho không gian của lớp
học.. Phụ huynh quan tâm, tích cực kết hợp với giáo viên, với nhà trường trong
việc dạy và học cho trẻ.
5. Đề xuất kiến nghị.
Để thực hiện tốt hoạt động tạo hình cho trẻ Mầm non nói chung và
đối với trẻ 5- 6 tuổi nói riêng, tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
* Đối với trường:
- Cần tạo điều kiện hơn nữa cho giáo viên tham quan học tập ở các đơn vị bạn
để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.
- Nhà Trường cần tổ chức nhiều hoạt động tạo hình cho trẻ trong mọi lứa tuổi
trong trường.
- Làm tốt công tác tham mưu về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, tạo điều
kiện cho giáo viên tổ chức các tiết học.
* Đối với các ban ngành đoàn thể của địa phương và Thị xã.
- Phòng giáo dục đào tạo Thị Xã cần cung cấp thêm cho giáo viên tài liệu về
các hình thức, phương pháp giúp trẻ học tốt hoạt động tạo hình. Tổ chức nhiều
chuyên đề cho giáo viên học hỏi.
- Quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cung cấp các tiến bộ khoa
học kỹ thuật như: Học tập qua băng hình, đĩa ghi hình...để cung cấp thêm tư
liệu cho giáo viên.
4
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai. Trẻ em là niềm hạnh phúc của
mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc. Việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ
là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình. Đối với việc giáo
dục và phát triển nhân cách cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non, hoạt động tạo
hình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển trẻ nhỏ về các mặt
như: Thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ, thể lực và lao động.
Hoạt động tạo hình là một hoạt động học tập mang tính nghệ thuật, giúp
trẻ nhận thức thế giới xung quanh và phản ánh thế giới thông qua các hình
tượng nghệ thuật, trong các hình thức hoạt động mang tính nghệ thuật. Ở
trường mầm non có rất nhiều các hoạt động, nhiều môn học phát triển toàn diện
cho trẻ mẫu giáo, là cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới. Trẻ biết sáng
tạo, lao động trong tương lai. Chính vì vậy việc thực hiện tốt các hoạt động tạo
hình trong trường mầm non sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Những sản phẩm trẻ tạo ra rất
đơn giản, ngộ nghĩnh sinh động. Trẻ biết đánh giá khái quát cao, trẻ phản ánh
ấn tượng của bản thân phụ thuộc vào thực tế. Trẻ rất thích sử dụng mầu sắc sặc
sỡ mang tính chất phản ánh biểu tượng, mỗi sản phẩm của trẻ mang một nội
dung,một tên gọi khác nhau. Trẻ tham gia vào hoạt động tạo hình đã giúp trẻ
hình thành các đức tính tốt như: yêu cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp.
Trong thực tế việc tổ chức các hoạt động tạo hình theo phương pháp hiện hành
cũng đã mang lại hiệu quả tới việc phát triển nhân cách.
Song phương pháp đó chưa thực sự đáp ứng và chưa phát huy hết khả
năng sáng tạo. Các phương pháp hoạt động tạo hình lâu nay đang được sử dụng
còn mang tính áp đặt, dập khuôn theo mẫu, sao chép chưa phát huy hết khả
năng sáng tạo và sự linh hoạt của người giáo viên khi tổ chức hoạt động tạo
hình.Vậy giáo viên phải làm gì? làm như thế nào để trẻ có thể vẽ, nặn, cắt, tô
mầu và làm đẹp sản phẩm.
5
Nhận thức rõ trách nhiệm của giáo viên mầm non trong giai đoạn phát triển
hiện nay. Như Nghị Quyết hội nghị lần thứ hai BCH TƯ Đảng ( khóa VIII) đã
nêu “Giáo viên mầm non là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã
hội tôn vinh, giáo viên phải có đủ đức đủ tài”. Do nhận thức được tầm quan
trọng của hoạt động tạo hình đối với trẻ Mầm non nên tôi đã đi sâu nghiên cứu,
tìm tòi, và chọn để nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp kích thích trẻ 5- 6
tuổi hoạt động tích cực trong giờ học vẽ. tôi hy vọng đó là đề tài trước tiên để
phục vụ tốt cho chuyên môn của bản thân, đồng thời cũng là tài liệu cho đồng
nghiệp cùng tham khảo, để có thể nâng cao chất lượng việc dạy và học hoạt
động tạo hình trong trường mầm non.
2.Cơ sở lý luận
Đường nét, hình dạng là những dấu hiệu đầu tiên của hình vẽ giúp trẻ
nhận ra và hiểu đựơc mối liên hệ giữa sự vật thật với hình ảnh biểu đạt sự vật
đó. Tính chất của các dấu vết khác nhau do vận động của tay với bút để lại giúp
trẻ hiểu được khả năng thông báo và khả năng biểu cảm rất dồi dào của đường
nét và hình dạng.
Đối với trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn đường nét, hình dạng được xem là
phương tiện tạo hình cơ bản và được trẻ sử dụng triệt để. Tuy nhiên, trẻ sử
dụng chúng không như người lớn. Khi dựng hình, người họa sĩ sử dụng tích
cực vốn biểu tượng, hình tuợng mà mình có và lựa chọn cẩn thận từ đó các yếu
tố cần thiết, thích hợp để sắp xếp, tạo nên hình tượng nghệ thuật. Trẻ nhỏ lại
thường tạo nên hình tượng của mình từ những chi tiết ngẫu nhiên nào đó mà
chúng liên hệ từ những đường nét, hình thù méo mó, lộn xộn đã được chúng
tạo nên, hoặc đã ghi lại trong trí nhớ. Tiếp đó, trẻ tìm cách bổ sung dần dần và
làm cho “hình tượng nghệ thuật” của mình trở nên đầy đủ hơn, và có nội dung
rễ hơn bằng các phương tiện “phi tạo hình” như âm thanh, lời nói, các tên gọi,
các cử chỉ, điệu bộ.
Đường nét và hình dạng trong tranh vẽ của trẻ được hình thành và phát
triển cùng chức năng kí hiệu trong một quá trình lâu dài, cụ thể là: các hình vẽ
6
mà ban đầu là thường gồm những nét rời rạc, các hình ảnh bao gồm các “bộ
phận” dường như bị “văng ra, không có sự liên kết”. Cùng với thời gian và sự
phát triển nhận thức của trẻ, các hình vẽ rời rạc bắt đầu được bao bọc bởi nét
vòng hoặc được nối lại với nhau bằng một số nét vạch để tạo nên một chỉnh thể
có tên gọi chung chung. Cùng với thời gian và sự lớn lên của trẻ, dần dần các
cấu trúc sơ đồ với các đường nét, hình thù dính kết được xuất hiện một cách có
chủ định từ mô hình tâm lý (hình ảnh tinh thần). Đây là một bước tiến rất quan
trọng làm phát triển chức năng tạo hình của các đường nét, hình dạng. Giai
đoạn miêu tả bằng các đường nét và hình thù khái quát mang tính sơ đồ sẽ kéo
dài rất lâu (thậm chí tới tuổi học sinh phổ thông) nếu như trẻ không nhận được
sự trợ giúp của người lớn trong việc tổ chức quá trình tri giác để mở rộng vốn
biểu tượng, phát triển hình tượng. Do sự tăng nên của vốn hiểu biết (mà chủ
yếu có được nhờ tri giác) hình vẽ của trẻ sẽ ngày càng ttrở nên phức tạp bởi sự
bổ sung các chi tiết, các đường nét mới. Tuy nhiên, sự hoàn thiện về mặt thẩm
mĩ của hình vẽ không chỉ căn cứ vào sự tăng lên của số lượng chi tiết mà còn ở
chất lượng của nét, hình vẽ, ở sự liên kết hợp lý của các chi tiết trong một chỉnh
thể có cấu trúc trọn vẹn, ở tính mềm mại, liên tục của đường nét nhằm tạo nên
dáng vẻ sinh động thể hiện trạng thái vận động của sự vật thể hiện suy nghĩ,
thái độ của trẻ.
Khả năng thể hiện tính truyền cảm của đường nét, hình dạng trong tranh
vẽ của trẻ được phát triển theo từng lứa tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ
mẫu giáo lớn đã hiểu được các chức năng thẩm mĩ của các đường nét, các hình
dạng. Ở tuổi này, trẻ có khả năng phân biệt và học điều chình đường nét để vẽ
nhiều loại hình hình học có quan hệ gần gũi với nhau như hình tròn – hình
ôvan, hình vuông – hình chữ nhật, các dạng hình tam giác như cây, ô tô, con
vật,…Khả năng này tạo điều kiện cho trẻ dễ dàng mở rộng phạm vi các đối
tượng miêu tả tự chọn. Tuy nhiên, các hình vẽ của trẻ 5-6 tuổi còn mang tính
chất lắp ráp và còn gần gũi với các hình hình học cơ bản. Trong hoạt động tạo
hình, trẻ 5-6 tuổi rất dễ tiếp thu và hình thành các khuôn mẫu, sơ đồ “đông
cứng”. Hiện tượng này xảy ra là do mâu thuẫn giữa một bên là sự phát triển
7
mạnh của khả năng bắt chước trong vận động, của nhu cầu giao tiếp, biểu cảm
với bên kia là sự hạn chế của khả năng tri giác và vốn kinh nghiệm tri giác
thẩm mĩ.
Đối với việc thể hiện mầu sắc của trẻ 5-6 tuổi thì trẻ sử dụng “mầu bắt
chước” - nghĩa là vẽ mầu tương ứng với mầu của mọi vật trong hiện thực.
Trong quá trình học vẽ, trẻ nhận biết, phân biệt màu sắc của một số đồ vật, hoa
quả như một dấu hiệu bắt buộc, như nét đặc thù của mọi vật và vẽ các hình
bằng những màu “quy định bắt buộc”đó mà không cần quan tâm tới sự biến đổi
màu sắc rất sinh động do đặc điểm chiếu sáng, đặc điểm thời gian, không gian
trong hiện thực.
Ngoài đường nét, hình dạng, máu sắc, trẻ mẫu giáo lớn còn sử dụng
trong hoạt động vẽ một phương tiện truyền cảm khác, đó là sự sắp xếp vị trí các
hình ảnh trong không gian hay còn gọi là xây dựng bố cục. Tri giác không gian
và tư duy không gian phát triển giúp trẻ ở lứa tuổi này có thể liên hệ giữa
không gian ba chiều của khung cảnh hiện thựcvới không gian hai chiều trên tờ
giấy vẽ, trẻ tập trung sắp xếp các hình ảnh, trong đó đã phân biệt đối tượng
miêu tả chính trên nền của các thành phần thứ yếu. Từ sự thể hiện nhịp điệu
của sự lặp đi, lặp lại các yếu tố giống nhau, trẻ bắt đầu quan sát và làm quen
với cách sắp xếp theo nhịp xen kẽ chính xác đều đặn kiểu hoa văn trang trí như
trang trí cái đĩa hay trang trí đường diềm tới sự xen kẽ nhưng không theo trình
tự chặt chẽ, gần gũi với hiện thực sinh động.
3. Thực trạng liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu.
Năm 2014 -2015 tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi.
Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi có được một số thuận lợi và gặp những
khó khăn sau:
3.1. Thuận lợi
- Lớp được sự quan tâm của Ban Giám Hiệu, tạo điều kiện về cơ sở vật chất
cũng như đồ dùng học tập của các cháu.
- Lớp học rộng rãi, thoáng mát.
8
- Giáo viên có trình độ chuyên môn, nắm vững kỹ năng dạy tạo hình.
- 40% trẻ có khả năng tạo hình.
3.2. Khó khăn
- 60% số trẻ yếu về kỹ năng vẽ, nhiều bài vẽ chưa đạt yêu cầu, sự sáng tạo và
thể hiện bố cục bức tranh còn yếu,chưa biết phối hợp các mảng mầu, khả năng
nhận xét tranh của trẻ kém.
- Một số trẻ còn mải chơi, chưa hứng thú tập trung chú ý trong giờ học vẽ.
- Nhiều phụ huynh chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng của việc học
vẽ.
Từ thực trạng về việc học vẽ của trẻ, để có phương pháp dạy đúng và tạo
hứng thú cho trẻ hoạt động tích cực trong giờ học vẽ đồng thời phát triển khả
năng tư duy, trí tưởng tượng, sáng tạo cho trẻ, tôi đã tiến hành khảo sát tình
hình thực tế như sau :
Ngay từ đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát phân loại kỹ năng vẽ của trẻ
thể hiện qua số liệu sau (lớp tôi chủ nhiệm có 36 trẻ):
*Khảo sát.
Nội dung khảo
sát
Khả năng tập
Tốt
Khả năng phối
màu
Bố cục tranh
Nhận xét sản
phẩm
Đạt
Không đạt
Số
Tỉ
Số
Tỉ
Số
Tỉ
Số
Tỉ
trẻ
12
lệ(%)
trẻ
lệ(%)
trẻ
lệ(%)
trẻ
lệ(%)
33
14
38.2
5
13
5
13
5
13
7
19.1
13
36
10
27.1
5
13
8
22.1
13
36
10
27.1
5
13
7
19.1
13
36
11
30.1
4
11
11
30.
10
27.1
10
27.1
trung chú ý
Kỹ năng vẽ
Khá
* Đánh giá
9
Qua khảo sát tôi nhận thấy:
- Số trẻ tập trung chú ý có tỉ lệ cao: 33%, như vật đây chính là một điều
kiện thuận lợi để tôi có thể truyền đạt kiến thức một cách hiệu quả đến
cho trẻ
- Số trẻ có kĩ năng vẽ yếu có tỉ lệ cao, khả năng phối mầu còn hạn chế
- Khả năng sắp xếp, bố cục tranh của trẻ còn rất yếu, số trẻ không đạt lên
đến 11 trẻ chiếm 30.1%.
- 27.1% số trẻ chưa biết cách nhận xét bài của mình, bài của bạn.
Qua khảo sát, tôi thấy kỹ năng vẽ của trẻ không đồng đều, hầu hết trẻ kỹ năng
còn đạt và không đạt.
4. Các biện pháp thực hiện.
Để thực hiện được nhiệm vụ của đề tài đặt ra , sau khi đã khảo sát, đánh
giá trẻ vào đầu năm học tôi bắt đầu đi vào tìm ra những biện pháp để khắc phục
những tình trạng đó bằng cách:
4.1.Biện pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức.
Thu hút được sự chú ý của trẻ vừa dễ lại vừa khó vì trẻ rất hào hứng trước
những điều mới lạ, nhưng dễ chán với những gì quen thuộc. Vì vậy, tôi luôn
suy nghĩ thay đổi hình thức vào bài sao cho sinh động, hấp dẫn bằng cách dùng
những câu nói nhẹ nhàng , nét mặt vui tươi, sử dụng các trò chơi... tạo tình
huống bất ngờ để thu hút sự chú ý của trẻ vào giờ học. Qua đó, ngay từ đầu
giáo viên đã lôi cuốn trẻ chú ý, không khí giờ học trở nên hào hứng, không gò
bó mà vẫn đạt kết quả cao.Tôi luôn cố gắng tạo điều kiện để trẻ được tham gia
đầy đủ mọi hoạt động từ đó mà trẻ có cơ hội được quan sát, khám phá mọi sự
vật hiện tượng xung quanh từ đó mở rộng kiến thức cho trẻ có điều kiện lĩnh
hội tri thức mở mang tầm nhìn. Trẻ được trực tiếp tri giác, tìm hiểu, nghiên cứu
các đối tượng miêu tả để có được hiểu biết, sự hình dung về chúng, để từ đó
xây dựng các biểu tượng.
10
Ví dụ 1: + Trước giờ dạy trẻ vẽ con gà mái hay con gà trống tôi đã tạo điều
kiện cho trẻ quan sát một con gà mái và con gà trống thực sự để từ đó trẻ có
kiến thức và những hình dung thực tế khi vẽ con gà. Sau đó cho trẻ quan sat
hình ảnh vê con gà.
+ Trong những giờ hoạt động ngoài trời, tôi cũng thường tổ chức cho trẻ các
giờ vẽ tự do trên sân trường, tôi luôn khuyến khích trẻ quan sát và vẽ những gì
xung quanh trẻ mà trẻ yêu thích và có hứng thú.Trước khi tiến hành giảng dạy
bất cứ môn học nào nói chung hay môn dạy trẻ vẽ nói riêng thì điều đầu tiên
không thể thiếu được là sự chuẩn bị của giáo viên. càng có sự chuẩn bị chu đáo,
chịu khó suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo thì kết quả giờ dạy càng cao. Nhận thức
được tầm quan trọng của việc chuẩn bị này nên trước khi tiến hành giảng dạy
bất cứ một bài dạy vẽ nào trong chương trình tôi đều chuẩn bị cho mình, cho
trẻ những điều cần thiết.Trước hết là phần bài sọan của mình, bởi có xác định
đúng mục đích, yêu cầu của bài đề ra thì mới có sự định hưóng để hướng dẫn
trẻ tiếp thu bài tốt được. Mục đích yêu cầu của bài đề ra có phù hợp với nhận
thức của trẻ thì kết quả giảng dạy và học tập mới cao được. Sau khi đã hoàn
thành phần bài soạn theo đúng yêu cầu thì tôi tiến hành nghiên cứu và làm đồ
dùng giảng dạy phù hợp với tiết dạy của mình. Tôi luôn ưu tiên sử dụng những
loại nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm, phổ biến ở địa phương
11
.Ví dụ 2: Tôi có sưu tập một bộ thuyền, hay những vỏ sò vỏ ngao, cành cây
khô hay hoa cỏ khô để trẻ quan sát trong những bài vẽ cần sử dụng mô hình
cho trẻ quan sát.
Tôi ưu tiên sử dụng những mẫu vật thật cho trẻ quan sát như là các loại hoa quả
phổ biến ở địa phương cho trẻ quan sát khi vẽ.
4.2. Biện pháp 2: Luyện kĩ năng thực hành
Ngoài việc tạo hứng thú cho trẻ ở tiết học vẽ, tôi còn nghiên cứu tạo hứng
thú cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trong giờ đón trả trẻ, hoạt động ngoài trời. Ngoài
vẽ, tôi còn động viên trẻ làm đồ dùng đồ chơi trong giờ hoạt động góc. Trẻ biết
tự làm búp bê, trang trí khung ảnh , làm bưu thiếp bằng nhiều nguyên vật liệu
khác nhau, vẽ trang trí mặt nạ, làm váy áo để trình diễn thời trang ...
Được hoạt động, được chơi với sản phẩm của mình làm ra, trẻ rất thích thú tự
hào, càng say mê với môn học vẽ và làm ra các sản phẩm đồ dùng đồ chơi cho
lớp. Và từ những hoạt động này, khả năng thẩm mỹ, sự khéo léo của đôi tay trẻ
đã được nâng lên rất nhiều.
Ngoài ra, để phát huy hơn nữa khả năng vẽ của trẻ tôi đã tích hợp cho trẻ
vẽ vào các môn học khác như: văn học, toán, MTXQ,... hoặc xen kẽ vào các
hoạt động: vui chơi, ngoài trời, hoạt động chiều.
Ví dụ1 : Tích hợp vào môn toán:
Cho trẻ vẽ tranh hoa, quả hay đồ vật có chứa chữ số theo yêu cầu, hay tô màu
xanh vào khoảng trống có số 5, màu đỏ vào khoảng trống có số 8, mầu vàng
12
vào khoảng trống số 10. Sau khi tô màu xong sẽ có bức tranh phối màu nền
sinh động, rõ nét về hoa quả, hay đồ vật……
- Tích hợp vào môn văn học: Kết thúc tiết học, cho trẻ vẽ hoặc tô mầu theo ý
thích nhân vật trong truyện, hay vẽ tô tranh về nội dung bài thơ ...
Thu hút được sự chú ý của trẻ vừa dễ lại vừa khó vì trẻ rất hào hứng trước
những điều mới lạ, nhưng dễ chán với những gì quen thuộc. Vì vậy, tôi luôn
suy nghĩ thay đổi hình thức vào bài sao cho sinh động, hấp dẫn bằng cách dùng
những câu nói nhẹ nhàng , nét mặt vui tươi, sử dụng các trò chơi... tạo tình
huống bất ngờ để thu hút sự chú ý của trẻ vào giờ học. Qua đó, ngay từ đầu
giáo viên đã lôi cuốn trẻ chú ý, không khí giờ học trở nên hào hứng, không gò
bó mà vẫn đạt kết quả cao.
Ví dụ 2: Trang trí bưu thiếp Noel
Tôi trang trí lớp học theo một không gian của ngày lễ Noel( ngày
24/12/2015), có cây thông, có ông già Noel... Trẻ rất bất ngờ khi lạc vào không
gian mới lạ, tôi tạo niềm vui và sự hào hứng cho trẻ bằng cách cho trẻ hát bài
“Đêm Noel”, cho trẻ quan sát các bưu thiếp có sẵn để nhận xét về các biểu
tượng, nội dung, mầu sắc, bố cục của bưu thiếp. Sau đó hỏi trẻ ý tưởng trang trí
bưu thiếp như thế nào và tặng bưu thiếp đó cho ai?
Kết thúc giờ học, tôi treo hết bài của trẻ lên để trẻ nhận xét những bưu thiếp
của mình và của bạn và tặng tấm bưu thiềp đó cho bạn mình.
Ví dụ 3: Trong giờ học : “vẽ hoa mùa xuân”.
Tôi tạo hứng thú cho trẻ bằng cách sáng tác mấy câu thơ giới thiệu về hoa:
“Mùa xuân đã đến
Với bày trẻ thơ
Muôn hoa đua nở…
Đón chào các bạn”.
Tôi nói: “Các con ơi, mùa xuân tươi đẹp đã về, muôn hoa đua nở, cây đâm chồi
nảy lộc. Nào cô mời các con cùng đi ngắm hoa ở sân trường”. Trẻ lớp tôi rất
thích đýợc quan sát hoa trực tiếp dưới sân, trẻ được ngắm và miêu tả bằng lời
nói về đặc điểm của các loại hoa. Điều đó đã gây ấn tượng mạnh, hình thành
13
biểu tượng về hoa 1 cách chính xác. Kết quả bài của trẻ rất phong phú, đa dạng,
có nhiều sáng tạo trong miêu tả các loại hoa mùa xân.
Với cách thay đổi hình thức vào bài, qua các tiết học vẽ, tôi thấy trẻ rất tập
trung chú ý, thể hiện sự phấn chấn, sảng khoái, hứng thú và bài có kết quả cao.
4.3.Biện pháp 3: Tăng cường cơ sở vật chất
Muốn thu hút được sự chú ý của trẻ trước hết phải tạo điều kiện cho trẻ
được sống trong một không gian đẹp, đảm bảo tính thẩm mĩ. Vì vậy, tôi đã sắp
xếp, trang trí lớp học đẹp, thoáng, góc tạo hình luôn được thay đổi theo chủ
điểm. Trang trí góc tạo hình bằng chính sản phẩm của trẻ, tạo cho trẻ cảm giác
mới lạ, thích thú. Phụ huynh rất thích thú khi các sản phẩm của con em mình
được trang trí ở các góc của lớp.
Tôi cũng tham mưu cùng Ban Giám Hiệu nhà trường trong việc mua sắm
trang bị thêm đồ dùng cho trẻ sao cho tạo điều kiên tốt nhất cho tiết dạy, bên
cạnh đó tôi cũng thưỡng xuyên học hỏi kinh nghiệm bạn bè để làm thêm nhiều
đồ dùng tự tạo cho trẻ quan sát từ đó tạo được hứng thú cho trẻ trong giờ học
vẽ như : vẽ thêm tranh, tự làm những bông hoa từ vỏ hộp thạch và xốp, làm bát,
đĩa bồi bằng giấy, làm búp bê gia đình bằng cốc nhựa, làm đàn gà bằng quả cầu
lông...
… Để tăng cường tài liệu phong phú phục vụ môn vẽ, tôi thường xuyên sưu
tầm hình ảnh trên mạng để dạy trẻ.
14
Ví dụ 1: Bài:”Vẽ con vật sống trong rừng” tôi sưu tầm hình ảnh về con voi, con
khỉ, con hổ.. và cho trẻ quan sát trên máy vi tính trong chương trình powerpoint
vì vậy trẻ rất thích, gây được ấn tượng sâu sắc với trẻ nên sản phẩm của trẻ rất
sáng tạo, ngộ nghĩnh, các con vật được thể hiện với nhiều dáng vẻ khác nhau.
Ví dụ 2: Bài:”Vẽ về gia đình bé”, tôi cho trẻ xem hình ảnh về các gia đình của
các bạn trong lớp trên chương trình Powerpoint, trẻ thảo luận rất sôi nổi. Kết
quả bài vẽ của nhiều trẻ đẹp, sáng tạo, phản ánh được cảnh sinh hoạt và các
thành viên trong gia đình rất đa dạng, phong phú.
Những hình ảnh động quả thực rất thu hút sự chú ý của trẻ, tạo được hứng thú
học tập tích cực cho trẻ, từ đó nâng cao chất lượng giờ dạy và học của cô và
cháu. Môn tạo hình: không những có tác dụng về kỹ năng vẽ, cách cảm nhận
nghệ thuật về một sản phẩm tạo hình mà qua môn vẽ còn hướng trẻ tới những
giá trị: Chân – Thiện- Mỹ một cách toàn diện.
Muốn trẻ vẽ được một bức tranh đẹp thì đồ dùng của cô chuẩn bị như
tranh mẫu, vật mẫu, tranh gợi ý phải đẹp, chuẩn và mang tính thẩm mỹ, tư duy
của trẻ là tư duy trực quan hình tượng. Trẻ bị thu hút bởi các mầu sắc rực rỡ,
những hình thù ngộ nghĩnh sinh động, dưới mắt trẻ cái gì mới lạ cũng gợi cho
trẻ sự tò mò. Vì lẽ đó, muốn lôi cuốn trẻ vào giờ học vẽ, ngoài các bức tranh
bằng mầu nước, mầu sáp, tranh làm từ lá cây khô, hoa khô, tôi còn sưu tầm
nhiều tranh nghệ thuật, tranh dân gian, tranh Đông Hồ ... và làm thêm nhiều đồ
dùng mẫu bằng các chất liệu khác nhau như : tranh đàn gà bằng nen, tranh ngôi
nhà của bé bằng nguyên liệu thiên nhiên ( như lá cây, các loại hạt ...),
15
tranh Chùa Một Cột bằng len, vải vụn, một số loại quả nặn từ đất Những đồ
dùng mẫu đó đều đảm bảo về nội dung, mầu sắc, sự an toàn và sử dụng được
lâu dài, để trẻ quan sát và nhận xét, giúp trẻ tích luỹ được nhiều cảm xúc, vốn
hiểu biết để thể hiện trong tranh vẽ của mình. Từ đó phát huy được trí tưởng
tượng sáng tạo của trẻ. Đặc biệt qua các hoạt động vẽ đã phát hiện được một số
trẻ có năng khiếu về tạo hình, về vẽ, giáo viên đã trao đổi với cha mẹ học sinh
cho các cháu học thêm lớp năng khiếu để định hướng cho trẻ phát triển đúng
đắn.
Đây là bức tranh tôi đã sưu tầm trên mạng vẽ đàn gà trong sân
4.4.Biện pháp 4: Giáo viên biết cách kiểm tra , đánh giá sản phẩm của trẻ,
dạy trẻ nhận xét bài mình, bài bạn
Trẻ rất thận trọng sản phẩm của mình, vì vậy trẻ rất vui khi sản phẩm của
mình được nhiều người thích thú, khen ngợi. Chính vì vậy, việc nhận xét sản
phẩm của trẻ sao cho thật khách quan mà không làm mất hứng thú của trẻ là rất
quan trọng. Muốn dạy trẻ biết cách nhận xét tranh, giáo viên phải có sự hiểu
biết về các tác phẩm hội họa. Đặc biệt khi nhận xét về tranh vẽ của trẻ, cần dựa
trên yêu cầu của tiết học và khả năng vẽ của từng trẻ. Trong khi nhận xét tranh,
cần lưu ý khen động viên trẻ là chính, biết khơi gợi cảm xúc, ý tưởng của trẻ,
không nên trách phạt hoặc phê bình đối với trẻ chưa thực hiện được yêu cầu
của bài.
Ví dụ 1:
Bài vẽ phương tiện giao thông đường bộ“ Hồng phong” chỉ vẽ đuợc một
cái xe máy trên đường , không có các chi tiết phụ, các bạn cười và nhận xét bài
chưa đẹp. Tôi liền hỏi : “Con vẽ phương tiện gì đấy? Thế xe máy đang chở gì
16
thế ? đường này vắng xe máy nhỉ, chỉ có một xe máy đang chạy à?” ...Thật bất
ngờ và cháu Phong đã trả lời:” Đường này làm chưa xong nên chưa có cây cô
ạ,xe máy này chở hàng lúc rất sớm nên đường vắng lắm...” Tôi nói với cả lớp: “
Các con ạ, bạn Phong đang vẽ xe máy chở hàng. Cô và các bạn rất bất ngờ vì
sự tưởng tượng phong phú của bạn Phong. Nhưng tới đây khi con đường này
làm xong sẽ được trồng rất nhiều hoa và cây xanh, nhà cửa ở hai bên đường sẽ
được xây dựng ...Lúc đó bức tranh khác của bạn vẽ sẽ khác với bức tranh này,
đúng không Phong? Bác lái xe này thật chăm chỉ vì sáng sớm mọi người còn
đang ngủ mà đã dậy lái xe đi chở hàng rồi ”. Với cách nhận xét như vậy, cháu
Phong rất sung sướng và chỉ mỉm cười khi nghe cô nói, cả lớp đã vỗ một tràng
pháo tay to khen bạn Phong , qua đó ta thấy trẻ thoải mái hơn và muốn cố gắng
hơn . Khi dạy trẻ nhận xét tranh của bạn, hay giới thiệu tranh của mình, tôi đã
gợi mở, hướng dẫn trẻ cách nhận xét về nội dung, mầu sắc, bố cục bức tranh và
muốn nhận xét đầy đủ phải quan sát kỹ tác phẩm của bạn. Nếu chưa hoàn thiện
thì gợi ý cho trẻ vẽ thêm một vài chi tiết để bức tranh đẹp hơn. Nhiều lần như
vậy, trẻ sẽ biết nhận xét tranh của mình rồi biết nhận xét tranh của bạn. Vẽ
xong, tôi còn cho trẻ tự đặt tên cho bức tranh của mình. Với phương pháp như
vậy, những câu trả lời ,trẻ phấn khởi và sẽ cố gắng hơn để cô và các bạn vui vì
những sản phẩm của mình tạo ra.
4.5. Biện pháp 5: Khuyến khích bằng vật chất.
Truớc những cố gắng của trẻ, mỗi khi kết thúc một chủ điểm tôi thường
nhắc lại những thành tích và ý tưởng hay của trẻ từ đó tuyên dương và có
những phần thưởng nhỏ tặng cho trẻ để động viên trẻ cố gắng hơn ở những bài
học sau. Tôi nhận thấy trẻ rất vui và tự hào với bạn bè, bố mẹ khi trẻ được công
nhận là có tiến bộ trong học tập. Như ở ví dụ làm bưu thiếp noel khi trẻ làm
xong tôi động viên trẻ tặng nhau, hay mang về tặng người thân ..các cháu tỏ ra
rất vui. Nhờ biện pháp này mà không những trẻ vui mà phụ huynh cũng rất
phấn khởi khi thấy con mình tiến bộ và được cô, các bạn khen ngợi,
5.Kết quả
5.1. Tiêu chí đánh giá.
17
Tôi xin mạnh dạn đưa ra tiêu chí đánh giá trẻ sau khi đã nghiên cứu kĩ khả năng
của trẻ dựa trên sự tập trung chú ý, kĩ năng vẽ, kĩ năng phối màu, sắp xếp bố
cục tranh và khả năng nhận xét bài mình, bài bạn như sau:
XẾP LOẠI
Tập trung
chú ý
TỐT
KHÁ
Trẻ tập trung
Trẻ tập trung
chú ý khi học
chú y khi học
ĐẠT
KHÔNG ĐẠT
Còn chưa
Khả năng tập
tập trung chú trung chú ý
ý
kém
Có kĩ năng vẽ : Có kĩ năng vẽ Có thể thể Trẻ rất khó
nét thẳng, nét các nét cơ bản hiện 1 số nét khăn
cong,
Kĩ năng
vẽ
nét như
xiên,nét
:
xoắn thẳng,
uốn lượn. Và cong,
ghép
lại
trong
nét vẽ
nhưng việc thể hiện
nét còn
lúng các nét vẽ.
nét túng
với xiên,
khi
thực hiện.
nhau thành hình nét xoắn uốn
có ý nghĩa
lượn.
Trẻ phối màu Trẻ biết phối Biết
phối
tranh đẹp, sử màu
tranh màu
tranh
dụng và gọi tên đẹp,
phong nhưng
khả
túng trong
phú và gọi tên năng
còn
việc phối
da đúng một số chưa
thành
màu, có khi
cam, vàng, lục, màu cơ bản.
thục, hay bị
chỉ sử dụng
lam cùng các
lẫn màu.
chínhxác12
Kĩ năng
phối màu
Trẻ lúng
màu:
Đỏ,
từ 1 đến 2
màu trung tính
màu trong
như:
tranh mà
đen,
xám ,...
Sắp xếp
Biết bố cục
bố cục
tranh hợp lí.
Bước đầu biết
sắp
xếp
cục.
18
bố
Chưa biết bố Chưa biết bố
cục tranh.
cục tranh.
Biết nhận xét
Khả năng bài
nhận xét
mình
bài
bạn 1 cách tự
tin, mạch lạc.
Có thể nhận
Chỉ nhận xét
Không biết
xét bài mình
đựoc bài bạn
nhận xét bài
bài bạn tuy
khi có cô và
bạn.
nhiên chưa
các bạn gợi
được tốt
ý.
5.2 Kết quả đánh giá.
Dựa trên tiêu chí đánh giá như trên, tôi đã tiến hành xem xét và đánh giá
kết quả trên trẻ như sau:
Tốt
Nội dung
khảo sát
Khá
ĐạT
Không đạt
Tỉ
Số trẻ
lệ(%)
Số
Tỉ
Số
Tỉ
Số
Tỉ
trẻ
lệ(%)
trẻ
lệ(%)
trẻ
lệ(%)
38
20
55.2
2
5
0
0
15
41
18
50.2
4
11
0
0
11
30
14
38.1
6
16
5
13.1
9
25
11
30.1
10
27.1
6
16
Khả năng
tập trung
chú ý
14
Kỹ năng vẽ
Khả năng
phối màu
Bố cục
tranh
Nhận xét
9
25
17
47.1
6
16
6
16
sản phẩm
Nhìn vào bảng kết quả khảo sát trên, so sánh với kết quả thống kê đầu
năm học, tôi nhận thấy có sự thay đổi như sau:
Kết quả
Tốt
Tăng (%)
Khá
Tăng (%)
Đạt
Giảm (%)
Không đạt
Giảm(%)
Tập trung chú ý
5.1
16
8.
27
Kĩ năng vẽ
27
25
25.
27
16.
16
19.
13
Khả năng phối
màu
19
Bố cục tranh
11
11
8.
13
Nhận xét sản
13
16
11
11
phẩm
So sánh với cùng kỳ năm trước tôi nhận thấy số trẻ có kĩ năng vẽ tốt tăng
cao hơn, trẻ có khả năng phối màu tốt hơn, và đặc biệt là tôi nhận thấy trẻ rất
mạnh dạn tự tin vào khả năng của mình do được cô giáo và các ban động viên,
cổ vũ. Điều này thự sự làm tôi rất phấn khởi và vui sướng vào những kết quả đã
đạt được.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
- Giáo viên phải nắm vững phương pháp dạy bộ môn, thường xuyên đầu tư
phương pháp dạy học linh họat, sáng tạo trong các tiết dạy trẻ.
- Khảo sát kỹ chất lượng trẻ đầu năm để nắm được khả năng tạo hình của trẻ và
có kế hoạch dạy trẻ phù hợp.
- Tự bồi dưỡng chuyên môn, khả năng tạo hình cho bản thân, luôn thay đổi
hình thức, tạo tình huống bất ngờ để thu hút sự chú ý của trẻ vào các giờ học.
- Tích cực tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với môi trường thiên nhiên.
- Đồ dùng dạy học phải đa dạng, phong phú, tạo hứng thú cho trẻ ở mọi lúc mọi
nơi.
-Luôn tham mưu cùng Ban giám hiệu nhà trường để tìm ra phương pháp dạy
học tốt nhất, đồng thời tạo điều kiện đầy đủ về cơ sở vật chất để phục vụ tốt
cho tiết dạy của mình.
20
KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận.
Qua quá trình nghiên cứu và thực tế ở lớp, tôi đã rút ra cho mình những bài
học bổ ích giúp tôi có nhiều kinh nghiệm hơn khi lên lớp. Điều quan trọng đầu
tiên đối với trẻ là chuẩn bị tri thức cho trẻ, kết hợp với việc soạn giáo án đầy
đủ, sáng tạo và có thủ thuật lên lớp. Say mê không chưa đủ mà đòi hỏi môn tạo
hình phải phát huy hết khả năng của mình để dẫn dắt gợi mở.
Thực hiện đề tài này cá nhân tôi xoay quanh nội dung là làm sao cho trẻ tự
học tốt môn tạo hình. Tôi nghiên cứu ngay từ lớp học của mình, nghiên cứu về
trí tuệ, tình cảm của trẻ, về khả năng, năng khiếu tạo hình của trẻ với những nội
dung bài học trong chương trình tôi thấy tất cả những gì áp dụng đối với trẻ đều
phù hợp, các bài vẽ có nội dung phong phú và gần gũi với trẻ. Tôi đã sử dụng
phương pháp chính trong tiết học là quan sát, đàm thoại, ghi nhớ và tái tạo…
Với kinh nghiệm trên tôi đã áp dụng với các cháu lớp tôi và đạt kết quả rất cao,
tôi đã kịp thời và bồi dưỡng cho trẻ có năng khiếu và nhân rộng ra những trẻ
khác.
Để có được sản phẩm đẹp do trẻ tạo ra cô giáo phải là người kiên trì không
nóng vội trước kết quả của trẻ tạo ra, mà dẫn dắt bằng cả tấm lòng nhiệt tình,
sự yêu nghề của mình với vốn kiến thức đã được học đem đến cho trẻ những gì
cần thiết nhất, giúp trẻ tiến bộ ngoài ra còn phải tích luỹ kinh nghiệm học hỏi
đồng nhiệp, tham khảo tài liệu, tất cả sẽ đem lại thành công cho mình. Tạo điều
21
kiện cho trẻ hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi, động viên khích lệ trẻ tích cực tham
gia vào các hoạt động.
Thực hiện những sáng kiến trên vào công tác giảng dạy các môn tạo hình
nói chung và môn dạy trẻ vẽ nói riêng, tôi nhận thấy rằng các tiết học quả thực
rất thu hút trẻ, trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động do cô giáo tổ chức, đồng
thời trẻ hoạt động hết khả năng của mình nhằm tạo nên những sản phẩm đẹp.
Tôi nhận thấy khi tổ chức cho trẻ vẽ cần phải dùng các biện pháp vui chơi
mang tính chất bổ trợ cho sự chỉ dẫn trực quan để giúp trẻ liên hệ, tìm ra mối
quan hệ giữa đặc điểm của sự vật với các phương pháp miêu tả. Cho trẻ tích
cực sử dụng vận động của đôi tay để bổ trợ cho quá trình quan sát bằng mắt, từ
đó dễ dàng liên hệ giữa các thao tác tri giác với thao tác tạo hình. Cung cấp cho
trẻ những hiểu biết nà rèn luyện kĩ năng thực hiện các phương pháp miêu tả
khác nhau (tả hình dáng, tạo bề mặt, …) nhằm kích thích trẻ vận dụng tích cực
và tìm kiếm thêm các cách thức thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình qua tranh
vẽ. Tăng cường cho trẻ xem tranh ảnh về sự vật, hiên tượng mà trẻ ít có điều
kiện trực tiếp quan sát để mở rộng vốn kinh nghiệm.
Trong đánh giá tôi chú ý động viên những sáng kiến của riêng trẻ, đặc
biệt là những trẻ nhút nhát, yếu kếm. Chú ý tập cho trẻ không chỉ quan tâm tới
nội dung tranh mà đồng thời tập tự mình cảm nhận vẻ đẹp thực sự trong hình
thức của tranh. Nhờ đó mà trẻ đã có hứng thú hơn và tích cực hơn trong giờ học
vẽ và đã đạt được kết quả tốt.
2.Khuyến nghị.
Để thực hiện tốt hoạt động tạo hình cho trẻ Mầm non trong giai đoạn hiện
nay thông qua việc thực hiện các biện pháp trên đó phần nào đạt được một số
kết quả như đã nêu. Bản thân tôi xin có một số khuyến nghị sau :
2.1. Với Nhà trường:
- Cần tạo điều kiện hơn nữa cho giáo viên tham quan học tập ở các đơn vị bạn
để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.
22
- Nhà Trường cần tổ chức nhiều hoạt động tạo hình cho trẻ trong mọi lứa tuổi
trong trường.
- Làm tốt công tác tham mưu về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, tạo điều
kiện cho giáo viên tổ chức các tiết học.
2.2. Đối với các ban ngành đoàn thể của địa phương và Thị xã.
- Phòng giáo dục đào tạo Thị Xã cần cung cấp thêm cho giáo viên tài liệu về
các hình thức, phương pháp giúp trẻ học tốt hoạt động tạo hình. Tổ chức nhiều
chuyên đề cho giáo viên học hỏi.
- Quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cung cấp các tiến bộ khoa
học kỹ thuật như: Học tập qua băng hình, đĩa ghi hình...để cung cấp thêm tư
liệu cho giáo viên.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã thực hiện. Ban đầu đã thu được
một số kết quả đáng khích lệ. Bản thân tôi đã cố gắng rất nhiều, song không
tránh khỏi những hạn chế . Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của hội đồng
khoa học các cấp, để tôi có thêm kinh nghiệm áp dụng trong công tác giảng dạy
của mình.
Xin trân thành cảm ơn !
23
PHỤ LỤC.
Tài liệu tham khảo.
STT
Tên Tài Liệu
Nhà Xuất Bản
Năm Xuất
Bản.
Tạo hình và phương pháp
hướng dẫn hoạt động tạo hình.
1
Bộ Giáo Dục và Đào tạo, Trung
Hà Nội
1996
Giáo dục
1999
tâm Nghiên cứu Đào tạo giáo
viên, tập 1 & 2.
Tạo hình và phương pháp
2
hướng dẫn hoạt động tạo hình
cho trẻ.
Phương pháp tổ chức hoạt
3
động tạo hình cho trẻ mầm non.
Tổ chức hoạt động tạo hình
4
cho trẻ mầm non theo hướng
tích hợp.
24
Đại học sư phạm
Hà Nội
2007
Giáo dục
2007
Giáo dục Mầm non: Những
vấn đề lí luận và thực tiễn.
5
Đại học Sư phạm
2005
Phương pháp tổ chức hoạt
động tạo hình cho trẻ mầm non,
6
Đại học Sư phạm
2004
M ục lục
STT
Nội dung
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN.
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
MÔ TẢ SÁNG KIẾN.
Trang
1
2- 4
1
Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
5- 6
2
Cơ sở lý luận
3
Thực trạng liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu.
6- 8
8-10
4
Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
10- 17
5
6
Kết quả.
Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ.
Kiến nghị - đề xuất.
17- 20
20
1
Phụ lục
Tài liệu tham khảo.
21-23
24
25
Mục lục
25