Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Một vài kinh nghiệm giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.4 KB, 18 trang )

MỘT VÀI KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP5
HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
I/LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đổi mới phương pháp giảng dạy ở các bậc học nói chung và đổi mới
phương pháp giảng dạy trong bậc tiểu học nói riêng, từ lâu đã được ngành
giáo dục và toàn xã hội quan tâm. Trong bậc tiểu học cần đổi mới phương
pháp, nhằm hướng tới một mục đích chung là bước đầu giáo dục căn bản toàn
diện cho các em học sinh qua các môn học, trong đó có môn Tiếng Việt.
Trong chương trình Tiểu Học, môn Tiếng Việt là một trong những môn học có
vị trí quan trọng. Vì qua môn Tiếng Việt bước đầu hình thành và rèn luyện
cho các em những kĩ năng cần thiết “Nghe, nói, đọc, viết”, do đó mà môn
Tiếng Việt được phân bố thời lượng nhiều nhất so với các môn học khác.
Trong đó phân môn Tập làm văn lại chiếm phần nhiều thời lượng trong môn
Tiếng Việt. Vì vậy, việc dạy Tập làm văn có vai trò hết sức cần thiết và quan
trọng, nó là nền tảng để giúp các em học sinh học tốt các môn học khác.
Để đổi mới phương pháp dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn
Tập làm văn nói riêng một cách có hiệu quả, quan trọng nhất vẫn là những
người giáo viên biết nắm bắt thực tế đối tượng học sinh mình đang dạy, và từ
đó linh hoạt vận dụng phương pháp phù hợp để đạt hiệu quả cao trong mỗi giờ
dạy. Đồng thời đòi hỏi giáo viên phải luôn tìm tòi, có sáng kiến mới trong mỗi
giờ dạy của mình, để giúp các em học tập tốt hơn.Tư tưởng coi học sinh là
trung tâm là muốn bổ sung nguồn kiến thức cho học sinh, dạy học không chỉ
là truyền dạy một khối kiến thức, mà phải chú ý phát triển kĩ năng cho người
học là hấp dẫn, hứng thú với vấn đề cần học. Trải qua nhiều năm công tác, từ
trong thực tiễn giảng dạy, bản thân tôi đã đúc kết cho mình một số kinh
nghiệm về dạy học phân môn Tập làm văn lớp 5. Với mong muốn góp một

1
phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung và
chất lượng của học sinh trong việc học phân môn Tập làm văn nói riêng. Từ


những kinh nghiệm được tích lũy trong thực tiễn đó, tôi xin trình bày thành đề
tài sáng kiến cụ thể là: “Một vài kinh nghiệm giúp học sinh học tốt phân môn
Tập làm văn lớp 5”. Mặc dù chỉ là sáng kiến của cá nhân, sau khi được áp
dụng vào thực tế giảng dạy học sinh của lớp mình phụ trách, đã đạt được một
số kết quả tốt hơn.
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất một số biện pháp, qua việc đổi
mới phương pháp dạy phân môn Tập làm văn ở lớp 5, nhằm giúp học sinh học
Tập làm văn một cách tốt hơn. Qua đó cũng góp phần giúp các em học tốt các
môn học khác.
2. Phương pháp:
- Giáo viên nghiên cứu Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham
khảo, chuẩn bị kế hoạch thực hiện cụ thể trong từng tiết dạy.
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý cho học sinh học tập trên lớp.
- Giáo viên dẫn dắt, gợi mở và minh họa bằng đồ dùng học tập ( tranh
ảnh, vật thật…).
- Giáo viên thống kê số liệu, tỉ lệ kết quả của học sinh lớp dạy trong hai
năm học trước và khảo sát đầu năm học của lớp dạy trong năm học này.
- Giáo viên phân tích và xử lý số liệu để so sánh, đối chiếu để thấy hiệu
quả ứng dụng sáng kiến mới trong quá trình giảng dạy.
III. Đặc điểm tình hình:
Đầu năm học 2014- 2015, được sự phân công của ban giám hiệu nhà
trường, tôi nhận chủ nhiệm lớp 5B, lớp học một buổi/ngày. Tình hình chung
của lớp như sau: Tổng số học sinh : 23 em – trong đó:

2
Dân tộc : 22 em.
Nữ : 16 em.
Nữ dân tộc : 15 em.

1/ Thuận lợi:
-Học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp tiểu học nên các em có ý thức học tập tốt hơn
so với các em ở đầu cấp.
-Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy, luôn được sự quan tâm
của ban giám hiệu, chính quyền địa phương cùng với phòng Giáo dục và đào
tạo. Bản thân nhiệt tình có kinh nghiệm trong công tác. Hầu hết các em là con
em sống trên địa bàn của xã, thuận lợi cho việc liên lạc giữa gia đình – nhà
trường.
2/ Khó khăn:
a. Khó khăn chủ quan:
- Chất lượng học sinh không đồng đều. kĩ năng học Tập làm văn của các em
còn hạn chế làm ảnh hưởng tới kết quả học tập ở môn Tiếng Việt cũng như
các môn học khác. Phần lớn học sinh trong lớp học phân môn Tập làm văn rất
yếu. Qua một thời gian giảng dạy phân môn Tập làm văn theo chương trình
sách giáo khoa, tôi nhận thấy việc dạy và học phân môn Tập làm văn có một
số khó khăn nhất định đó là:
- Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, do vốn từ ngữ của các em
còn nhiều hạn chế, chưa biết cách mở rộng câu đúng thành câu hay.
- Các em chưa nắm chắc cách trình bày bài văn.
- Chưa biết cách sử dụng câu nêu ý chính bao trùm cho cả đoạn văn,
cách chuyển ý giữa các đoạn, làm cho các đoạn văn trong bài văn còn rời rạc
và chưa logic.
- Trong khi viết các em chưa biết cách sáng tạo và bộc lộ cảm xúc của
mình.

3
- Một số em sử dụng biện pháp so sánh nhưng còn cứng nhắc.
b. Khó khăn khách quan:
- Tất cả học sinh lớp tôi sống ở ba buôn làng ( Buôn Liăp, Bôn Khăn và
Buôn Hoang), nên các em thỉnh thoảng nghỉ học ảnh hưởng tới chất lượng học

tập rất lớn.
- Gia đình các em 100% làm nông trình độ dân trí thấp nên ít có sự
quan tâm của gia đình đến việc học tập của các em. Đối với học sinh lớp 5 ở
địa bàn tôi trực tiếp giảng dạy, vốn ngôn ngữ của các em còn rất nhiều hạn
chế. Đặc biệt là các em chưa biết cách trau chuốt, gọt dũa lời văn, câu văn cho
bóng bẩy, để nó mang tính “nghệ thuật”, mà đa số các em nghĩ sao viết vậy,
bởi lớp chiếm 95,7% là học sinh dân tộc thiểu số. Cho nên việc trước tiên là
giáo viên phải nắm bắt rõ các phân môn trong môn Tiếng Việt, nhất là phân
môn luyện từ và câu. Vì luyện từ và câu cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh,
uốn nắn cho các em kĩ năng dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ cách quen
sử dụng “ ngôn ngữ tự nhiên” chuyển thành kĩ năng sáng tạo ngôn ngữ “ nghệ
thuật”. Kết quả cuối cùng của dạy Tập làm văn, là kết quả của những bài văn
cụ thể. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội dung, kĩ năng và cảm
xúc. Vì vậy trong mỗi giờ Tập làm văn, giáo viên cần thực hiện tốt các yêu
cầu này.
Để hình thành năng lực viết Tập làm văn cho học sinh, để giúp cho các em
học tốt môn Tập làm văn, tôi đã mạnh dạn thực hiện một số biện pháp sau:
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I,Khảo sát đầu năm, cuối năm so sánh với các kết quả của 2 năm liền
kề:
Trong năm học: 2013- 2014, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân
công giảng dạy lớp 5B với sĩ số là 25 học sinh. Qua kết quả thi khảo sát đầu

4
năm, tôi thống kê được chất kết quả học sinh qua việc học phân môn Tập làm
văn như sau:
B+ng 1.1. Kh+o sát đánh giá chất lượng đầu năm học 2013-2014:
Tổng
số HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu

Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
25 0 0 2 8 14 56 9 36
Nhận xét: Từ bảng 1.1 cho thấy tỉ lệ học sinh Khá – Giỏi thấp, tỉ lệ học sinh
yếu và học sinh trung bình chiếm tỉ lệ cao.
Qua một năm tìm tòi, sáng kiến các biện pháp rèn kĩ năng viết văn cho
học sinh, tôi nhận thấy các em có nhiều tiến bộ, kết quả đạt được cuối năm
học như sau:
B+ng1.2. Kh+o sát đánh giá chất lượng cuối năm học 2013-2014:
Tổng
số HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Số
lượng
Tỉ lệ Số
lượng

Tỉ lệ Số
lượng
Tỉ lệ Số
lượng
Tỉ lệ
25 1 4 5 20 17 68 2 8
Nhận xét: Từ bảng 1.2 cho thấy tỉ lệ học sinh Khá – Giỏi cao hơn nhiều so
với đầu năm. Đồng thời tỉ lệ học sinh Yếu giảm đi.
Năm học 2014- 2015 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công trực
tiếp giảng dạy và phụ trách lớp 5B với sĩ số là 23 học sinh, trong đó có 16 học
sinh nữ. Vào đầu năm học tôi tiếp tục làm khảo sát tỉ lệ học sinh, và từ đó có
kế hoạch giảng dạy.
B+ngI.3. Kh+o sát đánh giá chất lượng đầu năm học 2014-2015:
Tổng Giỏi Khá Trung bình Yếu

5
số HS Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng

Tỉ lệ
%
23 0 0 2 8,7 12 52,2 9 39,1
Nhận xét: Từ bảng 1.3 cho thấy tỉ lệ học sinh Khá – Giỏi thấp bằng tỉ lệ học
sinh yếu và học sinh trung bình chiếm tỉ lệ cao.
II/ các biện pháp gi+ng dạy:
Trong chương trình hướng dẫn giảng dạy phần Tập làm văn lớp 5 cũng đặt
ra một số vấn đề cơ bản, từ đó giáo viên vận dụng vào mỗi tiết học. Nhưng
thực tế giảng dạy có nhiều đối tượng học sinh với những khả năng khác nhau.
Đòi hỏi muốn giảng dạy có hiệu quả, đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi, sáng kiến.
Khi nghiên cứu chương trình Tập làm văn lớp 5, tôi nhận thấy phân môn Tập
làm văn trong chương trình lớp 5 gồm các tuyến kiến thức:
- Văn miêu tả gồm có: + Tả cảnh.
+ Tả người.
- Các loại văn bản khác: + Báo cáo thống kê.
+ Làm đơn.
+ Thuyết trình tranh luận.
+ Làm biên bản…
Trong đó thể loại văn miêu tả khá trọng tâm và quan trọng trong
chương trình Tập làm văn lớp 5. Bởi văn miêu tả là hình thức dùng ngôn từ
phác họa ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, con người…một cách sinh động,
cụ thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang: “
Xem tận mắt, bắt tận tay”. Nhưng bản thân tôi khi vận dụng sáng kiến vào
giảng dạy, cũng chỉ mới áp dụng cho phần Tập làm văn miêu tả, mà chưa áp
dụng rộng ở các thể lại và phân môn khác. Đồng thời sáng kiến cũng chỉ là ý
kiến chủ quan của cá nhân đề xuất, nên phạm vi nghiên cứu còn hẹp. Vì vậy;

6
chưa dám khẳng định sẽ có hiệu quả cao, khi áp dụng cho những đối tượng
học sinh lớp khác và phân môn khác.

Ở lớp 5 để viết bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu cơ
bản là:
- Tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả cảnh hoặc tả người.
- Phân tích các văn bản mẫu.
- Quan sát lập dàn ý chi tiết.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
- Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài.
Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên
lần lượt phải thực hiện linh hoạt các bước sau:
1. Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
Để học sinh học tốt phân môn Tập làm văn, trước hết thực hiện yêu cầu
của đề bài nào đó, qua đó giáo viên cần giúp hoc sinh hệ thống hóa các từ ngữ
thuộc chủ đề bài học, để học sinh có vốn từ ngữ khi vận dụng vào làm bài. Từ
đó giúp các em đỡ lúng túng khi sử dụng từ ngữ khi viết.
Ví dụ: Khi dạy bài Tập làm văn: Viết một đoạn văn miêu tả cảnh sông
nước ( Tiếng Việt 5- Tập 1- trang 74).
Giáo viên cần giúp học sinh hệ thống hóa các từ ngữ thuộc chủ đề sông
nước như: lăn tăn; êm đềm ; man mác; quanh co, xanh thẳm, lung linh…
2. Mở rộng câu đúng thành câu hay:
Do kĩ năng đặt câu của học sinh còn nhiều hạn chế, nên giáo viên cần
giúp cho các em ôn luyện cách đặt câu đúng, và biết cách mở rộng thành câu
hay để sử dụng trong bài văn.
Ví dụ: Khi dạy bài : Viết đoạn văn tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa,
chiều) trong vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng,
nương rẫy). ( Tiếng Việt 5- Tập 1- trang 22). Sau khi giúp học sinh xác định

7
đề bài, giáo viên cần giúp các em cách đặt câu đúng và từ câu đúng mở rộng
thành câu hay vận dụng vào bài làm.
+ Chẳng hạn: Mặt trời mọc (câu đúng). Mở rộng: “Ở chân trời phía

Đông, ông mặt trời từ từ dâng cao trên đỉnh núi”. Hoặc “Mặt trời vừa nhô lên
khỏi rạng tre, xua tan những đám sương mù dày đặc…”
+ Chim hót (câu đúng). Mở rộng: “Trong vòm lá xanh, con chim chào
mào hót líu lo như đón chào ngày mới”…
3. Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh hoặc tả người;
- Từ một văn bản mẫu, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định mở bài,
thân bài, kết bài của bài văn tả cảnh, tả người.
- Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn tả cảnh, tả người.
- Sau đó lưu ý cho học sinh về cách trình bày bài văn sao cho tách bạch
rõ 3 phần của một bài tập làm văn.
4. Phân tích các văn bản mẫu:
Với các văn bản mẫu, giáo viên hướng dẫn học sinh tập trung vào việc
tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong bài văn. Đồng thời cũng chú tâm vào việc tìm
hiểu cách sử dụng các giác quan khi quan sát và cách chọn lọc chi tiết để tả.
Ngoài ra còn có thể kết hợp với việc quan sát các cảnh vật thông qua tranh,
ảnh.
Ví dụ:
* Bài “ Luyện tập tả cảnh” - Sách Tiếng Việt 5- Tập 1 – trang 14.
- Cho học sinh đọc bài văn “ Buổi sớm trên cánh đồng”.
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh phân tích bài văn bằng các câu hỏi:
+ Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm mùa thu?
+ Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào?
+ Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả.

8
- Sau khi tìm hiểu xong bài văn, giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh
thấy nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả.
* Bài “ Luyện tập tả cảnh’ – Tiếng Việt 5- Tập 1- trang 21.
- Yêu cầu của bài này là học sinh phân tích hai văn bản “ Rừng trưa’’
và “ Chiều tối” để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn.

- Cách tiến hành bài này là :
+ Cho học sinh đọc lần lượt từng bài văn.
+ Giáo viên giới thiệu tranh ảnh về rừng tràm cho học sinh quan sát.
+ Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong mỗi bài
văn. Có thể yêu cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó.
- Giáo viên cần tôn trọng ý kiến học sinh, đặc biệt khen ngợi những em
tìm được những hình ảnh đẹp.
- Sau cùng, giáo viên chốt lại những hình ảnh đẹp từng bài văn và
hướng cho học sinh đưa ra những hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả.
5. Quan sát lập dàn ý chi tiết:
Để làm tốt được bài văn miêu tả, giáo viên yêu cầu học sinh có sự
chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Đó là nhắc các em quan sát kĩ cảnh vật, sự vật
hoặc một người nào đó trước khi vào học bài mới, điều này giáo viên nhắc
nhở các em trong phần dặn dò cuối buổi học. Bởi học sinh hay nghĩ rằng với
cảnh vật quen thuộc hàng ngày, thì không cần quan sát lại, điều này là hoàn
toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta nhận biết hời hợt, chung chung,
chưa toàn diện.Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều lượt bằng nhiều giác quan thì
mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác. Quan sát trực tiếp
còn cho ta cảm xúc “ nóng hổi” để đưa vào bài viết, tránh được sự tẻ nhạt.
Bên cạnh, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đôi với việc tìm từ
ngữ để diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được.

9
Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà
mình coi là thích hợp hơn cả.
Khi vào học bài mới, giáo vên luôn luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài
văn cần có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công
việc đầu tiên của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài, học sinh đọc kĩ đề bài
nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề bài. Đề bài thuộc thể
loại gì? Đề bài yêu cầu tả gì?

Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để học
sinh chú ý. Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh (Tả
cảnh con sông, tả cảnh ở công viên,…), thì giáo viên cần giới thiệu một số
tranh ảnh minh họa cho học sinh quan sát.
Hướng dẩn học sinh lập dàn ý từ những điều quan sát được.
Ví dụ: * Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn
ý cho bài văn miêu tả ngôi trường (sách Tiếng Việt 5 - Tập 1 - Trang 43)
Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm lưu ý:
+ Có thể tả ngôi trường vào một thời điiểm nhất định (sáng, trưa, chiều
mùa đông - mùa hè ). Cũng có thể tả ngôi trường với cảnh sắc thay đổi theo
thời gian (Từ sáng đến chiều, từ mùa xuân đến mùa hè).
+ Nên tả theo trình tự quan sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong… hoặc
ngược lại, tả gần đến xa , từ trong ra ngoài.
+ Ngôi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò.Tuy
nhiên chỉ nên tả lướt qua hoạt động này, để không biến bài văn tả cảnh thành
bài văn tả cảnh sinh hoạt.
Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn
học sinh cách lập dàn bài.
- Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Miêu tả ngôi trường.

10
- Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ ba phần: Mở bài, thân bài, kết
bài.
- Phần mở bài cần giới thiệu bao quát:
+ Vị trí của ngôi trường: Ngôi trường nằm ở đâu? Quay mặt về hướng
nào?
+ Nêu đặc điểm nổi bật của ngôi trường.
Phần thân bài gồm các ý: Tả từng phần của cảnh trường:
+ Cổng trường (cổng như thế nào? Bảng tên trường ra sao?)
+ Sân trường (Sân trường ra sao? Cột cờ,cây cối như thế nào?)

+ Lớp học (Các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra
sao?)
- Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường.
Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều đảm bảo đủ ý
chính.
6. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn:
Để học sinh diễn đạt bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ
thuật, các em thường được trau dồi qua tiết học “Chuyển một phần dàn ý
thành đoạn văn”.
- “Một phần của dàn ý” có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một
phần của thân bài.
- Phần này, giáo viên cần nhắc nhở các em vận dụng cách mở rộng câu
đúng thành câu hay để đưa vào bài văn.
* Phần mở bài:
Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp, có em có thể mở bài chỉ
bằng một câu, nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không
ai được tách rời nội dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài văn
của mỗi em mà giáo viên góp ý không nên gò bó áp đặt.

11
Ví dụ:
* Đề bài: “…Miêu tả một cảnh sông nước (Một vùng biển, một con
sông, một con suối hay một hồ nước). (Tiếng việt 5- Tập một - Trang 62).
- Có em mở bài thẳng luôn vào đề: “Quê em có một con suối rất đẹp”.
- Có em mở bài rất sinh động: “Mỗi miền quê có một vẻ đẹp riêng. Quê
hương tôi có một dòng suối hiền hòa quanh năm nước chảy”.
Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác
nhau, mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài văn hay,
có tính nghệ thuật.
* Phần thân bài:

- Đa phần các em rơi vào tình trạng liệt kê các chi tiết của cảnh, hoặc
của người.
Ví dụ: Con suối quê em rất dài, trên bờ có hàng cây, có nhiều cỏ, có
đàn bò…Vì vậy giáo viên cần lưu ý cách mở rộng câu đúng thành câu hay, để
học sinh vận dụng thì bài văn sẽ hay hơn.
- Điều quan trọng là lưu ý cho học sinh phải bám vào các chi tiết đã lập
ở dàn bài, để chuyển thành bài văn, đoạn văn. Tránh một số trường hợp học
sinh viết bài văn một cách ngẫu hứng, không bám theo dàn ý đã lập, làm cho
bài văn có thể sẽ mất đi tính lôgic hay tính cân đối, do không chủ động được
thời gian.
* Phần kết bài:
Có nhiều cách kết bài khác nhau: kết bài mở rộng, kết bài không mở
rộng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ nội dung chính. Vì vậy, giáo viên cần
giúp các em nêu cảm xúc một cách chân thực, tránh sáo rỗng. Đồng thời mở
rộng thêm về ý thức, trách nhiệm giữ gìn đối với cảnh và nêu việc làm cụ thể
để bày tỏ cảm xúc chân thực.
7. Viết thành bài văn hoàn chỉnh:

12
Để giúp học sinh viết một bài văn hoàn chỉnh, tôi tiến hành các bước:
+ Tập diễn đạt câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp nghệ
thuật đã học.
- Để tiến hành, tôi gợi ý cho các em những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ.
- Tôi luôn hướng dẫn các em biết cách lựa chọn chi tiết, diễn đạt bằng
câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như: so sánh,
nhân hóa…trong các kiểu bài tập làm văn.
+ Tuy nhiên khi vận dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa đôi khi
học sinh dùng những hình ảnh chưa chính xác.
* Chẳng hạn với đề bài: “Tả một người thân trong gia đình em”. Có em
chọn tả chị gái của mình.Tôi hỏi:

+ Hình dáng (mái tóc, hàm răng, nước da…) của chị tả như thế nào?
- Học sinh nêu:
+ Mái tóc của chị đen và dài như những sợi dây.
+ Nước da của chị đen như mun.
+ Răng của chị rất trắng…
- Chính vì thế, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách dùng
những hình ảnh so sánh hợp lí hơn.
Ví dụ: Mái tóc của chị gái em đen và mượt mà như dòng suối xõa
xuống ngang vai. Mỗi khi chị cười để lộ hành răng trắng đều như hạt bắp. Chị
em có làn da ngăm đen nhưng trông chị rất có duyên.
- Tương tự, trong các đề bài khác giáo viên cũng nên hướng dẫn cho các
em:
+ Cô hiền như cô Tấm trong truyện cổ tích.
+ Mái tóc của bà trắng như mái tóc của các diễn viên trong tuồng chèo.
- Ngoài ra, giáo viên nên kết hợp những câu hỏi gợi ý để giúp học sinh
bổ sung, sửa chữa các câu văn, đoạn văn chưa sử dụng biền pháp nghệ thuật.

13
8. Bộc lộ cảm xúc trong bài văn:
- Ngoài việc giúp học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các
câu văn, giáo viên cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn. Bởi
một bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc
không chỉ bộc lộ ở phần kết bài, mà còn cần thể hiện trong từng câu, từn đoạn
của bài văn. Điều này chúng ta cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong
từng bài.
Ví dụ:- Được sống với ông bà em thấy như thế nào?
(Bà gần gũi, chăm sóc em chu đáo như một bà tiên hiền hậu, em luôn
giúp bà làm mọi việc để bà đỡ vất vả).
- Được bà chăm sóc hằng ngày em nghĩ gì?
(Tình cảm gần gũi thương yêu của bà, như chắp cánh cho em vững bước

trong cuộc đời)
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc
nhận xét trước một sự vật, hay một hiện tượng bất kì. Bài văn của học sinh
tránh được những nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc, mà ngược lại thể hiện
cảm xúc dồi dào của người viết.
III. HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG:
B+ngI.4. Kết qu+ cuối kì I năm học 2014-2015:
Tổng
số HS
Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
23 1 4,3 4 17,4 13 56,6 5 21,7
Nhận xét: Từ bảng 1.4 cho thấy tỉ lệ học sinh đạt điểm từ 7 đến 10
tằng lên tỉ lệ học sinh đạt điểm 5 và dưới 5 chiếm tỉ lệ giảm.
1. Đối với giáo viên: Đề tài đã được vận dụng vào quá trình giảng dạy,

tạo sự hứng thú của học sinh trong giờ dạy.
2. Đối với học sinh:

14
Qua quá trình áp dụng giảng dạy theo phương pháp trên trong năm học
2013-2014; học kì I 2014 - 2015 này, đến nay tôi nhận thấy các em có nhiều
tiến bộ so với đầu năm học. Những học sinh yếu về kỹ năng viết văn miêu tả
đã mạnh dạn, tự tin và hứng thú hơn trong giờ học Tập làm văn. Còn những
em học lực trung bình và khá đã tự mình viết được bài văn, đoạn văn theo yêu
cầu của đề bài. Tuy những bài văn, đoạn văn có những chỗ chưa hay, chưa
sinh động nhưng các em đã tự viết bằng chính tư duy của mình.
Kết quả đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phần nào cho thấy
sáng kiến khi được ứng dụng vào thực tế, cho kết quả khả quan. Do vậy, từ
nay đến cuối năm học tôi luôn cố gắng phát huy, vận dụng phương pháp một
cách linh hoạt để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn, nhằm đạt được mục
tiêu đề ra trong sáng kiến. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường.
C. KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài với công tác:
Tập làm văn là phân môn tổng hợp của tất cả các môn trong phân môn
Tiếng Việt. Học tốt tập làm văn giúp các em có nền tảng vững chắc để học tốt
các môn học khác. Với việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp của đề tài
này, tôi thấy bước đầu mang lại kết quả tốt.
II. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển:
Tuy nhiên học tập là một quá trình, muốn đạt được kết quả cần có sự
hợp tác từ nhiều phía, đặc biệt là học sinh và giáo viên. Hơn nữa, học Tập làm
văn cần có sự tích hợp của nhiều môn khác, các em phải có vốn hiểu biết về
các hiện tượng tự nhiên và xã hội xung quanh chúng ta, thì các em mới đưa
các hình ảnh, các dẫn chứng vào bài văn của mình, để bài văn sinh động, hấp
dẫn hơn. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập làm văn của học sinh

lớp 5, làm nền tảng cho việc học tốt các môn học khác, đáp ứng nhu cầu về

15
chất lượng mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Trên đây là một số biện pháp mà trong quá trình giảng dạy phân môn
Tập làm văn tôi đã áp dụng vào việc giảng dạy trên lớp. Với kết quả nghiên
cứu của mình, tôi chỉ xin nêu một vài kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi đã tích
lũy được, một số bài học thực tiễn, mong muốn chia sẻ cùng với các bạn đồng
nghiệp.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, Ban giám khảo để
việc giảng dạy bộ môn Tập làm văn trong nhà trường ngày càng nâng cao chất
lượng, giúp học sinh học tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
AyunPa, ngày 31 tháng 01 năm 2015
Người viết :
Lê Thị Đào
MỤC LỤC
Stt Tên mục Trang
A
I
Đặt vấn đề
Lí do chọn đề tài
1
1

16
II
1
2
II

I
1
2
B
I
II
1
2
3
4
5
6
7
8
II
I
C
Mục đích và phương pháp nghiên cứu
Mục đích
Phương pháp
Đặc điểm tình hình
Thuận lợi
Khó khăn
Giải quyết vấn đề
Khảo sát đầu năm, cuối năm, so sách kết quả của hai năm liền kề
Các biện pháp giảng dạy
Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh
Mở rộng câu đúng thành câu hay
Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh hoặc tả người
Phân tích các văn bản mẫu

Quan sát lập dàn ý chi tiết
Chuyển Một phần dàn ý thành đoạn văn
Viết thành bài văn hoàn chỉnh
Bộc lộ cảm xúc trong bài văn
Hiệu quả ứng dụng
Kết luận
2
2
2
2
2
3
4
4
5
6
7
7
7
8
10
11
12
13
14
AyunPa, ngày . . . tháng . . . năm………
Xác nhận của Hội đồng chấm Sáng kiến kinh nghiệm Ngành giáo dục.
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………


17
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………

18

×