Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

skkn dạy tập đọc theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của HS lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.95 KB, 26 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
DẠY TẬP ĐỌC THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH
Môn Tiếng Việt – Lớp 5

Năm học 2014 – 2015

1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Dạy Tập đọc theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 5 các trường tiểu học
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Kim Oanh

Nữ

Sinh ngày: 12/ 8/ 1973
Trình độ chuyên môn: Đại học – Chuyên ngành Giáo dục Tiểu học
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phả Lại 2 – Chí Linh – Hải Dương
Điện thoại: 0979 967 339
4. Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Phả Lại 2
Phả Lại - Chí Linh - Hải Dương
5. Điều kiện áp dụng:
5.1 Giáo viên:


- Giáo viên có trình độ đạt chuẩn trở lên, tâm huyết với nghề nghiệp.
- Nắm chắc mục tiêu, nội dung, chương trình từng môn học, cấp học.
- Tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
5.2 Học sinh:
- Có đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập.
- Nắm chắc kiến thức, có ý thức tích cực, tự giác học và làm bài.
5.2. Cở sở vật chất:
- Lớp học có đủ cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học.
- Môi trường trong sạch, lành mạnh
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Sáng kiến được áp dụng trong
năm học 2014 – 2015.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

2


Nguyễn Thị Kim Oanh
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Tiếng Việt là môn học cơ bản trong chương trình tiểu học. Trong đó
phân môn Tập đọc chiếm vị trí quan trọng. Tập đọc góp phần tích luỹ kiến
thức nhiều mặt, đa dạng phong phú. Cuối bậc tiểu học yêu cầu tối thiểu là học
sinh phải đọc thông viết thạo, sử dụng thành thạo ngôn ngữ nói và viết trong
học tập và giao tiếp (nói và viết câu đơn, câu ghép thông thường đúng ngữ
pháp, nghe và đọc hiểu được văn bản có nội dung thích hợp với việc học tập
và cuộc sống của các em. Yêu thích thơ văn, nhớ và đọc diễn cảm một số
truyện và thơ trong sách tiểu học), từ đọc thông viết thạo giúp học sinh có
điều kiện nắm lấy kho tàng kiến thức và văn hoá của loài người tàng trữ trong

sách. Mà để đọc thông viết thạo thì phải gắn liền với đọc đúng đọc hay, rõ
ràng, lưu loát và đọc diễn cảm tốt. Muốn học sinh hiểu rõ được nội dung bài
đọc, cảm thụ được cái hay cái đẹp của bài đọc thì các em phải tích cực, chủ
động trong việc học các bài tập đọc. Để học sinh có được sự chủ động tích
cực trong học Tập đọc là một yêu cầu đòi hỏi người giáo viên phải có sự lao
động sáng tạo thì mới đạt được hiệu quả cao. Do vậy tôi đã lựa chọn đề tài
" Dạy Tập đọc theo hướng phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh".
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1. Điều kiện áp dụng:
- Giáo viên có trình độ đạt chuẩn trở lên, tâm huyết với nghề nghiệp.
Tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
- Học sinh có đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập, có ý thức tích cực, tự
giác học và làm bài.
2.2 Thời gian áp dụng:
Sáng kiến được thực hiện áp dụng từ đầu năm học 2014 – 2015.
2.3 Đối tượng áp dụng sáng kiến
- Giáo viên và học sinh lớp 5 các trường tiểu học
3


3. Nội dung sáng kiến:
3.1 Điểm mới của sáng kiến:
- Rèn kĩ năng chủ động tích cực trong giờ tập đọc cho học sinh chính là
sự kết hợp giữa đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và sự chủ động,
tích cực chiếm lĩnh kiến thức, phát triển tư duy của học sinh thông qua hoạt
động dạy và học.
- Đổi mới phương pháp dạy học là sự kết hợp giữa phương pháp dạy
học truyền thống với phương pháp dạy học hiện đại phù hợp với trình độ nhận
thức và năng lực tư duy của học sinh, làm cho quá trình học của học sinh diễn
ra nhẹ nhàng nhưng hiệu quả, phát huy được năng lực từng cá nhân, lòng say

mê sáng tạo của học sinh trong khi học.
- Hình thành và rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản khi học phân
môn Tập đọc.
3.2 Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng ở tiết Tập đọc cho tất cả học sinh lớp 5 các
trường tiểu học.
Tôi đã sử dụng các biệp pháp sau để dạy học các tiết Tập đọc:
- Tìm hiểu, phân tích thực trạng dạy học
- Tìm hiểu phương pháp dạy học tích cực, chủ động trong giảng dạy
- Thực hiện soạn bài với việc đổi mới ở các khâu như:
+ Đọc mẫu: cho học sinh đọc mẫu từ, đọc câu dài, đọc đoạn, đọc cả văn
bản
+ Đọc thành tiếng: Chú ý hướng dẫn học sinh cách đọc từng loại văn
bản nghệ thuật ( thơ, văn xuôi) hay các văn bản phi nghệ thuật
+ Đọc ngắt nghỉ câu hợp lí
+ Đọc đúng trường độ, cao độ của văn bản
+ Đọc phân biệt được lời nhân vật trong câu chuyện
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung văn bản qua các câu hỏi trong
sách giáo khoa hoặc qua các hình thức chẻ nhỏ theo ý từng đoạn hay bài tập
trắc nghiệm đối với câu hỏi khó..
- Thực hiện dạy học bằng các phượng tiện dạy học hiện đại để học sinh
4


hiểu bài qua tranh ảnh minh họa
3.3 Hiệu quả của sáng kiến:
- Hình thành và rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản khi tiếp cận bất
kì văn bản nghệ thuật hoặc phi nghệ thuật nào là học sinh biết đọc, đọc đúng,
đọc diễn cảm và hiểu được văn bản đó.
- Khích thích học sinh ham học, hình thành thói quen đọc sách báo,

bước đầu hình thành văn hóa đọc cho học sinh.
- Góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt.
4. Khẳng định giá trị và kết quả đạt được của sáng kiến
Những biện pháp mà tôi nêu trong đề tài đều dựa trên những cơ sở
nghiên cứu khoa học, đã được đem áp dụng thực hiện trong các tiết dạy Tập
đọc, kết hợp với kinh nghiệm của giáo viên đứng lớp sáng kiến đã đem lại
hiệu quả cao trong việc tạo hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng đọc và phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh góp phần thực hiện thành công việc
đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy
học phân môn Tập đọc nói riêng và môn Tiếng Việt lớp 5 nói chung.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
- Để thực hiện áp dụng đề tài vào giảng dạy, nhà trường cùng tổ chuyên
môn tổ chức chuyên đề, thảo luận các biện pháp áp dụng trong từng phần của
tiết dạy Tập đọc, tổ chức tiết dạy mẫu, rút kinh nghiệm và triển khai trong các
tiết dạy Tập đọc.
- Đối với giáo viên phải nắm chắc đặc trưng phương pháp bộ môn Tập
đọc. Vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học trong
giảng dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Cần soạn bài chi tiết
bám sát đối tượng, hệ thống câu hỏi phải chặt chẽ, phát huy được tư duy
nhưng đảm bảo tính vừa sức. Không biến giờ tập đọc thành giờ giảng văn, hết
sức coi trọng đọc hiểu và đọc diễn cảm. Giúp học sinh hiểu văn bản, khơi gợi
cảm xúc, ý tưởng độc đáo để các em tự tìm ra cách đọc. Sử dụng tối đa và có
hiệu quả đồ dùng dạy học trong từng tiết dạy. Tạo không khí học tập sôi nổi,
vui tươi phấn khởi để giúp học sinh nắm bắt kiến thức, rèn luyện kĩ năng đọc.

5


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

Những kinh nghiệm của đời sống con người, những thành tựu văn hoá,
khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của con người đương
thời đều được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không
thể tiếp thu nền văn minh của con người, không thể sống một cuộc sống bình
thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của nó trong xã hội hiện đại. Biết đọc
con người đã nhân khả năng tiếp nhận tri thức lên nhiều lần, từ đó con người
biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội,
tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn học
cơ bản, giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông
hiểu tư duy, tình cảm của người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn
chương con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động
về tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức
mạnh sáng tạo cũng như bồi dưỡng tâm hồn. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ
thông tin như hiện nay thì biết đọc ngày càng quan trọng, đọc chính là học,
đọc là tự học.
Chương trình Tiểu học mới xác định mục tiêu của môn Tiếng Việt là
hinh thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( Kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp. Với mục tiêu như vậy thì
phân môn Tập đọc không thể thiếu trong chương trình. Phân môn Tập đọc
giúp các em hiểu được cái đúng, cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của nghệ thuật
ngôn từ. Học đọc các em cũng đồng thời học cách nói, cách viết chính xác,
trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện có suy nghĩ.
Từ nhiều năm nay việc đưa chương trình Tiểu học mới vào dạy đại trà
trong cả nước đã góp phần thúc đẩy quá trình giáo dục đạt đến chất lượng
cao. Song bên cạnh đó đặt ra vấn đề từ việc đổi mới nội dung, chương trình
của các môn học đòi hỏi đổi mới về phương pháp dạy học, cách tổ chức học

6



tập cho học sinh để giờ học trở lên nhẹ nhàng song đạt hiệu quả cao. Phân
môn Tập đọc cũng không tách rời nội dung đó.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi cũng không khỏi băn khoăn,
trăn trở trước câu hỏi là mình cần đổi mới cách dạy học như thế nào để học
sinh phát huy được tính chủ động, tích cực trong giờ học Tập đọc để học sinh
không những biết đọc văn bản chính xác và diễn cảm mà cần được bồi dưỡng
tình yêu Tiếng Việt, có thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng
Việt. Từ những lý do trên đã thôi thúc tôi tìm hiểu, lựa chọn vấn đề “ Dạy
Tập đọc theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh”.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề:
2.1 Hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động
ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng
hoạt động tương ứng với bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một hoạt
động ngôn ngữ, là hoạt động nhận tin. Hoạt động đọc chỉ xảy ra khi người đọc
nắm được chữ viết. Đọc là dùng mắt và cơ quan thị giác để chuyển các ký
hiệu chữ viết trong văn bản thành dùng âm thanh ngôn ngữ. Sau đó dùng các
thao tác tư duy để người đọc thông hiểu nội dung văn bản. Năng lực đọc và
biết đọc không phải tự nhiên mà có, nó phải được hình thành và rèn luyện dần
dần trong quá trình học đọc. Phân môn Tập đọc góp phần quan trọng vào việc
hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
2.2 Trau dồi kiến thức văn học, kiến thức ngôn ngữ, kiến thức đời
sống cho học sinh.
Những bài Tập đọc được chọn dạy trong chương trình lớp 5 là những
câu chuyện, bài thơ, bài văn được biên soạn theo từng chủ điểm cụ thể. Chính
vì thế các bài Tập đọc này cung cấp cho các em vốn từ ngữ phong phú theo
chủ điểm như: Việt Nam -Tổ quốc tôi; Cánh chim hòa bình; Con người với
thiên nhiên; Giữ lấy màu xanh; Vì hạnh phúc con người…….Mặt khác các bài
Tập đọc cũng là những bức tranh muôn màu, muôn vẻ về thiên nhiên, xã hội,
về phong tục tập quán, về truyền thống, kinh nghiệm sống… Cho nên các em

càng đọc càng thêm hiểu biết về con người, đất nước ta trong quá khứ cũng
7


như trong hiện tại. Học tập đọc tíớ tuệ của các em ngày càng được nâng cao,
bồi dưỡng cho các em lòng tin yêu cuộc sống, con người.
2.3 Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục tình cảm, phát triển tư duy.
Dạy Tập đọc có khả năng hướng học sinh tới cái đẹp, biết rung cảm
trước vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, hình tượng nghệ thuật. Dù ngắn, dù dài
dung lượng thông tin ít hay nhiều cũng chứa đựng lượng thông tin nhỏ về
ngôn từ, hình ảnh, sự kiện, tình cảm. Nó có khả năng tác động vào tâm hồn
ngây ngô, hiếu động của các em làm cho các em vui, buồn, say sưa, thích thú,
yêu, ghét,..Vì vậy mỗi bài văn, bài thơ có tác dụng giáo dục rất lớn. Nó giáo
dục các em không phải bằng các triết lý khô khan mà bằng những hình tượng
văn học sinh động. Từ sự rung động nội tâm, các bài Tập đọc dần dần mang
đến cho các em những tình cảm tốt đẹp, cao thượng, lành mạnh góp phần giáo
dục tình yêu cuộc sống đối với con người, gia đình, bạn bè và cao hơn là tình
yêu quê hương đất nước.
Dạy Tập đọc giúp phát triển tư duy hình tượng bên cạnh việc phát triển
tư duy logic. Học Tập đọc cần rèn khả năng thông hiểu ngôn ngữ, khả năng
suy luận lôgic và phân tích tổng hợp.
Với tầm quan trọng như vậy thì việc dạy Tập đọc sao cho học sinh tích
cực, chủ động chiếm lĩnh kiến thức mà vẫn rèn được các kỹ năng đọc cho học
sinh là một vấn đề cấp thiết.
3 Thực trạng vấn đề cần nghiên cứu
3.1 Về phía giáo viên:
- Nhận thức chung về dạy Tập đọc của giáo viên là nâng cao kỹ năng
đọc trơn, đọc thầm được hình thành ở các lớp dưới, đồng thời rèn luyện một
số kỹ năng mới đó là đọc diễn cảm, kỹ năng đọc hiểu văn bản. Tuy nhiên việc
rèn các kỹ năng này đạt hiệu quả chưa cao.

- Bài soạn môn Tập đọc đều theo khuôn mẫu có sẵn trong sách giáo
viên mà chưa có sự suy nghĩ tìm tòi sáng tạo.
- Do đặc trưng chung của môn Tiếng Việt nên học sinh đa số chỉ được
đọc đoạn văn, đoạn thơ mà ít được đọc cả văn bản. Việc đọc trong nhóm đôi
lại chỉ là hình thức mà chưa có hiệu quả vì thời gian đọc nhóm còn ít, cả lớp
8


cùng đọc do đó giáo viên không thể kiểm soát tất cả học sinh cùng lúc, đòi
hỏi học sinh phải có tính tự giác cao.
- Việc tìm hiểu bài chỉ gói gọn các câu hỏi trong SGK, lại được tìm
hiểu dưới hình thức giáo viên hỏi- học sinh trả lời. Do vậy với một số bài Tập
đọc việc tìm hiểu chỉ dựa vào các câu hỏi SGK là chưa sâu, chưa tìm hiểu hết
nội dung ý nghĩa của bài văn, bài thơ.
- Đối với một số văn bản nghệ thuật, học sinh ít được cảm nhận cái hay,
cái đẹp qua các biện pháp nghệ thuật dẫn đến việc học sinh chưa đọc được
diễn cảm.
- Giáo viên chỉ dựa vào sự hướng dẫn việc đọc diễn cảm trong Sách
giáo viên nên việc hướng dẫn của giáo viên đối với học sinh còn rời rạc,
chưa cụ thể. Việc đọc diễn cảm của học sinh chưa có hiệu quả. Trong 1 giờ
học có ít em đọc hay, đọc diễn cảm được văn bản đó.
3.2 Về phía học sinh:
- Thực tế chương trình biên soạn môn Tập đọc lớp 5, với mục đích là
cho các em được làm quen và tiếp xúc với nhiều loại văn bản khác nhau như:
Văn bản nghệ thuật, báo chí, khoa học... Trong văn bản nghệ thuật có cả trích
đoạn, kịch, thơ, văn xuôi... vậy làm thế nào để các em hiểu chủ động và tích
cực trong khi tìm hiểu bài để đọc được bài có sắc thái biểu cảm?
- Thực tế giảng dạy tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ dừng lại ở mức độ
đọc đúng đoạn, bài Tập đọc, các em chưa biết thể hiện tình cảm của mình qua
bài đọc trong đó nguyên nhân chính là các em chưa chủ động, tích cực tiếp

cận bài tập đọc, chưa hiểu hết nội dung bài tập đọc.
- Nhiều em đọc ngắt nghỉ sai, các em còn đọc theo thói quen,chưa hiểu
rõ ngắt nghỉ ở đâu và như thế nào? nhất là những câu văn dài các em ngắt nghỉ
còn tuỳ tiện .
Ví dụ : Ở bài Thư gửi các học sinh ( Tiếng Việt 5, Tập 1– trang 4) đã có
học sinh đọc ngắt nghỉ như sau:
Ngày nay, chúng ta cần phải xây dựng lại/ cơ đồ mà tổ tiên đã để lại
cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước/ khác trên hoàn cầu.

9


Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông / mong chờ đợi ở các em rất
nhiều.
- Tốc độ đọc còn chậm nhiều em đọc chưa đạt 90 chữ trên một phút,
kỹ năng đọc diễn cảm ở các em rất thấp. Nhiều em chưa biết nhấn mạnh các
từ ngữ cần nhấn giọng, đọc ngắt nghỉ, đọc diễn cảm chưa tốt nên trong giọng
đọc của các em chưa thể hiện tâm trạng, tính cách của từng nhân vật trong bài
tập đọc làm cho người nghe chưa cảm nhận được sự khác biệt ở từng đoạn
văn, bài thơ hay một vở kịch. Từ đó khả năng cảm thụ bài học, đọc diễn cảm
bị hạn chế.
- Trong giờ luyện đọc nhiều em chưa thực sự tự giác, hứng thú và tích
cực học tập. Nếu giáo viên quản lý chưa chặt chẽ thì một số em đọc qua loa
hoặc chỉ đọc một lượt rồi quay sang nói chuyện với bạn làm mất trật tự.
- Mặt khác các em chưa chịu khó đọc sách báo, chưa có thói quen đọc
sách báo và không chịu khó rèn đọc ở nhà.
- Kết quả kiểm tra đọc đầu năm học ở 2 lớp 5 mà tôi chọn là:

Lớp


Sĩ số

Đọc trôi chảy, đúng tốc độ, biết ngắt
nghỉ, đọc có diễn cảm
Đạt
Chưa đạt
sl
%
sl
%

Thực nghiệm

27

7

25,9

20

74,1

Đối chứng

27

7

25,9


20

74,1

3.3 Nguyên nhân của thực trạng trên.
Từ kết quả kiến tra đọc tôi nhận thấy nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên là:
- Một số cơ sở vật chất, tài liệu, đồ dùng chưa đồng bộ, chưa phát huy
được tác dụng.
- Giáo viên tiếp cận và sử dụng Phương pháp dạy học mới chưa linh
hoạt, chưa sáng tạo, bài soạn còn dựa vào sách giáo viên chưa có sự đầu tư
10


nghiên cứu để có được giáo án phù hợp với nhiều đối tượng học sinh trong
một lớp.
- Trong giờ dạy giáo viên chưa đưa ra nhiều tình huống học tập tích cự
dẫn đến không tạo được hứng thú tiếp cận kiến thức cho học sinh.
- Học sinh còn thờ ơ với việc rèn kỹ năng đọc và có tâm lý mình đã
được đọc văn bản này rồi như thế là đủ. Nhiều em chưa có tinh thần thi đua
nhau trong việc rèn kỹ năng đọc.
- Các bài đọc trong sách giáo khoa các em đã học ở lớp rồi nên về nhà
các em ít luyện đọc lại.
- Một số gia đình hoàn cảnh khó khăn nên chưa quan tâm đúng mức đến
việc
4 Các giải pháp thực hiện:
Với mục đích của phân môn Tập đọc lớp 5 là củng cố, phát triển kĩ
năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp dưới; tăng cường tốc độ
đọc, khả năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh, khả năng đọc diễn cảm; phát

triển kĩ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn, nắm và vận dụng được một số khái
niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật tính cách... để hiểu ý nghĩa của bài và
phát triển một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn bài thơ.
Thấm nhuần mục đích trên, cùng với việc nghiên cứu, tìm hiểu trong
tài liệu hướng dẫn giảng dạy, tài liệu bồi dưỡng giáo viên, qua dự giờ trao đổi
với các bạn đồng nghiệp, tôi mạnh dạn đề ra một số giải pháp khắc phục thực
trạng của tiết dạy Tập đọc nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong việc tìm hiểu chiếm lĩnh kiến thức mới, rèn được các kĩ năng đọc
đạt được mục tiêu của phân môn Tập đọc như sau:
4.1 Giáo viên cần hiểu quan điểm về dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực chủ động:
Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh được
hiểu:
Thứ nhất: Học sinh chính là chủ thể của hoạt động học, tích cực hoạt
động bằng hành động của chính mình để tìm ra kiến thức thì dạy học phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh là người dạy không phải đặt
11


trước những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa hay những bài giảng được
soạn theo một trình tự có sẵn mà học sinh được đặt vào những tình huống cụ
thể trong từng trường hợp cụ thể để tự mình tìm ra cái chưa biết, cái cần khám
phá.
Thứ hai: Lớp học được coi là cộng đồng của chủ thể, thông qua lớp
học với các hoạt động hợp tác học sinh không ngừng tự thể hiện mình. Đó
cũng là một nhu cầu nổi trội của con người. Với các tình huống học tập học
sinh tự đưa ra những cách giải quyết riêng và nêu chính kiến của mình trước
các bạn trong quá trình thảo luận. Qua đó học sinh phát huy được khả năng
giao tiếp ứng xử. Học bạn, hợp tác với bạn trong quá trình học tập người học
mới nâng mình lên một trình độ mới.

Thứ ba: Thầy giáo là người tổ chức và hướng dẫn hoạt động học của
học sinh và là một trọng tài khoa học. Trong Phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực, chủ động thầy giáo trở thành người định hướng cho học sinh
tìm ra kiến thức cùng với cách thức của nó. Bằng hệ thống các tình huống học
tập, thầy giáo là người đạo diễn và tổ chức cho tập thể lớp thảo luận, tranh
luận.
Thứ tư: Khi hoạt động thảo luận của tập thể lớp gặp phải những vấn đề
nan giải, khó phân biệt đúng, sai, khó đi đến kết luận thì vai trò của người thầy
là không thể thiếu được. Thầy giáo trở thành người trọng tài kết luận cuộc
thảo luận nhóm, lớp và giúp đỡ lớp hoàn thiện bài học.
Thứ năm: Học sinh tự kiểm tra, đánh giá và tự điều chỉnh mình. Trong
quá trình tự mình tìm ra kiến thức, người học tạo ra một sản phẩm, ban đầu có
thể là chưa chính xác, khoa học. Sau khi trao đổi, hợp tác với bạn, dựa vào kết
luận của thầy giáo, từ đó học sinh tự điều chỉnh bổ sung những điều cần thiết
vào sản phẩm ban đầu, tự rút kinh nghiệm về cách học cách giải quyết vấn đề
và cách xử lý tình huống của mình. Học sinh cũng tự mình đánh giá kết quả
học tập của mình.
4.2 Giáo viên phải nắm vững yêu cầu về kiến thức - kĩ năng đọc ở
lớp 5
- Đọc thành tiếng và đọc thầm:
12


+ Biết cách đọc phù hợp với các loại văn bản khác nhau ( nghệ thuật,
hành chính, khoa học, bào chí,...). Biết đọc một màn kịch hoặc một vở kịch
ngắn có giọng đọc phù hợp với nhân vật và tình huống kịch
+ Biết đọc diễn cảm một bài thơ đã thuộc hoặc một đoạn văn đã học
+ Đọc thầm với tốc độ nhanh hơn so với lớp 4.
- Đọc hiểu:
+ Biết tìm nội dung chính, tóm tắt bài văn, chia đoạn, rút ra dàn ý của

bài.
+ Nhận ra các mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện trong bài.
+ Bước đầu biết đánh giá nhân vật, chi tiết và ngôn ngữ trong các bài
tập đọc có giá trị văn chương
+ Hiểu các kí hiệu, các dạng viết tắt, các số liệu trên sơ đồ, biểu đồ,
bảng hiệu,...
- Phát âm đúng các từ khó đọc, đọc rõ ràng, lưu loát từng đoạn và cả bài
văn, bài thơ, biết ngắt - nghỉ rõ nội dung đọc, ngắt nghỉ phù hợp theo thể thơ
của bài. Tốc độ đọc từng giai đoạn như sau:
Giữa học kì I ( sau 9 tuần): khoảng 100 tiếng/ phút.
Cuối học kì I ( sau 18 tuần): khoảng 110 tiếng/ phút.
Giữa học kì II ( sau 26 tuần): khoảng 115 tiếng/ phút.
Cuối học kì II ( sau 35 tuần): khoảng 120 tiếng/phút.
4.3 Hướng dẫn đọc
Để chuẩn bị cho tiết dạy Tập đọc mà phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh giáo viên cần nghiên cứu bài dạy một cách kỹ càng, soạn bài chi
tiết cho từng phần.
4.3.1 Đọc thành tiếng
Đọc thành tiếng là để củng cố kĩ năng đọc đúng do vậy giáo viên cần
nghe học sinh đọc để nắm được trình độ đọc từ đó nhận xét, gợi ý hướng dẫn
học sinh cách pháp âm, cách ngắt nghỉ hơi hay tốc độ đọc sao cho thích hợp,
giúp học sinh có khả năng đọc tốt hơn. Mặt khác đọc thành tiếng để luyện đọc
diễn cảm do vậy giáo viên căn cứ vào nội dung phong cách văn bản để dẫn

13


dắt, gợi mở học sinh tìm ra cách đọc thể hiện được giọng đọc từ đó ý thức
được cách đọc nhằm diễn tả nội dung một cách tốt nhất như:
- Đối với văn bản nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn đọc diễn cảm thông

qua việc dẫn dắt, gợi mở học sinh thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc
phù hợp với hình ảnh, cảm xúc trong bài thơ, sự việc, tính cách nhân vật trong
bài văn, vở kịch...( bước đầu biết làm chủ được giọng đọc sao cho đúng ngữ
điệu, về tốc độ, cao độ, trường độ và âm sắc nhằm diễn tả đúng nội dung đọc)
do vậy giáo viên cần khuyến khích học sinh đọc sáng tạo, tránh áp đặt theo
khuôn mẫu.
- Đối với các văn bản phi nghệ thuật: Hướng dẫn học sinh xác định ngữ
điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thông báo làm rõ những thông tin cơ
bản, giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật
trong văn bản như vậy học sinh sẽ khắc phục những tính cách đọc thiên về
hình thức hoặc đọc diễn cảm tùy tiện của học sinh tiểu học.
Ví dụ khi đọc bài Luật tục xưa của người Ê – đê cần hướng dẫn học
sinh đọc cần thể hiện giọng đọc rõ ràng, rành mạch, trang trọng, thể hiện được
tính nghiên túc của văn bản.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh luyện đọc thành tiếng theo các hình
thức kahcs nhau như đọc cá nhân (đọc riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn), đọc
đồng thanh( nhóm tổ, lớp) khi cần thiết ( như khi cần khắc sâu ấn tượng về
nhịp điệu đoạn văn, bài thơ; giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ đoạn bài cần học
thuộc lòng); đọc theo vai ( phối hợp nhiều cá nhân)
- Đến lớp 5, kỹ năng đọc của học sinh đã được nâng cao, nhiều học
sinh có thể đọc đạt tới trình độ chuẩn trong những trường hợp nhất định, do
vậy giáo viên có thể gọi 1 học sinh đọc tốt đọc mẫu trước. Với các hình thức
đọc mẫu bao gồm:
+ Đọc mẫu từ, cụm từ nhằm hướng dẫn cách phát âm đúng, sửa cách
phát âm sai.
+ Đọc mâu câu văn, đoạn văn, đoạn thơ, đọc cả văn bản nhằm hướng
dẫn cách đọc diễn cảm.

14



- Dùng lời nói kết hợp chữ viết, ký hiệu và đồ dùng dạy học, hướng
dẫn học sinh cách nghỉ hơi, tốc độ đọc, giọng đọc thích hợp.
- Tổ chức cho học sinh đọc cá nhân bằng các hình thức đọc trong nhóm,
đọc trước lớp, nhận xét cách đọc, sửa lỗi phát âm hoặc lỗi thể hiện qua giọng
đọc cho học sinh.
4.3.2 Đọc thầm:
Đọc thầm với tốc độ nhanh và hiệu quả cao là mục đích, yêu cầu cơ
bản của hoạt động đọc nói chung, do vậy để việc đọc thầm đạt hiệu quả giáo
viên cần:
- Đọc thầm để tìm hiểu bài theo yêu cầu đề ra ( đọc câu nào, đoạn nào,
đọc để trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập đọc ngắn trong sách giáo khoa)
giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng rõ việc đọc
– hiểu ( đọc câu nào, đoạn nào, đọc để nhớ để biết, hiểu, nhớ hay suy nghĩ về
trao đổi về điều gì,..) từng bước hình thành cho học sinh thói quen tập trung
chú ý khi đọc thầm để thu nhận thông tin, để " nhập thân" và cảm thụ văn bản
nghệ thuật.
Ví dụ cho học sinh đọc thầm để phát hiện từ ngữ chỉ vẻ đẹp của thiên
nhiên trong đoạn thơ
Nhìn ra xa ngút ngát

Giữa ngút ngát cây trái

Bao sắc màu cỏ hoa

Dọc vùng rừng nguyên sơ

Con thác réo ngân nga

Không biết thực hay mơ


Đàn dê soi đáy giếng

Ráng chiều như hơi khói

Bài Trước cổng trời - Tập 1 trang 80
Hay đọc thầm đoạn từ "Cây quỳnh lá dày ... nhọn hoắt, đỏ hồng"
( Bài Chuyện một khu vườn nhỏ TV5, tập 1 trang 102 ) cho biết đoạn văn
miêu tả những loại cây nào?
Như vậy việc đọc thầm đồng thời với việc giới hạn thời gian đọc để
tăng tốc độ đọc thầm cho học sinh là từng bước rút ngắn thời gian đọc của học
sinh và tăng dần độ khó của việc đọc.
4. 4 Hướng dẫn cách ngắt giọng

15


Để đọc được diễn cảm văn bản, học sinh phải hiểu rõ được cách ngắt
giọng, ngắt nhịp của những câu văn dài hay những bài thơ. Cách ngắt giọng có
hai kiểu đó là kiểu ngắt giọng lôgic và ngắt giọng biểu cảm. Ngắt giọng logic
là những chỗ dừng để tách các nhóm từ trong câu, ngắt giọng lôgic phụ thuộc
vào ý nghĩa và quan hệ giữa các từ trong câu. Khi đọc một văn bản nào đó,
nếu gặp những dấu câu ta cần phải ngắt- nghỉ đó chính là việc ngắt giọng
lôgíc. Sau dấu chấm xuống dòng phải nghỉ lâu hơn sau dấu chấm. Sau dấu
chấm phải nghỉ lâu hơn sau dấu phẩy, sau dấu phẩy có lúc phải nghỉ khác
nhau.
Ví dụ như khi đọc một số bài văn xuôi có những câu dài với cấu trúc ngữ
pháp phức tạp, học sinh thường ngắt giọng một cách tuỳ tiện như sau:
- Những tàu lá chuối / vàng ối như những đuôi áo, vạt áo.
( Quang cảnh làng mạc ngày mùa Tập 1 trang 10 )

Ở đây học sinh đã ngắt nhịp sai tách "vàng ối" ra khỏi " Những tàu lá
chuối " dẫn đến đọc câu văn không diễn cảm không đúng cách ngắt giọng nên
người nghe không cảm nhận được những tàu lá chuối ở trong bài rất vàng và
đẹp.
Đối với câu văn này hướng dẫn học sinh ngắt như sau:
- Những tàu lá chuối vàng ối / như những đuôi áo, vạt áo.
Ngắt giọng biểu cảm là phương tiện tác động đến người nghe. Ngắt
giọng lôgic thiên về trí tuệ, ngắt gọng biểu cảm thiên về cảm xúc. Ngắt giọng
biểu cảm là chỗ nghỉ lâu hơn bình thường hoặc chỗ nghỉ không do lôgic ngữ
nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm tạo ra một ấn tượng về cảm xúc, tạo
sự chú ý của người nghe góp phần tạo nên nghệ thuật cao hơn cho văn bản.
Không những học sinh hiểu được cách ngắt nhịp thơ, những câu văn dài
mà giáo viên cần hướng dẫn tiếp cho học sinh biết nhấn giọng ở những từ gợi
tả, gợi cảm. Chẳng hạn khi đọc một đoạn trong bài tập đọc " Kì diệu rừng
xanh".
Loanh quanh trong rừng,/ chúng tôi đi vào lối đầy nấm dại,/ một thành
phố nấm lúp xúp dưới bóng cây thưa..// Những chiếc nấm to bằng ấm tích/
màu sặc sỡ rực lên.
16


Tôi đã hướng dẫn cho học sinh khi đọc cần nhấn giọng các từ: loanh
quanh, nấm dại, lúp xúp, ấm tích, sực sỡ, rực lên
Hay đối với các bài thơ Cao Bằng ( Tập 2 trang 41) tôi hướng dẫn cách
ngắt nghỉ và nhận giọng ở các từ in đậm như:
Cao Bằng,/ rõ thật cao!

Rồi đến chị rất thương

Rồi dần / bằng bằng xuống


Rồi đến em rất thảo

Đầu tiên là mận ngọt

Ông lành / như hạt gạo

Đón môi ta dịu dàng.
Bà hiền / như suối trong.
Tóm lại: Ngắt giọng đúng và hay là đích của dạy học và cũng là một
trong những phương tiện để dạy tiếp nhận, chiếm lĩnh văn bản được đọc do
vậy việc hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ đúng đoạn văn, đoạn thơ... khi đọc là
giúp cho học sinh biết đọc hay đọc diễn cảm và cũng chính là giúp học sinh
chủ động hơn trong việc rèn đọc.
4.5 Hướng dẫn học sinh thể hiện ngữ điệu bằng cách thay đổi về tốc
độ, cao độ, cường độ và trường độ khi đọc.
- Trước hết học sinh phải hiểu rõ được cao độ là độ cao thấp của âm
thanh. Cường độ là độ lớn, nhỏ, mạnh, yếu của âm thanh. Tốc độ là độ nhanh
chậm, ngắt, nghỉ. Trường độ là độ dài, ngắn của âm thanh và âm sắc . Tốc độ
đọc chi phối sự diễn cảm, có ảnh hưởng đến việc thể hiện ý nghĩa, cảm xúc.
Do đó tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc . Khi
đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ nhanh chậm để
người nghe hiểu được khi đọc một bài tin ngắn, một lời nhắn như khi đọc bài
Ê-i-li, con ... (tập 1 - trang 49) thì tốc độ đọc phải nhanh hơn đọc một văn bản
văn chương. Tốc độ truyện kể phải nhanh hơn đọc thơ trữ tình vì đọc thơ trữ
tình cần thời gian để bộc lộ cảm xúc .
Ví dụ khi đọc bài: Bài ca về trái đất ? (Tập 1 - trang 41) cần phải đọc
chậm rãi tha thiết trải dài ở khổ thơ cuối.
Hành tinh này là của chúng ta!
Hành tinh này là của chúng ta!


17


Đối với câu Hành tinh này….. là của chúng ta! cần đọc kéo dài vì việc
kéo dài ở câu thơ sẽ gây sự chú ý cho người nghe hiểu được hành tinh này là
của chúng ta, chúng ta phải giữ gìn, bảo vệ nó.
- Cường độ đọc có giá trị diễn cảm . Cường độ phối hợp với cao độ sẽ
tạo ra giọng vang như khi đọc đoạn thơ:
Trái đất này là của chúng mình,
Quả bóng xanh bay giữa trời xanh
Bồ câu ơi, cánh chim gù thương mếm...
Cùng bay nào cho trái đất quay!
Cùng bay nào cho trái đất quay!
Mỗi giáo viên cũng như học sinh cần hiểu rằng "đọc diễn cảm" không
phải là đọc sao cho "điệu", thiếu tự nhiên, dựa vào ý thích chủ quan của người
đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Vì
vậy phải hoà nhập được với câu chuyện, bài văn, bài thơ, có cảm xúc mới tìm
thấy ngữ điệu thích hợp. Chính các văn bản, bài thơ quy định ngữ điệu cho
chúng ta chứ không phải chúng ta tự đặt ra ngữ điệu .
4.6 Hướng dẫn học sinh phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật,
phân biệt lời của các nhân vật khi đọc văn bản:
Cho học sinh biết phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật, phân biệt
lời của các nhân vật phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tính cách của từng nhân
vật. Chẳng hạn như người già, trẻ em, người tốt, kẻ xấu. ..
Ví dụ: Qua bài tập đọc "Chuyện một khu vườn nhỏ" có đoạn viết:
Thu cầu viện ông:
- Ông ơi, đúng là có chú chim vừa đỗ ở đây bắt sâu và hót nữa ông
nhỉ ! .
Ông nó hiền hậu quay lại xoa đầu cả hai đứa:

- Ừ, đúng rồi! Đất lành chim đậu, có gì lạ đâu hả cháu?
Với bài này cần hướng cho học sinh đọc với giọng Thu nhí nhảnh, giọng
ông hiền hậu.
Hay đối với bài Chuỗi ngọc lam – Tập 1 trang 134

18


Ngoài toàn bài đọc với giọng kể chậm rãi, nhẹ nhàng thì cần đọc phân
biệt rõ lời đọc của từng nhân vật như:
+ Lời cô bé Gioan: Ngây thơ, hồn nhiên khi khen chuỗi ngọc đẹp, khi
khoe nắm xu lấy từ con lợn đất tiết kiệm
+ Lời chú Pi – e: điềm đạm, nhẹ nhàng, tinh tế
+ Lời chị cô bé: lịch sự, thật thà.
Sau khi học sinh đã phân biệt được cách đọc đó gọi một số học sinh lên
thi đọc diễn cảm đoạn văn minh hoạ giọng đọc phù hợp với nội dung của đoạn
trích trên.
4.7 Hướng dẫn tìm hiểu bài.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm mục đích trau dồi kĩ
năng đọc – hiểu, nắm bắt thông tin, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn
học và tạo cơ sở cho học sinh luyện đọc diễn cảm. Tôi đã hướng dẫn học sinh
4.7.1 Hiểu nghĩa của từ mới.
Đối với những từ ngữ cần được chú giải đã được chú thích trong sách
giáo khoa giáo viên không nhất thiết phải yêu cầu học sinh trình bày tất cả các
từ ngữ này mà có thể chọn một số từ ngữ khó để giải thích cho rõ hay còn
dùng một số cách khác như:
- Có thể dùng từ cùng nghĩa, từ trái nghĩa hoặc từ ngữ thông dụng ở địa
phương để giải thích.
Ví dụ để giải thích từ "tài trợ "( Bài Nhà tài trợ đặc biệt – Tập 2, trang
20) tìm từ cùng nghĩa với từ tài trợ.

- Dùng vật thật để giải nghĩa:
Ví dụ như giải nghĩa từ " trành" ( Bài Hạt gạo làng ta – tập 1 trang 139)
Nên cho học sinh quan sát cái xảo dụng cụ đan bằng tre, nứa, đáy phẳng có
thành, dùng để vận chuyển đất đá..
- Đặt câu với từ ngữ đó.
Ví dụ để giải nghĩa từ rô bốt ( Bài Người gác rừng tí hon, tập 1 – trang
124) giáo viên cho học sinh đặt câu với từ đó
- Dùng hình ảnh để giải thích.

19


Ví dụ như giải thích từ " giáo đường" nên cho học sinh quan sát bức
tranh hoặc ảnh về nhà thờ Thiên chúa giáo
- Miêu tả sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm hoặc tinh chất được gọi
tên bằng từ ngữ đó.
- Dùng bài tập trắc nghiệm nhỏ để giải thích từ
Ví dụ để giải nghĩa từ " ngọc phả" ( Bài Phong cảnh đền Hùng, tập 2
trang 69) dùng bài tập như sau
Từ " ngọc phả" trong bài có ý nghĩa gì?
a. Tấm gỗ sơn son thếp vàng, có khắc chữ Hán hoặc chữ Nôm cỡ lớn,
thường treo ở giữa gian nhà thờ hoặc để trang trí
b. Sách ghi chép lai lịch, thân thế, sự nghiệp của những người trong
gia đình được mọi người kính trọng, tôn thờ.
c. Sách ghi chép lai lịch, thân thế, sự nghiệp của những người được
người đời kính trọng, tôn thờ.
Với bài tập như vậy học sinh dễ dàng hiểu được nghĩa của từ " ngọc
phả" và còn phân biệt được "ngọc phả" với "gia phả".
4.7.2 Nắm vững câu hỏi tìm hiểu bài.
Dựa vào các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa được biên soạn mà

giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài theo một số yêu cầu sau:
- Cho học sinh đọc thầm câu hỏi rồi trình bày câu trả lời của mình về
câu hỏi đó.
- Giáo viên tách câu hỏi trong SGK thành các câu hỏi nhỏ hoặc bổ sung
một số câu hỏi phụ để học sinh dễ thực hiện.
Ví dụ: Bài Những người bạn tốt ( Tập 1- trang 64)
Câu hỏi 1: Vì sao nghệ sĩ A- ri - ôn phải nhảy xuống biển?
Để trả lời câu hỏi này tôi đã có thêm câu hỏi trước câu hỏi này như:
Chuyện gì đã xảy ra với nghệ sĩ A - ri – ôn? Việc trả lời kết nối hai câu hỏi
này học sinh sẽ hiểu rõ nội dung bải đọc hơn.
- Giáo viên có thể chuyển các câu hỏi sang thành các dạng bài tập trắc
nghiệm, nhưng đảm bảo tránh câu hỏi khó, câu hỏi không hợp với chủ điểm
hoặc vượt quá khả năng nhận thức của học sinh.
20


Ví dụ: Bài Phong cảnh đền Hùng ( Tập 2 – trang 69)
Sách giáo khoa có câu hỏi số 4 : Em hiểu câu ca dao sau như thế nào?
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
- Đây là một câu hỏi khó nên có rất ít học sinh giải thích và trả lời được.
Do vậy tôi đã chuyển thành câu hỏi trắc nghiệm có nội dung như sau:
Em hiểu câu ca dao sau như thế nào?
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
a. Khuyên nhủ mọi người phải nhớ đến cội nguồn dân tộc
b. Kêu gọi mọi người đoàn kết cùng nhau chia sẻ ngọt bùi.
c. Ca ngợi truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: thủy chung, luôn
nhớ về cội nguồn dân tộc.
Với câu hỏi trắc nghiệm như thế này thì 100% học sinh đều trả lời đúng

được ý nghĩa của câu ca dao, đồng thời qua đó giáo dục học sinh ý thức yêu
quê hương, nhớ cội nguồn dân tộc, nhắc nhở mọi người dù đi đâu làm gì cùng
không quên được ngày giỗ Tổ mùng 10 thàng 3 âm lịch hằng năm.
4.7.3 Tổ chức học sinh trả lời câu hỏi ( làm bài tập) tìm hiểu bài:
Giáo viên có thể áp dụng các biện pháp như:
- Tổ chức cho làm việc cá nhân với phiếu bài tập rồi nêu kết quả bài
làm.
- Tổ chức làm việc theo cặp, nhóm.
- Tổ chức trao đổi với học sinh, học sinh sửa lỗi cho học sinh hoặc tổ
chức cho học sinh giải đáp các thắc mắc, góp ý, đánh giá cho nhau trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ tìm hiểu bài.
Tóm lại qua áp dụng dạy học theo bài soạn như trên tôi nhận thấy:
- Tiết học sôi nổi song vẫn đi đúng quy trình, học sinh được tự mình
đọc nhiều hơn, những em đọc yếu được đọc trước lớp, các em đó khắc phục
được lỗi đọc sai ngay nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, của thầy giáo. nhiều em đó
tìm được cách đọc diễn cảm hay, sáng tạo phù hợp với nội dung, thể hiện

21


được tâm trạng người đọc và làm nổi rõ các biện pháp nghệ thuật của tác giả
qua giọng đọc truyền cảm.
- Hoạt động tư duy của các em được làm việc liên tục trên tinh thần tự
giác, đốc lập vì vậy các em hiểu bài ngay tại lớp, thực hiện được khả năng
đọc, viết và sử dụng ngôn từ áp dụng vào làm bài tập.
- Không khí lớp học sôi nổi. Các em tự đánh giá được mình và được
bạn, tự thấy được khả năng của mình so với bạn.
- Nêu cao tinh thần hợp tác trong nhóm của học sinh.
- Dạy theo phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
giáo viên đã khẳng định được vai trò là người tổ chức, điều khiển cho học sinh

nắm kiến thức chứ không phải là người cung cấp kiến thức cho học sinh.
5. Kết quả đạt được
Từ quá trình nghiên cứu lí luận, nghiên cứu soạn bài, tìm hiểu và áp
dụng bài soạn theo hướng phát huy tính cực, chủ động của học sinh, bản thân
tôi thấy rằng chất lượng phân môn Tập đọc được nâng cao rõ rệt. Sau đây là
kết quả tổng hợp mà tôi đã cho khảo sát ở lớp thực nghiệm và đối chứng ở các
giai đoạn khác nhau ( Giáo án dạy thực nghiệm ở phần Phụ lục)
Kết quả
Cuối học kì 1
Lớp

Giữa học kì 2

Đọc trôi chảy, biết ngắt Đọc trôi chảy, biết ngắt
nghỉ, đọc có diễn cảm


nghỉ, đọc có diễn cảm
số
Đạt

Chưa đạt

Đạt

Chưa đạt

sl

%


sl

%

sl

%

sl

%

Thực nghiệm

27

15

55,5

12

44,5

20

74,0

7


26,0

Đối chứng

27

10

37,0

17

63,0

10

37,0

17

63,0

Qua các tiết dạy, qua kết quả kiểm tra đọc ở 2 lớp tôi nhận thấy giờ học
ở lớp thực nghiệm có hiệu quả tốt hơn. só lượng học sinh đọc đúng đọc trôi
chảy, biết ngắt nghỉ và đọc có diễn cảm tăng lên, các em không còn e dè như
trước nữa mà đã mạnh dạn xung phong đọc hơn, thi đua học đọc và trả lời câu
22



hỏi tìm hiểu bài, giờ học sôi nổi hơn. Nhiều học sinh đã tự tin đọc các bài tập
đọc trong sách giáo khoa mà còn tự tin đọc và đọc có cảm xúc các văn bản
ngoài sách giáo khoa.
Còn với lớp đối chứng tôi nhận thấy không khí học trầm lắng hơn, số
lượng học sinh đọc to rõ ràng ít, số lượng học sinh chưa biết ngắt nghỉ câu dài
còn nhiều và đa phần các em chưa biết đọc diễn cảm bài vì các em chưa chủ
động tích cực tìm hiểu cách đọc, tìm hiểu kiến thức nên các em chưa hiểu bài,
việc đọc bài của các em mới chỉ dừng lại ở mực độ đọc nhận diện văn bản chứ
chưa thực sự hiểu văn bản.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Để sáng kiến được nhân rộng tôi thấy rằng:
- Đối với giáo viên phải thực sự tích cực đổi mới phương pháp dạy học.,
luôn đặt người học lên trên hết
- Giáo viên phải tạo được hứng thú cho người học thông qua các hình
thức dạy học tích cực.
- Học sinh ham học, thực sự chủ động trong việc tiếp thu kiến thức
- Lớp học có đủ cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học như tranh ảnh...
- Nhà trường tổ chức chuyên đề để giáo viên trong cùng khối áp dụng, rút
kinh nghiệm.
- Phụ huynh quan tâm đến việc học của học sinh.

23


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ thực trạng còn nhiều học sinh chưa thực sự tích cực, chủ động trong
việc rèn kĩ năng đọc, kĩ năng đọc của học sinh chưa đạt được mục tiêu của
phân môn đề ra tôi đã áp dụng đồng bộ các biện pháp:
- Tìm hiểu phương pháp dạy học tích cực, chủ động trong giảng dạy

- Thực hiện soạn bài với việc đổi mới ở các khâu như:
+ Đọc mẫu: cho học sinh đọc mẫu từ, câu dài, đoạn văn, cả văn bản
+ Đọc thành tiếng: Chú ý hướng dẫn học sinh cách đọc từng loại văn
bản như đọc thơ, đọc văn hay các văn bản phi nghệ thuật
+ Đọc ngắt nghỉ câu hợp lí
+ Đọc đúng trường độ, cao độ của văn bản
+ Đọc phân biệt được lời nhân vật trong câu chuyện
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung văn bản qua các câu hỏi trong
sách giáo khoa hoặc qua các hình thức chẻ nhỏ theo ý từng đoạn hay bài tập
trắc nghiệm đối với câu hỏi khó..
- Thực hiện dạy học bằng các phượng tiện dạy học hiện đại để học sinh
hiểu bài qua tranh ảnh minh họa
Từ việc áp dụng các biện pháp tôi đã thu được kết quả:
- Các em không còn e dè như trước nữa mà đã mạnh dạn xung phong
đọc tốt hơn, giờ học sôi nổi hơn. Nhiều học sinh đã tự tin đọc các bài tập đọc
trong sách giáo khoa mà còn tự tin đọc và đọc có cảm xúc các văn bản ngoài
sách giáo khoa.
- Học sinh hiểu bài hơn, đồng thời góp phần làm cho học sinh diễn đạt tốt
hơn trong phân môn tập làm văn.
- Học sinh có kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống hơn, có tự tin hơn trong
giao tiếp và trong việc học tập.
- Tạo cơ sở tốt để học sinh học tập các phân môn khác, tạo tiền đề cho để
học tốt ở các lớp cao hơn.
24


2. Khuyến nghị
2.1 Đối với giáo viên:
- Cần có sự tâm huyết với nghề. Thường xuyên học tập để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức thực tế, bắt nhịp kịp thời sự đổi

mới, phát triển của xã hội.
- Nên mạnh dạn khắc phục những mặt còn tồn tại của nội dung chương
trình sách giáo khoa, sách bài tập một cách hợp lý . Chúng ta không nhất thiết
sử dụng hoàn toàn các bài tập mà sách giáo khoa đưa ra. Giáo viên cần có sự
điều chỉnh lại cho hợp lý để làm sao mỗi yêu cầu của mỗi bài tập đưa ra phù
hợp với từng đối tượng học sinh. Có như thế chúng ta mới phát hiện được
hứng thú của học sinh trong học tập đồng thời tạo điều kiện để các em phát
triển hết năng lực của chính bản thân mình.
2.2 Đối với các cấp lãnh đạo:
Tổ chức nhiều hơn nữa các chuyên đề, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
cho đội ngũ giáo viên.
Trên đây, tôi vừa trình bày một số các biện pháp giúp học sinh phát huy
tính tích cực, chủ động khi học phân môn Tập đọc ở lớp 5. Qua nghiên cứu và
áp dụng, tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học
Tiếng Việt ở Tiểu học. Hơn nữa, tôi muốn trình bày ý kiến của mình để các
đồng nghiệp tham khảo, đóng góp ý kiến xây dựng để tôi thành công hơn
trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ
của mình, góp phần vào việc đào tạo thế hệ trẻ có tri thức tốt, có phương pháp
làm việc khoa học, linh hoạt, sáng tạo trở thành lực lượng lao động tốt trong
công cuộc Công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Chí Linh, tháng 2 năm 2015
25


×