Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

skkn dạy học tốt phân môn tập làm văn lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.96 KB, 44 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Sáng kiến dạy học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 5, áp dụng
cụ thể cho phần văn miêu tả.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 2 năm 2015.
4. Tác giả :
Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc Hân.
Năm sinh: 1982
Nơi thường trú: Sao Đỏ, Chí Linh, Hải Dương.
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm.
Chức vụ công tác: Giáo viên.
Nơi làm việc: Trường Tiểu học Sao Đỏ 2.
Địa chỉ liên hệ: Sao Đỏ, Chí Linh, Hải Dương.
Điện thoại: 01668277939
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Sao Đỏ 2.
Địa chỉ: Trường Tiểu học Sao Đỏ 2, Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Điện thoại:
Tác giả

Xác nhận của cơ quan đơn vị
áp dụng sáng kiến

Nguyễn Thị Ngọc Hân

1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều nhưng qua thực tế


các năm giảng dạy lớp 5, tôi hiếm khi phát hiện được vài ba học sinh giỏi môn
Văn. Tại sao học sinh giỏi tập làm văn ít ỏi, đếm trên đầu ngón tay như vậy, trong
khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa tròn một tuổi đã biết
nói, năm sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng ta đã luôn tự hào
tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc.
Nhưng một thực tế làm những thầy cô giáo chúng tôi chưa là học sinh giỏi phân
môn Tập làm văn còn chưa nhiều. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học
sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo
nàn về từ, diễn đạt rườm rà, cận nghĩa. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng
dạy- học Tập làm văn, nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 5? Đi tìm câu trả lời
cho câu hỏi trên là một quá trình và cũng là mục đích cần hướng đến của các giáo
viên như tôi.
Để làm tốt vai trò người tổ chức và hướng dẫn, tôi đã tìm tòi, phân tích thực
trạng và lựa chọn một số biện pháp giúp dạy học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5,
mà trọng tâm là văn miêu tả.
Với những lý do trên, tôi chọn và viết đề tài : “ Sáng kiến dạy học tốt phân
môn Tập làm văn lớp 5” mà trọng tâm là văn miêu tả, trước hết là giúp nâng cao
chất lượng Tập làm văn lớp 5. Sau đó, mục tiêu quan trọng hơn là góp phần nâng
cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:

2


Để sáng kiến có thể áp dụng cần có nhiều thời gian tiến hành khảo sát và thực
hiện thử nghiệm các giải pháp, phòng học có đầy đủ hệ thống máy chiếu, đầu
chiếu…
Tôi thực hiện việc nghiên cứu và thử nghiệm sáng kiến trong thời gian từ đầu
năm học đến thời điểm kết thúc thử nghiệm sáng kiến (Từ tháng 8/2014 đến tháng
2/2015) với đối tượng áp dụng là học sinh lớp 5E trường tôi đang dạy.

3. Nội sung sáng kiến:
- Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến mà tôi sẽ chia sẻ sau đây là kinh
nghiệm mà tôi đúc rút được từ thực tế giảng dạy. Có thể đề tài tôi đưa ra là không
mới nhưng tính mới, tính sáng tạo của nó thể hiện ở chỗ cách thức thực hiện, các
giải pháp giải quyết vấn đề mà tôi đưa ra. Với sáng kiến này, tôi có thể dễ dàng
làm cho học sinh bỏ quên ý thức ngại học văn hay ngại viết văn mà thay vào
đó là sự tự tin, hứng thú và có cảm hứng khi học tập làm văn.
- Khả năng áp dụng của sáng kiến là cao vì thực tế nó không đòi hỏi cả giáo
viên và học sinh phải dày công nghiên cứu và nắm bắt. Vì những giải pháp và
cách thức thực hiện tôi đưa ra đều dễ dàng thực hiện và rất gũi với cả giáo viên và
học sinh. Với sáng kiến kinh nghiệm này, chỉ đòi hỏi ở người giáo viên sự tận tụy,
lòng yêu nghề, yêu trẻ, sự linh hoạt trong quá trình giảng dạy và áp dụng các
phương pháp dạy học mà thôi.
- Mặc dù đề tài tôi đưa ra có thể là không mới nhưng giá trị và hiệu quả của
đề tài, với tôi là không nhỏ. Nó không chỉ giúp cho người giáo viên chủ động
trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức và hướng dẫn học sinh học tốt phân
môn Tập làm văn nói chung, nhất là thể loại văn miêu tả nói riêng mà nó còn giúp
cho học sinh thêm yêu thích môn học tập làm văn hơn, các em không còn ngại mỗi
khi phải viết văn nữa khi mà các kĩ năng viết văn của các em đã thành thạo.

3


4. Giá trị và kết quả đạt được của sáng kiến là kết quả thực nghiệm thực tế
mà tôi đã tiến hành với các em học sinh lớp 5 mà tôi được phân công giảng dạy.
Có thể kết quả đó chưa thực sự theo như mong muốn nhưng đó là một dấu hiệu tốt
và khả quan khi thực hiện sáng kiến này vì thời gian đầu tư nghiên cứu cho sáng
kiến chưa nhiều cùng với điều kiện phương tiện dạy học còn hạn chế…
5. Tôi mong muốn sáng kiến kinh nghiệm ít ỏi của mình được chia sẻ với các
đồng nghiệp. Để sáng kiến đạt hiệu quả cao nhất, tôi rất mong được tạo điều kiện

về thời gian cũng như các phương tiện cơ sở vật chất để có thể tiến hành thực
nghiệm mỗi khi giảng dạy. Ngoài ra, giáo viên trẻ như tôi cần thường xuyên được
tham gia các lớp tập huấn để được học hỏi từ các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm…

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
1.1. Cơ sở lí luận:
Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và phát
triển cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, kiến thức Tiếng Việt và văn
học để các em học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động lứa tuổi. Thông
qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của
Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen
giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau như Tập đọc, Luyện từ và
câu, Kể chuyện, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn. Việc dạy và học mỗi phân môn
có những thuận lợi và khó khăn riêng, song khó hơn cả đối với người dạy cũng
như đối với người học là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu
học nói chung, môn Tiếng Việt ở tiểu học nói riêng; nó không chỉ giúp học sinh
hình thành các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao
tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những
phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Dạy Tập làm văn, là
dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó
với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng dạy các em cách ghi lại sự nhìn
nhận ấy qua các văn bản - còn gọi là đoạn văn, bài văn một cách chính xác về đối

tượng, về ngữ pháp Tiếng Việt.

5


Việc làm thế nào để cho học sinh làm văn hay và có hiệu quả thì lại là một vấn
đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm
công tác giáo dục.
Do nhận thấy tầm quan trọng của tiếng mẹ đẻ trong trường tiểu học, là giáo
viên dạy lớp cuối cấp của bậc tiểu học, tôi cần phải giúp đỡ các em ngoài việc
nhận ra tầm quan trọng của tiếng mẹ đẻ còn phải nói, viết tiếng mẹ đẻ một cách
chính xác, thành thạo qua phân môn Tập làm văn trong Tiếng Việt ở tiểu học.
Chương trình mới chuyển tải sự thay đổi cả về nội dung và kỹ năng rèn luyện lẫn
hình thức, biện pháp và quy trình lên lớp; chương trình tập làm văn lớp 5 có nhiều
thể loại văn: Văn tả cảnh ; Thuyết trình, tranh luận ; Tả người ; Viết đơn ; Lập
chương trình hoạt động ; Văn kể chuyện, Tả đồ vật,.... Là giáo viên, nhất là giáo
viên dạy lớp 4, 5 không ai tránh khỏi những trăn trở, băn khoăn là làm thế nào
giúp học sinh rèn luyện tốt kỹ năng làm bài Tập làm văn, giáo viên biết vận dụng
phương pháp dạy như thế nào để tiết học có hiệu quả mà không lúng túng? nhất là
văn miêu tả.
Từ kinh nghiệm ít ỏi, tôi tìm tòi nảy ra sáng kiến giúp “dạy học tốt phân môn Tập
làm văn lớp 5”, đặc biệt là thể loại văn miêu tả.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1.Dựa trên thực trạng hiện nay của việc học:
Ra trường và giảng dạy chưa được 10 năm nhưng tôi được phân công giảng
dạy chủ yếu ở khối lớp 4 - 5. Qua một số năm được giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy
rằng đa số khả năng học môn tập làm văn của học sinh là quá kém. Học sinh
không biết làm một bài văn hoàn chỉnh, không biết dùng từ đặt câu, trong quá
trình làm bài văn không biết dùng các biên pháp tu từ so sánh, nhân hóa cả biện
pháp liên

tưởng vào làm các bài văn, đặc biệt văn dạng miêu tả. Trong cách làm bài của học
sinh không sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn văn mặc dù kiến thức này đã được
học ở lớp 4. Các câu trong đoạn văn hay cả bài văn không có sự liên kết chặt chẽ,

6


không theo một trình tự nhất định. Chính vì vậy, bài văn của học sinh thường luôn
bị lộn xộn miêu tả lung tung, không theo một thể thống nhất.
Mặt khác, khi trả lời câu hỏi, làm các bài tập, tả, kể, theo chương trình HS
không biết trả lời, viết thế nào là chuẩn và hay, trình bày như thế nào thể hiện sự
tự tin. Thông thường các em hay bắt chước theo bạn, theo thầy cô, bắt chước các
bài văn của HS các khóa trước,.. mà bản chất môn làm văn không phải là sự bắt
chước máy móc, không có cái riêng của mình thì sẽ trở thành người máy. Lớp học
như vậy thì việc dạy và học đã đi chệch con đường dạy học theo hướng đổi mới và
kiến tạo.
Về phía cha mẹ học sinh : Tiểu học, cha mẹ HS có thể giúp HS học tốt các
môn khác nhưng riêng phân môn tập làm văn, số người có thể phối hợp dạy cho
con học tốt môn này còn quá ít, tâm lý khá phổ biến của cha mẹ HS là muốn cho
con học thêm về môn toán, rất ít cha mẹ muốn cho con học làm văn nếu không có
yêu cầu của cô giáo. Phụ huynh ít mua sách môn tập làm văn cho các em đọc,
hiếm thấy những gia đình xây dựng tủ sách phục vụ tốt cho việc học môn văn ở
Tiểu học cho con em mình.
1.2.2. Dựa trên cơ sở thực tiễn của việc dạy :
Mỗi giáo viên đều biết rằng, hiệu quả của việc dạy học không chỉ phụ thuộc
vào nội dung dạy học mà còn phụ thuộc vào phương pháp dạy học. Đặc biệt là
TLV, là phân môn mà các em ở tiểu học học yếu hơn các môn khác. Bởi vậy
người giáo viên phải có nhiệm vụ giúp các em nối tiếp một cách tự nhiên các bài
khác nhau trong môn Tiếng Việt như : tập đoc, chính tả, kể chuyện, luyện từ &
câu … nhằm giúp các em có năng lực nói, viết. Nhờ năng lực này, các em biết sử

dụng Tiếng việt làm công cụ tư duy, giao tiếp, học tập. Giúp các em bổ sung kiến
thức, rèn luyện tư duy qua đó hình thành nhân cách cho các em. Để cung cấp và
giúp các em có những kiến thức Tiếng việt, người GV phải biết vận dụng linh hoạt
phương pháp dạy học tập làm văn cụ thể, lôgíc qua các tiết học của phân môn
TLV.

7


Từ những cơ sở trên tôi luôn trăn trở suy nghĩ: Làm thế nào để tiết học Tập
làm văn nhẹ nhàng mà hiệu quả? Làm thế nào để các em hoạt động tích cực, chủ
động trong giờ học Tập làm văn? Làm thế nào để các em có kĩ năng viết được một
bài văn hoàn chỉnh đạt được yêu cầu như mong muốn?
Đó cũng chính là lí do tôi đưa ra sáng kiến giúp: “Dạy học tốt phân môn
Tập làm văn lớp 5”, đặc biệt là dạng văn miêu tả.
2. THỰC TRẠNG.
2.1. Thực trạng học sinh:
Qua trực tiếp giảng dạy phân môn Tập làm văn, tôi thấy khi làm văn, trong bài
viết của các em còn có một số mặt hạn chế sau:
- Bài viết của các em còn sai lỗi chính tả.
- Bài viết chưa đúng trọng tâm của đề bài yêu cầu.
- Khi thực hành và làm văn các em còn viết và làm bài hời hợt, chung chung,
vốn từ nghèo nàn nên trong bài văn, đặc biệt là văn miêu tả, kể chuyện, các em
thường liệt kê các đối tượng miêu tả, diễn đạt lủng củng, sắp xếp ý lộn xộn.
- Câu văn còn diễn đạt lủng củng, chưa giàu hình ảnh, các em chưa biết cách
dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
Từ những hạn chế của học sinh như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn trở thành
một gánh nặng, một thách thức đối với các em. Đôi khi các em ngại viết, ngại phải
làm bài, nhất là làm bài văn miêu tả.
Vào đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng làm văn miêu tả của HS.

Đề khảo sát: Em hãy viết bài văn tả một đồ dùng trong gia đình mà em thích
nhất.(Thời gian 35p)

8


Kết quả khảo sát:

Lớp

5E

Tổng số
học sinh
34

Điểm
Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

SL

SL


%

SL

%

5

14,7

10

29,41 15

%

44,11 4

%
11,76

Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh
chưa đạt yêu cầu? Qua quá trình giảng dạy lớp 5 mà cụ thể là dạy dạng bài tập làm
văn miêu tả, tôi nhận thấy chất lượng các bài văn miêu tả của học sinh chưa được
cao do nhiều nguyên nhân.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng:
2.2.1. Về phía học sinh:
- Khi thực hành và làm văn, học sinh chưa xác định đúng yêu cầu trọng tâm
của đề bài.

- Đa số học sinh chưa tập trung quan sát đối tượng miêu tả hoặc là khi quan sát
thì các em thiếu một vài yếu tố trong kĩ năng và mục đích quan sát: quan sát
những
gì, quan sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần
miêu tả?...
- Phần lớn các em chưa biết hình dung các đối tượng miêu tả thông qua hình
ảnh, âm thanh, cảm giác… về sự vật khi quan sát.
- Học sinh lại ít tìm hiểu và đọc sách, báo, tài liệu tham khảo liên quan đến
môn học để tích lũy vốn từ nên vốn từ của các em đơn điệu, nghèo nàn. Các em lại
không biết sắp xếp câu văn, ý văn như thế nào để bài viết được mạch lạc. Bên

9


cạnh đó việc diễn đạt một cảnh bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của các em về một sự
vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó cũng gặp nhiều lúng túng.
2.2.2.Về phía giáo viên:
- Nhiều giáo viên chưa linh hoạt, chủ động, sáng tạo khi tổ chức dạy trên lớp,
hình thức dạy học còn đơn điệu chưa gây được hứng thú cho học sinh.
- Có những giáo viên chưa quan tâm rèn luyện cho học sinh thói quen đọc sách,
đọc các bài văn mẫu để học tập các ý văn hay, từ ngữ đẹp, cách tả mới mẻ.
- Một số đồng chí giáo viên thực hiện hời hợt, chiếu lệ các yêu cầu khi trả bài
viết của học sinh, chưa giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi
làm bài để có sự chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau. Đây không phải là
vấn đề có thể giải quyết được trong một tiết, một tuần… mà là cả một quá trình
dạy Tập làm văn bởi thể loại văn miêu tả là sự kết hợp của nhiều kiểu bài văn các
em đã học và còn cần có cách nhìn, cách nghĩ, cách sáng tạo mới.
3. CÁC GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
3.1. Những vấn đề cần giải quyết.
Từ thực tế đứng lớp cũng như đứng trước thực trạng dạy và học như trên, yêu

cầu đặt ra cấp thiết là phải đổi mới và vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn, mà trọng tâm là thể loại văn miêu
tả một cách say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn.
Để đạt được mục tiêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra các vấn đề chính cần tiến hành
giải quyết sau:
- Tăng cường rèn cho học sinh kĩ năng quan sát và ghi chép.
- Tích cực làm giàu vốn từ cho học sinh.
- Tăng cường luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, sử dụng biện pháp nghệ
thuật trong văn miêu tả.

10


- Cung cấp và hướng dẫn cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói
chung và tả cảnh nói riêng.
3.2. Một số biện pháp để giải quyết các vấn đề.
Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tôi xin đưa ra một số biện pháp để giải
quyết các vấn đề được nêu ở trên giúp học sinh học tốt tập làm văn như sau:
3.2.1. Tăng cường rèn kĩ năng quan sát cho học sinh.
- Văn miêu tả mà đối tượng là những sự vật, sự việc, là thế giới thiên nhiên, là
con người và cuộc sống con người,.... Đó là một thế giới hết sức đa dạng, phức tạp
và sống động diễn ra quanh ta, thay đổi từng giờ, từng ngày. Vậy không phải tự
nhiên mà học sinh hiểu và nắm được đặc điểm của từng sự vật, sự việc, từng con
người để miêu tả bản chất của nó vì vậy tôi yêu cầu học sinh phải thường xuyên
quan sát và ghi chép.
- Khi làm văn miêu tả thì kĩ năng quan sát và ghi chép những điều đã quan sát
được là một trong những việc làm rất cần thiết đối với các em học sinh. Vì nếu
không được quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng thì sẽ xảy ra tình trạng bịa đặt
hình ảnh trong bài, khiến cho những hình ảnh ấy thiếu tính chân thực hoặc không
trừ trường hợp chi tiết đó hết sức vô lí. Vì vậy tôi thường xuyên tổ chức cho các

em quan sát đối tượng miêu tả qua các tiết học ngoài trời, quan sát thực tế với
những bài văn tả cảnh đẹp quê hương, trường lớp,…
- Để việc quan sát có hiệu quả thì tôi hướng dẫn các em quan sát phải có tính
mục đích, khi các em quan sát phải có cách nghĩ, cách cảm nhận của riêng mình.
Quan sát để làm văn nhằm phản ánh một đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có tính
khái quát. Qua việc quan sát chi tiết tỉ mỉ, học sinh sẽ thấy được bản chất của sự
việc. Nhưng quan sát phải có lựa chọn. Khi quan sát, tôi yêu cầu các em tránh
những chi tiết rời rạc, tản mạn, mang tính chất liệt kê. Miêu tả một cách chi tiết
nhưng mà phải chọn lọc, lựa chọn những điểm riêng biệt, nổi bật, gây ấn tượng,…

11


Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của cảnh. Tôi cũng yêu cầu học sinh quan
sát kèm ghi chép lại những hình ảnh quan sát được một cách đầy đủ.
- Khởi điểm ban đầu tôi hướng dẫn học sinh quan sát để tìm ra màu sắc, âm
thanh, hình ảnh tiêu biểu của sự vật và cảm xúc của mình đối với sự vật.
Khi quan sát, tôi khuyến khích các em cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan
khác nhau:
+ Quan sát bằng thị giác để nhìn ra hình khối sự vật.
+ Quan sát bằng thính giác để nhận ra âm thanh, nhịp điệu gợi cảm xúc.
+ Quan sát bằng khứu giác nhằm nhận ra những mùi vị tác động đến tình cảm.
+ Quan sát bằng vị giác, xúc giác để cảm nhận.
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận được nhiều ý, nhiều hình ảnh,
đoạn văn, bài văn đa dạng phong phú.
* Ví dụ : Đề bài “Em hãy tả một cơn mưa mùa hè.”
- Tôi hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác quan như sau:
+ Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy hạt mưa rơi,
thấy cây cối, con người (trước, trong và sau cơn mưa)...
+ Xúc giác: Gió thổi làm xua tan cái nóng mà nhường chỗ cho luồng khí mát lạnh.

+ Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng kêu của
ếch nhái...
- Bên cạnh đó, tôi lưu ý các em học sinh: khi quan sát cần quan sát tỉ mỉ. Muốn
tìm ra ý hay cho đoạn văn, bài văn cần viết học sinh phải quan sát kĩ, quan sát
nhiều lần cảnh đó. Tránh quan sát qua loa sẽ không tìm ra ý hay cho bài văn. Tôi
nhấn mạnh cho các em các nội dung:
+ Cần xác định rõ thời điểm, thời gian, vị trí, trình tự quan sát.

12


+ Có thể quan sát từ bao quát đến cụ thể hoặc ngược lại.
+ Quan sát từ trong ra ngoài hoặc từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới…
+ Quan sát theo trình tự không gian (từ xa đến gần hay từ gần đến xa).
+ Quan sát theo trình tự thời gian (theo các thời điểm trong ngày, theo mùa
trong năm…).
Ngoài ra, tôi minh họa cho học sinh các cách quan sát đó qua các bài tập đọc
để các em hiểu hơn và có thể vận dụng các cách quan sát đó khi viết văn:
* Ví dụ 1: Quan sát từ ngoài vào trong để miêu tả cảnh Đền Hùng.
“Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những khóm
hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay dập dờn như
đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà uy nghiêm
đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”
* Ví dụ 2: Quan sát từ dưới lên trên để miêu tả cây hồi.
“Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn cành khế. Quả hồi
phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng).
* Ví dụ 3: Quan sát theo trình tự thời gian để miêu tả cây thảo quả.
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm lại
ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo trên
đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ một thân

lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”
3.2.2. Tích cực làm giàu vốn từ cho học sinh:
Trên thực tế, khi trực tiếp giảng dạy các tiết Tập làm văn tôi thấy các em học
sinh ít tham gia phát biểu. Lí do là các em không biết thể hiện ý của mình bằng
câu văn nào, hoặc khi viết câu văn còn diễn đạt lủng củng, chưa rõ nghĩa … bởi lẽ
vốn từ của các em còn quá ít. Chính vì thế tôi dùng biện pháp làm giàu vốn từ cho

13


các em trong các giờ sinh hoạt câu lạc bộ và qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ
và câu và từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện,….
- Tích cực làm giàu vốn từ qua phân môn Tập đọc: Số lượng từ ngữ miêu tả ở
các bài thơ, bài văn rất phong phú đồng thời cách sử dụng chúng rất sáng tạo nên
khi dạy Tập đọc tôi đã chỉ ra các từ ngữ miêu tả, cách sử dụng biện pháp tu từ,
cách đặt câu trong một vài trường hợp đặc sắc để phân tích cái hay, sự sáng tạo
của nhà văn khi dùng chúng. Việc phân tích này giúp các em tiếp cận đựơc với
các văn bản nghệ thuật, tiếp cận với kĩ năng viết văn một cách thường xuyên và có
chất lượng mà lại nhẹ nhàng không áp đặt.
- Tích cực hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ qua phân môn Luyện từ và câu:
Ở lớp 5 phân môn Luyện từ và câu là phân môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn
từ nhiều nhất. Đặc biệt là các tiết: Mở rộng vốn từ; Từ đồng âm; Từ nhiều nghĩa;
Từ trái nghĩa. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết
thực như tìm từ, ghép từ, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả
(nhóm miêu tả đặc điểm của cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động)... Tôi khuyến
khích các em tìm được càng nhiều từ theo yêu cầu càng tốt.
* Ví dụ 1 : Tìm những từ ngữ miêu tả sóng nước. Đặt câu với một trong các từ
ngữ vừa tìm được.
a. Tả sóng nước. M: ì ầm
b. Tả làn sóng nhẹ. M: lăn tăn

c. Tả đợt sóng mạnh. M: cuồn cuộn
( Bài tập 4 - SGK Tiếng Việt 5 - trang 78).
Để giúp các em làm giàu vốn từ của mình qua bài tập trên, tôi hướng dẫn các
em thực hiện như sau:
+ Cho học sinh đọc yêu cầu của bài.

14


+ Tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm để tìm từ, đặt câu ra phiếu học tập.
+ Gọi đại diện các nhóm báo cáo. Yêu cầu nhóm khác nhận xét theo các tiêu
chí sau: Những từ ngữ tìm được đã phù hợp với yêu cầu của từng nhóm từ chưa.
Câu văn đặt đã đúng chưa.
+ Giáo viên nhận xét, tuyên dương những nhóm tìm được nhiều từ để động
viên, khích lệ các em. Còn nhóm nào tìm từ chưa phù hợp, đặt câu chưa đúng thì
giáo viên giải thích cho các em hiểu để các em sửa lại.
Riêng với phần đặt câu tôi khuyến khích các em đặt câu thêm với các từ khác.
Việc làm này sẽ giúp các em biết sử dụng vốn từ để đặt câu.
- Tích cực làm giàu vốn từ từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện,…Tôi khuyến
khích các em xuống thư viện đọc sách, báo, truyện,....để tích lũy thêm vốn từ.
- Làm giàu vốn từ cho học sinh trong các giờ sinh hoạt câu lạc bộ “ Yêu thơ văn
em tập viết”, “ Viết văn hay chống nói ngọng”, “ Em tập làm MC”, ...
Qua các cách trên học sinh nhận thấy tác dụng của việc sử dụng các từ ngữ
gợi tả, gợi cảm. Biết cách chọn từ và sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, những
biện pháp nghệ thuật sao cho phù hợp với văn cảnh. Giúp các em mạnh dạn và tự
tin hơn trong giao tiếp.
3.2.3. Tăng cường luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, sử dụng biện
pháp nghệ thuật trong văn miêu tả.
* Với cách dùng từ:
Sau khi học sinh đã có vốn từ nhất định, tôi giúp học sinh các cách sử dụng

vốn từ trong miêu tả.
- Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng, tình
cảm một cách rõ ràng.
- Phải tuân thủ các tiêu chuẩn chính tả.

15


- Dùng từ gợi cảm, gợi tả: Thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ,
tính từ…
- Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường là các từ láy, từ tượng hình, từ
tượng thanh...
- Sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ.
* Ví dụ:
+ Dùng từ chính xác: Mặt trăng tròn toả ánh sáng xuống vạn vật.
+ Dựng từ có hình ảnh: Mặt trăng tròn như vành nón lá toả ánh sáng vằng
vặc xuống vạn vật.
+ Dùng từ trái nghĩa : Vào mùa nước lũ, dòng sông trở nên dữ dằn không hiền
hoà chút nào.
+ Dùng cụm từ so sánh, nhân hóa: Ánh trăng lồng qua kẽ lá như ngàn vạn con
đom đóm đang lập loè sáng.
+ Dùng âm thanh: Mưa rơi tí tách trên mái hiên, rơi lộp độp trên tàu lá chuối….
* Với cách đặt câu:
- Trong khi thực hành làm văn, tôi nhắc nhở học sinh phải viết câu văn đúng
ngữ pháp nghĩa là khi viết câu phải xác định được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ,
đâu là các vế trong câu ghép, các thành phần khác của câu.
- Ngoài ra, tôi dạy các em phải biết sử dụng các phép liên kết câu như: Phép
lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng... biết sử dụng các biện pháp tu từ về câu
(câu hỏi tu từ, đảo ngữ, điệp ngữ, so sánh, nhân hoá...).
* Ví dụ:

+ Phép liên kết câu:

16


Mưa xuân lất phất bay. Cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, đưa tay đón những
hạt mưa xuân. Với chúng, mưa xuân chính là liều thuốc tiên để sinh tồn và phát
triển.
+ Phép lặp:
Dòng sông như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi để mang phù
sa màu mỡ cho đất đai.
+ Biện pháp tu từ (thường dùng):
. Câu hỏi tu từ: Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi tự hào là
cảnh gì không? Đó chính là dòng sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa đấy!
. So sánh: Mặt trời như quả bóng tròn, đỏ hồng treo lơ lửng trên bầu trời.
. Nhân hoá: Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc màu lộng lẫy khoác lên cỏ
cây, hoa lá.
- Tôi còn giúp các em phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ
sử dụng các câu văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như
người viết đang kể lể dài dòng về cảnh. Tôi luôn nhấn mạnh với học sinh:
+ Câu văn kể: dùng để thông báo cho người đọc, người nghe biết về sự việc,
sự vật.
+ Câu văn tả: là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu, các
biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có thể
cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.
* Ví dụ:
Câu văn kể

Câu văn tả


- Mặt trời chiếu ánh nắng xuống mặt - Ông mặt trời vén màn mây trắng,
đất.

toả những tia nắng vàng óng như tơ

17


xuống mặt đất.
- Hết năm này đến năm khác, sông
- Lúc nào sông cũng chảy để mang cứ cần mẫn chảy mang phù sa bồi
phù sa cho đất.

đắp cho đất đai màu mỡ, cây cối
xanh tốt.

3.3. Cung cấp và hướng dẫn cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả
nói chung và tả cảnh nói riêng.
Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả
cảnh nói riêng giúp học sinh có con đường đi đến bài văn đúng hướng, không bị
sai lệch về cả nội dung và hình thức.
3.3.1. Cung cấp và hướng dẫn học sinh nắm được 4 yêu cầu khi làm văn
miêu tả:
- Cụ thể hóa sự vật (tả cái gì?)
Ví dụ : Tả cánh đồng thì tập trung tả cánh đồng, không miên man tả sâu cảnh
xóm làng nằm bên cạnh cánh đồng, hay cảnh trời mây vào thời điểm đó cho dù
các sự vật đó cũng có liên quan.
- Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?): Tả cảnh nào thì người đọc hình dung cảnh
đó chứ không bị lẫn lộn với cảnh khác.
Ví dụ : Tả cảnh cánh đồng thì phải tả chủ yếu những yếu tố liên quan không

thể tách rời như: Lúa, ngô, rau màu, thửa ruộng, bờ mương, đàn trâu, con người
lao động...
- Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì ?)
Ví dụ : Tả cánh đồng với mục đích đó là tả lại một cảnh đẹp rất đáng tự hào
của người dân quê hương, ích lợi mà cánh đồng mang lại….
- Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)

18


Ví dụ: Tả cánh đồng với niềm tự hào, với sự ngưỡng mộ về một vẻ đẹp
nên thơ...
3.3.2. Cung cấp cho học sinh các bước làm văn miêu tả:
- Bước 1: Tìm hiểu đề.
- Bước 2: Tìm ý - Lập dàn ý.
- Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh.
- Bước 4: Kiểm tra lại bài.
Để rèn cho học sinh thói quen làm tuần tự theo các bước kể trên khi làm văn
thì mỗi bước làm tôi cũng hướng dẫn các em một cách tỉ mỉ về phương pháp cũng
như cách suy nghĩ, cách thực hiện từng bước.
Cụ thể:
* Bước 1: Tìm hiểu đề:
- Giúp học sinh xác định được đúng trọng tâm yêu cầu đề bài, tránh làm lạc đề.
Nói cách khác tìm hiểu đề để định hướng học sinh nắm được mình đang làm bài
văn thuộc thể loại gì, tả cái gì, đối tượng đó có những yêu cầu, giới hạn đến đâu...
- Cách thực hiện: Hướng dẫn học sinh làm những công việc sau:
+ Đọc kĩ đề.
+ Phân tích đề.
Phân tích đề bằng cách:
Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.

Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
Gạch 3 gạch dưới từ xác định thời gian miêu tả. (việc làm này tùy thuộc vào
yêu cầu của đề bài vì có đề bài cho thời gian miêu tả nhưng cũng có đề không cho
thời gian miêu tả.)

19


* Ví dụ:
Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em sau trận mưa rào đầu mùa hạ.
Với đề bài trên tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc
trả lời các câu hỏi:
- Đề bài thuộc thể loại văn nào? (Thể loại văn miêu tả).
- Đối tượng miêu tả là gì ? (cánh đồng lúa quê em).
- Cảnh đó được miêu tả vào thời gian nào? (sau trận mưa rào đầu mùa hạ).
Sau khi đọc đề bài và đã trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành gạch
chân trực tiếp trên đề bài.
Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em sau trận mưa rào đầu mùa hạ
* Bước 2: Tìm ý - Lập dàn ý:
- Sau khi tìm hiểu đề các em đã xác định chính xác đối tượng miêu tả nhưng
chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài viết. Để giúp các em định
hình được bài viết văn tả cảnh, trước tiên tôi hướng dẫn cho học sinh tìm ý cho bài
văn tả cảnh. Việc tìm ý cho bài văn phải được tiến hành song song với việc quan
sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Để làm được việc trên với mỗi một đề bài tôi
hướng cho học sinh quan sát trực tiếp đối tượng bằng một số câu hỏi gợi ý để học
sinh quan sát và ghi lại tỉ mỉ những nét tiêu biểu, đặc sắc của cảnh để làm tư liệu
cho việc lập dàn ý.
* Ví dụ: Để quan sát và tìm ý bài: "Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em
trong giờ ra chơi" tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau:
- Khung cảnh và không khí của sân trường trước giờ ra chơi như thế nào?

- Cảnh sân trường trong giờ ra chơi:
+ Âm thanh lúc đó?

20


+ Học sinh từ các lớp ra sân như thế nào?
+ Toàn sân trường lúc này ồn ào, náo nhiệt ra sao? (Tiếng cười? Tiếng nói?
các nhóm chơi diễn ra ở những chỗ nào trên sân trường?)
+ Nhóm hoạt động sôi nổi nhất là nhóm nào? Họ chơi những trò chơi gì? Các
bạn trong nhóm hoạt động thế nào?...
+ Tiếng hò reo, cổ vũ của các cổ động viên lúc trò chơi bắt đầu đến lúc kết
thúc?
- Lúc có tiếng trống báo hoạt động giữa giờ:
+ Các bạn nhanh chóng xếp hàng tập thể dục như thế nào?
- Sau khi hoạt động giữa giờ xong:
+ Trên khuôn mặt một số bạn có biểu hiện gì?
+ Không khí trên sân trường lúc này ra sao?
- Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi:
+ Những cảm xúc gì sau giờ ra chơi?
+ Những ấn tượng tốt đẹp gì về tuổi học trò?
- Sau khi tìm ý, trước khi lập dàn bài chi tiết, học sinh cần xác định trình tự
miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí. Trình tự miêu tả trong văn tả cảnh có thể
là trình tự không gian, có thể là trình tự thời gian tuỳ theo từng cảnh để lựa chọn
cho phù hợp.
* Ví dụ: Với bài tả khu vườn vào buổi sáng, ta nên chọn trình tự không gian.
+ Trước cửa vườn:…à Giữa vườn:…à Góc vườn bên trái:….à Góc vườn
bên phải:… à Cuối vườn:...
Tuy nhiên, ta vẫn có thể chọn trình tự thời gian:


21


+ Khoảng trời phía đông ửng hồng, khu vườn trông…. à Mặt trời bắt đầu nhô
lên sau rặng tre là lúc vẻ đẹp của cây, hoa trong vườn….à Khi ánh nắng ban mai
bắt đầu toả xuống, khu vườn...à Mặt trời lên cao…
* Ví dụ: Với bài tả dòng sông chọn trình tự miêu tả là thời gian.
+ Buổi sáng, ông mặt trời từ từ nhô lên tỏa những tia sáng rực rỡ xuống mặt sông
làm mặt sông như khoác trên mình chiếc áo lụa đào thướt tha… à Trưa về, sông
thay chiếc áo xanh lộng lẫy trông thật duyên dáng…. à Chiều đến, là lúc sông mặc
áo ráng vàng quyến rũ… à Khi mặt trăng đã lên cao. Trên bầu trời xuất hiện những
vì sao thì sông nhanh chóng thay chiếc áo hoa lấp lánh ánh sao….
Ta cũng có thể chọn trình tự không gian như:
+ Nhìn từ xa dòng sông như dải lụa mềm mại uốn lượn quanh thôn xóm….. à
Nước sông trong veo in rõ từng mảng mây trời. Trên mặt sông một vài đám bèo
lục bình đang lững lờ trôi….à Bờ bên trái là hàng phi lao xanh mướt đang in
bóng xuống mặt sông như những nàng thiếu nữ yểu điệu soi gương chải tóc….à
Bên phải là con đường nhựa nhẵn bóng như đang sánh duyên cùng con dòng
sông…à ……
- Khi đã xác định được trình tự miêu tả thì học sinh tiến hành lập dàn ý theo
khung dàn ý chung như sau:
+ Mở bài: Giới thiệu bao quát về đối tượng sẽ tả.
+ Thân bài: Tả từng phần của đối tượng hoặc sự thay đổi của đối tượng theo
thời gian.
+ Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.
* Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh:
Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất. Trên cơ sở dàn bài vừa
lập, các em viết thành bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài).

22



Để viết được bài văn sinh động, giàu hình ảnh cuốn hút người đọc tôi đã định
hướng cho học sinh làm tốt cả ba phần (mở bài, thân bài, kết bài).
- Mở bài: là phần trước nhất của baì văn, gây cho người đọc cảm giác ấn tượng về
bài viết. Phần này có vai trò và tầm quan trọng khá đặc biệt vì vậy một mở bài ngắn
gọn, hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người đọc và báo hiệu một bài văn hay. Để
học sinh làm tốt phần mở bài các em cần hiểu được thế nào là mở bài trực tiếp, gián
tiếp, ưu nhược điểm của từng loại.
+ Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu ngay với người đọc đối tượng mà mình sẽ
miêu tả.
Ưu điểm: Cách trình bày nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và thích
hợp với bài viết ngắn.
Nhược điểm: Nếu mở bài không khéo sẽ gây cảm giác khô khan, ít hấp dẫn.
Với kiểu mở bài này tôi đã hướng dẫn học sinh một số cách vào bài trực tiếp như
sau:
. Mở bài bằng một câu cảm nhận xét, đánh giá về cảnh.
Ví dụ : Ôi, dòng sông quê em mới đẹp làm sao !
. Mở bài bằng cách nêu cảnh miêu tả và vị trí hoặc thời gian quan sát cảnh.
Ví dụ : Trước trường em, có dòng sông hiền hòa thơ mộng.
+ Mở bài gián tiếp: Là nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới thiệu
đối tượng mình định tả. Khi dạy kiểu mở bài này tôi hướng dẫn các em một số
cách mở bài gián tiếp như:
. Mở bài bằng một cách so sánh.
Ví dụ: Tuổi thơ ấu của tôi gắn liền với nhiều kỉ niệm. Con đường thơ mộng
ngày hai buổi đưa đôi chân nhún nhảy của tôi đến trường. Triền đê - nơi tôi và

23



các bạn thi nhau thả diều vào mỗi buổi chiều hè. Nhưng thân thiết với tôi nhất vẫn
là cảnh nhộn nhịp của sân trường vào giờ ra chơi.
. Mở bài bằng một câu nói.
Ví dụ: “Ôi! Sao tự nhiên trời tối thế nhỉ?” Ngước mắt nhìn lên trời, em thấy
mây đen ùn ùn kéo đến. Gió thổi mạnh làm lá cây trong vườn bay lả tả. Chắc trời
sắp mưa rồi đây.
. Mở bài bằng cách trích dẫn câu văn, câu thơ, câu đố, câu hát… về đối tượng.
Ví dụ: Anh ở biên cương nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt.
Ở nơi anh mùa này con nước lắng phù sa in bóng đôi bờ.
Mỗi khi nghe bố hát là em lại nhớ tới con sông Hồng đã có nhiều kỉ niệm gắn
bó với em. Đó là con sông mà thiên nhiên ban tặng cho quê em.
Với mỗi bài văn tôi luôn khuyến khích học sinh mở bài theo cách gián tiếp. Vì
mở bài gián tiếp sẽ làm cho bài văn thêm sinh động, gợi cảm hấp dẫn gây hứng
thú cho người đọc.
- Thân bài: Để giúp các em làm tốt, tôi hướng dẫn học sinh:
+ Bám sát dàn bài chi tiết.
+ Dùng từ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp tu từ về câu như so sánh, nhân hóa.
+ Trình bày đoạn văn đúng cách có liên kết đoạn: Với bài văn tả cảnh tôi
thường hướng cho các em hình dung mỗi cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn
trọn vẹn, trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể. Sau đó dùng từ ngữ,
dùng câu liên kết các đoạn văn lại với nhau.
+ Sử dụng đúng các dấu câu: Sử dụng dấu câu hợp lí, đúng chỗ cũng là một
yếu tố quan trọng giúp bài văn trở nên rõ ràng, rành mạch.
Để các ý trong bài được sắp xếp hợp lí, lôgic, chặt chẽ tôi thường nhắc nhở các
em viết theo một trình tự nhất định đã được chọn khi lập dàn ý.

24


- Kết bài: Có thể nói: Nếu như mở bài như một lời thân ái mời chào của chúng

ta đối với khách tới thăm thì kết bài là lời tạm biệt đầy tình cảm mến yêu, nó khép
lại trước mắt người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà các em
đã miêu tả, nó kết lại những ý lớn ở phần thân bài. Vì thế khi viết phần kết bài, tôi
cũng đã hướng dẫn các em viết làm sao cho thật cô đọng, ngắn gọn.
Để làm được điều đó các em cần hiểu được thế nào là kết bài mở rộng và
không mở rộng đồng thời cũng biết được với mỗi cách kết bài đều có những cách
diễn đạt khác nhau.
+ Kết bài không mở rộng: Thường được đóng ý một cách gọn đủ các ý:
. Nhận xét, đánh giá về đối tượng tả.
. Hoặc tình cảm đối với đối tượng tả.
. Hoặc hành động : Chăm sóc, bảo vệ,...
Các ý trên có thể được sắp xếp ở các vị trí khác nhau để tạo ra các kết bài khác
nhau.
* Ví dụ: Khi kết bài văn tả khu vườn vào buổi sáng học sinh nêu được các ý:
Nhận xét, đánh giá: Khu vườn thật đẹp!
Tình cảm : Yêu quý và luôn cảm thấy thích thú khi ngắm khu vườn.
Hành động : Chăm sóc, bảo vệ cây cối.
Với 3 ý trên học sinh có thể viết được các kiểu kết bài chung đảo trật tự như sau:
+ Khu vườn thật đẹp. Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và thoải mái.
Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
Hoặc:
+ Được ngắm nhìn khu vườn em rất thích thú trước vẻ đẹp của nó. Em sẽ
chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.

25


×