Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.87 KB, 16 trang )

UBND THỊ XÃ CHÍ LINH
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu ...............................................................................................1
Thông tin chung..................................................................................................1
Tóm tắt…………………………………………………………………………………..2
Phần II: Mô tả sáng kiến ................................................................................3

SÁNG KIẾN
2.1 Lý‎ do chọn đề tài .......................................................................................3
ĐỔI
MỚI
SINH HOẠT TỔ CHUYÊN MÔN
2.2. Cơ
sở khoa
học ..........................................................................................3
Ở TRƯỜNG THCS
2.3. Cơ sở thực tiễn ...........................................................................................3
2.4. Phạm vi đề tài ............................................................................................4

Lĩnh vực: Quản lý

2.5. Mục đích nghiên cứu..................................................................................4
2.6. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................5
2.7. Thực trạng vấn đề ......................................................................................5
2.8. Biện pháp giải quyết ..................................................................................8
2.8.1. Đổi mới nhận thức ..................................................................................8
2.8.2. Nắm được quy trình và nguyên tắc sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học .......................................................................................................8
2.9. Kết quả ....................................................................................................16


2.10. Điều kiện áp dụng đề tài ........................................................................19
2.11. Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp ...................................................20
Phần III: Kết luận và khuyến nghị ...............................................................22
3.1. Kết luận ...................................................................................................22
3.2. Kiến nghị .................................................................................................22
3.3.Vấn đề bỏ ngỏ............................................................................................24

Năm học 2014 - 2015


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn ở trường THCS
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Tổ chuyên môn trong nhà trường
3. Tác giả: Lê Thị Minh Nguyệt
Ngày/ tháng/năm sinh: 12/2/1975
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Văn
Chức vụ công tác: Tổ trưởng tổ KHXH - Trường THCS Sao Đỏ
Điện thoại: 0903984266
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THCS Sao Đỏ - ĐT: 0320882664
5. Đơn vị áp dụng sang kiến lần đầu: Trường THCS Sao Đỏ - ĐT:
0320882664
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Nhà trường, giáo viên trong tổ
nhóm chuyên môn, lớp học, học sinh
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 10 năm 2014

Tác giả

Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến

Lê Thị Minh Nguyệt


2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Năm học 2014-2015 là năm học thứ hai Bộ GD&ĐT chỉ đạo tiếp tục
thực hiện nội dung đổi mới công tác quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý và chất lượng các hoạt động giáo dục. Sáng kiến này nảy sinh trong bối cảnh
đổi mới đó.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Đổi mới sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh
làm trung tâm được thực hiện theo kế hoạch xây dựng của tổ chuyên môn trong
nhà trường. Giáo viên trong tổ nhóm phải có sự thống nhất về quan điểm, nội
dung, cách làm khi tiến hành, bắt đầu từ kế hoạch dự giờ giáo viên trong tổ
nhóm, kế hoạch thảo luận, trao đổi, rút kinh nghiệm sau các tiết dạy. Ở từng
bước, trọng tâm hướng đến là học sinh, vì học sinh chứ không phải đối tượng
nào khác. Nội dung sinh hoạt này thực hiện trong năm học và áp dụng cho tất
cả giáo viên sinh hoạt trong các tổ, nhóm chuyên môn.
3. Nội dung sáng kiến
- Tính mới, tính sáng tạo:
Từ trước đến nay việc sinh hoạt chuyên môn thông qua công tác dự giờ
trong nhà trường chủ yếu là để đánh giá năng lực, trình độ của giáo viên. Sáng
kiến đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm, không đặt
nặng việc đánh giá giáo viên như trước đây mà khuyến khích người dự giờ
hướng đến đối tượng học sinh: Học sinh học như thế nào? Học sinh nào đang
gặp khó khăn trong việc học? Kết quả học tập của học sinh có được cải thiện
hay không? Nếu cần điều chỉnh thì điều chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào?...
Mục tiêu tiết học không phải để chúng ta hướng đến câu trả lời của chúng ta có nghĩa là hướng theo điều thầy muốn, mà phải xem học sinh hiểu như thế
nào, học sinh phải học theo cách nào để nắm kiến thức. Thay vì chỉ chú ý vào

người dạy, người dự giờ cần tập trung cả vào hoạt động học tập, khả năng lĩnh
hội kiến thức, vận dụng kỹ năng của học sinh, từ đó phát hiện những khó khăn
mà các em gặp phải để có cách tháo gỡ kịp thời. Đây cũng chính là tính mới
của sáng kiến, nó xuất phát từ phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
3


tâm, bởi bất cứ học sinh nào khi đến trường cũng mong mỏi việc học đạt được
kết quả, nhiệm vụ của giáo viên là đáp ứng mong mỏi đó. Không hướng tới kết
quả học tập của học sinh, sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường coi như vô
nghĩa.
- Tính khả thi:
Sáng kiến có khả năng áp dụng cho việc tổ chức sinh hoạt tổ, nhóm
chuyên môn trong năm học ở tất cả các nhà trường. Áp dụng thông qua hình
thức dự giờ giáo viên và họp tổ nhóm chuyên môn.
- Lợi ích:
Hướng đến người học nên việc sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm
trung tâm tạo ra nhiều cơ hội dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh, tạo cơ hội cho tất cả giáo viên quan tâm đến học sinh nhiều hơn. Với
phương châm không bỏ sót học sinh, những học sinh có khó khăn trong việc
học được kịp thời giúp đỡ. Đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm
trung tâm còn thúc đẩy giáo viên chủ động đổi mới phương pháp dạy học, dạy
học bám sát đối tượng học sinh trường mình, lớp mình.
4. Kết quả đạt được
Đổi mới sinh hoạt chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm thay đổi cả
người dạy và người học, tạo ra một cộng đồng học tập. Học sinh trở thành
trung tâm của quá trình dạy học, các em hứng thú, tự tin, tích cực tham gia vào
hoạt động học hơn, ý thức học tập, kiến thức, kĩ năng từng bước được cải thiện.
Đổi mới sinh hoạt chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm đã huy động được
tất cả giáo viên trong nhóm chuyên môn tham gia. Hiệu quả này có tác dụng

gắn kết giáo viên trong mối quan hệ tương tác, giúp đỡ học hỏi lẫn nhau và
cùng hợp lại trí tuệ tập thể để tìm ra cách nào tốt hơn cho việc dạy và học.
5. Đề xuất kiến nghị
Bổ sung tiêu chí đánh giá giờ dạy của giáo viên:
- Đánh giá năng lực quan sát học sinh, phát hiện ra vấn đề của người học;
- Đánh giá khả năng điều chỉnh kịp thời hành vi học của học sinh và hiệu
quả.

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN
1.1. Thực hiện chủ đề năm học
Đổi mới căn bản và toàn diện là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
ngành Giáo dục, đặc biệt, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá là
nhu cầu cấp thiết. Trong thời đại công nghệ thông tin, kiến thức nhân loại chỉ
từ 5 đến 7 năm đã gấp đôi so với trước thì nhu cầu thay đổi cách dạy và cách
học để bắt kịp thời đại là điều tất yếu. Nhiệm vụ này đòi hỏi mỗi nhà trường
phải tiếp tục đổi mới công tác quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và
chất lượng các hoạt động giáo dục.
1.2. Thực hiện đổi mới sinh hoạt chuyên môn
Bất cứ học sinh nào khi đến trường đều có mong mỏi được học, nhiệm
vụ của giáo viên đáp ứng mong mỏi đó. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả các
hoạt động giáo dục trong nhà trường cần quan tâm ngay từ việc đổi mới nội
dung sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, bởi chất lượng giáo dục phục thuộc chủ
yếu vào chất lượng đội ngũ giáo viên. Sinh hoạt chuyên môn không chỉ giúp
mỗi giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn cho bản thân mà còn hình thành
môi trường học tập để tình đồng nghiệp phát triển, hỗ trợ lẫn nhau trong công
tác. Và cái đích cuối cùng mà sinh hoạt chuyên môn hướng tới phải là hiệu quả,

chất lượng học tập của học sinh. Sáng kiến đổi mới sinh hoạt chuyên môn lấy
học sinh làm trung tâm là việc làm thiết thực không nằm ngoài mục tiêu nâng
cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Một nhà trường chỉ có thể thay đổi bằng chính nội lực của mình. Tổ
chuyên môn là bộ phận quan trọng trong nhà trường, nơi thực thi nhiệm vụ dạy
học và các hoạt động giáo dục học sinh. Mục tiêu chính của sinh hoạt chuyên
môn là tổ chức những hoạt động nhằm tháo gỡ, giải đáp, trả lời câu hỏi “Làm
thế nào để nâng cao hiệu quả giờ dạy, nâng cao chất lượng học tập của học sinh
? ”.
Để sinh hoạt tổ chuyên môn trong nhà trường đi đúng hướng, đạt được
mục tiêu thì cần thiết phải quản lí, chỉ đạo một cách khoa học, chặt chẽ và có
những biện pháp khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế. Nội dung sinh hoạt
5


phải thiết thực, gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ của giáo viên, làm cho giáo viên
thấy cần phải tham gia sinh hoạt chuyên môn và hào hứng với sinh hoạt chuyên
môn. Quy trình đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm
tạo ra nhiều cơ hội dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh và dạy
học tích hợp - đây cũng chính là yêu cầu then chốt trong đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay.
III. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Nhiều năm qua, công tác sinh hoạt chuyên môn ở các trường THCS đã
được tổ chức thực hiện và duy trì khá thường xuyên. Mục đích các buổi sinh
hoạt tổ, nhóm chuyên môn là nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng
lực sư phạm cho giáo viên. Sinh hoạt chuyên môn ở các nhà trường hiện nay
thường diễn ra theo hai hình thức: tổ chức theo các chuyên đề và dự giờ, trao
đổi kinh nghiệm.
Ở hình thức thứ nhất, sinh hoạt chuyên môn bao gồm việc triển khai học

tập các văn bản chỉ đạo về chuyên môn của cấp trên, tổ trưởng điều hành các tổ
viên hoàn thành các nhiệm vụ lặp lại như: đánh giá nhận xét quá trình hoạt
động trong tuần, triển khai một số công việc mới trong thời gian tới và xây
dựng một số chuyên đề như: nâng cao chất lượng hiệu quả công tác chủ nhiệm
lớp, kinh nghiệm dạy một dạng bài, kiểu bài nào đó, kinh nghiệm bồi dưỡng
học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu, thảo luận về kế hoạch làm ngoại khoá…
Những nội dung này thường được giao cho các giáo viên có kinh nghiệm, năng
lực chuyên môn tốt xây dựng và thực thi.
Đối với hình thức thứ hai là dự giờ trao đổi kinh nghiệm dạy học, các
nhà trường tổ chức đều đặn và nghiêm túc. Trong mỗi buổi dự giờ, có sự tham
gia của tổ trưởng và giáo viên trong tổ. Sau dự giờ, tổ chuyên môn tiến hành rút
kinh nghiệm và đánh giá xếp loại tay nghề giáo viên.
Cả hai hình thức trên các nhà trường đã tổ chức triển khai thành nề nếp.
Tuy vậy, sinh hoạt chuyên môn hiện nay còn bộc lộ một số vấn đề bất cập.
Đó là, chất lượng nhiều buổi sinh hoạt chuyên môn chưa cao. Nội dung
sinh hoạt chuyên đề chưa được chú trọng, nhất là việc phổ biến áp dụng các
sáng kiến còn nhiều hạn chế. Các báo cáo chuyên đề được nghiệm thu đôi khi
chưa phục vụ hiệu quả cho thực tiễn giảng dạy. Đối với công tác dự giờ, khi lên
bục giảng, còn nhiều giáo viên cố gắng truyền tải hết mọi nội dung kiến thức
bất kể chính - phụ theo kiểu nhồi nhét mà ít quan tâm đến tầm đón nhận của
6


học sinh. Tiến trình dạy học hầu như theo một bản sao cố định. Ngồi ở phía
dưới, người dự giờ và ngay cả học sinh cũng phỏng đoán được trước các bước
thực hiện của giáo viên trên bảng như thế nào. Nhiều giờ học cũng vì thế mà tẻ
nhạt đơn điệu. Trong các hội giảng, hội thi, có những giờ học còn nặng chất
trình diễn vì giáo viên sợ bị đánh giá là thiếu năng lực, không đủ kiến thức,
không đủ các bước lên lớp…Hệ quả tất yếu là có những giờ dạy mang tính áp
đặt. Thiệt thòi vẫn nghiêng về đối tượng học sinh yếu, kém do tâm lý người dạy

sợ các em đứng im không biết trả lời sẽ làm ảnh hưởng đến tiết dạy nên những
học sinh này thiếu sự quan tâm, thường bị “bỏ rơi”. Không ít giáo viên giáo
viên chỉ tập trung vào một nhóm học sinh khá, giỏi mà trong thực tế thì một lớp
học thường có ba nhóm học sinh:
- Nhóm A: Học sinh giải được bài sau các đơn vị kiến thức được dạy.
- Nhóm B: Học sinh giải được một phần.
- Nhóm C: Học sinh không giải được.
Rất nhiều giáo viên lúc dạy chỉ chú tâm đến nhóm A, nhóm C bị bỏ rơi
trong khi lẽ ra cần chú trọng vào nhóm B, C.
Bất cập hơn là buổi sinh hoạt rút kinh nghiệm ngay sau đó. Giáo viên có
tiết dạy lúc nào cũng trở thành “điểm ngắm” duy nhất để đồng nghiệp ngồi ở
phía dưới khi dự giờ chăm chăm quan sát mọi hoạt động rồi sau đó phân tích,
góp ý, rút kinh nghiệm về nội dung kiến thức, phương pháp dạy học, tư thế tác
phong. Kĩ càng hơn nữa thì mổ xẻ cách trình bày bảng, biện pháp sử dụng đồ
dùng dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin, phân bố thời gian… có hợp lý
hay không? Nghịch lý hơn, nội dung bài học phải là “hình chiếu trung thành”
nhất của sách giáo khoa chứ không quan tâm đến việc nội dung đó có phù hợp
với đối tượng học sinh hay không? Ý kiến nhận xét vì thế nặng tính chủ quan,
áp đặt dựa vào kinh nghiệm của từng cá nhân theo kiểu: “Theo tôi cách tốt nhất
là, nếu tôi dạy tôi sẽ…”, mặc dù trong thực tế không có cách dạy nào tốt nhất
cho tất cả mọi người vì còn tùy thuộc vào từng đối tượng học sinh trong mỗi
lớp.
Những ý kiến góp ý hầu như không đưa được giải pháp để cải tiến giờ
dạy. Giáo viên dạy trở thành mục tiêu để phân tích các thiếu sót. Và chính vì
chỉ chú ý vào giáo viên nên mọi ý kiến đều hướng về người dạy mà bỏ quên
người học. Bởi khi dự giờ, người dự thường ngồi ở bàn cuối lớp để “giám sát”
thật kỹ lưỡng giáo viên mà không hề quan tâm các em học sinh học như thế
7



nào, tiếp thu ra sao hoặc có cần thầy cô giúp đỡ hay không. Do vậy mà kết quả
học tập của học sinh ít được cải thiện, nhất là các đối tượng yếu, kém vì luôn bị
“bỏ rơi”, các em lại càng tự ti, sợ học, chán học…
Thực trạng trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Tổ trưởng chưa phát huy hết vai trò của mình, thường có tâm lí coi mình
cũng như giáo viên bình thường khác, chỉ lo hồ sơ đầy đủ, sạch đẹp; chưa chủ
động xây dựng và thực hiện kế hoạch, chưa mạnh dạn trong việc đề xuất các ý
kiến để nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn.
- Việc chuẩn bị nội dung cho các buổi sinh hoạt chuyên môn chưa phong
phú, hình thức còn đơn điệu, chưa đi sâu vào các vấn đề trọng tâm đổi mới
phương pháp dạy học và tháo gỡ những khó khăn cho giáo viên trong tổ. Trong
các buổi sinh hoạt, không khí thường trầm lắng, giáo viên ít phát biểu ý kiến;
những vấn đề mới và khó ít được mang ra bàn bạc, thảo luận.
Công tác quản lý chỉ đạo của ban giám hiệu chưa sát sao, thiếu sự đôn đốc
và kiểm tra thường xuyên.
Do xuất phát từ mục đích của buổi dự giờ là để đánh giá kĩ năng dạy học
và năng lực chuyên môn của giáo viên nên tạo ra áp lực cho cả người dạy và
người dự. Người dạy sẽ chỉ ngồi nghe còn người dự trở thành giám khảo phán
xét, đánh giá.
Lí do tiếp theo nữa là xuất phát từ suy nghĩ của người dự giờ, khi được mời
phát biểu, nếu chỉ toàn khen lại sợ người khác nghĩ mình kém cỏi. Nếu có
nhiều ý kiến lại sợ làm tổn thương và ảnh hưởng đến kết quả xếp loại của đồng
nghiệp. Một số khác lại suy nghĩ là họ học được rất ít từ đồng nghiệp, bởi hầu
hết giáo viên khi dạy đều bám sát vào các tài liệu hướng dẫn dành cho giáo
viên do vậy cấu trúc bài học, tiến trình lên lớp gần như giống nhau nên họ cảm
thấy nhàm chán, thậm chí có giáo viên đi dự giờ cốt để đủ số giờ theo quy định.
Thực trạng trên lặp lại ở nhiều năm học và diễn ra ở không ít các nhà
trường. Yêu cầu đổi mới công tác quản lý, nâng cao hiệu quả quản lý và chất
lượng giáo dục đòi hỏi sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn trong nhà trường cần
phải có một cách làm mới, một hướng đi mới.

IV. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
4.1. Thống nhất quan điểm

8


Công tác dự giờ là một yêu cầu bắt buộc trong sinh hoạt chuyên môn ở
nhà trường. Hướng đến người học nên nội dung sinh hoạt chuyên môn lấy học
sinh làm trung tâm không đặt nặng việc đánh giá giáo viên như trước đây mà
khuyến khích người dự giờ hướng đến đối tượng học sinh để làm sao giúp các
em có một bài học hoàn chỉnh, chất lượng; gây được hứng thú và niềm say mê
học tập cho các em.
Bản chất của sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm là
nhằm tháo gỡ những vấn đề của học sinh để nâng cao chất lượng từ mỗi bài
học, mà vấn đề của học sinh trong giờ dạy chủ yếu ẩn ngay trong cách dạy của
giáo viên. Mỗi giáo viên đều hiểu rằng, nếu học sinh không học được thì
mọi việc làm của giáo viên trong tiết dạy đó đều vô nghĩa. Cách nghĩ mới
này sẽ phá bỏ khuôn thước trong dự giờ trước đây. Thay vì chỉ chú ý vào người
dạy, người dự giờ cần tập trung cả vào hoạt động học tập, khả năng lĩnh hội
kiến thức, vận dụng kỹ năng của học sinh, từ đó phát hiện những khó khăn mà
các em gặp phải để có cách tháo gỡ kịp thời.
Điều quan trọng nhất là khi dự giờ đồng nghiệp các giáo viên phải thống
nhất quan điểm: Thước đo sự thành, bại của giờ dạy là ở thái độ, hành vi,
phản ứng của học sinh trong giờ học đó. Đây là nguyên tắc đầu tiên khi tiến
hành sinh hoạt chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm. Có nghĩa là ở từng
bước, trọng tâm hướng đến là học sinh, vì học sinh chứ không phải đối tượng
nào khác.
Hình thức sinh hoạt chuyên môn này vừa góp phần đổi mới phương pháp
dạy học, dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vừa giúp giáo
viên chủ động điều chỉnh cách dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp

mình, trường mình.
Người chủ trì, điều khiển các bước sinh hoạt chuyên môn lấy học sinh
làm trung tâm từ tổ chức dự giờ đến tổ chức thảo luận rút kinh nghiệm là tổ
trưởng chuyên môn hoặc nhóm trưởng. Nhóm giáo viên làm việc hợp tác, thể
hiện tính tập thể, tính thống nhất trong cả quá trình sinh hoạt chuyên môn.
4.2. Thay đổi mục tiêu dự giờ
Đối tượng quan sát các giáo viên dự giờ là học sinh.
Kĩ thuật quan sát là: kết hợp nghe, nhìn, ghi chép
Giáo viên dự giờ phải quan sát để:
9


- Nhận biết cách học sinh học, khả năng tiếp thu, lĩnh hội…
- Phát hiện học sinh nào đang gặp khó khăn trong giải quyết bài tập;
- Học sinh nào không tập trung, học sinh nào có vẻ muốn nêu ý kiến
nhưng lại ngồi im;
- Đặc biệt chú ý đến thái độ, nét mặt, hành vi học tập, khả năng lĩnh hội,
chú ý xem các em có thực sự tiếp thu bài học hay đang có vấn đề;
- Quan sát cách phản ứng của học sinh trong giờ học, cách làm việc
nhóm, những sai lầm học sinh mắc phải...
- Quan sát tất cả đối tượng học sinh, không được “bỏ rơi” một học sinh
nào để nhằm trả lời các câu hỏi:
- Học sinh học như thế nào?
- Học sinh gặp những khó khăn gì? Vì sao?
- Cần phải thay đổi như thế nào để cải thiện kết quả học tập của học
sinh?
Việc dự giờ tập trung quan sát thu thập thông tin phản hồi từ phía học
sinh không chỉ làm cơ sở cho giáo viên trong việc đưa ra kế hoạch dạy học tiếp
theo mà còn giúp giáo viên rèn khả năng tìm hiểu, phát hiện đánh giá đối tượng
học sinh, một yêu cầu rất cần thiết đối với người làm công tác giảng dạy.

4.3. Thay đổi mục tiêu đánh giá giáo viên bằng việc thảo luận, rút kinh
nghiệm từ việc học của học sinh
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, khi thảo luận về các tiết dạy có kế
hoạch dự giờ của tổ, nhóm, thay vì việc chỉ tập trung nhận xét, đánh giá tay
nghề giáo viên người chủ trì sẽ tổ chức để các thành viên thảo luận.
Tiến trình:
Bước 1: Cần tạo điều kiện cho giáo viên dạy chia sẻ những thuận lợi và
khó khăn khi tiến hành dạy học; những ý tưởng đã thực hiện được, những ý
tưởng chưa thực hiện được, những tình huống phát sinh trong khi tiến hành dạy
học; những điều thấy tâm đắc và cả những điều tự thấy chưa hài lòng.
Bước 2: Chủ trì điều hành thảo luận có thể là tổ trưởng, tổ phó, nhóm
trưởng.

10


Với mục tiêu lấy hành vi học tập của học sinh làm trung tâm thảo
luận, lúc này vai trò điểu khiển của người chủ trì là rất quan trọng, phải biết
đưa ra câu hỏi thảo luận mang tính định hướng như:
+ Những năng lực nào của học sinh được phát huy, hình thành trong tiết
học?
+ Khả năng trả lời câu hỏi, bài tập tích hợp kiến thức của học sinh ra
sao?
+ Cách suy nghĩ, khả năng tiếp thu của học sinh khi học? Những thuận
lợi, khó khăn của học sinh khi tham gia các hoạt động học tập?
+ Học sinh có hiểu rõ nhiệm vụ bài học và chủ động trong các hoạt động
học không?
+ Hoạt động nào hiệu quả, hoạt động nào chưa hiệu quả? Lý do?
Học sinh nào, nhóm nào hoạt động hiệu quả, lí do?
+ Học sinh tiếp cận như thế nào với các câu hỏi/bài tập có tính phân hóa,

kích thích tư duy, tích cực hóa hoạt động học tập?
+ Học sinh nào lúc đầu rất trầm, rất rụt rè không muốn phát biểu sau đã
có sự thay đổi, tự tin, mạnh dạn hơn? Tại sao có sự thay đổi đó?
+ Học sinh nào không hứng thú với môn học, không lắng nghe giáo
viên, không trao đổi với bạn, vì sao?
+ Học sinh nào đang gặp khó khăn trong việc học? Vì sao học sinh
không muốn học, bài học quá khó hay quá dễ với em?
+ Kết quả cuối cùng có được cải thiện hay không? Khả năng lĩnh hội
của học sinh thể hiện ở mức độ nào? (biết, hiểu, vận dụng, đánh giá, sáng tạo).
+ Bao nhiêu học sinh có thể vận dụng kiến thức từ bài học, kiến thức
liên môn để giải quyết vấn đề trong thực tiễn?
Các ý kiến phải hướng về đối tượng người học xem các em học tập như
thế nào, từ đó phát hiện những khó khăn mà các em gặp phải, ví dụ “Bắt đầu
vào buổi học, các em rất vui vẻ. Sau 10 phút, một số em đã lơ đãng. Sau 20
phút, nhiều em tập trung, chăm chú, có em đã ngáp”…Giáo viên dự giờ cũng
cần trao đổi về những khả năng học sinh đạt được trong thực tế giờ học đối
chiếu với ý định của giáo viên dạy.
Quan trọng nhất là giáo viên phải tìm ra được nguyên nhân vì sao có
những học sinh chưa tích cực tham gia vào hoạt động học và học chưa đạt kết
11


quả như mong muốn. Trên cơ sở đó có cách tháo gỡ kịp thời và cùng đưa ra
biện pháp hỗ trợ việc học của học sinh hoặc điều chỉnh cách dạy sao cho phù
hợp đồng thời rút ra bài học cho quá trình giảng dạy.
Khi thảo luận, các thành viên đưa ra ý kiến nhận xét góp ý trên tinh thần
xây dựng chứ không “vạch lá tìm sâu” hay “bới lông tìm vết” để tìm lỗi. Từ
nhận thức ấy, người dự giờ thảo luận về giờ học phải theo tinh thần “ngồi bên
nhau” trong hoạt động tương tác, chia sẻ, tôn trọng và cởi mở, hợp tác giữa các
đồng nghiệp để đạt tới hiệu quả công việc mà tất cả đều mong đợi. Hơn thế,

chia sẻ, lắng nghe người khác sẽ tích luỹ được nhiều hiểu biết mới.
Nên tránh cách nói: "Theo tôi phải thế này, thế kia...", "Nếu tôi dạy bài này, tôi
sẽ làm thế này, thế kia…" bởi mỗi giờ học có rất nhiều cách dạy khác nhau.
Nơi sinh hoạt chuyên môn không phải là nơi đánh giá mà là nơi để chia sẻ,
tháo gỡ. Người dự cần đặt mình vào vị trí của người dạy, hiểu và thông cảm
với khó khăn của người dạy, gắn bó và đồng thuận với đồng nghiệp trong mọi
hoạt động để khắc phục khó khăn trong giảng dạy.
Đối với người chủ trì:
- Người chủ trì cần tôn trọng và lắng nghe tất cả ý kiến của giáo viên;
- Không áp đặt ý kiến của mình hoặc của một nhóm người;
- Cần ngăn chặn ý kiến tiêu cực, cần dẫn dắt gợi ý giáo viên thảo luận;
- Cần tạo cơ hội cho tất cả người dự được phát biểu;
- Cần tìm hiểu ý nghĩa của những ý kiến đóng góp nhằm làm sáng tỏ
những gì giáo viên muốn phát biểu và biết liên kết những suy nghĩ, ý kiến. Cần
nhận thức được, mục tiêu tiết học không phải để chúng ta hướng đến câu trả lời
của chúng ta - có nghĩa là hướng theo điều thầy muốn, mà phải xem học sinh
hiểu gì, nghĩ gì, học sinh phải học theo cách nào để nắm kiến thức.
Trong quá trình thảo luận cũng nên đưa ra nhiều cách dạy học khác nhau
để lựa chọn cũng như nên xây dựng giáo án phù hợp với đối tượng học sinh,
chú ý rèn luyện kỹ năng tự học đừng hướng đến những cái cao siêu trong khi
khả năng lĩnh hội của học sinh còn hạn chế. Trong thực tế dạy học, không có
một mẫu giáo án nào là chuẩn nhất, chỉ có giáo án phù hợp với khả năng của
học sinh trong từng lớp.
Không nhất thiết tổng kết buổi thảo luận mà khuyến khích mỗi giáo viên
tự phát triển khả năng tổng kết của mình, suy ngẫm về việc học của học sinh để
12


từ đó có kế hoạch dạy học phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình. Cách dạy
của mỗi giáo viên có thể khác nhau nhưng mục đích thì cần phải giống nhau.

Các ý kiến đưa ra nhiều hay ít, tinh tế, sâu sắc hay hời hợt nông cạn sẽ quyết
định hiệu quả học tập, phát triển năng lực của tất cả giáo viên tham gia sinh
hoạt chuyên môn.
Có thể nói, quá trình thảo luận lấy học sinh làm trung tâm chính là quá
trình cọ sát thực tiễn và kết nối thân thiện giữa các thành viên trong tổ. Cả hai
nhân tố này là con đường thiết thực để bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho
mỗi giáo viên.
V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sáng kiến được Ban giám hiệu, đặc biệt là tổ chuyên môn nhất trí đưa vào áp
dụng trong nhà trường và có kết quả trong thực tiễn như sau:
- Thứ nhất với học sinh, học sinh trở thành trung tâm của quá trình dạy
học theo định hướng phát triển năng lực, được giáo viên quan tâm các em tự
tin, tích cực tham gia các hoạt động học. Với phương châm không bỏ sót học
sinh, những học sinh có khó khăn trong việc học được kịp thời giúp đỡ, kết quả
học tập được cải thiện.
- Thứ hai với giáo viên, đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh
làm trung tâm đã tạo cơ hội cho tất cả giáo viên chủ động tìm ra biện pháp để
nâng cao chất lượng dạy và học; có cơ hội nhìn lại quá trình dạy để kịp thời
điều chỉnh; quan tâm đến học sinh nhiều hơn.
- Thứ ba, sinh hoạt chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm thay đổi cả người
dạy và người học, tạo ra một cộng đồng học tập, học hỏi lẫn nhau, khi giáo
viên dạy thì chưa chắc học sinh học nhưng khi giáo viên học thì chắc chắn
học sinh được học.
- Thứ tư, sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm đã huy động
được tất cả giáo viên trong nhóm chuyên môn tham gia. Hiệu quả này có tác
dụng gắn kết giáo viên. Động lực quan trọng để giúp nhà trường phát triển
chính là mối quan hệ, sự tương tác, giúp đỡ lẫn nhau trong khối đoàn kết và sự
nỗ lực vươn lên của mỗi cá nhân.
Lấy chất lượng khảo sát học lực của học sinh toàn trường sau 2 tháng áp dụng
sáng kiến đối chiếu chất lượng khảo sát đầu năm học 2014-2015, kết quả phản

ánh như sau:
Trước khi áp dụng sáng kiến
13


Giỏi
SL
13

%
2,0

Giỏi
SL
22

%
3,4

Tháng 9/2014
Khá
T.bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
131

20,3
448
69,5
42
6,5
Sau 2 tháng khi áp dụng sáng kiến
Tháng 12/2014
Khá
T.bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
184
28,5
418
64,8
21
3,3

Kém
SL
11

%
1,7


Kém
SL

%

Những kết quả trên đây còn phải tiếp tục kiểm nghiệm trong quá trình
vận dụng nhưng những tín hiệu đáng mừng qua thực tiễn đã khẳng định: việc
đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm đã như luồng gió
mới thổi vào các buối sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn trong nhà trường và đem
lại những tác động tích cực đến kết quả học tập của học sinh. Chính điều đó sẽ
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục theo tinh thần đổi
mới.
VI. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
- Đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm phải được
thực hiện theo kế hoạch, bắt đầu từ kế hoạch dự giờ giáo viên, sau dự giờ nhất
thiết phải thảo luận, trao đổi, rút kinh nghiệm.
- Khi tổ chức dự giờ, giáo viên cần luyện tập cách quan sát và suy nghĩ về việc
học của học sinh trong giờ học, luyện khả năng phán đoán nhanh nhạy, chính
xác để điều chỉnh việc dạy phù hợp với các đối tượng kịp thời.
- Sau các tiết dạy có dự giờ cần tổ chức thảo luận, tập trung phân tích các hoạt
động học của học sinh, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh, hỗ trợ phù hợp.
- Tăng cường, vận dụng, thử nghiệm những ý tưởng sáng tạo, lấy học sinh
làm trung tâm, đi sâu nghiên cứu, phân tích các phương án dạy học đáp ứng tối
thiểu nhiệm vụ học tập của học sinh.
- Giáo viên trong tổ nhóm chuyên môn cần hình thành thói quen lắng nghe lẫn
nhau; rèn luyện cách chia sẻ ý kiến hình thành quan hệ đồng nghiệp thân thiện,
cộng tác và học tập, giúp đỡ lẫn nhau.

14



KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Bản chất của đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm
là từ chỗ chủ yếu quan sát giáo viên chuyển sang quan sát học sinh là trọng
tâm, từ chỗ chỉ tập trung đánh giá trình độ, cách dạy của giáo viên sang suy
ngẫm về việc học của học sinh, cùng suy đoán các nguyên nhân và đưa ra
những cách giải quyết khắc phục. Cách làm này góp phần phát triển năng lực
người học, giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức, tự tin vào bản thân, thúc
đẩy các em có động lực học tập, vượt qua được “vùng kiến thức trống” của
mình bằng cách mạnh dạn hỏi thầy cô, bạn bè hay học tập theo nhóm do được
giáo viên quan tâm, khích lệ. Cách làm này cũng tạo ra cơ hội giúp giáo viên
hiểu rõ hơn về cách các em học sinh học, về tác dụng của phương pháp dạy
học đến việc học tập của học sinh đồng thời cũng hướng đến phát triển năng
lực chuyên môn của giáo viên thông qua sự tương tác có hệ thống với các giáo
viên khác.
Sinh hoạt chuyên môn là hợp lại trí tuệ tập thể để tìm ra cách nào tốt hơn
cho việc dạy và học. Không hướng tới kết quả học tập của học sinh, sinh
hoạt chuyên môn trong nhà trường coi như vô nghĩa. Bởi bất cứ học sinh
nào khi đến trường đều có mong mỏi được học, nhiệm vụ của giáo viên đáp
ứng mong mỏi đó.
2. Khuyến nghị
- Bổ sung tiêu chí đánh giá giờ dạy của giáo viên như: đánh giá năng lực
quan sát, khả năng điều chỉnh kịp thời hành vi học của học sinh.
- Đối với các cấp quản lí giáo dục: cần tăng cường việc kiểm tra hiệu hoạt
động của tổ chuyên môn trong đó có nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn, kiểm
tra đánh giá về kế hoạch, quá trình tổ chức, các biện pháp chỉ đạo đến kết quả
thể hiện ở chất lượng học sinh. Khi cán bộ quản lý quan tâm đến vấn đề của
người học thì dần giáo viên cũng sẽ quan tâm.
- Điều kiện cơ sở vật chất của các trường học hiện nay tuy đã được cải thiện

đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học,
còn thiếu phương tiện, thiết bị. Diện tích lớp học còn hẹp, sĩ số trung bình 3742 em/lớp sẽ tạo khó khăn cho hoạt động quan sát, quan tâm học sinh của giáo

15


viên khi lên lớp. Cấp quản lý giáo dục nên có giải pháp tháo gỡ những khó
khăn, bất cập này.
Đổi mới là quá trình lâu dài và học tập là việc suốt đời, làm thầy càng
phải học. Quan trọng là chúng ta phải thay đổi lối mòn tư duy trước đây từ cách
nghĩ, cách làm, đến cách đánh giờ giờ học. Thay đổi không phải do chỉ thị từ
Bộ, từ Sở mình phải thực hiện mà phải do chính mong muốn của mình mới có
cách làm hiệu quả. Triết lí dạy học mới “Không bỏ rơi học sinh, tạo cơ hội tối
đa để trò được nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn” sẽ được thực thi khi chúng ta
sinh hoạt tổ chuyên môn lấy học sinh làm trung tâm.

16



×