Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

skkn dạy học tích cực gắn với thực tiễn cuộc sống trong giáo dục công dân ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 45 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
"DẠY HỌC TÍCH CỰC GẮN VỚI THỰC TIỄN CUỘC SỐNG
TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THCS"
BỘ MÔN: GIÁO DỤC CÔNG DÂN

Năm học 2014 - 2015

1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Dạy học tích cực gắn với thực tiễn cuộc sống trong môn
Giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Giáo dục công dân cấp Trung học cơ sở.
3. Tác giả:
Họ và tên: Trần Thị Xuyến

Nam (nữ): Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 25/5/1979
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Văn
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Phả Lại
Điện thoại: 0986145676
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu :
Tên đơn vị: Trường THCS Phả Lại
Địa chỉ: Phường Phả Lại - Thị xã Chí Linh- Tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 0320 3881 326
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:


- Các thiết bị, đồ dùng hỗ trợ giảng dạy: máy tính, máy chiếu...
- Sự ủng hộ hợp tác của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 10 năm 2013

HỌ TÊN TÁC GIẢ :

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Trần Thị Xuyến

2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Thực tế môn Giáo dục công dân (GDCD) còn nhiều bất cập. Tâm lý
chung của các bậc phụ huynh học sinh, thậm chí cả những nhà quản lý giáo
dục, rồi các thầy giáo, cô giáo cho đến cả các em học sinh đều cho đây là môn
học phụ. Điều này tạo cho các em học sinh thái độ thờ ơ, không đầu tư thời
gian, công sức cho việc tìm tòi, học tập và nghiên cứu một cách chủ động và
say mê với môn học. Ngoài ra tình trạng phổ biến trong suốt một thời gian dài,
thậm chí hiện nay ở một số trường THCS vẫn có tình trạng phân công giáo viên
không được đào tạo về chuyên môn dạy môn GDCD . Ở một số trường, sự
phân công đã chú ý đến đặc trưng của môn GDCD thuộc tổ khoa học xã hội
quản lý, nhưng phân công những giáo viên có tuổi đời cao chưa tích cực trong
việc đổi mới phương pháp, hoặc để cân đối số giờ cho giáo viên trong tuần đối
với những trường thừa biên chế, một số trường không ngần ngại phân công
nhiều giáo viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác đảm nhận môn này. Ở
nhiều nơi, các nhà trường còn buông lỏng quản lí việc dạy và học môn GDCD,

ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của thầy và trò. Mặt khác, các nhà trường cũng
thiếu những biện pháp phù hợp và có hiệu quả nhằm động viên, khuyến khích
giáo viên hăng say khai thác làm phong phú nội dung và phương pháp giảng
dạy. Do vậy các tiết học thường khô khan, thể hiện sự nghèo nàn về phương
pháp, chủ yếu là thuyết trình. Cũng vì thế trong giờ học, học sinh rất ít hoạt
động, nếu có thì cũng chỉ tâp trung vào một số câu hỏi do giáo viên đưa ra
mang tính khái niệm. Những giờ học như vậy mang nặng tính chất lý thuyết
khô cứng học sinh tiếp thu một cách thụ động . Vì vậy không gây được hứng
thú cho học sinh trong và sau mỗi giờ học. Điều này tạo nên tâm lý không thích
học môn GDCD, hoặc coi đây là môn học phụ “học sinh học lấy lệ” cho nên
mục đích quan trọng là hình thành thái độ, tình cảm, niềm tin và những thói
quen hành vi đạo đức, pháp luật phù hợp với chuẩn mực của cuộc sống hiện đại
ngày nay bị hạn chế.
3


Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn người giáo viên cần không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học sát đối tượng, lấy học sinh là trung tâm tôi đưa ra kinh
nghiệm : “Dạy học tích cực gắn với thực tiễn cuộc sốn trong môn GDCD của
học sinh THCS ”
2. Điều kiện, thời gian,đối tượng áp dụng sáng kiến
- Điều kiện thực hiện:+ Các thiết bị đồ dùng hỗ trợ: máy tính, máy chiếu, loa,..
+ Sự ủng hộ của các tổ chức đoàn thể
- Thời gian áp dụng: Năm học 2014-2015.
- Đối tượng áp dụng: Học sinh cấp trung học cơ sở.
3. Nội dung sáng kiến
- Điểm mới của sáng kiến: Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp để nâng
cao hiệu quả việc dạy- học môn GDCD, tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi
giờ học, để học sinh nhận thấy đây không phải là môn học khô khan, không
phải là những tiết học nhằm giáo huấn về đạo đức đơn thuần, hay cung cấp kiến

thức pháp luật một cách cứng nhắc mà là những tiết học thực sự bổ ích góp
phần giáo dục nhân cách, hoàn thiện tư cách và trách nhiệm người công dân
mới, hình thành và rèn các kĩ năng sống cho học sinh đồng thời làm thay đổi
nhận thức của những nhà giáo dục, giáo viên, phụ huynh học sinh và học sinh
về vị trí, vai trò của bộ môn GDCD.
- Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến này có thể áp dụng trong các bài cung cấp kiến thức về các
chủ đề đạo đức và pháp luật, các tiết thực thành ngoại khóa trong chương trình
Giáo dục công dân từ lớp 6 đến lớp 9.
- Lợi ích thiết thực của sáng kiến: Thực hiện kinh nghiệm này theo tôi sẽ
có một ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, giúp các em
tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập, yêu thích bộ môn. Từ đó, các em
hình thành được những phẩm chất, kỹ năng cá nhân phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức và pháp luật, đáp ứng được yêu cầu của thời đại.

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong các môn học ở bậc THCS, môn GDCD có một vai trò hết sức
quan trọng trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách học sinh. Đây là môn
học mà các tri thức, chuẩn mực, kỹ năng của nó đều gắn chặt với các sự kiện và
chất liệu của cuộc sống hiện thực. Đó là những vấn đề đạo đức, lối sống và
pháp luật hàng ngày. Đó còn là sự tác động qua lại giữa con người với con
người, con người với thiên nhiên và giữa con người với các thể chế xã hội.
Môn học có nhiệm vụ dạy cho học sinh vừa biết là một người cháu, người con
ngoan trong gia đình, người trò giỏi ở trường, ở lớp và một người công dân biết
sống hoà nhập với đời sống xã hội như một thành viên xã hội với những yêu
cầu về đạo đức, pháp luật và lối sống văn hoá hiện đại.

Song hiện nay môn GDCD chưa được coi trọng ở bậc THCS. Thực tế
môn GDCD còn nhiều bất cập. Tâm lý chung của các bậc phụ huynh học sinh,
thậm chí cả những nhà quản lý giáo dục, rồi các thầy giáo, cô giáo cho đến cả
các em học sinh đều cho đây là môn học phụ. Điều này tạo cho các em học
sinh thái độ thờ ơ, không đầu tư thời gian, công sức cho việc tìm tòi, học tập và
nghiên cứu một cách chủ động và say mê với môn học. Ngoài ra tình trạng phổ
biến trong suốt một thời gian dài, thậm chí hiện nay ở một số trường THCS vẫn
có tình trạng phân công giáo viên không được đào tạo về chuyên môn dạy
môn GDCD . Ở một số trường, sự phân công đã chú ý đến đặc trưng của môn
GDCD thuộc tổ khoa học xã hội quản lý, nhưng phân công những giáo viên có
tuổi đời cao chưa tích cực trong việc đổi mới phương pháp, hoặc để cân đối số
giờ cho giáo viên trong tuần đối với những trường thừa biên chế, một số
trường không ngần ngại phân công nhiều giáo viên thuộc các lĩnh vực chuyên
môn khác đảm nhận môn này. Ở nhiều nơi, các nhà trường còn buông lỏng
quản lí việc dạy và học môn GDCD, ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của thầy
và trò. Mặt khác, các nhà trường cũng thiếu những biện pháp phù hợp và có
hiệu quả nhằm động viên, khuyến khích giáo viên hăng say khai thác làm
phong phú nội dung và phương pháp giảng dạy. Do vậy các tiết học thường khô
5


khan, thể hiện sự nghèo nàn về phương pháp, chủ yếu là thuyết trình. Cũng vì
thế trong giờ học, học sinh rất ít hoạt động, nếu có thì cũng chỉ tâp trung vào
một số câu hỏi do giáo viên đưa ra mang tính khái niệm. Những giờ học như
vậy mang nặng tính chất lý thuyết khô cứng học sinh tiếp thu một cách thụ
động . Vì vậy không gây được hứng thú cho học sinh trong và sau mỗi giờ học.
Điều này tạo nên tâm lý không thích học môn GDCD, hoặc coi đây là môn học
phụ “học sinh học lấy lệ” cho nên mục đích quan trọng là hình thành thái độ,
tình cảm, niềm tin và những thói quen hành vi đạo đức, pháp luật phù hợp với
chuẩn mực của cuộc sống hiện đại ngày nay bị hạn chế.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn người giáo viên cần không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học sát đối tượng, lấy học sinh là trung tâm tôi đưa ra kinh
nghiệm : “Dạy học tích cực gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh THCS
trong môn GDCD”
2. Cơ sở lý luận
Dựa trên những quy luật của quá trình giáo dục, những kinh nghiệm thực
tiễn giáo dục, người ta xây dựng được hệ thống các nguyên tắc giáo dục. Một
trong số các nguyên tắc đó là nguyên tắc cần bảo đảm giáo dục phải gắn với
thực tiễn đời sống, với lao động. Tức là quá trình giáo dục phải góp phần giáo
dục, đào tạo người công dân, những người lao động hoà nhập được với cuộc
sống nói chung với các hoạt động lao động sáng tạo nói riêng của đất nước.
Mặt khác, chính bản thân cuộc sống, bản thân hoạt động lao động này lại là môi
trường, là phương tiện góp phần tích cực vào sự hình thành và phát triển nhân
cách những con người sống và làm việc trong đó. Vì vậy trong quá trình giáo
dục nói chung và dạy – học môn GDCD nói riêng cần tổ chức cho người được
giáo dục có những hiểu biết về cuộc sống nói chung, hoạt động lao động sáng
tạo nói riêng của đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá,
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước; từ đó giáo dục cho họ
những chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật, những kỹ năng, kỹ xảo cần
thiết hình thành nên một nhân cách toàn diện của một người công dân mới ;
6


giáo dục cho họ ý thức được đầy đủ vai trò làm chủ đất nước của mình và
những nghĩa vụ mà họ phải hoàn thành với đất nước.
Môn Giáo dục công dân nói chung và môn Giáo dục công dân ở THCS
nói riêng là môn học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh mà luật giáo dục đã quy
định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về

đức, trí, thể, mĩ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn
bị cho học sinh học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng, và
vệ tổ quốc”. Môn học cung cấp cho học sinh một hệ thống chuẩn mực lối sống
phù hợp với yêu cầu của xã hội ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, giúp học sinh
biết sống hoà nhập với cuộc sống hiện tại với tư cách là một công dân tích cực
và năng động; góp phần quan trọng để hình thành những phẩm chất cần thiết
của nhân cách con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tăng cường khả năng hội nhập trong xu
thế phát triển và tiến bộ của thời đại.
Mỗi môn học đều có những đặc thù riêng, do vậy phương pháp giảng dạy
ở mỗi môn học cũng có những nét khác biệt. Dạy học môn Giáo dục công dân
là một quá trình liên tục giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động tự
chiễm lĩnh các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật thông qua việc nắm tri
thức, qua thực hành trong và ngoài giờ học. Chính vì vậy nhiệm vụ dạy học
môn giáo dục công dân không phải là truyền thụ tri thức, mà phải chú trọng tất
cả các mặt, các nhân tố khác như hình thành niềm tin, tình cảm đạo đức, quan
trọng nhất và cũng là mục đích cuối cùng là hình thành hành vi và thói quen
đạo đức pháp luật ở mỗi học sinh.
Mặt khác dạy học môn GDCD phải nhằm tạo ra sự thống nhất giữa nhận
thức và hành động, giữa lới nói và hành vi. Như vậy, môn GDCD cần phải đảm
bảo cung cấp cho học sinh những phương thức ứng xử về đạo đức, pháp luật,
văn hoá trong cuộc sống, hình thành ở mỗi học sinh sự thống nhất giữa nhận
thức và hành động, hướng học sinh vào việc thực hành trong cuộc sống hàng
7


ngày các chuẩn mực và mẫu hành vi tích cực mà bài học đặt ra; khơi dậy trong
học sinh ý chí thể hiện sự thống nhất đó.
Theo kết quả khảo sát thực tế của tôi ở một số lớp, những tiết dạy môn

GDCD của giáo viên được đào tạo chính quy có 83% học sinh không chỉ nắm
chắc các khái niệm chuẩn mực đạo đức, pháp luật mà còn thể hiện được hành
vi ứng xử linh hoạt, phù hợp với những chuẩn mực đó trước các tình huống
thực tế đặt ra. Điều đó chứng tỏ trình độ, năng lực sư phạm của đội ngũ giáo
viên dạy môn Giáo dục công dân giữ vai trò quan trọng trong việc đổi mới
phương pháp dạy- học môn GDCD ở THCS.
3. Thực trạng của vấn đề
Hiện nay các bậc phụ huynh học sinh nói riêng và toàn xã hội nói chung
rất bức xúc trước thực trạng một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay có những
biểu hiện tha hoá về đạo đức và lối sống, xa rời những thuần phong mỹ tục và
dần lãng quên những nét đẹp truyền thống của dân tộc. Trong thực tế đã có xu
hướng coi nhẹ hoặc phủ nhận những giá trị quý giá của truyền thống dân tộc,
quý cái ngoại lai hơn bản sắc dân tộc; coi nặng giá trị vật chất, coi nhẹ giá trị
tinh thần; cọi nặng lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích công cộng. Đây chính là
những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Cùng với sự sôi động của nền kinh tế
hội nhập là sự du nhập của những phong cách, những lối sống mới đã tác động
trực tiếp tới tầng lớp thanh thiếu niên – tầng lớp luôn thích khám phá và nhạy
cảm với sự thay đổi của môi trường. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta cần
trang bị cho thanh thiếu niên một “liều thuốc kháng sinh đặc trị” có đủ khả
năng đề kháng lại “ những cơn gió độc hại và những căn bệnh nguy hiểm” mà
nền kinh tế thị trường mang lại.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó hiện nay, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục nói
chung và việc dạy- học môn GDCD ở THCS nói riêng cần có những điều chỉnh
và thay đổi về nội dung chương trình cũng như phương pháp dạy- học để đáp
ứng kịp thời sự vận động và phát triển không ngừng trong xu thế hội nhập của
đất nước ta hiện nay. Chúng ta cần hình thành ở học sinh cho được những thói
quen hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật và lối sống
8



văn hoá trong các mối quan hệ mà cuộc sống hàng ngày đặt ra có liên quan đến
các em; nhằm hình thành cho được một nhân cách hoàn thiện của một người
công dân trong thời kỳ mới.
4- Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1.Khảo sát môn GDCD ở cấp THCS
Cũng giống như các môn học khác, để dạy tốt được môn học mỗi giáo
viên cần nắm được cấu trúc nội dung chương trình của phân môn xuyên suốt
cấp học, để từ đó xây dựng kế hoạch giảng dạy cụ thể cho từng bài, từng chủ
đề. Chỉ có làm như vậy, giáo viên mới chủ động đề ra các phương pháp cần
tiến hành trong việc tổ chức, hướng dẫn và cung cấp tri thức, kinh nghiệm để
học sinh chủ động lĩnh hội và vận dụng.
Cấu trúc chương trình môn GDCD ở THCS có 2 phần chính :
- Phần đạo đức: bao gồm những chuẩn mực đạo đức (những phẩm chất,
bổn phận đạo đức), thể hiện yêu cầu cơ bản về đạo đức đối với người công dân.
- Phần pháp luật: bao gồm quyền và nghĩa vụ của công dân trong các
lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, phù hợp với phạm vi hoạt động và yêu
cầu đối với lứa tuổi của học sinh trường THCS.
Qua việc nắm bắt cấu trúc chương trình, tôi nhận thấy đối với môn học
này đòi hỏi người giáo viên giảng dạy phải có trách nhiệm cao, có năng lực tổ
chức các hoạt động học tập trong và ngoài giờ học, đặc biệt là sự hiểu biết xã
hội và vốn sống thực tế. Từ đó giáo viên chủ động xây dựng các phương pháp
và đa dạng hoá phương pháp dạy- học cả một chương trình luôn gắn với thực
tiễn cuộc sống của học sinh.
4.2. Ý nghĩa của việc giảng dạy GDCD găn với thực tiễn
Việc dạy- học gắn với thực tiễn cuộc sống nhằm mục đích:
- Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực đồng thời giúp học sinh củng cố,
khắc sâu kiến thức đã học.
- Rèn luyện được những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống cũng như kĩ
năng phân tích, giao tiếp ứng xử, kĩ năng thích ứng…góp phần phát triển năng
lực.

9


- Hình thành, phát triển niềm tin trong sáng, lành mạnh, phát triển các
phẩm chất tâm lí, cuộc sống tinh thần, hình thành lí tưởng sống đúng đắn.
- Trực tiếp góp phần vào sự nghiệp xây dựng xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.3. Định hướng dạy học gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh:
Căn cứ vào nội dung chương trình SGK môn GDCD, qua thực tế giảng
dạy, tôi thấy quá trình vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo gắn với thực tế cuộc sống của học sinh trong
môn học cần có được những dấu hiệu sau:
4.3.1- Quá trình dạy- học cần tạo ra được sự tác động qua lại giữa vốn kinh
nghiệm sống đã có của bản thân học sinh với các yêu cầu, chuẩn mực đạo đức
và pháp luật đặt ra.
Học sinh THCS đã có vốn kinh nghiệm sống tương đối phong phú, trong
đó có những kinh nghiệm ứng xử được tích luỹ qua môn đạo đức ở bậc tiểu
học. Đó chính là cơ sở giúp các em lĩnh hội tốt các chuẩn mực đạo đức và
pháp luật ở THCS . Vì vậy trong quá trình dạy- học môn GDCD, giáo viên cần
dẫn dắt và khai thác cho được những kinh nghiệm sống đã có của học sinh.
Trong tiết dạy, giáo viên có thể đưa ra các tình huống đạo đức, pháp luật nảy
sinh trong cuộc sống hàng ngày có dấu hiệu trái ngược nhau để học sinh dựa
vào vốn kinh nghiệm sống của mình để đưa ra nhận xét, lý giải.
VD: Khi dạy bài : “Trung thực”, giáo viên đưa ra tình huống :
Tình huống 1: Bạn An nhiều lần nói dối bố mẹ xin tiền đóng học để đi
chơi điện tử.
Tình huống 2:- Một lần ở nhà trông nhà khi bố mẹ đi làm, Lan phát hiện
có một người lạ mặt đến hỏi thăm về gia đình ông B bên hàng xóm xem có ai ở
nhà không. Phát hiện có những dấu hiệu khả nghi. Lúc đó mặc dù biết nhà
ông B không có người ở nhà nhưng Lan vẫn nói là có người ở nhà.

Em có nhận xét gì về hành vi của hai bạn trong hai tình huống trên ?
Có bạn nói hành vi của Lan là thiếu trung thực, em có đồng tình không ? Vì
sao ?
10


Làm như vậy trong thực tế, tôi đã tạo cho tiết học không khí tranh luận
sôi nổi. Trong tiết học, học sinh tự giác, tích cực tham gia vào việc tự khai thác
và lĩnh hội kiến thức nội dung bài học.
4.3.2.Giờ dạy môn GDCD phải có tính vấn đề cao về nội dung để thu hút
sự chú ý, tạo tính tích cực học tập của học sinh.
Môn GDCD ở THCS, vấn đề bào trùm là mâu thuẫn giữa trình độ nhận
thức, kinh nghiệm ứng xử hàng ngày của học sinh và các chuẩn mực đạo đức,
pháp luật được đặt ra trong mỗi bài học. Vấn đề trong mỗi bài học phải cao hơn
trình độ đã có của học sinh, đủ sức giữ vai trò thu hút trí tuệ, tình cảm của học
sinh mà dẫn dắt hoạt động của các em. Trong vấn đề, những tri thức, kỹ năng,
mẫu hành vi ứng xử, những tình huống đạo đức, pháp luật có tác dụng kích
thích học sinh suy nghĩ, phán đoán, lựa chọn cho được phương án xử lý. Thông
qua đó, học sinh sử dụng vốn kinh nghiệm sống của mình để giải quyết các vấn
đề và trong quá trình tìm tòi sẽ dẫn đến sự thay đổi kinh nghiệm khi các em tự
giác chấp nhận những bằng chứng và lập luận hợp lý, xác thực.
4.3.3- Trong giờ dạy môn GDCD, tôi luôn đưa ra các tình huống thực tế
đang diễn ra hàng ngày ở lớp, ở trường, trong gia đình hoặc ngoài xã hội liên
quan đến nội dung bài học mà học sinh dễ bắt gặp nhất để học sinh đưa ra ý
kiến, lập trường cuả mình về một chuẩn mực, một vấn đề đạo đức hay pháp
luật nào đó.
Tổ chức chia nhóm cho học sinh thảo luận trong tiết dạy về một tình
huống, một vấn đề học sinh có những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau, tạo ra sự lập luận, lý giải tranh cãi, thể hiện rõ thái độ, chính kiến của mỗi
em. Trong quá trình làm như vậy đã tạo cho học sinh cơ hội giao lưu, trao đổi,

cọ xát giữa các cá nhân với cá nhân, nhóm này với nhóm khác. Nhờ vậy mà
học sinh chiếm lĩnh được các giá trị đạo đức, pháp luật, lối sống văn hoá một
cách bền vững phù hợp với thực tế cuộc sống hiện nay.
4.3.4- Trong giờ dạy- học tất cả các môn học nói chung và môn GDCD
nói riêng, chúng ta cần chú ý tạo cho được không khí tiết học thật dân chủ, cởi

11


mở, hấp dẫn, giàu cảm xúc, giàu tính nhân văn để kích thích, khơi dạy hứng
thú, sự nhiệt tình sẵn có ở mỗi học sinh THCS cho mỗi tiết học.
Trong giờ dạy môn GDCD, tôi luôn coi trọng và phát huy tính dân chủ,
thực hiện giờ dạy dựa trên mối quan hệ bình đẳng, thiện chí và tham gia hoạt
động như mọi học sinh. Tôi luôn đặt mình vào vị trí của học sinh để tham gia
mọi hoạt động cùng học sinh, dẫn dắt, gợi mở một cách khéo léo nhằm động
viên, cổ vũ và lôi kéo các em vào hoạt động học tập, đặc biệt là những học sinh
nhút nhát, học sinh học yếu. Với cách làm này, không khí lớp học luôn sôi nổi,
thoải mái, học sinh cảm thấy tự tin, tích cực chủ động tranh luận để chiếm lĩnh
các chuẩn mực đạo đức, pháp luật phù hợp với chuẩn mực mà xã hội đặt ra.
Thực hiện theo phương pháp này học sinh thấy bản thân mình cũng góp phần
vào việc khẳng định các giá trị đạo đức, pháp luật làm cho các em củng cố và
bổ sung thêm vào vốn kinh nghiệm trong quá trình học tập ; góp phần tạo cho
các em niềm tin trong việc tự xác định hành vi ứng xử trong và ngoài nhà
trường.
4.3.5. Trong quá trình sử dụng phương pháp dạy học môn GDCD gắn
với thực tế cuộc sống của học sinh, tôi luôn lấy học sinh (những con người
thường được xem là những đứa trẻ, những học trò) vào vị trí người công dân.
Thực sự học sinh đang là những công dân (vị thành niên). Giáo dục các
chuẩn mực đạo đức, pháp luật không phải chỉ là công việc của người lớn mà
còn là công việc của chính các em. Trong SGK, các tác giả gọi họ là “công

dân- học sinh” (những công dân đang đi học) là hàm ý như vậy. Học sinh
đang sống trong các chuẩn mực đạo đức và pháp luật, và đang tiến sâu vào các
quan hệ đạo đức, pháp luật trong đời sống xã hội. Học sinh cần đựơc nhìn
nhận các vấn đề của nhà nước, của xã hội với tư cách người công dân, chứ
không phải là tìm hiểu “công việc của người lớn” để mai sau trở thành người
lớn.
4.4. Cách thức thực hiện:
4.4.1- Nghiên cứu và cải tiến nội dung bài học

12


Trong quá trình chuẩn bị bài học, ở khâu soạn giảng giáo viên cần bổ
sung các thông tin tư liệu thực tế có liên quan, những sự kiện đạo đức pháp luật
hàng ngày, tình hình thực hiện pháp luật ở địa phương, cộng đồng ; bổ sung các
thông tin, số liệu mang tính cập nhật, mới mẻ như các điều luật sửa đổi, những
quy định cụ thể của luật, các pháp lệnh, thông tư hay tình hình thực tế học sinh,
tập thể học sinh nhà trường về việc thực hiện các kỷ luật về đạo đức, pháp luật
hàng ngày như thế nào.... Việc làm đó làm cho nội dung bài học không khô
khan, xa rời thực tiễn, xa lạ đối với học sinh mà nó biến thành những nội dung
thiết thực, sống động, gắn với cuộc sống hàng ngày trong nhà trường, trong gia
đình và ngoài xã hội. Đây là việc làm thiết thực và có ý nghĩa quan trọng đối
với mỗi bài giảng.
Ngoài ra tuỳ thuộc vào từng bài học, nhằm tạo sự phù hợp cho tiến trình
bài giảng với các phương pháp đặc trưng, giáo viên có thể thay đổi thứ tự các
phần để tránh sự dập khuôn máy móc. Ví dụ ở mỗi bài đều có 3 phần là đặt vấn
đề, nội dung bài học và bài tập , giáo viên có thể thay đổi thứ tự đó bằng cách
đưa bài tập ở phần bài tập lên phần đặt vấn đề như một bài tập tình huống có
vấn đề để phục vụ việc khai thác nội dung bài học.
4.4.2- Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học

Muốn làm tốt việc giáo dục học sinh thông qua môn GDCD gắn với thực
tiễn cuộc sống, chúng ta phải đặc biệt chú trọng đến khâu tạo ra nhiều hình
thức tổ chức dạy học cho giờ học môn này. Xuất phát từ cơ sở lý luận: “Đổi
mới phương pháp gắn liền với đổi mới hình thức tổ chức dạy học”, trong dạy
học phải tăng cường tính tương tác, tính chất đối thoại, tính chất hoà nhập của
các quan hệ. Học sinh ở lứa tuổi này có thể tham gia nhiều nhóm xã hội, như
nhóm học tập trên lớp, học trong giờ ngoại khoá, học ở nhóm, tổ, nhóm Đội,
nhóm tại địa bàn nơi ở; có nhóm chính thức do nhà trường hay Đoàn thanh niên
tổ chức, nhưng cũng có nhóm không chính thức. Vì vậy trong quá trình dạy
học giáo viên cần vận dụng linh hoạt các loại nhóm này để đảm bảo tính tối ưu
và hiệu quả giáo dục. A.K Macarenco đã từng nói: “Một tập thể trẻ em được
đặt vào những điều kiện sư phạm lành mạnh có thể phát triển lên tầm cao
13


hoàn toàn không thể đoán trước được”.Trong các hình thức này, hình thức
cao nhất là sự tự giáo dục. Lúc này, chủ thể giáo dục đã chiếm lĩnh được, làm
chủ được những mục tiêu, phương pháp, phương tiện mà xã hội, nhà trường,
tập thể, nhóm đã giáo dục mình và chuyển những điều đã chiếm lĩnh được
thành của mình để hoàn thiện nhân cách và lĩnh hội những cái mới.
4.4.3- Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy - học
Cấu trúc chương trình môn GDCD có 8 chủ đề đạo đức và 5 chủ đề pháp
luật. Ở mỗi chủ đề đạo đức hay pháp luật người giáo viên cần vận dụng linh
hoạt các phương pháp cho phù hợp với từng chủ đề.
*Với các chủ đề pháp luật: Chúng ta có thể tiến hành như sau:
- Trước hết, khi nêu ra các quy định của pháp luật, cần chỉ rõ điều đó
xuất phát từ thực tế nào, và nó là thế nào trong thực tế, nhất là thực tế địa
phương.
Ví dụ 1: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhưng tại
sao pháp luật lại quy định những trường hợp bắt giữ, giam người: Điều này có

cơ sở thực tế như thế nào ? Cho HS xem một lệnh bắt giữ làm ví dụ.
Ví dụ 2: Khi dạy về tôn trọng tài sản nhà nước và lợi ích công cộng, cần
chỉ rõ ở chỗ nào (thôn, xóm, địa phương nào…) có những hành vi tốt, xấu như
thế nào. Ngoài ra chúng ta có thể sử dụng bài tập điều tra thực tế địa phương,
đây là một dạng rất tích cực, có tác dụng nhiều mặt (vừa gắn với thực tế, vừa
là thực hành) .
Có rất nhiều cơ hội cho học sinh làm bài tập dạng này: Điều tra về nạn
tảo hôn, về tự do tín ngưỡng và tôn giáo, về tai nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất
độc hại, về tệ nạn xã hội, về quyền trẻ em, về các di tích lịch sử, di sản văn
hoá…
Mỗi lần có thể cho nhiều bài tập khác nhau, sử dụng cho từng nhóm học
sinh ở các điểm dân cư khác nhau. Học sinh trong cùng một điểm dân cư có thể
cùng làm một bài, có thể mỗi em một bài khác nhau. Mỗi bài chỉ nên có một
hai yêu cầu, không nên bao gồm quá nhiều yêu cầu trong một phiếu. Bên cạnh

14


đó, chúng ta có thể cho học sinh thực hiện “Phiếu phỏng vấn”, đây cũng là một
dạng của điều tra thực tế .
Ví dụ: Cho học sinh phỏng vấn các nhân viên quản lí đường giao thông
về tầm quan trọng, về các vi phạm về bảo vệ đường giao thông; phỏng vấn các
đại biểu HĐND (được bầu ra như thế nào, những công việc của đại biểu, việc
liên hệ giữa đại biểu và cử tri…).
Trong quá trình liên hệ thực tế, giáo viên thường gặp phải tình thế khó
khăn . Nếu chỉ nêu ra những thực tế tích cực thì bài học sẽ xuôi chiều, mà nêu
những thực tế tiêu cực thì ngại bị đánh giá là nói xấu chính quyền, nhất là đối
với cán bộ địa phương. Song đã liên hệ thực tế thì phải chân thực, đúng như nó
có, không xuyên tạc, không cường điệu, tức là tôn trọng thực tế khách quan.
Chỉ như vậy bài giảng mới có sức thuyết phục người học. Vì vậy việc liên hệ

vào thực tế phụ thuộc vào thế giới quan khoa học của giáo viên trong khi đánh
giá thực tế.
Khi nêu ra thực tế yếu kém và tiêu cực, nếu giáo viên có thái độ thiện
chí, có ý thức trách nhiệm, phân tích rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan
và chỉ ra phương pháp khắc phục thì chẳng những không gây ra điều gì bất lợi
mà còn có sức thuyết phục học sinh, thúc đẩy động cơ hành động tích cực của
họ, thúc đẩy họ tìm đến các chuẩn mực pháp luật. Bài giảng chỉ có thể bị đánh
giá không tốt khi người giảng tỏ ra thiếu trách nhiệm, ba hoa, tự cao tự đại, sử
dụng những thông tin xuyên tạc hoặc những tin đồn không có căn cứ.
Giáo dục pháp luật có kết quả khi học sinh được lôi cuốn vào các hoạt
động tự quản trong xã hội, học sinh trực tiếp tham gia vào cải thiện bộ mặt của
đời sống pháp luật ở địa phương. Trong giờ dạy pháp luật trên lớp cần hướng
dẫn học sinh từng mặt cụ thể vào từng hoạt động đó . Sau đó có thể hướng dẫn
học sinh thực hành thông qua một số tình huống mà giáo viên đã chuẩn bị, vì
thực tế không thể sau mỗi tiết giáo viên lại đưa học sinh đi thực hành mà là một
khâu khác – các hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoài trường. Để hướng dẫn học
sinh thực hành, mỗi bài giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh : nội dung thực hành
(làm gì), thực hành vào lúc nào , ở đâu, và kinh nghiệm khi thực hành. Như vậy
15


là yêu cầu phải hướng dẫn một cách rất cụ thể, sát với điều kiện cụ thể của học
sinh và địa phương.
* Với các chủ đề đạo đức: Trong quá trình vận dụng các phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học cần tập trung vào những hoạt động và những vấn
đề gần gũi với cuộc sống thực và liên quan trực tiếp đến học sinh có liên quan
đến các chuẩn mực đạo đức, những tình huống đạo đức.
VD: Khi dạy bài “Trung thực” ngay từ khâu vào bài giáo viên có thể đưa
học sinh nhập cuộc vào vấn đề của bài học thông qua một số tình huống :
- Hiện nay ở trường ta trong các giờ kiểm tra cá biệt vẫn còn một số học

sinh giở vở, giở sách ra chép bài, làm hộ bài cho bạn….
- Học sinh viết giấy xin phép nghỉ học với lý do là ốm, nhưng thực tế là
nghỉ học để đi chơi điện tử…
- Bao che thiếu sót, khuyết điểm cho bạn giúp đỡ mình
- Nói dối bố mẹ là đi học thêm để đi chơi…
Nhờ đó, các em thấy rõ nội dung và hoạt động dạy học đạo đức là gần
gũi, thiết thực đối với bản thân, chứ không phải cái gì xa lạ đối với mình. Vì
thế, các em có thể vận dụng được những điều đã học vào cuộc sống hàng ngày
của mình (trung thực, dũng cảm, lễ độ…)
Quá trình vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, chúng ta
cần nhấn mạnh những cái gì mà học sinh cần học hơn là những cái mà chúng ta
cần dạy; nói khác đi là quan tâm đến nhu cầu, nguyện vọng của các em về đời
sống đạo đức trong sự thống nhất với nhu cầu, nguyện vọng của xã hội đối với
những phẩm chất, bổn phận đạo đức cần hình thành ở học sinh. Bên cạnh đó
cần phát triển ở các em năng lực phê phán; biết tiếp thu những giá trị đạo đức
tốt đẹp; biết đưa ra và bảo vệ ý kiến của mình về một vấn đề đạo đức nào đó.
Song các em cũng sẵn sàng thay đổi ý kiến của mình trước những chứng cớ và
lập luận hợp lý; đồng thời lại có năng lực nhận ra, phản đối những cái đi ngược
lại những giá trị đạo đức nói chung, những phẩm chất và bổn phận đạo đức nói
riêng. Đối với các chuẩn mực đạo đức đòi hỏi phải tích cực làm hơn là nghe,
đọc, hay chỉ nói về các phẩm chất và bổn phận đạo đức. Nói khác đi, cần yêu
16


cầu và tạo điều kiện cho học sinh vận dụng những điều đã học về phẩm chất,
bổn phận đạo đức để không những biết nhận xét, đánh giá hành vi của mình,
của người khác mà quan trọng nhất, đó là các em phải chuyển hoá tự giác
những điều đã học thành hành vi và thói quen hành vi đạo đức cần thiết. Vì
vậy, đòi hỏi học sinh tránh được một cách có ý thức tình trạng “đạo đức
suông”, “đạo đức giả” ; nói về phẩm chất, bổn phận đạo đức thì rất hay, nhưng

trên thực tế, không có những hành vi đạo đức tích cực. Từ đó định hướng và
tạo cơ hội cho các em biết được những tri thức về phẩm chất và bổn phận đạo
đức thành hành vi và thói quen trong cuộc sống hàng ngày.
4.4.4 - Cách tiến hành một vài phương pháp cụ thể
* Phương pháp sắm vai
Đây là phương pháp trong đó, học sinh “sắm vai” các nhân vật theo yêu
cầu của tình huống đạo đức hay pháp luật nào đó, và cũng “biểu diễn” nhằm
giải quyết tình huống này trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các
em.
Phương pháp này được tôi sử dụng phổ biến trong các tiết dạy như sau:
- Chọn một chủ đề, ví dụ: “Giữ gìn và bảo vệ di sản văn hoá”, “ Phòng
chống tệ nạn xã hội …” . Ở đây có điều chú ý là chủ đề được lựa chọn có liên
quan đến những tình huống đạo đức, pháp luật nhất định . Với chủ đề đã chọn,
có thể xây dựng thành kịch bản hoặc cũng có thể không xây dựng thành kịch
bản nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh đến cao độ.
Tình huống 1: Khi đang cùng mọi người tham quan di tích Côn Sơn, An
và Tùng đã có hành vi bẻ cành thông, vứt rác bừa bãi, viết vẽ, kí tên lên tường
đá của khu di tích.
Tình huống 2: Trên đường đi học về có một người lạ nhờ em cầm hộ
một gói hàng đến một địa điểm gần đó, người đó sẽ cho em một trăm nghìn
đồng.
- Lựa chọn các vai cho phù hợp
- Hướng dẫn “diễn viên” chuẩn bị vai (chú ý nêu rõ những yêu cầu cần
đạt)
17


- Bắt đầu “biểu diễn” (hoặc theo kịch bản cho trước, hoặc không theo
kịch bản định sẵn)
- Cuối cùng giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận, đánh giá, nhận xét

và rút kinh nghiệm.
* Phương pháp thảo luận nhóm
- Giáo viên giới thiệu chủ đề cuộc thảo luận hoặc trình bày tình huống,
vấn đề mà cuộc thảo luận sẽ nhằm vào.
Ví dụ khi dạy bài: “Quyền được đảm bảo an toàn và bí mật về thư tín, điện tín”
Tình huống: Loan và Phượng vào văn phòng nhà trường nhận tờ báo cho lớp
và một lá thư gửi Hiền. Trên đường về, Phượng thì thầm:
- Chúng mình mở thư xem ai viết gì cho nó đi?
Loan ngần ngừ:
- Tớ sợ lắm!
Phượng mỉm cười:
- Sợ gì, mình với Hiền là bạn thân; mình đọc thư của Hiền cũng được chứ
sao! Nếu cậu ngại, chúng mình đọc xong sẽ dán lại đưa cho nó.
Câu hỏi thảo luận
Nhóm 1: Theo em, Phượng có thể đọc thư gửi Hiền mà không cần sự đồng ý
của Hiền không? Vì sao?
Nhóm 2: Em có đồng ý với giải pháp của Phượng là đọc xong thư, dán lại rồi
mới đưa cho Hiền không? Vì sao?
Nhóm 3: Nếu là Loan, em sẽ làm thế nào?
- Chia lớp thành những nhóm nhỏ 5-6 em
- Các nhóm tiến hành thảo luận và ghi tóm tắt kết quả thảo luận ra giấy
- Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm trước lớp.
- Các nhóm trao đổi ý kiến , bổ sung
- GV tóm tắt các ý đúng và kết luận.
* Phương pháp giải quyết vấn đề
- Phát hiện vấn đề : Đây là bước đầu tiên hết sức quan trọng . Trong
bước này, cần xác định được các chi tiết:
+ Những điều gì có liên quan đến vấn đề ?
+ Vấn đề xảy ra trong điều kiện nào ?
+ Vấn đề xảy ra khi nào ?

18


+ Vấn đề xảy ra ở đâu ? (trong trường, ngoài trường, ở gia đình hay
ngoài cộng đồng)
+ Nội dung và tính chất của vấn đề: Thể hiện ở mức độ của vấn đề (phức
tạp, trầm trọng hay đơn giản), ở mối quan hệ giữa các thành viên trong vấn đề.
- Đặt HS vào hoàn cảnh phải giải quyết vấn đề
- Giúp HS tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến vấn đề, trong đó phải phân tích
được các mặt trái của vấn đề, xác định được ai là người phải chịu trách nhiệm.
- Thảo luận nêu lên những cách giải quyết vấn đề. Cần đề ra được các
phương án khác nhau để giải quyết vấn đề.
- Phân tích ưu, nhược điểm của các giải pháp.
- Quyết định chọn những giải pháp đúng đắn và lập kế hoạch thực hiện.
VD: Vấn đề đặt ra là:
- Tại sao trong thanh thiếu niên hiện nay có một số nghiệm hút ma túy ?
- Giả sử trong lớp, có bạn nghiện mà tuý thì em sẽ làm gì ?Lớp ta sẽ làm
gì?
* Phương pháp tổ chức trò chơi
Phương pháp này có rất nhiểu ưu điểm, như:
- Tăng cường khả năng chú ý của học sinh
- Nâng cao hứng thú cho người học, góp phần giải trừ mệt mỏi, căng
thẳng trong giờ học.
- Tăng khả năng giao tiếp giữa các HS và giữa GV với HS.
VD: Trò chơi về an toàn giao thông:
Trò chơi này có thể tổ chức khi dạy bài “Thực hiện trật tự an toàn giao
thông”. Có thể chơi theo nhóm hoặc cả lớp, tuỳ điều kiện của lớp học.
Cách chơi:
- Mỗi nhóm cử 1 HS đóng vai cảnh sát giao thông. HS trong nhóm lần
lượt đóng vai người đi đường (đi bộ, đi xe đạp, điều khiển xe cơ giới…)

- Khi cảnh sát giao thông đưa mỗi biển báo ra thì người đi đường tiến
lên, đứng yên hay lùi lại (theo quy ước và ý nghĩa biển báo giao thông)

19


Ví dụ : Trò chơi: “Đến trung tâm tư vấn pháp luật” áp dụng khi dạy
bài có nội dung về chủ đề pháp luật
Cách chơi :
- Mỗi nhóm cử 1 HS tham gia đóng vai các “Luật sư” của trung tâm tư
vấn pháp luật.
- Mỗi HS trong lớp chuẩn bị câu hỏi có liên quan đến nội dung bài học
để hỏi các “luật sư”.
- Khi các “công dân” nêu ra các câu hỏi, các “luật sư” có thể trao đổi
tìm đáp án và cử đại diện trả lời.
Ví dụ trò chơi “Hành trình văn hóa” có thể tổ chức cho học sinh khi dạy
bài Bảo vệ di sản văn hóa, Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, …có thẻ tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi “Hành trình văn
hóa”
Cách chơi:

20


Luật chơi: Tìm từ chìa khóa( gồm 7 chữ cái)
-Chọn một địa danh trên bản đồ, ứng với mỗi địa
danh là một câu hỏi.
- Trả lời đúng câu hỏi sẽ tìm được chữ trong từ
chìa khóa
-Bạn nào tìm được từ chìa khóa sẽ chiến thắng


Phó Thä
Hµ T©y

Hµ Néi

NghÖ An

HuÕ

T©y Nguyªn

TP. Hå ChÝ Minh

§ång Th¸p M­êi

Ví dụ trò chơi “Hái hoa điểm tốt” có thể áp dụng cho các dạng bài
khác nhau, thích hợp cho phần luyện tập và củng cố.
Cách chơi:
-Tất cả học sinh trong lớp đều có thể tham gia.
-Mỗi một bông hoa điểm tốt là một câu hỏi hoặc bài tập liên quan đến bài học
được sắp xếp từ dễ đến khó theo số điểm tương ứng.
- Học sinh trả lời đúng sẽ được số điểm tương ứng trên mỗi bông hoa.
-Học sinh trả lời sai, quyền trả lời thuộc về bạn khác.

21


* Phương pháp đề án
Để có được một đề án tốt, HS cần :

- Xác định mục tiêu trong đầu
- Nói lên cách đạt mục tiêu đó như thế nào ?
- Xác định xem cần phải kết hợp với những ai.
- Xác định các bước trong việc thực hiện đề án.
- Thời gian thực hiện đề án
- Triển khai thực hiện đề án
- Đánh giá đề án
+ Các em đã đạt đựơc những gì ?
+ Các em đã học được điều gì ?
+ Những người tham gia khác đã học được điều gì ?
VD: có thể cho HS tham gia thiết kế và thực hiện các đề án sau:
Khi dạy bài “Đoàn kết, tương trợ”, GV cho HS xây dựng đề án hoạt
động nhằm giúp nhau trong học tập và cuộc sống như: tổ chức trồng rau, nuôi
gà, thu phế liệu… để bán lấy tiền giúp các bạn nhà nghèo trong lớp.
Dạy bài “Biết ơn” cho HS thực hiện đề án tu sửa, làm đẹp nghĩa trang
liệt sĩ quê nhà; đề án giúp các gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công
với cách mạng.
22


Dạy bài “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” cho HS thực
hiện đề án làm sạch trường lớp, đường làng, ngõ xóm…
Ví dụ : GV hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch.
- Tên hoạt động : Thu phế liệu bán lấy tiền đề giúp đỡ các bạn nghèo
- Nội dung: Tiến hành thu gom các loại phế liệu, như : giấy vụn, sắt vụn,
chai lọ..
- Biện pháp thực hiện: Tiến hành tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về ý
nghĩa của hoạt động tới tất cả các bạn đội viên trong toàn liên đội, giao chỉ tiêu
cho từng đội viên, cho từng chi đội…. thường xuyên đôn đốc các chi đội thực
hiện một cách tích cực; phối kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài

nhà trường như : Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên….
- Thời gian thực hiện hoạt động: tiến hành trong tháng 9-10 học kỳ I
của năm học
- Địa điểm tiến hành: Thu gom tại phòng Đoàn - Đội của nhà trường
- Người phụ trách: Bạn liên đội trưởng – chỉ đạo chung, kết hợp với các
chi đội trưởng của các chi đội
- Người tham gia: Toàn thể đoàn viên, đội viên của nhà trường.
* Phương pháp nêu gương
“Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống”.
Trong quá trình giáo dục nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng không thể
chỉ dựa vào lời nói và tư tưởng. Những tấm gương về hành động và hành vi đạo
đức, pháp luật của những người khác trong xã hội có ý nghĩa to lớn. Vì vậy nêu
gương tích cực là một phương pháp giáo dục có hiệu quả cao.
Ý nghĩa của phương pháp nêu gương tích cực đối với việc giáo dục là ở
chỗ học sinh có khuynh hướng bắt chước và làm theo những hành vi và hành
động mà các em cho là có ý nghĩa và có tác dụng củng cố giá trị của bản thân.
Thực tế trong xã hội hiện nay bên cạnh những biểu hiện tiêu cực đương bị xã
hội lên án, đã và đang xuất hiện nhiều tấm gương tích cực của con người Việt
Nam năng động, sáng tạo, vươn lên chiến thắng nghèo khổ, bệnh tật, dốt nát,
chiến thắng nguy cơ tụt hậu...
23


Khi sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy- học cần lựa chọn các
tấm gương tiêu biểu, gần gũi ở ngay địa phương thì càng tốt, càng tăng tính
thuyết phục. Qua đó học sinh có thể nhận thức một cách toàn diện lý tưởng đạo
đức mới, lý tưởng kết hợp với tính tư tưởng và chính trị cao, chiều sâu của tình
cảm đạo đức và sự trong sáng của hành vi . Vì vậy ta cần sử dụng không chỉ
những tấm gương của những học sinh xuất sắc, những người sản xuất tiên tiến,
những chiến sĩ bảo vệ tổ quốc, và các nhân vật trong các tác phẩm văn học mà

cần nhấn mạnh rằng trong hoà bình và thời kỳ “mở cửa” hiện nay, khi tình
trạng đạo đức đang bị xáo động thì những tấm gương “đời thường” rất cần
được coi trọng.
VD: Tấm gương về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh có một sức
mạnh to lớn trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Chúng ta có
thể tổ chức một số hoạt động như nghiên cứu các tác phẩm của Người, tổ chức
các buổi nói chuyện, thảo luận… để có thể khai thác đầy đủ những nét phẩm
chất tốt đẹp của Người.
Những tấm gương về những người nông dân, học sinh rất đỗi bình
thường nhưng họ đã có những việc làm phi thường thể hiện tính “Năng động,
sáng tạo”
- Anh nông dân Nguyễn Đức Tâm (Tỉnh Lâm Đồng) đã chế tạo thành
công máy gặt lúa cầm tay, mặc dù anh không học qua một trường kỹ thuật nào.
- Bác Nguyễn Cẩm Lũ không qua một lớp đào tạo nào mà bác có thể di
chuyển cả một ngôi nhà, cây đa. Bác được mệnh danh là “Thần đèn”
- Anh Nguyễn Ngọc Ký mặc dù bẩm sinh với đôi tay tật nguyền không
làm việc được, nhưng với ý chí và nghị lực phi thường anh đã dùng chân cầm
bút tập viết để học. Và sau này anh Nguyễn Ngọc Ký của chúng ta đã trở thành
một thầy giáo ưu tú.
- Rồi bạn học sinh A ở trường chúng ta, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn
bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng bạn phải ở với bà nội . Hàng ngày ngoài việc đi
học, bạn còn phải làm rất nhiều việc để phụ giúp bà của mình . Vậy mà suốt 7
năm liền bạn luôn đạt danh hiệu là học sinh giỏi của trường…
24


Chúng ta biết rằng sẽ không có một phương pháp dạy học nào là tối ưu.
Vì vậy trong quá trình dạy- học, tôi luôn kết hợp đa dạng các phương pháp dạy
học vừa cổ truyền, vừa hiện đại. Và mục đích cuối cùng là học sinh hiểu bài cả
về mặt lý thuyết cũng như khả năng vận dụng thực hành.

Trên đây tôi vừa trình bày những quan điểm chung cùng một số hình
thức và phương pháp tổ chức dạy- học môn GDCD luôn gắn liền với cuộc sống
thực tế của học sinh mà bước đầu tôi đã đạt đựơc một số kết quả nhất định
trong công tác giảng dạy của mình.
5. Kết quả ứng dụng:
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi về “Dạy học tích cực gắn với thực tiễn
cuộc sống của học sinh THCS trong môn GDCD”. Khi áp dụng sáng kiến này ở
các lớp do mình trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy đa số học sinh có hứng thú
học tập, giờ học sôi nổi hơn, khả năng năm kiến thức sâu hơn , các em nhớ lâu,
khả năng liên hệ bản thân tốt hơn
- Lớp 8G: Với giáo án có vận dụng linh hoạt các phương pháp và gắn với thực
tế kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin.
- Lớp 8E: Với giáo án dạy không có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, bỏ qua
một số phương pháp như trò chơi, sắm vai thì tiết học trầm hẳn, không gây
được sự tập trung chú ý của học sinh
Sau đây là bảng đối chiếu kết quả giảng dạy ở hai lớp:
Nội dung

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

27

67,5

11

27,5

2

5,0

0

0

19


47,5

0

0

8G (40 HS)
Lớp thực nghiệm
8E (40 HS)
9

22,5

12

Lớp thực nghiệm
25

30,0


×