Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcs qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.54 KB, 19 trang )

« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

A. MỞ ĐẦU:
I. Đặt vấn đề.
1.Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết.
Xã hội ngày càng văn minh - hiện đại thì con người phải đối diện với
những mặt trái to lớn từ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và đặc biệt là
mối quan hệ giữa người với người. Bởi thế, mà xã hội nói chung và ngành giáo
dục nói riêng đang từng ngày phải đối mặt với những thách thức và cần phải có
những thay đổi để phù hợp với những mục tiêu và hoàn cảnh mới. Làm sao để
đào tạo ra những con người vừa có tri thức khoa học, vừa có kỹ năng làm việc
nhưng cũng phải vừa có những thái độ, hành vi tích cực trong xã hội công
nghiệp đầy năng động ? Đây chính là điều trăn trở của ngành giáo dục trong
những năm gần đây.
Thực tế cho thấy, bên cạnh những thành quả đạt được của toàn ngành thì
gần đây chúng ta đều thấy thực trạng trẻ vị thành niên có xu hướng gia tăng về
bạo lực học đường, về phạm tội, về liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh, dễ mắc
các tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vô tâm, khép mình…Đồng thời kỹ năng thực
hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng tự phục vụ bản
thân cũng giảm…Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, thế nhưng
một trong những nguyên nhân chính phải chăng đó là học sinh ngày nay rất
thiếu về các kỹ năng sống cần thiết ?
Vậy làm thế nào để giúp thế hệ trẻ có được đầy đủ kỹ năng sống cần thiết
? Từ đó giúp các em đứng trước thềm hội nhập quốc tế phải tự tin; năng động
và sáng tạo; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một số kỹ năng:
sống khoẻ, sống lành mạnh, sống có ích, giỏi lập trình, giỏi Tiếng Anh…?
Trước đây, trong bối cảnh xã hội truyền thống, con trẻ học cách đối nhân xử thế
thông qua đại gia đình, làng xã, văn hóa dân gian, các chương trình giáo dục
chính quy và không chính quy, … Nhưng dưới những chuyển biến kinh tế xã
hội diễn ra quá nhanh chóng đã hạn chế phần nào chức năng của giáo dục gia
đình và các thiết chế truyền thống. Ngày nay đại đa số gia đình đều mong muốn


con mình học thật giỏi nên suốt ngày Phụ Huynh Học Sinh bắt các em phải học
từ sáng đến tối không có thời gian vui chơi sinh hoạt giải trí cộng động…Hơn
thế nữa những biến động kinh tế xã hội ngày càng to lớn do quá trình hiện đại
hóa cũng đem lại cho lứa tuổi thiếu niên quá nhiều thử thách.
Do vậy, để hóa giải vấn đề này đã có rất nhiều trung tâm đào tạo kỹ năng
sống ra đời, nhằm giúp các em học sinh trung học cơ sở tập trải nghiệm trong
những tình huống giả định, nhằm hình thành một số kỹ năng cần thiết để tự tổ
chức cuộc sống của cá nhân trở nên hiệu quả hơn. Ngành Giáo dục và Đào tạo
cũng đã và đang có những định hướng tích cực để đưa kỹ năng sống vào giảng
dạy tại các bậc học nhằm góp phần nâng cao định hướng giá trị và tạo lập hành
vi phù hợp ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhưng có lẽ do đây là một lĩnh vực khoa
học còn khá mới mẻ và với nhiều nguyên nhân khác nhau nên việc giảng dạy,
huấn luyện kỹ năng sống vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ và chưa được quan tâm
đúng mức. Vấn đề kỹ năng sống dưới góc độ tâm lý là lĩnh vực chưa được
nghiên cứu nhiều.
Là một giáo viên chủ nhiệm với thiên chức như một người cha một người
mẹ hiền thứ hai của các em. Tôi nghĩ mình cần phải có trách nhiệm giáo dục kỹ
năng sống ngay cho các em sau khi được tập huấn chương trình lồng ghép kỹ
Gv: Lê Văn Bình

Tr 1


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

năng sống vào chương trình giảng dạy mà Bộ GD-ĐT đã triển khai đưa vào
giảng dạy đại trà từ năm học 2010-2011. Và từ sách vở, báo chí, các nguồn
thông tin bổ ích đáng tin cậy trên Internet cũng như qua những trải nghiệm
trong cuộc sống, được tận mắt chứng kiến những nghịch cảnh đã xảy ra với các
em, … tôi đã cố gắng rèn luyện và hoàn thiện bản thân để từ đó bằng với chính

con người chân thật của mình tôi đã mạnh dạn đưa những chương trình kỹ năng
sống vào giáo dục các em qua các tiết sinh hoạt chủ nhiệm một cách thành công
trong năm học này. Tuy kết quả mang lại bước đầu được đánh giá là khá tốt
song với mong muốn được chia sẻ và lĩnh hội thêm kinh nghiệm sống của các
bậc phụ huynh, các anh chị đồng nghiệp. Vì vậy thông qua chia sẻ kinh nghiệm
nhỏ bé của mình mà tôi mong được tiếp thu đóng góp những kinh nghiệm quý
báu từ nhiều nguồn để tôi có thể áp dụng nhiều hơn và tạo ra những tình huống
sôi động hơn, thiết thực hơn góp phần vào sự nghiệp trồng người của đất nước.
Đó cũng chính là lý do mà tôi muốn chia sẻ về kinh nghiệm: “GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG CHO HS THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM”
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới.
- Đáp ứng được mục tiêu giáo dục toàn diện theo chương trình đào tạo
của Bộ giáo dục và đào tạo đó là giúp các em học để biết, học để làm, học để
tồn tại và học để chung sống. Tăng cường được chất lượng giáo dục ở mọi lĩnh
vực và khẳng định rằng mọi học sinh nhận thức được mục tiêu học tập, phấn
đấu vươn lên nắm tri thức. Thúc đẩy được những hoạt động mang tính xã hội,
phát huy được những nhân tố tích cực, hạn chế được những nhân tố tiêu cực đáp
ứng tốt cho phong trào xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực tạo ra
môi trường giáo dục lành mạnh, trong sạch trong nhà trường.
- Qua việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh đã làm cho các em đổi
mới phương pháp học tập của mình. Từ đó, giúp các em có khả năng học tập tốt
hơn, các tư duy hoạt động của các em được phát triển, các em biết lập luận, tự
tin nắm kiến thức và giải quyết các tình huống trong học tập.
- Thông qua sáng kiến kinh nghiệm, rèn kỹ năng sống tính tự giác, tự
quản của tập thể lớp, nhóm học sinh ngày càng tốt hơn, gắn bó với nhau, giúp
nhau học tập, rèn luyện đạo đức tốt trong nhà trường.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
-Kỷ năng sống của học sinh lớp 7A4 Trường THCS Lương Thế Vinh,
năm học 2015-2016
II. Phương pháp tiến hành.

1. Cơ sở lý luận.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Trồng người ở đây chính là phải tập
trung giáo dục kỹ năng sống, trước khi giáo dục kiến thức cho học sinh. Bác
cũng từng nói: “Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.” Hay bất kỳ trong một ngôi trường
nào chúng ta cũng đều nhìn thấy khẩu hiệu: “Tiên học lễ, hậu học văn.” Điều
này cho thấy giá trị đạo đức, kỹ năng sống của con người mới chính là yếu tố
hàng đầu làm nên sự thành công trong mọi lĩnh vực.
Vấn đề giáo dục kỹ năng sống (viết tắt là KNS) bắt đầu được đặt nền
móng, được quan tâm tìm hiểu từ thập niên 80 của thế kỷ XX. Năm 1979, nhà
khoa học hành vi Gilbert Botvin, thành lập nên một chương trình giáo dục KNS
Gv: Lê Văn Bình

Tr 2


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

cho giới trẻ từ 17-19 tuổi. Chương trình đào tạo này nhằm giúp xây dựng ở
người học có khả năng từ chối những lời mời, rủ rê sử dụng chất gây nghiện
bằng cách nâng cao sự tự khẳng định bản thân, kỹ năng ra quyết định và tư duy
phê phán. Thực ra, việc học tập và thực hành các kỹ năng ấy chỉ là một trong
những khía cạnh của chương trình, nhưng có thể coi như là bước đầu để chương
trình giáo dục KNS được triển khai rộng rãi trong thời gian kế tiếp…Đến đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX, nhiều tổ chức quốc tế như Tổ chức y tế thế giới
(WHO), Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc
(UNESCO), Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) đã có sự đầu tư,
đưa ra những chương trình giáo dục KNS cụ thể với các đối tượng khác nhau
nhằm trang bị cho họ những KNS cơ bản, giúp đối phó với một số vấn đề cụ thể

trong cuộc sống như bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường, phòng chống
HIV/AIDS, ma túy…
Ở Việt Nam, bắt đầu từ năm 1996, UNICEF đã tổ chức chương trình
“Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV / AIDS cho
thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Từ chương trình đầu tiên này,
chương trình giáo dục KNS dần được mở rộng ra cả về đối tượng lẫn nội
dung.Chẳng hạn như các KNS nhằm giáo dục về quyền trẻ em, sức khỏe sinh
sản, giới tính cho học sinh và trẻ em, đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em
thiệt thòi và trẻ em gái, hoặc chương trình giáo dục KNS trong vấn đề bảo vệ
sức khỏe, chống bạo lực trong gia đình, xóa đói giảm nghèo cho các chị em phụ
nữ; chương trình giáo dục KNS về phòng chống lạm dụng tình dục, phòng
chống HIV/AIDS với các đối tượng có nguy cơ cao,… Năm 2001, thông qua dự
án “Giáo dục sống khỏe mạnh, kỹ năng sống cho trẻ vị thành niên” thực hiện ở
120 trường THCS của 10 tỉnh, thành trong cả nước như: Hà Nội, TP HCM, An
Giang, Hải Phòng, Gia Lai, Quảng Ninh, …, với sáng kiến và hỗ trợ của Quỹ
Nhi đồng Liên hiệp quốc tại Việt Nam, chúng ta cũng đã thực hiện tương đối
bài bản việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh và cả trẻ em ở ngoài trường
học…
Riêng với ngành giáo dục thì chương trình rèn luyện kỹ năng sống cũng
triển khai từ rất lâu theo phương pháp lồng ghép vào các môn học như đạo đức,
giáo dục công dân. Tuy nhiên, chương trình rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh được nhấn mạnh gần đây nhất chính là một trong năm nội dung được Bộ
GD-ĐT phát động thực hiện trong phong trào thi đua “xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” năm học 2009-2010.
Song, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương đưa bộ môn giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh vào nhà trường từ năm học 2010-2011 và chỉ đạo Viện
Khoa học giáo dục, tổ chức biên soạn bộ tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh qua một số môn học: Địa lý, Ngữ văn, Giáo dục công dân, Sinh học và
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm cung cấp cho học sinh những kỹ
năng cơ bản để ứng phó với những thử thách, khó khăn trong cuộc sống,… để

triển khai dạy đại trà từ sau năm 2010 thì qua đó giúp chúng ta thấy rõ là bao
lâu nay chúng ta đã quên lãng hay xem nhẹ vấn đề này và nay đã đến lúc cần
phải đưa vào chương trình hành động.
Vậy chờ đợi hay hành động ? Trước hết, khi chương trình chưa cụ thể,
nội dung chưa được phổ biến kỹ càng theo từng cấp học, độ tuổi thì thay vì phải
chờ đợi chúng ta - những giáo viên có tâm huyết với nghề cần phải là những
Gv: Lê Văn Bình

Tr 3


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

người tiên phong đón đầu trong việc thực hiện chương trình ấy. Đặc biệt là các
giáo viên chủ nhiệm, người vừa giảng dạy chuyên môn vừa cận kề bên các em
hằng ngày cần phải đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống cho các em trong các
tiết sinh hoạt 15 phút đầu giờ hay sinh hoạt cuối tuần….đó là cách nhanh nhất
nhằm giúp các em trở thành con ngoan, trò giỏi, có ích cho đất nước.
a. Kỹ năng sống là gì?
Hiện nay chưa có một khái niệm nào thống nhất trên toàn thế giới về kỹ
năng sống. KNS được tiếp cận theo nhiều quan điểm khác nhau, và điều này
cũng ảnh hưởng đến cách phân loại các KNS. Quan niệm rộng nhất là quan
niệm do Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc
(UNESCO) đưa ra, dựa trên cơ sở là 4 mục tiêu cơ bản của việc học: Học để
biết – Học để làm – Học để là chính mình – Học để cùng chung sống. Dựa vào
đó, UNESCO định nghĩa “KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các
chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”.
Tại Việt Nam hiện nay cũng có khá nhiều quan niệm khác nhau về khái
niệm KNS. Trong cuốn “Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên”, Th.S Nguyễn
Thị Oanh cũng trình bày quan điểm: “KNS với tư cách là đối tượng của giáo

dục, KNS là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày.” Còn trong bài viết “Khái niệm kỹ năng
sống nhìn từ góc độ tâm lý học”, PGS. Nguyễn Quang Uẩn, ĐH Sư phạm Hà
Nội đã xem xét khái niệm KNS dưới góc độ tâm lý học, tác giả đã phân tích:
Cuộc sống của con người diễn ra bằng hoạt động sống, với sự đan xen của
dòng “hoạt động có đối tượng” và “mối quan hệ giao tiếp - ứng xử” giữa con
người với con người, đó là hai mặt có mối quan hệ tác động lẫn nhau, tạo nên
cuộc sống đích thực của mỗi con người. Trong hệ thống các kỹ năng cơ bản có
tính tổng hợp và phức tạp của hoạt động sống của con người có các KNS. Tác
giả Nguyễn Quang Uẩn lại đưa ra khái niệm về KNS như sau: “KNS là một tổ
hợp phức tạp của một hệ thống các kỹ năng nói lên năng lực sống của con
người, giúp con người thực hiện công việc và tham gia và cuộc sống hàng ngày
có kết quả, trong những điều kiện xác định của cuộc sống”. ..
Tóm lại, với nhiều định nghĩa khác nhau nhưng theo các nhà tâm lý giáo
dục, cần trang bị cho học sinh THCS 10 kỹ năng sống cần thiết để phát huy sự
tự tin, năng động, sáng tạo của các em với những kỹ năng cần thiết đó là:
-Kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc,
-Kỹ năng tự phục vụ bản thân,
-Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả,
-Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời,
-Kỹ năng giao tiếp và ứng xử,
-Kỹ năng đánh giá và phân biệt hành vi,
-Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông,
-Kỹ năng đối diện và ứng phó khó khăn trong cuộc sống,
-Kỹ năng hợp tác, chia sẻ,
-Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân.
Trong phạm vi của đề tài và với những gì đã làm được, tôi xin chia sẻ
những kỹ năng sống để giáo dục và rèn luyện cho học sinh như:
+ Kỹ năng giải quyết các tình huống đặc biệt khó khăn trong cuộc sống.
+ Kỹ năng giao tiếp và thương thuyết

Gv: Lê Văn Bình

Tr 4


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

+ Kỹ năng lựa chọn và quyết định
+ Kỹ năng hợp tác và tìm kiếm sự giúp đỡ
+ Kỹ năng rất cần thiết như: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
b. Thực trạng.
Theo một nghiên cứu mới được ngành giáo dục công bố, có trên 95% các
em nhận thức chưa đúng về kỹ năng sống; 77,7% chưa bao giờ được đào tạo,
tập huấn về kỹ năng sống; 76,4% trả lời rất cần được tập huấn kiến thức về kỹ
năng sống. Hầu hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các
tình huống thường gặp trong cuộc sống.
Bên cạnh đó, thực tế của nạn bạo lực học đường đã trở nên báo động
cũng như tình trạng vô cảm của con người dưới sự tác động, chi phối của tiến
bộ khoa học-công nghệ, của lối sống tiêu thụ, thực dụng đã biến con người như
những rô bốt tự động... Hằng năm sau mỗi kỳ thi lớn như tốt nghiệp THPT hay
Đại học, ta vẫn thấy và nghe đâu đó có một số em bị trầm cảm, bi quan do sức
ép từ học hành, thi cử dẫn đến các hành động tiêu cực như tự tử, đi bụi, ... kết
cục ấy cũng một phần là do không có kỹ năng để vượt qua….Thực trạng này
xảy ra là có một phần trách nhiệm của gia đình và xã hội, nhưng cơ bản vẫn là
do trong một thời gian dài ngành Giáo dục đã coi nhẹ nội dung này mà chỉ chú
tâm vào nội dung dạy các môn văn hoá, bồi dưỡng kiến thức phục vụ cho các kỳ
thi cử mà không dạy kỹ năng sống cho các em.
Bởi vậy, không ít học sinh bây giờ đã được nhiều người ví ngơ ngác như
những “con gà công nghiệp”, vì chỉ biết ăn và học theo sách vở, sống khép kín
trong ngôi nhà, ít được va chạm, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm từ thực tế cuộc

sống...
Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thành công hay không, phụ thuộc
rất lớn vào tư chất, đạo đức và năng lực của thầy giáo, cô giáo. Muốn giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh tốt, trước hết, mỗi thầy giáo, cô giáo phải giáo dục
cho học sinh bằng sự nêu gương. Thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu trong ứng
xử, trong giáo dục nhân cách. Trước hết, phải chấm dứt những hành động bạo
lực, những ứng xử thiếu văn hoá của thầy giáo, cô giáo đối với học trò. Có như
vậy, thầy giáo, cô giáo mới cung cấp cho học sinh những kỹ năng sống mà mình
đã trải qua. Việc giáo dục này có thể bằng những nội dung trong giáo án, hoặc
bằng những nội dung ngoài giáo án. Để mục tiêu này đạt hiệu quả, thì đội ngũ
giáo viên cần phải có nghiệp vụ sư phạm giỏi. Có nghiệp vụ giỏi, thì ngay cả
giờ dạy Toán, Vật lý, Tiếng anh,… giáo viên cũng dạy cho học sinh kỹ năng
sống theo cách của mình. Hay với những tiết sinh hoạt cuối tuần, thay vì chỉ la
mắng học sinh bị phạm lỗi trong tuần, GVCN có thể thay đổi hình thức bằng
cách cùng học sinh trong lớp giải quyết vấn đề, cho học sinh phạm lỗi nhận thấy
cái sai của mình, tự nhận khuyết điểm và sữa chữa để vươn lên đó cũng là một
trong những kỹ năng sống cần thiết. Tuy nhiên, qua đó giáo viên phải nhận thấy
trách nhiệm của mình đối với việc giáo dục học trò, không nên xem việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh là vấn đề tạo nên gánh nặng công việc mà điều
quan trọng là biết cách kết hợp, lồng ghép để truyền đạt nội dung sao cho hiệu
quả nhất.
Mặt khác, khi phân tích tâm lý của lứa tuổi học sinh THCS, lứa tuổi từ
11-14, theo Tiến sĩ tâm lý Nguyễn Minh Hải-Trường ĐH Sư phạm Hà Nội thì
lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng to lớn trong thời kỳ phát
Gv: Lê Văn Bình

Tr 5


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »


triển của trẻ em, thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành nên
chúng ta chớ nên “coi thường” bởi đây là giai đoạn dậy thì.
Lứa tuổi này, các em có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần. Các em
đang tập khẳng định mình nên không phải lời khuyên, dạy bảo nào của bố mẹ
hay thầy cô các em cũng muốn nghe. Các em muốn được đối xử như người lớn
chứ không phải bảo sao nghe vậy.
Các em bảo vệ lời nói của mình bằng cả lời nói và hành động. Điều đó
đòi hỏi người lớn cần biết cách tôn trọng tính độc lập và quyển bình đẳng của
thiếu niên, cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị trong mọi vấn đề. Người lớn nên
quan tâm tới các em trong việc học tập, tránh tối đa việc xỉ vả, mắng nhiếc khi
trẻ không hoàn thành yêu cầu của thầy cô và của bố mẹ vì ở tuổi này, các em rất
dễ bị tự ái. Lứa tuổi này đang ở thời điểm dậy thì nên thoắt vui, thoắt buồn,
ương bướng. Do vậy, bố mẹ và thầy cô nên dạy theo phương pháp “lạt mềm
buộc chặt”.
Tóm lại, tình trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học,
không hứng thú học tập xuất hiện ngày một nhiều. Nguyên nhân thì có nhiều
nhưng chung quy là do nhận thức, ý thức và về cơ bản vẫn là do các em thiếu kỹ
năng sống. Đây là vấn đề được ngành giáo dục rất quan tâm, nhưng việc thực
hiện thì chưa đem lại nhiều hiệu quả. Việc giáo dục kỹ năng sống cho các em
cần phải thực hiện sớm. Ví dụ như phải giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh
THCS, thậm chí là cho học sinh lớp 5. Làm như vậy để cho các em biết được
trong những trường hợp nào thì sẽ ứng phó ra sao cho phù hợp. Chứ nhiều em
đến tuổi vị thành niên chưa kịp giáo dục sức khỏe sinh sản thì đã có thai rồi!
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp.
- Rèn kỹ năng sống cho học sinh thực sự có tác dụng tốt đến việc giáo
dục đạo đức học sinh trong nhà trường không những giúp cho các em có được
những kĩ năng ứng xử, giao tiếp mà còn tạo thành thói quen phân tích đánh giá
tình hình, thói quen vươn lên xử lý tình huống một cách hợp lí. Khác với các
phương pháp trước trong việc giáo dục đạo đức học sinh là khoảng cách giữa

thầy và trò khi các em mắc lỗi thường các thầy, cô giáo hay dùng hình thức
trách phạt, kỷ luật mà ít khi lắng nghe các em giải bày... Nay với việc chú trọng
rèn kỹ năng sống cho học sinh mà đòi hỏi cần có sự ân cần chỉ bảo, phân tích,
nghe các em nói lên những suy nghĩ, dẫn đến việc làm chưa phù hợp với chuẩn
đạo đức người học sinh. Việc giáo dục đạo đức, hình thành các kỹ năng sống tối
thiểu của các em đã được lồng ghép trong các chương trình học tập, được tích
hợp trong các bộ môn và còn được trải nghiệm qua thực tế cho nên gây được
hứng thú cho các em trong việc tu dưỡng đạo đức, hướng thiện và nâng cao
được năng lực học tập, sáng tạo. Từ đó, các em có nhận thức đúng đắn trong
việc thực hiện nội qui, qui định của nhà trường và tự giác thực hiện.
- Thời gian tiến hành: Từ tháng 9 đến tháng 1 năm học 2015-2016

Gv: Lê Văn Bình

Tr 6


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

B. NỘI DUNG:
I. Mục tiêu:
1. Nêu rõ nhiệm vụ của đề tài
- Thấy được thực trạng kỹ năng sống của học sinh THCS Lương Thế
Vinh nói riêng và học sinh THCS thành phố Quy Nhơn nói chung. Từ đó, tìm ra
một số giải pháp giúp học sinh có kỹ năng sống tốt hơn và trở thành con người
linh hoạt, sáng tạo, có văn hóa. Biết xử lý các tình huống một cách đúng đắn,
khoa học hợp với đạo lý người Việt Nam.
- Giúp học sinh thích ứng với cuộc sống xã hội hiện tại, với những tác
động của tự nhiên, xã hội. Thúc đẩy các em học sinh tham gia các hoạt động
mang tính xã hội, phát huy nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố tiêu cực, xây dựng

môi trường sống thân thiện, tích cực ở địa phương.
- Đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện; phù hợp với quan điểm giáo dục
của UNESCO đó là: Học để biết; học để làm; học để tồn tại; học để chung sống.
2. Vai trò của GVCN trong việc giáo dục kỹ năng sống.
Mỗi thầy, cô muốn hoàn thành nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm trước
hết phải có tâm, có tấm lòng vì tình yêu thương con người, có sự độ lượng, bao
dung, đồng thời phải giỏi về tâm lý lứa tuổi, có nhiều biện pháp giáo dục tinh tế.
Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm còn cần am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh. Đối với những học sinh có biểu hiện lệch lạc về nhân
cách, giáo viên chủ nhiệm chính là người thay mặt nhà trường cùng với gia đình
có những biện pháp “kéo” các em trở về với “cái thiện”, hay giúp các em học
tập những gương sáng xung quanh mình.
Thầy cô giáo chủ nhiệm còn cần biết xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ
Đoàn Đội biết cách xây dựng điều hành một tập thể tự quản. Giáo viên chủ
nhiệm còn phải biết ứng xử giải quyết đúng các mối quan hệ giữa các em học
sinh với nhau, giữa học sinh với giáo viên, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên
chủ nhiệm; giữa giáo viên chủ nhiệm với Đoàn Thanh niên, cán bộ Đội thiếu
niên… với cha mẹ học sinh. Và giáo viên chủ nhiệm còn cần biết động viên,
biết vận động thuyết phục. Thầy cô giáo chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết
nối 3 môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội.
Làm chủ nhiệm lớp là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm
gương sáng về đạo đức, mẫu mực từ lời ăn tiếng nói, tác phong làm việc cho
đến trình độ chuyên môn; quan hệ với học trò như là một người bạn lớn, vừa
gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì trong giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm
thấm lâu; giáo dục đạo đức phải trở thành thói quen của mình. Có người thì
quan niệm rằng, sau cha mẹ, thầy cô là người gần gũi với HS hơn ai hết nên
hiểu các em và nắm rõ hoàn cảnh để có định hướng đúng trong dạy dỗ là then
chốt của thành công trong giáo dục.
Nếu như trước đây, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm chủ yếu là định
hướng, hướng dẫn hành vi đạo đức cho học sinh, thì ngày nay, ngoài công tác

chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm còn phải kiêm thêm nhiều công việc không
tên khác từ việc học đến nề nếp, tâm tư tình cảm, giải quyết những tình huống
phát sinh của học sinh trong lớp. Vì thế, ngoài việc đầu tư vào môn dạy của
mình sao cho vừa đảm bảo nội dung lên lớp vừa tạo sự hấp dẫn, sáng tạo, mới
mẻ… có phương pháp giáo dục hợp lý, linh hoạt, hiểu biết tâm lý học sinh. Và
điều không thể thiếu là phải có tâm huyết và tình yêu thương đối với học sinh.
Gv: Lê Văn Bình

Tr 7


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

Hiện nay văn hoá giao tiếp trong nhà trường mới chỉ được quan tâm một
chiều (mối quan hệ trò - thầy), mối quan hệ giữa thầy - thầy, trò – trò chưa được
quan tâm đúng mức. Và vì thiếu kỹ năng sống nên học sinh giải quyết mâu
thuẫn bằng “tay”.
Ngoài ra, có rất nhiều yếu tố làm “rạn nứt” mối quan hệ bạn bè trong học
sinh hiện nay. Những rạn nứt đó bắt nguồn từ những biểu hiện không đẹp trong
giao tiếp học đường như sử dụng từ ngữ cục cằn, tiếng lóng… những phân biệt
đối xử với các học sinh trong lớp đến những quy định “có lợi cho người lớn và
bắt chẹt trẻ con”. Cụ thể nhất đó là các giáo viên thường quy định học sinh cấm
sử dụng điện thoại trong giờ học. Nhưng trong giờ, điện thoại của thầy cô lại đổ
chuông. Thầy nói lý do người lớn có nhiều việc quan trọng!?
“Quy định đặt ra chỉ áp dụng với học sinh, còn với các thầy thì sao? Thật đáng
tiếc vẫn còn những người thầy chưa gương mẫu và “quên” cảm nhận, xúc cảm
của học sinh, luôn cho mình là người có quyền muốn làm gì thì làm”.
-Vai trò giáo viên chủ nhiệm mờ nhạt: Không thể thiếu vai trò của nhà
trường trong giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, đặc biệt là vai trò của giáo
viên chủ nhiệm. Nhưng hình ảnh của người giáo viên chủ nhiệm “như mẹ hiền”

đang dần bị mai một. Vì hiện nay nhiều giáo viên làm chủ nhiệm trong tình
trạng… phải làm. Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm chỉ thu thập thông tin từ
học sinh là chuyện không có gì lạ.
Không những thế, nhiều giáo viên chủ nhiệm không được học sinh tin
tưởng bằng giáo viên bộ môn. Nhiều vấn đề học sinh không thể tâm sự được với
giáo viên chủ nhiệm. Khoảng cách giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm ngày
càng lớn.
Giáo viên không “mặn mà” với vai trò chủ nhiệm, trò không “giải toả”
được bức xúc với ai nên hành xử với nhau kiểu xã hội đen nhưng giáo viên chủ
nhiệm vẫn không hay biết là điều tất yếu xảy ra. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm
phải là người tâm lý và có tâm. Nhà trường chọn giáo viên chủ nhiệm cũng là
“chọn mặt gửi vàng”.
Còn đứng về phía người học, nhiều em cho rằng, ngoài việc “cải thiện”
mối quan hệ thầy trò, trò – trò thì việc giảm bớt chương trình học là cần thiết.
Một học sinh cho biết, các thầy cô giáo chỉ biết đưa ra các hình phạt đối với học
sinh mà chưa tìm hiểu sâu xa của vấn đề. “Tại trường chúng em, hình phạt có
thế là cảnh cáo trước toàn trường, hạ hạnh kiểm và hình phạt nặng nhẹ tùy thuộc
vào mức độ nghiêm trọng của sự việc. Nhưng thầy cô lại không giải thích tại
sao lại phạt như thế để học sinh hiểu. Trong khi học sinh lại không nghĩ mình
sai mà thường đổ lỗi do khách quan, do người khác” - học sinh này tâm sự.
Giáo dục văn hoá ứng xử, kỹ năng sống cho học sinh là cần thiết. Suốt
một thời gian dài, Việt Nam dạy học theo đúng nghĩa chỉ dạy chữ. Điều này cho
đến giờ đã và đang để lại những hậu quả nặng nề và rất nghiêm trọng. Giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh sẽ khó hơn khi chính thầy cô không phải là một tấm
gương.
3. Vì sao phải rèn luyện kỹ năng sống cho HS trong nhà trường?
- Kỹ năng sống không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp. Việc giáo
dục kỹ năng sống cho HS bao gồm những nội dung hết sức đơn giản, rất gần gũi
với các em, đây là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập trong học
tập, vui chơi giải trí và sinh hoạt thường ngày.

Gv: Lê Văn Bình

Tr 8


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

-Mặc dù, hiện nay chúng ta trong thời đại Công nghệ-Thông tin và hội
nhập quốc tế, HS có những hiểu biết khá phong phú nhờ truy cập Internet,
nhưng kỹ năng sống của các em còn nhiều hạn chế. Ở lứa tuổi bắt đầu " bước
vào đời", bắt đầu sống độc lập, làm việc và sẽ có những va chạm xã hội, các em
cũng rất cần được trau dồi kỹ năng sống. Một trong những nội dung quan trọng
của phong trào thi đua " Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" là
việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để cung cấp kiến thức về kỹ
năng sống cho học sinh. Đặc biệt cho học sinh nữ nhằm giúp các em có kỹ năng
tự bảo vệ trước những vấn đề xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến sứa khỏe và an
toàn cuộc sống như: kỹ năng nhận diện một vấn đề, biết cách xác định tình
huống, biết cách từ chối, kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, biết
nấu ăn, tự chăm sóc sức khỏe...
Theo một nghiên cứu mới được ngành giáo dục công bố, có trên 95% các
em nhận thức chưa đúng về kỹ năng sống; 77,7% chưa bao giờ được đào tạo,
tập huấn về kỹ năng sống; 76,4% trả lời rất cần được tập huấn kiến thức về kỹ
năng sống. Hầu hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các
tình huống thường gặp trong cuộc sống.
Từ kết quả này cho thấy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ngày
càng trở nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các
mặt “đức, trí, thể, mỹ”, “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” hay “nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm”… Nhưng việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải phù hợp với lứa
tuổi, cấp học, văn hóa của từng vùng… sao cho học sinh cảm thấy gần gũi với
cuộc sống của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, chứ không chỉ trên sách

vở hay những lời nói suông.
Là một người giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm - người luôn được
các bậc phụ huynh, học sinh nhìn nhận như người cha, người mẹ thứ hai của
học sinh bởi sự gần gũi với các em nên tôi nhận thấy tầm quan trọng rất lớn của
việc nên giáo dục cho các em về kĩ năng sống thông qua những giờ sinh hoạt 15
phút, giờ sinh hoạt vv...
4. Biện pháp, cách thức.
-Khó khăn
Về phía học sinh: các em được gia đình nuông chiều quá mức tạo thành các thói
quen xấu, khó thay đổi (cậu ấm, cô chiêu). Hơn thế do sức ép điểm số, do kỳ
vọng của gia đình các em thiên lệch về học kiến thức (biến các em thành Robot
chỉ ăn và học).
Về phía giáo viên:
+ Chương trình giảng dạy nặng do đó phải nghiêng nhiều về dạy kiến thức.
+ Một số còn chưa thực sự khởi động, chưa gương mẫu, chưa thực sự bắt kịp
những thay đổi của xã hội.
+ Chưa thật sự nắm vững về tâm lý lứa tuổi mặc dù chuyên môn rất vững.
Tóm lại rèn luyện KNS ở trường THCS là việc làm nhằm giúp HS có thói quen
xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi, trở thành người có ích cho
xã hội cho gia đình.
-Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống và rèn luyện cho học sinh:
Lớp tôi đang chủ nhiệm là học sinh lớp 7, nghĩa là các em làm quen với
môi trường học tập này rồi. Nhưng với ý thức muốn làm người lớn, muốn khẳng
định mình, tôi luôn động viên, dìu dắt quan tâm giúp đỡ các em, giáo dục các
Gv: Lê Văn Bình

Tr 9


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »


em những kỹ năng sống cần trang bị cho lứa tuổi thiếu niên. Vào đầu năm học,
tôi hướng dẫn cho các em việc học tập ở nhà như thế nào, trao đổi phụ huynh
nên theo dõi, động viên các em vì nội dung học ở trung học cơ sở ngày càng
khó. Cha mẹ nên quan tâm tới con trong việc học tập, tránh tối đa việc xỉ vả,
mắng nhiếc khi con không hoàn thành yêu cầu của thầy cô và của bố mẹ vì ở
tuổi này, các em rất dễ bị tự ái.
+ Gắn với các hoạt động học tập như: Những người yêu thích văn học, câu lạc
bộ thơ văn, những nhà Vật lí, Toán học trẻ, Sinh học và môi trường, thi tìm hiểu
theo chủ đề ,….
+ Gắn với các hoạt động giáo dục thể chất như: Bóng đá, bóng chuyền , cầu
lông, võ dân tộc, du lịch (leo núi, bơi lội .), trò chơi dân gian,…
+ Gắn với các hoạt động giáo dục thẩm mĩ như: hát múa, hát dân ca, vẽ, thơ,
kịch, đặc san, báo tường, báo tập …..
-Hình thức giáo dục kỹ năng mới trong nhà trường:
+ Vào những buổi sinh hoạt đầu tuần, sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm nhắc
nhở từng lời nói, hành vi ứng xử, tình đoàn kết, thân ái…
+ Thầy giáo nhiệt tình, giàu lòng nhân ái, chịu khó lắng nghe tâm tư, bức xúc
của học trò và có khả năng tư vấn, giải đáp, thật sự cảm thông, chia sẻ nhằm
giải tỏa tâm lý của chúng. Khi phát hiện có dấu hiệu bất thường hay có những
thông tin cần giải quyết, học sinh sẽ báo cáo với giáo viên chủ nhiệm để kịp thời
xử lý, tránh những hành vi sai lệch trong cuộc sống. Học sinh muốn được chia
sẽ có thể gởi thư đến GVCN qua hộp thư “cùng chia sẻ” tại địa chỉ mail mà
GVCN cung cấp, nhờ bạn khác gởi hoặc trao đổi trực tiếp với giáo viên chủ
nhiệm để được tư vấn. Bằng những cách ấy tôi đã nhận được 20 thư cần tư vấn,
giải đáp và rất nhiều lần học sinh trực tiếp gặp giáo viên tôi để tư vấn trong giờ
sinh hoạt, lúc ra chơi, cuối buổi học để trao đổi những việc liên quan đến tập thể
lớp hay chính bản thân các em, giúp các thành viên kịp thời nắm bắt những sự
việc sắp xảy ra trong nội bộ học sinh để có biện pháp ngăn chặn, khuyên nhủ,
động viên. Dần dần học sinh có ý thức chống tiêu cực trong trường, lớp, góp

phần xây dựng trường học an toàn, thân thiện. Trong năm học 2015-2016 không
còn tình trạng bạo lực trong nhà trường, mối quan hệ giữa học sinh các lớp ngày
càng cải thiện theo hướng tích cực, học sinh tự tin hơn khi có vấn đề cần báo
cáo.
-Để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục kỹ năng sống, nhà trường cần phải
làm những việc cụ thể như:
Tùy theo hoàn cảnh thực tế của từng địa phương, từng trường mà triển
khai như thế nào cho thật hiệu quả. Như học sinh ở thành phố dễ dính vào
những tệ nạn xã hội, trò chơi điện tử bạo lực hay tệ nạn ma túy, cờ bạc. Còn ở
nông thôn, tình trạng ngại ngùng, thiếu hiểu biết, ngại nói lên ý kiến của mình,
rụt rè không dám phát biểu, vô hình chung gây ra thiệt hại cho các em. Bởi vậy,
tùy theo từng trường hợp mà có những biện pháp giáo dục phù hợp. Nhà trường
cần phải rà soát lại thực trạng của trường mình. Trường còn yếu, hạn chế gì, làm
được gì trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Sau đó các trường nên
xây dựng chương trình năm năm. Ví dụ như năm đầu xây dựng cách xưng hô
chào hỏi, đối xử với nhau, thứ hai là xây dựng hệ thống câu lạc bộ văn hóa, văn
nghệ, thể thao... Bởi khi tham gia vào một câu lạc bộ nào đó thì bản thân người
đó sẽ được rèn luyện các kỹ năng diễn thuyết, trao đổi, tìm ra hướng đi đúng,
Gv: Lê Văn Bình

Tr 10


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

những cách ứng xử hay. Một học sinh thì dễ bị lừa nhưng khi hoạt động trong
một nhóm bạn thì ít khi bị lừa.
Các trường cũng cần phải xây dựng được quy ước ứng xử văn hóa. Thầy
cô giáo, cán bộ, phụ huynh phải gương mẫu. Muốn con tốt thì cha mẹ phải tốt,
muốn trò tốt thì giáo viên phải tốt. Bên cạnh đó, cần tạo được môi trường thân

thiện, gia đình thân thiện, cộng đồng thân thiện. Ngoài ra, việc đẩy mạnh phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” cũng là giải
pháp góp phần trang bị thêm nhiều kiến thức kỹ năng sống cho học sinh. Tóm
lại, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải từ những việc cụ thể...
-GD KNS đòi hỏi nghành giáo dục và cả xã hội phải quan tâm: Giáo
dục KNS trong trường học góp phần rèn luyện, hình thành cho các em sống có
trách nhiệm hơn và biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp, ứng phó các sức ép,
thách thức trong cuộc sống; thúc đẩy hành vi mang tính xã hội, giảm bớt tỷ lệ
phạm pháp. Giáo dục KNS còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy,
trò, sự hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục. Học sinh được giáo dục KNS xác định được bổn phận và
nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội. Giáo dục KNS không
chỉ giúp học sinh học từ giáo viên mà còn học từ các bạn cùng lớp thông qua
các trò chơi, học tập và làm việc theo nhóm. Thực tế chương trình giáo dục
KNS cho học sinh ở nước ta được thực hiện từ lâu qua việc đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông; tích hợp nội dung giáo dục KNS trong một vài môn
học và các chương trình, dự án giáo dục KNS.
-Vai trò của Giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục kỹ năng sống: Căn cứ
vào nội dung chương trình của Bộ GD&ĐT, đồng thời thấy được tính thiết yếu
của việc giáo dục này, tôi đã:
- Tăng cường giáo dục kỹ năng sống thông qua các hình thức dạy học của
mình, đồng thời lồng ghép vào các giờ sinh hoạt để giáo dục đạo đức và nhân
cách cho học sinh trong và ngoài nhà trường.
- Xây dựng quy chế hành vi giao tiếp giữa "Thầy với thầy, trò với trò,
thầy với trò" gần gũi thân thiện, rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, lên án mọi
hành vi bạo lực học đường và xã hội.
- Thường xuyên liên hệ với cha mẹ học sinh, kịp thời nắm bắt thông tin,
diễn biến tâm sinh lí của học sinh, thông qua các hoạt động hưởng ứng phong
trào " Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực" để rèn luyện cho học
sinh kỹ năng ứng xử, rèn luyện sức khỏe, ứng xử văn hóa, phòng chống bạo lực,

tệ nạn xã hội ….
- Nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác, tự chủ phát huy được tính tích cực
trong mọi hoạt động rèn luyện kỹ năng sống của thầy cô giáo và HS. Giáo dục
cho HS nhận thực được lợi ích của rèn luyện kỹ năng sống là có lợi về mọi mặt:
cho bản thân, gia đình, xã hội và đất nước. Đồng thời biết quan tâm chia sẻ để
cả tập thể cùng rèn luyện.
- Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự đổi mới phương pháp trong việc thực
hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tạo điều kiện để học sinh rèn luyện, tự rèn
luyện. Coi trọng tự rèn luyện, động viên khuyến khích học sinh kịp thời. Ví dụ
như giáo dục cho các em không qúa bi quan sau những vi phạm của mình mà
phài lấy đó là một bại học để rút kinh nghiệm. Hoặc trong một bài nghe chương
trình Tiếng Anh 6 có đề cập đến một kĩ năng sống là phải biết cách quản lí thời
Gv: Lê Văn Bình

Tr 11


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

gian, tôi nắm ngay cơ hội đó và chú trọng ngay đến vấn đề dành nhiều thời gian
của cá nhân cho việc học, chứ không quá sa đà vào các trò chơi điện tử vô bổ....
- Cách rèn luyện kỹ năng cho HS được phát triển từ dễ đến khó. Như mục
cùng góp ý trong giờ sinh hoạt, tôi yêu cầu “Em hãy nói vài ý kiến của mình về
những vi phạm của các bạn trong tuần vừa qua ”. Ban đầu, các em còn nói năng
lí nhí, mắt không dám nhìn thẳng, gương mặt căng thẳng, sợ hãi vì lần đầu tiên
phải nói trước đám đông. Nhưng sau vài lần, các em không còn những cái nhìn
ái ngại, dạn dĩ hơn, cảm thấy tự tin và câu nói chắc gọn, cộng thêm một môi
trường giáo dục thân thiện hoà đồng, cho phép các em tiến đến gần và hoà nhập
với nhau.Sau đó là những điều khác như đóng góp ý kiến cho tập thể, ý tưởng
độc đáo cho các hoạt động của lớp phong phú hơn, hiệu quả hơn và đặc biệt kỹ

năng làm việc đồng đội, các em được trang bị lý thuyết cụ thể, rồi thực hành để
hiểu. Với kỹ năng làm việc đồng đội, các em được tập làm việc để biết cách hợp
tác và chấp nhận lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. . Mục đích quan trọng nhất là
giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong cuộc sống, đây là điều rất cần thiết
trong cuộc sống của các em sau này.
- Ngoài ra, tôi có đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống của HS cho các bậc
phụ huynh vào những lần họp phụ huynh; cung cấp cho các bậc phụ huynh
những kiến thức và phương pháp chăm sóc, giáo dục con em phù hợp với đặc
điểm từng độ tuổi, đặc biệt phát hiện sớm những biểu hiện rối loạn tâm thần ở
HS, các bệnh tật học đường; cung cấp địa chỉ những dịch vụ hỗ trợ tại cộng
đồng để giúp gia đình và xã hội tham gia chăm sóc giáo dục con em tốt hơn.
- Trong thời gian gần đây hay nhắc đến vấn đề thiếu kỹ năng sống trong
HS, trong lứa tuổi thanh thiếu niên. Vì vậy tôi trang bị cho các em một nhận
thức mới rằng: Sống trong xã hội, thì ai cũng có thể có những sai lầm và bất cứ
lúc nào, ở đâu đó cũng sẽ có những hành vi không chuẩn mực, vì thế các em
phải biết bảo vệ mình, biết cảnh giác, có óc hoài nghi một cách khoa học, không
phải hoài nghi bi quan, xa lánh và phản biện. Nhưng không chỉ các em mà cả
nhiều bậc phụ huynh, thậm chí ngay cả các thầy cô giáo cũng đang thiếu kỹ
năng này. Muốn như thế, chính các bậc phụ huynh, thầy cô cũng phải tự trang bị
cho mình kỹ năng sống, không được suy nghĩ một cách chủ quan và hời hợt.
Phải khẳng định rằng nhà trường không có trách nhiệm phải bồi dưỡng, trang bị
những kỹ năng sống cho các giáo viên để dạy họ phải biết ứng xử với học sinh.
Nhưng bản thân các thầy cô, các ban ngành đoàn thể và các bậc phụ huynh phải
có trách nhiệm trang bị cho nhau những kiến thức này.
- Học và rèn luyện kỹ năng sống là ưu tiên hàng đầu của HS trong độ tuổi
từ đầu cấp I đến hết cấp III mà Bộ GD&ĐT đã quan tâm. Bên cạnh những kiến
thức văn hoá được trang bị, hầu hết các bậc phụ huynh đều muốn con cái ngày
càng tự lập và được đào tạo từ bé. Những kỹ năng sống rất quan trọng nhưng
các em không được học trong nhà trường, vì coi học văn hoá là quan trọng.
Nhưng nếu các em không biết chủ động, độc lập thì điều đó còn nguy hiểm hơn

là thiếu văn hoá. Ra đường chúng không biết phải làm thế nào cho an toàn, làm
sao để tránh người lạ lợi dụng, làm sao đối phó với những tình huống đơn giản,
… Đây là những kiến thức bổ trợ văn hoá, và quan trọng nhất các em có thể ứng
dụng trong cuộc sống hàng ngày để sống an toàn hơn khi không có bố mẹ bên
cạnh.

Gv: Lê Văn Bình

Tr 12


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

- Thực ra, Ở các nước phát triển, trẻ em sống rất độc lập, vì thế chúng
tránh được nhiều rủi ro đáng tiếc. Nhưng ở Việt Nam, vấn đề này chưa được
quan tâm đúng mức. Theo chỉ thị số 40/2008/Bộ GD&ĐT đưa vào nôi dung rèn
kỹ năng sống cho HS, vì nhận thấy có nhiều trẻ em bị xâm hại, bị lạm dụng chỉ
vì thiếu kỹ năng sống. Đã đến lúc dạy cho HS kỹ năng sống để các em không bị
sốc trong mọi hoàn cảnh. Cái trước tiên cần làm là chuẩn bị cho các em tâm lí
chủ động để tiếp nhận cuộc sống, như chuyển lớp, chuyển thầy cô giáo chủ
nhiệm, chuyển cấp, chuyển trường hoặc khi tham gia các họat động ngòai giờ
lên lớp, sinh hoạt tập thể...
- Tuy nhiên, hiệu quả đào tạo kỹ năng sống không đo đếm được bằng
những con số chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể. Khi
về nhà, các em có ý thức, thái độ khác với mọi người trong gia đình không? Với
bạn bè, có hoà đồng hơn không? Khi nói năng, có tự tin hơn không? Có biết
tránh những người lạ hay không? vv... Đó chính là hiệu quả đào tạo kỹ năng
sống. Trong khi đó, để tạo thành kỹ năng, phản xạ tốt thì cần phải được rèn
luyện thường xuyên, liên tục đến mức thuần thục. Do đó, vai trò gia đinh là
không thể thiếu và giữ vị trí rất quan trọng. Việc rèn luyện kỹ năng sống cho HS

tiến bộ và đạt hiệu quả đến đâu, phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ thầy cô giáo,
cách giáo dục mỗi trường, văn hoá sống của mỗi gia đình.
MINH HỌA CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ ĐỂ GIÁO DỤC KỸ NĂNG
SỐNG CHO HỌC SINH .
1. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt 15 phút và buổi sinh hoạt cuối tuần : Trong các biện pháp để giáo dục KNS cho HS trong công tác chủ nhiệm tôi coi trọng biện
pháp này nhất. Bởi thời gian để GVCN tiếp xúc nhiều nhất với HS là thông qua các buổi sinh hoạt 15 phút và sinh hoạt cuối tuần.

a. Lồng ghép chương trình giáo dục kỹ năng sống trong những buổi sinh hoạt 15 phút
đầu giờ. Đây là giải pháp quan trọng. Trong suốt năm học, GVCN là người thường xuyên bám lớp trong những giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Vì vậy việc lồng ghép giáo
dục KNS cho học sinh là việc làm bổ ích, tránh được những buổi sinh hoạt nhàm chán, lặp đi , lặp lại, mà lại gây được hứng thú cho HS trong những buổi sinh hoạt 15
phút, đồng thời, giáo dục được KNS cho HS. Trong buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ thời gian ít. Vì thế, GVCN có thể áp dụng các phương pháp giáo dục KNS như; thảo
luận nhóm, động não, nghiên cứu tình huống, hoặc tổ chức những trò chơi (có thời gian ngắn.)

b. Phương pháp hoạt động nhóm: Tổ chức tốt phương pháp này, GVCN sẽ tạo cơ hội cho HS tự tin, thoải mái chia sẻ sự hiểu
biết của mình với người khác. Đồng thời, tiếp nhận sự phê phán, góp ý của bạn, giúp cho sự hiểu biết của HS trở nên sâu sắc hơn, toàn diện hơn giúp cho buổi sinh
hoạt trở nên sôi nổi, hứng thú. Tuy nhiên phương pháp này sẽ gây ra sự ồn ào, mất trật tự cho các lớp bên cạnh, đặc biệt dễ gây sự nhàm chán cho một số HS. Do đó
yêu cầu, GVCN phải làm tốt những việc sau:
- Phải tạo ra một không khí thảo luận cởi mở, tôn trọng lẫn nhau giữa HS với

nhau.
- Vấn đề được đưa ra để HS thảo luận phải phù hợp với lứa tuổi, phải khơi gợi
được khả năng tư duy phê phán, khả năng sáng tạo của HS.
Ví dụ1: *Khi giáo dục kỹ năng “tự nhận thức giá trị bản thân”. GVCN cho HS
tiến hành các hoạt động nhóm trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ
Hoạt động : Chia sẻ về tự nhận thức bản thân GV phát các tờ rơi in sẵn mệnh đề
- Sở thích của em là gì ?(đọc báo, xem TV, xem bóng đá )
- Cuốn truyện/ sách, chương trình TV mà em thích nhất ?
- Điểm mạnh và năng khiếu của em là gì ?
- Ai là người bạn thân nhất của mình ? Người đó như thế nào ?Có đặc điểm gì
nổi bật ?

- Mình muốn làm nghề gì trong tương lai ? GV chia lớp thành những nhóm nhỏ gồm có 3 người mỗi em tự suy nghĩ và điền vào tờ rơi trong vòng 5 phút, sau đó chia sẻ
với những bạn trong nhóm mình. Tiếp theo GVCN cho đại diện các nhóm trình bày những quan điểm chung của các thành viên trong nhóm mình, chia sẻ với các nhóm
khác ?

Ví dụ 2: *Khi giáo dục kỹ năng kiên định, trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ GVCN cho HS tiến hành hoạt động: Tranh luận đôi bên. GVCN chia lớp thành
hai nhóm: Yêu cầu các em đưa ra các tình huống lôi kéo của bạn bè hay gặp nhất (trốn học, chơi điện tử ). Phân một nhóm chuẩn bi lý lẽ ủng hộ ý kiến (nên chơi điện
tử), một nhóm chóng lại ý kiến (không nên chơi điện tử). Để hai nhóm chuẩn bị lý lẽ trong vòng 7 phút. Sau đó cho hai nhóm tranh luận, chất vấn. Sau khi HS tranh luận
xong GVCN hướng dẫn HS đi đến thống nhất ý kiến Là “nên” hoặc “không nên”. Nếu không nên chơi điện tử thì phải làm gì ? GVCN cung cấp cho HS các bước để hình
thành kỹ năng kiên định. Tầm quan trọng của kỹ năng kiên định đối với HS.

2. Phương pháp nghiên cứu tình huống: Áp dụng phương pháp này GVCN sẽ
huy động khả năng động não, khả năng tư duy, khả năng giải quyết vấn đề và ra
quyết định của HS, lôi kéo các em vào những tình huống có thực và bắt buộc các em phải giải quyết. Tuy nhiên để
thành công khi áp dụng phương pháp này GVCN phải đưa ra những tình huống sát thực với cuộc sống của các em, đang đựơc các em quan tâm và suy nghĩ, các em
phải quyết định. Tất nhiên đó phải là tình huống giáo dục, để đem lại kết quả giáo dục.

Gv: Lê Văn Bình

Tr 13


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »
Ví dụ: *Khi giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, kỹ năng học tập và định hướng nghề nghiệp. GVCN ra tình huống cho HS. Giả sử em rất muốn thi vào
lớp bồi dưỡng môn Ngữ văn mà em thích, nhưng bố mẹ muốn em học lớp bồi dưỡng môn Toán. Em sẽ làm gì ? Tại sao em quyết định như vậy. GVCN chia lớp thành
bốn nhóm, cho các em trao đổi, tranh luận với nhau trong vòng 5 phút. Sau đó, cử đại diện các tổ đưa ra ý kiến tranh luận của mình trong vòng 10 phút. Vào các buổi
sinh hoạt tếp theo, GVCN tổng kết và đưa ra nhận xét, hướng dẫn HS trong cách chọn môn học phải căn cứ vào các yếu tố: Năng lực, sở trường của mình, nhu cầu và
sự phát triển của xã hội.

3.Phương pháp trò chơi: Phương pháp này mang lại cho HS khả năng giao tiếp , khả năng quyết định lưạ chọn, kỹ năng nhận xét đánh
giá .Tạo không khí vui vẻ, sôi động trong buổi sinh hoạt. Tuy nhiên, phương pháp này dễ gây sự lộn xộn trong lớp, gây ồn ào cho các lớp bên cạnh. Do vậy, GVCN phải

chuẩn bị được những trò chơi có nội dung phù hợp với thời gian ngắn, hấp dẫn, ít gây sự xáo trộn trong tổ chức lớp. Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng lựa chọn và quyết định,
GVCN tổ chức cho HS chơi trò chơi “Tập làm thơ lục bát” trong vòng 15 phút. Chia lớp thành bốn tổ, GVCN ra nhan đề cho bài thơ “ Trường em”. GVCN mở đầu bằng
câu thơ “Trường em rợp mát bóng cây”. Sau đó,các em viết tiếp các câu thơ sau theo logic của câu trước thành một bài thơ.

4. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt cuối tuần : Phần lớn các tiết sinh hoạt chủ nhiệm hiện nay chủ yếu được thực hiện
dưới hình thức là tổng kết, đánh giá và đề ra phương hướng tuần tới. Hình thức sinh hoạt này dễ gây cho học sinh sự nhàm chán, đặc biệt là gây áp lực về các lỗi mà
các em mắc phải trong tuần qua. Vì lẽ đó mà một số em cảm thấy không thích tiết sinh hoạt chủ nhiệm, thậm chí là sợ hãi. Người thầy chủ nhiệm trong quá trình đánh
giá ưu khuyết điểm của học sinh trong tuần vừa qua thường chủ quan xem việc vi phạm nội quy và những biểu hiện chưa tốt của học sinh là do các em không cố gắng,
đôi khi xem đó là biểu hiện đạo đức không tốt. Biện pháp thường được áp dụng là xử lí kỉ luật, làm tờ tự kiểm và đôi lúc là hạ hạnh kiểm. Điều này dễ dẫn đến việc học
sinh không tin vào thầy cô, bạn bè và có khi là không tin vào bản thân mình. Các em cần sự hướng dẫn và giáo dục của giáo viên chủ nhiệm. Trong tiết sinh hoạt lớp,
GVCN sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết thông qua các hoạt động sinh hoạt chuyên đề sinh động và vui nhộn. Sự sinh động và hứng thú của việc được tham gia
vào các hoạt động có liên quan sẽ giúp học sinh nâng cao ý thức một cách tự nhiên và dễ dàng. Cũng nhờ vào các hoạt động này cùng với sự tin tưởng và sẻ chia của
thầy cô mà các em sẽ có được niềm tin, định hướng và nghị lực để phát triển nhân cách.

GVCN xử lý hành vi vi phạm của HS phải gắn việc giáo dục kỹ năng
sống , xử lý khoa học, nhẹ nhàng nhưng phải nghiêm khắc, gắn với kỷ luật. Ví
dụ: Trong buổi lao động của lớp , mặc dù tôi đã phân công cụ thể cho từng tổ
nhưng trong quá trình thực hiện, một số HS vẫn còn đùn đẩy nhau, dẫn đến
công việc hoàn thành không đúng kế hoạch. Mặc dù rất bực bội nhưng tôi
không nói gì. Vào buổi sinh hoạt cuối tuần tôi đã gọi lớp trưởng trình bày lý do,
lớp trưởng cho biết: Một số bạn đến muộn hơn nên các bạn đến sớm chừa lại
phần việc cho các bạn ấy làm. Tôi dùng phương pháp giáo dục KNS “ nghiên
cứu tình huống”, bình tĩnh kể cho HS nghe mẫu chuyện “ sức mạnh” và nhấn
mạnh lời người cha căn dặn con “ trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta
cũng có thể tự mình làm tất cả mọi việc. Sức mạnh của chúng ta còn nằm ở
những người thân, bạn bè - những người luôn quân tâm nhau.
II. Mô tả giải pháp của đề tài.
1. Thuyết minh tính mới:
Trong nhà trường THCS cần nhận thức đầy đủ về việc rèn kỹ năng sống
cho học sinh nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện chương trình giáo

dục của Bộ giáo dục thông qua việc dạy tích hợp giáo dục công dân trong các
bộ môn, các tiết học, nhằm hình thành cho các em học sinh những hành vi đạo
đức trong sáng, lễ phép , biết phân biệt đúng sai, biết cư xử trong sinh hoạt
trong và ngoài nhà trường, có tư duy linh hoạt, phong thái tự tin khi hòa nhập
cộng đồng... Biết yêu thương và có trách nhiệm hơn đối với người xung quanh
và với chính bản thân. Muốn làm tốt được việc rèn kỹ năng sống cho học sinh
đòi hỏi các thầy cô giáo cần phản nghiên cứu và đưa ra được các nhóm giải
pháp thích hợp với từng vùng, từng trường phù hợp với đặc tính sinh hoạt của
nhân dân, học sinh ở nơi đó.
Trong đề tài này tôi đề cập với năm nhóm giải pháp:
-Nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng sống của học sinh THCS
nói chung và học sinh THCS trường Lương Thế Vinh - thành phố Quy Nhơn nói
riêng.
-Điều tra thực tế kỹ năng sống của học sinh THCS trường Lương Thế Vinh.
-Quan sát, tư vấn gúp đỡ hình thành, củng cố kỹ năng sống cho học sinh.
-Tổ chức cho học sinh trải nghiệm các kỹ năng sống.
-Tổ chức cho học sinh thực hành kỹ năng sống.Từ đó tập trung rèn kỹ năng
sống cho học sinh theo ba nhóm kỹ năng:
+Nhóm kĩ năng nhận thức
+Nhóm kĩ năng xã hội
+Nhóm kĩ năng quản lí bản thân
Gv: Lê Văn Bình

Tr 14


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

Theo phương pháp từng “bước nhỏ” không vội vàng nhưng cần chú ý đến
tâm lý lứa tuổi học sinh để đạt được hiệu quả cao nhất. Đồng thời khi giúp đỡ

học sinh trong việc thực hành rèn kỹ năng sống chúng ta cần lắng nghe ý kiến
của học sinh. Việc rèn kỹ năng sống cho học sinh phải thường xuyên diễn ra
trong các tiết học chính khóa, ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, có thể nói ở bất cứ
đâu khi có điều kiện, khi có tình huống chúng ta cũng cần phải quan tâm.
2. Khả năng áp dụng.
- Qua một năm thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua
các tiết sinh hoạt đầu giờ và sinh hoạt cuối tuần tôi đã bước đầu giúp học sinh
rèn các kỹ năng cơ bản. Các em thường hoạt động nhóm, đã giúp các em tiến bộ
về kỹ năng hợp tác, giao tiếp ứng xử, lắng nghe, đánh giá….có trách nhiệm, có
kỹ năng quản lý về thời gian trong học tập tốt hơn.
Bằng phương pháp khác: giúp các em làm việc với SGK, thực hành, sưu
tầm thu thập kiến thức, rèn kỹ năng tự học, tìm kiếm xử lý thông tin tốt hơn.
Biết vận dụng kiến thức đã học để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe,
giải thích các hiện tượng thực tiễn, biết giúp đỡ, đoàn kết, duy trì cuộc sống an
toàn…
Bên cạnh đó khi thực hiện chuyên đề chúng tôi nhận thấy còn có tồn tại
phải khắc phục đó là khả năng đánh giá, kiểm tra mức độ rèn luyện của học sinh
là rất khó khăn. Hơn nữa, do thời gian thực hiện còn hạn chế nên mới chỉ góp
phần rèn luyện được một số kỹ năng cơ bản trong 10 nhóm kỹ năng.
-Vấn đề “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở qua các tiết
sinh hoạt chủ nhiệm”mà bản thân tôi - giáo viên chủ nhiệm đã đúc kết
được.Theo tôi, kinh nghiệm này có khả năng áp dụng cho GVCN của trường
THCS Lương Thế Vinh. Nếu hiệu quả của kinh nghiệm có tính bền vững và
được sự cho phép của BGH, Phòng Giáo dục và đào tạo Quy Nhơn có thể chia
sẻ sang các trường trong thành phố.
3. Lợi ích kinh tế-xã hội.
Nếu thực hiện tốt kinh nghiệm “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
trung học cơ sở qua các tiết sinh hoạt chủ nhiệm” thì chất lượng giáo dục của
nhà trường tăng lên ở nhiều mặt.Nó còn tác động tích cực đến xã hội; cải thiện
môi trường học tập của học sinh.


C. KẾT LUẬN:
Kỹ năng sống vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội, nó cần thiết
đối với thanh thiếu niên để họ có thể ứng phó một cách tự tin, tự chủ và hoàn
thiện hành vi của bản thân trong giao tiếp, giải quyết các vấn đề của cuộc sống
với mọi người xung quanh mang lại cho mỗi cá nhân cuộc sống thoải mái, lành
mạnh về thể chất, tinh thần và các mối quan hệ xã hội khi môi trường thân
thiện, dễ hoà đồng và cảm hoá lành mạnh.
Hơn nữa, vấn đề giáo dục kỹ năng sống còn cần đến vốn sống, tình
thương và nhân cách của người thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là
ở tấm gương sống của người thầy. Vì vậy, để học sinh không thất vọng vì thầy

Gv: Lê Văn Bình

Tr 15


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

thì trước hết “mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”
mà ngành Giáo dục đang vận động.
Song, bên cạnh nhà trường, gia đình và xã hội là hai môi trường thiết yếu
quan trọng đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Gia đình là cái nôi
hình thành nhân cách, ứng xử cho học sinh. Một gia đình hạnh phúc, biết trân
trọng các giá trị tinh thần sẽ giáo dục nên những đứa con ngoan, những học trò
lễ phép. Ngược lại, gia đình thiếu hạnh phúc, coi nhẹ các giá trị tinh thần, coi
trọng giá trị đồng tiền và vật chất, thậm chí thường xuyên xảy ra tình trạng bạo
lực sẽ tác động tiêu cực đến tính cách, cách ứng xử của các em học sinh. Ngoài
gia đình, xã hội phải thực sự vào cuộc để cùng phối hợp. Trước hết, xã hội giáo
dục cho các em bằng những ứng xử giữa con người với con người, bằng sự tuân

thủ (của tất cả mọi người) đối với pháp luật, bằng việc coi trọng các giá trị
truyền thống.
Làm được như vậy, tôi nghĩ rằng Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
không những không làm quá tải trong chương trình giáo dục mà còn đem đến
cho người học sự hứng thú, sôi nổi và niềm vui trong học tập. Người học đã
hứng thú và tự giác thì chắc chắn việc giáo dục kỹ năng sống cho người học sẽ
thực chất và hữu ích, mục tiêu giáo dục toàn diện sẽ đạt được hiệu quả như
mong muốn. Vì vậy tôi xin đề xuất mấy vấn đề sau:
- Rèn kỹ năng sống cho Học Sinh là trách nhiệm chung của Giáo Dục, Nhà
trường và toàn xã hội do đó:
+ Với Phụ Huynh Học Sinh: Là cái nôi để hình thành nhân cách cho trẻ; cha mẹ
cần quan tâm nhiều hơn tới con mình, làm bạn cùng con để hiểu con và rèn con.
+ Với Giáo Viên: Luôn tự rèn luyện, tự bồi dưỡng và cần được tập huấn qua
giáo trình bài bản hơn.
+ Với Học Sinh: Phải ý thức được cách tự rèn luyện bản thân, ép mình vào kỷ
luật để hòa nhập vào nội quy trường lớp, nội quy xã hội…
+ Với xã hội và nhà trường: luôn phấn đấu tạo nên môi trường an bình, tạo sân
chơi bổ ích thường xuyên cho Học Sinh.
Tóm lai, Rèn kỹ năng sống cho Học Sinh THCS là 1 yêu cầu quan trọng
và thiết yếu trong công tác giáo dục hơn nữa giáo viên THPT được xem là
người quan trọng trong công tác này (là người tạo được không khí thân thiện
với học sinh, với gia đình và mọi người).Rèn kỹ năng sống là một quá trình đưa
nhận thức thành hành động (hành vi) do đó phải là việc làm thường xuyên, lồng
ghép qua đổi mới phương pháp và qua nhiều môn học,qua nhiều hoạt động khác
nhau trong trường .
Quy Nhơn, ngày 15 tháng 1 năm 2016
Người viết

Lê Văn Bình


Gv: Lê Văn Bình

Tr 16


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

PHẦN PHỤ LỤC
Tài liệu tham khảo:
-Kỹ năng quản lý lớp học có hiệu quả-NXB Đại học QG Hà Nội
-Phương pháp dạy học và đánh giá kết quả giáo dục học sinh khó khăn về học
cấp THCS-NXB Giáo dục Việt Nam.
-Đổi mới phương pháp công tác đánh giá về kết quả học tập của học sinh cấp
học THCS-NXB Giáo dục Việt Nam.
-Phương pháp dạy tích hợp bộ môn đạo đức trong trường trung học-NXB Đại
Học QG Hà Nội
Gv: Lê Văn Bình

Tr 17


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

-Giáo dục gia trị sống và kỹ năng sống cho học sinh THCS-NXB Đại học QG
Hà Nội
-Tài liệu giáo dục giới tính : Cẩm nang nữ sinh THCS-NXB Giáo dục Việt Nam
-Hướng dẫn và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh THCS- NXB Giáo dục Việt
Nam
-Tâm lý lứa tuổi học sinh- NXB Đại học QG Hà Nội


PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP
********************
1. Hội đồng khoa học trường THCS Lương Thế Vinh:
 Thống nhất xếp loại : ...................................................
Chủ tịch HĐKH

Gv: Lê Văn Bình

Tr 18


« GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT CHỦ NHIỆM »

2. Hội đồng khoa học ngành giáo dục Quy Nhơn:
 Thống nhất xếp loại:............................................
Chủ tịch HĐKH

Gv: Lê Văn Bình

Tr 19



×