Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn giáodục đạo đức cho học sinh lớp 2 quan phân môn kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.84 KB, 23 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 qua phân môn Kể
chuyện.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trong năm học 2014- 2015, tôi chủ nhiệm,
giảng dạy lớp 2E và tiến hành nghiên cứu mức độ nhận thức của học sinh lớp 2E,
2D của nhà trường.
3. Tác giả:
Họ và tên: Phương Thị Hồng
Ngày tháng/năm sinh: 05/10/1979
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm - Chuyên ngành Giáo dục Tiểu học
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Phả Lại 2 - Phả LạiChí Linh - Hải Dương
Điện thoại: 0934370864
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Học sinh khối 2 của trường Tiểu học Phả Lại 2
5. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến: Áp dụng cho tất cả giáo viên dạy
trong trường Tiểu học.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Sáng kiến được áp dụng trong năm
học 2014- 2015
HỌ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Phương Thị Hồng

-1-


TĨM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong thời đại hiện nay khi khoa học công nghệ cùng với trình độ dân trí cao


là thước đo đánh giá cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người được coi là một
trong những quốc sách hàng đầu của mỗi nước Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức
được rất rõ vai trò của việc giáo dục và đào tạo con người trong giai đoạn mới nên
đã có những chính sách ưu tiên và phát triển nền giáo dục một cách hợp lí. Chính
vì vậy cùng với các ngành nghề khác, công tác giáo dục đào tạo học sinh một cách
tồn diện đóng vị trí rất quan trọng. Hiện nay vấn đề này là yêu cầu cần thiết mang
tính cấp bách đối với những người làm cơng tác giáo dục.
Tiểu học là bậc học nền tảng, là nền móng, là cơ sở quan trọng để từ đó con
người phát triển, mà nền tảng thì cần được xây dựng vững chắc. Vì vậy, người giáo
viên Tiểu học khơng chỉ trang bị cho mình vốn kiến thức, phương pháp cơ bản mà
cịn phải ln nghiên cứu, tìm tịi, sáng tạo để nâng cao chất lượng giảng dạy, đáp
ứng mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ cho ngành giáo dục.
Hiện nay sự thể hiện tập trung sâu sắc nhất các yêu cầu xây dựng và bồi
dưỡng nhân cách con người Việt Nam đó là: Đào tạo con người phát triển mọi mặt
“ Đức, trí, thể, mĩ ”.
Cùng với các mơn học khác, mơn kể chuyện trong chương trình Tiểu học
nói chung và của lớp 2 nói riêng là một mơn học góp phần hình thành nhân cách
rất lớn cho học sinh, nó mở mang sự hiểu biết cho các em. Các em được học hỏi
những điều hay, lẽ phải từ rất nhiều các câu chuyện, thuộc nhiều thể loại truyện
khác nhau, phản ánh đa dạng cuộc sống mn hình, mn vẻ trong đó có cả những
câu chuyện dân gian như: truyện cổ tích, truyện ngụ ngơn truyện cười, ... mà ơng
cha ta đã đúc kết kinh nghiệm trong cuộc sống truyền lại cho con cháu đời sau.
Ngoài ra những câu chuyện kể cịn chắp cánh cho trí tưởng tượng của các
em bay bổng, là bệ phóng cho những hồi bão ước mơ cao đẹp khi các em bước
vào cuộc sống. Giờ kể chuyện cịn góp phần rèn luyện và phát triển kỹ năng nói và
kể trước đám đơng một cách có nghệ thuật khêu gợi tư duy hình tượng cho trẻ.
Qua từng câu chuyện các em biết giá trị của từng chi tiết, thấm thía với từng hình
ảnh nghệ thuật, từng nhân vật. Qua đó việc thực hiện lồng ghép giáo dục đạo đức
cho học sinh sẽ dễ dàng hơn, thuận lợi hơn.Từ kinh nghiệm bản thân, kết hợp với
-2-



việc học hỏi đồng nghiệp, tôi mạnh dạn rút ra một số kinh nghiệm về “ Giáo dục
đạo đức cho học sinh lớp 2 qua phân môn Kể chuyện”
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
- Các phương pháp giảng dạy của giáo viên khi dạy môn Kể chuyện trong năm
học 2014- 2015.
- Tình hình học tập của học sinh và giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua
môn Kể chuyện
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh hai lớp: 2E, 2D
3. Nội dung sáng kiến
Để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 qua giờ
kể chuyện, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu thực trạng của các tiết dạy kể chuyện trên lớp,
tìm hiểu đặc điểm đặc điểm tâm lý của học sinh qua các tiết kể chuyện. Để từ đó
hướng cho học sinh thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức tốt, giúp cho học sinh
biết phê phán, loại trừ các hành vi xấu. Thông qua mỗi câu chuyện kể trên lớp, học
sinh có thể rút ra được ý nghĩa của câu chuyện, thông qua ý nghĩa, nội dung câu
chuyện mỗi giáo viên cần phải có trách nhiệm trong việc giáo dục đạo đức nhân
cách cho học sinh. Qua đó cũng góp phần nâng cao năng lực sư phạm cho mỗi giáo
viên.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân và thực tế dẫn đến việc học
sinh có những hành vi đạo đức khơng đúng. Tơi đã áp dụng một số kinh nghiệm,
biện pháp khắc phục về rèn cho học sinh có hành vi đạo đức đúng thông qua phân
môn kể chuyện của bản thân đối tượng là học sinh lớp 2E do tôi chủ nhiệm. Tôi
thấy chất lượng đạo đức của học sinh tiến bộ rõ rệt. Đặc biệt là học sinh có hành vi
đạo đức chưa đúng giảm hẳn, số học sinh có hành vi đạo đức đúng, ứng sử lịch sự
được tăng lên.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
Qua thực tế giảng dạy, sáng kiến này có khả năng áp dụng rộng rãi khơng

chỉ đối với khối lớp 2 của nhà trường tơi giảng dạy nói riêng mà cịn có thể áp
dụng ở tất cả khối lớp 2 trong các trường Tiểu học nói chung đều có thể đem lại
hiệu quả.

-3-


Phần 2
MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Sự nghiệp giáo dục có vị trí quan trọng trong chiến lược xây dựng con
người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để tiến kịp thời đại,
phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giáo dục Tiểu học
đã và đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn xã hội. Bậc tiểu học được coi là
nền móng của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng giáo dục phổ thông tùy
thuộc vào kết quả đào tạo ở bậc tiểu học. Mỗi môn học đều góp phần vào sự hình
thành, phát triển nhân cách con người lao động mới. Môn Tiếng Việt được lồng
ghép các phân mơn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn và Kể
chuyện. Kể chuyện ở Tiểu học ngồi mục đích giải trí, kích thích hứng thú học tập,
bồi dưỡng tâm hồn, trau dồi vốn sống còn nhằm phát triển năng lực trí tuệ cho học
sinh. Đồng thời mở rộng tích cực hố vốn từ ngữ , phát triển tư duy, nâng cao hiểu
biết về đời sống góp phần hình thành nhân cách con người mới.
Trong tiết kể chuyện, với mục đích rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh không chỉ
đọc thuộc, nhớ nội dung câu chuyện mà còn phải biết nhập vai để thể hiện được
giọng kể, nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, phù hợp với mỗi nhân vật trong từng đoạn
chuyện, trong từng câu chuyện kể. Qua từng câu chuyên các em được học hỏi
những điều hay, lẽ phải từ rất nhiều các câu chuyện, thuộc nhiều thể loại truyện
khác nhau, phản ánh đa dạng cuộc sống mn hình, mn vẻ trong đó có cả những
câu chuyện dân gian như: truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn truyện cười, ... mà ông

cha ta đã đúc kết kinh nghiệm trong cuộc sống truyền lại cho con cháu đời sau.
Qua đó giáo dục học sinh tu dưỡng và rèn luyện về đạo đức, kỹ năng sống, kỹ năng
hòa nhập với cộng đồng, kỹ năng ứng xử, … trong đó trau dồi rèn luyện đạo đức là
vấn đề hàng đầu, vì đạo đức là nền tảng của gia đình, nền tảng của xã hội và hình
mẫu cho các em học sinh học tập và rèn luyện, góp phần chuyển biến nhận thức
của học sinh, qua đó giúp các em có ý thức trong từng việc làm, từng hành động,
giúp các em sống có ý tưởng, có ước mơ, nhận thức được những cái hay, cái đẹp
trong cuộc sống.

-4-


1.2 Lí do chọn đề tài:
Trẻ em là tương lai của đất nước . Vì vậy trong nhiệm vụ giáo dục hiện
nay , việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng .
Muốn trở thành người có ích cho xã hội thì cần phải hội đủ hai điều kiện: đức và
tài như Bác Hồ đã từng nói :“ Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng
khó , cịn có tài mà khơng có đức thì là người vơ dụng ”.
Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng của q trình sư phạm, đặc biệt
là ở Tiểu học. Nó nhằm hình thành những cơ sở ban đầu về mặt đạo đức cho học
sinh, giúp các em có ứng xử đúng đắn qua các mối quan hệ đạo đức hàng ngày.
Nhân cách của học sinh Tiểu học thể hiện trước hết qua bộ mặt đạo đức. Điều này
thể hiện qua thái độ cư xử đối với ông bà, cha mẹ, mọi người xung quanh, với thầy
cô giáo và bè bạn trong lớp, qua thái độ học tập và rèn luyện hàng ngày. Đó là cơ
sở quan trọng của việc hình thành những nguyên tắc, chuẩn mực hành vi đạo đức
của học sinh Tiểu học.
Như chúng ta đã biết, tâm lí trẻ em đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi từ 1 đến 12
tuổi rất thích nghe kể chuyện. Chúng thường được nghe ông bà, cha mẹ, thầy cô kể
những câu chuyện có những nhân vật thật gần gũi với lứa tuổi của chúng. Những
câu chuyện đó khơi gợi ở các em lòng yêu cái đẹp trong thiên nhiên, xã hội của

con người. Nâng cao tâm hồn trong sáng, hướng các em tới những mơ ước cao xa
cùng với sự phát triển hài hịa, tồn diện của bản thân. Mơn kể chuyện cịn là phân
mơn kích thích sự vận động linh hoạt của trí tuệ, mở ra cho các em những chân trời
mới, cho trí tưởng tượng làm phong phú các các hình thức màu sắc lí tưởng sống
đang từng bước hình thành trong tâm trí trẻ em. Khi học tiết kể chuyện , các em sẽ
có cơ hội gần gũi, hòa đồng với các bạn, các em được sống cùng những nhân vật
trong truyện giúp các em tự tin mạnh dạn hơn. Đối với học sinh tiểu học kể chuyện
là môn học rất hấp dẫn và thường được các em học sinh chờ đón và tiếp thu bằng
một tâm trạng hào hứng, vui thích. Mơn kể chuyện góp phần tích cực trong việc
bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, trau dồi những tri thức về cuộc sống và bồi dưỡng
vốn văn học cho các em. Bên cạnh đó nó cịn giúp cho trẻ em phát triển khả năng
hoạt động ngôn ngữ và các năng lực tư duy cơ bản như trí tưởng tượng, phán đốn
khả năng ghi nhớ, năng khiếu thẩm mỹ, hình thành và phát triển ở trẻ em nhiều
phẩm chất tốt đẹp, rất cần thiết cho nhu cầu phát triển ở lứa tuổi này. Xuất phát từ
-5-


những vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài: “ Giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 thông
qua phân môn kể chuyện ở Tiểu học” để nghiên cứu
2. Cơ sở lí luận
Mơn kể chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục trẻ, sức mạnh này bắt
nguồn từ sức mạnh của công cụ mà môn kể chuyện sử dụng đó là các tác phẩm văn
học nghệ thuật mà giáo viên thường dùng để kể trên lớp. Các tác phẩm văn học có
tác dụng rất lớn đến tâm hồn và cảm xúc của các em, nó đem lại những cảm xúc
thẩm mỹ lành mạnh. Để giúp học sinh cảm nhận tốt phân mơn kể chuyện thì giáo
viên phải phân biệt rõ đọc truyện và kể chuyện.
Đọc truyện là quá trình chuyển dạng chữ viết sang lời nói có âm thanh. Đọc
không chỉ là công việc giải mã một bộ phận gồm hai phần: chữ viết và phát âm
nghĩa là nó khơng phải chỉ là sự đánh vần lên thành tiếng theo đúng như kí hiệu
chữ viết và cịn là q trình nhận thức để có khả năng thơng hiểu những gì đã đọc

được.
Kể chuyện là tạo cho học sinh nắm vững cốt truyện và tập kể lại truyện đã
đọc bằng lời kể của mình cho phép có sự sáng tạo, có thể dùng các phương tiện
ngồi ngơn ngữ như giọng điệu, ánh mắt, cử chỉ, ...
Như chúng ta đã biết những câu chuyện trong chương trình Tiểu học thường
gắn liền với cái đẹp, góp phần phát triển cảm xúc thẩm mĩ, nếu chúng sẽ khơng thể
có tâm hồn cao thượng, lòng mẫn cảm chân thành trước lỗi bất hạnh, khổ ải của
con người. Nhờ có những câu chuyện mà giúp trẻ nhận thức thế giới khơng chỉ
bằng trí tuệ mà cịn bằng cả trài tim. Trẻ em khơng phải chỉ có nhận thức mà chúng
cịn đáp ứng lại sự kiện và hiện tượng của thế giới xung quanh rất rõ rệt. Các em
thường tỏ thái độ của mình trước những việc thiện, việc ác, biết yêu cái thiện, ghét
cái ác. Những câu chuyện trong chương trình thường cung cấp cho trẻ những hiện
tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi nghĩa. Giai đoạn đầu tiên của giáo dục lí
tưởng được diễn ra là nhờ truyện cổ tích. Truyện cổ tích là ngọn nguồn phong phú
để giáo dục đạo đức cho trẻ. Các giờ kể chuyện thường giúp trẻ sớm tiếp xúc với
các tác phẩm văn học trong suốt quá trình học 5 lớp của bậc tiểu học. Học sinh
được nghe và tham gia kể hàng trăm câu chuyện và đủ thể loại gồm các tác phẩm
có giá trị của Việt nam và thế giới. Từ truyện cổ tích đến các tác phẩm văn học
hiện đại giúp cho học sinh có vốn văn học được tích luỹ dần. Đây chính là những
-6-


hành trang quý báu theo các em suốt cả cuộc đời. Giờ kể chuyện còn mở rộng tầm
hiểu biết của các em biết khêu gợi trí tưởng tượng cho các em trong từng câu
chuyện. Thế giới muôn màu sắc mở rộng trước mắt các em. Các em được gặp
trong đó những phong tục tập quán đến những cảnh sắc thiên nhiên. Từ cách trang
phục đến kiến trúc nhà ở và đặc biệt là cách cư sử của con người trong muôn vàn
trường hợp khác nhau. Những câu chuyện đã làm tăng thêm cho học sinh vốn hiểu
biết về thế giới và xã hội của loài người từ thuở sơ khai.
Tất cả trẻ em nói chung đều rất thích nghe kể chuyện và thích nghe kể

chuyện cũng là một đặc điểm tâm lý của trẻ em. Đó là điều mà ai ai cũng phải thừa
nhận. Từ lúc trẻ được một, hai tuổi đã say mê nghe kể chuyện. Lớn lên các em
được đi học, khi biết chữ các em có thể đọc được truyện nhưng điều đó vẫn khơng
làm giảm sự hứng thú thích nghe kể chuyện của các em.
Được đến trường là thời điểm đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc
sống và sự phát triển của trẻ. Đặc điểm tâm lý biểu hiện đặc trưng của học sinh
Tiểu học là tính hồn nhiên, là khả năng phát triển. Trong hoạt động học và những
hoạt động khác tâm lý của trẻ được hình thành và phát triển đạt một trình độ mới.
Nhờ có hoạt động học được tổ chức một cách khoa học mà ở trẻ hình thành những
cơ sở ban đầu của kiểu tư duy mới.
Học sinh Tiểu học có tình cảm hồn nhiên mang nặng màu sắc tình cảm.
Cùng với quá trình học tập, tâm lý các em ngày càng phát triển. Các em có niềm
tin rất hồn nhiên, các em tin vào thầy cô, tin vào khả năng của mình, tin vào sách
báo, những câu chuyện được nghe kể và những điều mà gia đình, nhà trường dạy
dỗ và giáo dục. Vì vậy ngay từ bậc Tiểu học người giáo viên cũng như gia đình
phải định hướng đúng từ đầu thì nhân cách đạo đức của trẻ sẽ được hình thành và
phát triển lành mạnh.
Qua quá trình giảng dạy ở trường Tiểu học, tôi nhận thấy mục đích của phân
mơn kể chuyện hiện nay là: Phát triển kĩ năng nói và nghe cho học sinh giúp học
sinh kể lại được câu chuyện đã học hay đã đọc ở những mức độ khác nhau: có thể
kể từng đoạn, hoặc kể cả câu chuyện, kể theo lời lẽ trong văn bản hoặc kể bằng lời
lẽ của mình. Biết tập dựng lại câu chuyện theo các vai khác nhau, bước đầu biết sử
dụng các yếu tố phụ trợ như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ. Để đạt được các yếu cầu trên
địi hỏi người giáo viên phải có lịng say mê, nhiệt tình với nghề nghiệp, biết kết
-7-


hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy học. Từ đó, bồi dưỡng những tình cảm tốt
đẹp, trau dồi hứng thú đọc và kể chuyện, đem lại niềm vui tuổi thơ trong hoạt động
học tập cho học sinh.

3. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
3.1. Thực trạng việc học của học sinh
Năm học 2014 – 2015 nhà trường phân công tôi dạy và chủ nhiệm lớp 2E
gồm 39 học sinh trong đó có 18 học sinh nữ và 21 học sinh nam. Làm thế nào để
thông qua giờ kể chuyện hướng các em trong lớp hiểu thế nào là hành vi đạo đức
đúng. Tôi phải nghiên cứu và giải quyết theo từng bước.
Bầu Hội đồng tự quản lớp là học sinh giỏi xuất sắc ở lớp 1 có lịng nhiệt tình
gương mẫu được bạn bè trong lớp quý mến, các em cùng thi đua nhau học tập, bạn
học tốt giúp đỡ bạn học yếu và sắp xếp các em ngồi xen kẽ để các em thi đua nhau
học tập. Vì thế các em đã thúc đẩy được phong trào học tập.
Đầu năm tôi đã cho các em thi khảo sát và phân loại học sinh. Tổng số học
sinh trong lớp là 39 em:
Giỏi: 14 em
Khá: 18 em
Trung bình: 7 em
Từ khảo sát đầu năm trên tôi đã nắm được chất lượng học sinh để bồi dưỡng
Trong thời gian dạy ở trường tơi đã có điều kiện để tìm hiểu thực tế các giờ
dạy của giáo viên qua phân môn kể chuyện. Vấn đề này phần lớn phụ thuộc vào
khả năng cảm thụ và sở thích ham đọc truyện của các em. Vì vậy, tơi đã tiến hành
tìm hiểu khả năng này của học sinh thông qua giờ kể chuyện để hướng dẫn cho các
em hiểu thế nào là hành vi đạo đức đúng.
3.2. Thực trạng việc dạy của giáo viên
Sau khi tìm hiểu khả năng giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua giờ kể
chuyện, tôi đã trực tiếp trao đổi với các đồng chí giáo viên trong trường.
* Nội dung trao đổi: tơi hỏi 2 đồng chí trong tổ chun mơn 2&3 một số câu hỏi
như sau:
- Đồng chí hiểu vị trí, vai trị của phân mơn kể chuyện trong việc giáo dục
đạo đức cho hoc sinh như thế nào?
- Đồng chí đã giành nhiều thời gian đầu tư cho phân môn kể chuyện chưa?
-8-



- Khi đồng chí kể chuyện, học sinh có tập trung nghe khơng?
- Khi nghe xong học sinh có kể lại được nội dung câu chuyện không?
* Kết quả: Cả hai đồng chí đều trả lời rằng: các đồng chí đều hiểu được vị
trí, vai trị của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong gìơ kể chuyện là rất cần
thiết. Hầu hết, sau các tiết kể chuyện các đồng chí đều hướng cho học sinh học tập
và noi theo các hành vi đạo đức, các chuẩn mực được rút ra từ câu chuyện. Song
thời gian đầu tư cho phân môn kể chuyện chưa nhiều, chủ yếu là kể chay vì khơng
có tranh ảnh trực quan minh hoạ. Trong giờ kể chuyện hầu hết học sinh đều rất chú
ý lắng nghe và một số em có thể kể lại được nội dung câu chuyện ngay tại lớp.
Về phía học sinh, cũng thời gian như trên nhưng với nội dung trao đổi như
sau:
- Em có thích nghe kể chuyện khơng?
- Các em có thường xuyên kể chuyện cho người khác nghe khơng? Em
thường kể những câu chuyện gì?
- Mọi người có thích nghe em kể chuyện khơng?
- Khi kể chuyện em có cần dùng đến sách khơng?
- Qua mỗi câu chuyện được nghe kể, được đọc em có học tập được điều gì
trong từng nhân vật khơng?
* Kết quả: Qua trò chuyện với một số học sinh ở các lớp tơi thấy hầu hết
các em đều nói rằng rất thích nghe kể chuyện nhưng rất ít khi kể chuyện cho người
khác nghe, khi kể chuyện các em thường không dùng đến sách, chỉ có một số ít các
em vẫn phải dùng đến sách để kể vì các em khơng nhớ chi tiết, nội dung câu
chuyện. Qua mỗi câu chuyện các em đều học tập được những tấm gương tốt, yêu
cái thiện, ghét cái ác, học và làm theo những hành vi đạo đức tốt.
3.3. Tìm hiểu nội dung chương trình
Chương trình sách giáo khoa: Nội dung kể chuyện ở lớp 2 là kể lại những
câu chuyện đã được học trong các bài tập đọc hai tiết đầu tuần học.
Hình thức kể chuyện đa dạng, phong phú kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo

của học sinh chứ khơng như chương trình cũ trước kia cơ kể trị nghe.
Giờ kể chuyện được diễn ra theo 3 hình thức sau:
* Kể theo tranh: Học sinh sử dụng tranh minh hoạ để nhớ lại nội dung bài
tập đọc đã học, làm chỗ dựa để các em kể chuyện. Đôi khi các tranh này được đảo
-9-


lộn thứ tự so với nội dung câu chuyện đã học. Trong trường hợp này trước hết học
sinh cần sắp xếp lại thứ tự các tranh cho đúng rồi mới kể. Đó chính là biện pháp
giúp học sinh nhớ lại nội dung câu chuyện trước khi kể.
* Kể theo dàn ý đã cho sẵn: Trong tiết kể chuyện sau bài tập đọc, sách giáo
khoa có thể cung cấp cho học sinh dàn ý dưới dạng những câu hỏi hay những tên
đoạn để làm chỗ dựa cho học sinh kể lại câu chuyện đã học. Đây là một hình thức
rèn luyện trí nhớ cho học sinh, có u câu cao hơn hình thức giúp đỡ học sinh bằng
tranh minh hoạ.
* Phân vai, dựng lại một đoạn hoặc cả câu chuyện: Sử dụng hình thức này
để rèn kỹ năng nói, kỹ năng kể cho học sinh đồng thời giúp cho các em hiểu sâu
hơn tính cách, tình cảm của nhân vật trong câu chuyện đã học.
Đối với học sinh lớp 2 yêu cầu kể chuyện cũng cần có sự sáng tạo đó là:
Học sinh phải biết kể một cách tự nhiên, giọng kể và điệu bộ phải thích hợp
làm cho câu chuyện trở lên sống động chứ không kể như đọc văn bản truyện.
Biết đưa vào câu chuyện những chừng mực vừa phải một số câu chữ của bản
thân làm cho câu chuyện thêm cụ thể, sinh động. Ví dụ khi kể chuyện: “ Có cơng
mài sắt có ngày nên kim” đoạn cậu bé gặp một bà cụ tay cầm thỏi sắt mải miết mài
vào tảng đá ven đường. Học sinh có thể sử dụng thêm những câu chữ tả bà cụ như:
vẻ mặt hiền từ, mái tóc bạc phơ.
Như vậy trong chương trình kể chuyện hiện nay học sinh khơng những
được nghe kể mà cịn được tự mình kể lại câu chuyện, biết nhận xét, đánh giá lời
kể của bạn. Từ đó học sinh có thể rút ra ý nghĩa giáo dục được ngụ ý trong câu
chuyện là gì. Chẳng hạn câu chuyện: “ Có cơng mài sắt có ngày nên kim” khun

con người ta làm việc gì cũng phải có lịng kiên trì và nhẫn lại.
Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 gồm 2 tập được sắp xếp như sau:
Tuần
1,2

Chủ điểm
Em là học sinh

3,4

Bạn bè

5 ,6

Trường học

Tên truyện
1. Có cơng mài sắt có ngày nên kim
2. Phần thưởng
1.Bạn của Nai Nhở
2. Bím tóc đi sam
1. Chiếc bút mực
2. Mẩu giấy vụn
- 10 -


7,8

Thầy cơ


1. Người thầy cũ
2. Người mẹ hiền
10, 11
Ơng bà
1. Sáng kiến của bé Hà
2. Bà cháu
12 , 13
Cha mẹ
1. Sự tích cây vú sữa
2. Bơng hoa niềm vui
14, 15
Anh em
1. Câu chuyện bó đũa
2. Hai anh em
16, 17
Bạn trong nhà
1. Con chó nhà hàng xóm
2. Tìm ngọc
19, 20
Bốn mùa
1. Chuyện bốn mùa
2. Ơng Mạnh thắng Thần Gió
21, 22
Chim chóc
1. Chim Sơn ca và bơng cúc trắng
2. Một trí khơn hơn trăm trí khơn
23, 24
Mng thú
1. Bác sĩ Sói
2. Quả tim Khỉ

25, 26
Sông biển
1. Sơn Tinh. Thuỷ Tinh
2. Tôm Càng và Cá con
28, 29
Cây cối
1. Kho báu
2. Những quả đào
30, 31
Bác Hồ
1. Ai ngoan sẽ được thưởng
2. Chiếc rễ đa trịn
32, 33, 34
Nhân dân
1. Chuyện quả bầu
2. Bóp nát quả cam
3. Làm đồ chơi
Chương trình kể chuyện lớp 2 gồm có 31 câu chuyện. mỗi câu chuyện gắn
liền với bài tập đọc học trong hai tiết và nó gắn liền với từng chủ điểm.
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 lồng ghép tất cả các phân môn của Tiếng
Việt trong đó có phân mơn kể chuyện. Mỗi tuần có một tiết kể chuyện. Học sinh
lần lượt được làm quen với các thể loại truyện khác nhau như: truyện cổ tích,
truyện ngụ ngơn, truyện nước ngồi, truyện về Bác Hồ, truyện về chim chóc,
mng thú, truyện về các con vật ni trong nhà, ...với nhiều các chuẩn mực đạo
đức đa dạng phong phú. Qua 31 câu chuyện được kể các em đã tiếp nhận được
- 11 -


những giá trị đạo đức cả trong nước và nước ngồi. Do vậy mà trong giờ kể chuyện
học sinh khơng chỉ nhận thức được thế giới bằng trí tuệ mà bằng cả trái tim, bằng

cả tâm hồn. Các em biết tỏ thái độ của mình với các điều thiện, điều ác, biết yêu
ghét mỗi nhân vật trong từng câu chuyện.
Nội dung chương trình sách giáo khoa có bố cục chặt chẽ, các câu chuyện
đều mang nội dung giáo dục cao sát với từng chủ điểm, hệ thống câu hỏi bám sát
nội dung câu chuyện. Hầu hết các câu chuyện đều nhằm mục đích giúp cho học
sinh tiếp xúc với các hành vi đạo đức của thế hệ trước và các nhân vật trong
truyện. Tóm lại, các câu chuyện kể trong chương trình với nhiều thể loại đã giáo
dục cho các em những tình cảm đối với ơng bà, cha mẹ, tình bạn bè, tình u q
hương, đất nước, lịng bao dung, bắc ái, lịng nhân hậu, chịu thương chịu khó, cần
cù lao động của con người và tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu của các cháu thiếu
nhi
3.4. Khảo sát thực tế
Qua tìm hiểu về các hoạt động và nội dung giờ kể chuyện tôi đã đi sâu sát
hơn qua việc dự giờ đồng nghiệp để kiểm chứng.
Thời gian: 2/ 2/ 2015
Dự giờ đồng chí: Vũ Thị Bùi
Kể chuyện: Bác sĩ Sói
A. Kiểm tra bài cũ:
- Một học sinh kể lại câu chuyện: “Một trí khơn hơn trăm trí khôn”
- 1 học sinh nhận xét
- Giáo viên nhận xét, cho điểm
B. Dạy bài mới:
a. Giới thiện bài: Giáo viên giới thiệu trực tiếp, ghi đầu bài lên bảng.
b.Hướng dẫn kể chuyện
* Dưa vào tranh kể lại từng đoạn câu chuyện
* 1 học sinh đọc yêu cầu: cả lớp quan sát tranh minh học trong sách giáo khoa.
- Giáo viên tóm tắt nội dung các bức tranh .
Hỏi: Tranh 1 vẽ cảnh gì?
(Tranh 1 vẽ 1 con ngựa đang gặm cỏ, Sói đang rỏ rãi vì thèm thịt ngựa.)
Hỏi: ở tranh 2 Sói thay đổi hình dạng như thế nào?

- 12 -


(Sói mặc áo khốc trắng, đội mũ thêu chữ thập đỏ, đeo ống nghe đeo kính giả làm
bác sĩ.)
Hỏi: Tranh 3 vẽ cảnh gì?
(Sói ngon ngọt dụ dỗ. mon men tiến lại gần Ngựa, Ngựa nhón nhón chân chuẩn bị
đá.)
Hỏi: Tranh 4 vẽ cảnh gì?
(Ngựa tung vó đá một cú trời giáng Sói ngã ngửa, bốn cẳng huơ giữa trời, mũ văng
ra.)
- Học sinh nhìn tranh tập kể lại 4 đoạn của câu chuyện theo nhóm.
- Đại diện các nhóm lên kể trước lớp
- 4 học sinh tiếp nối nhau kể 4 đoạn của câu chuyện.
- Lớp nhận xét bình chọn những cá nhân và nhân kể hay nhất.
* Phân vai dựng lại câu chuyện
Giáo viên lưu ý cho học sinh cách thể hiện điệu bộ, giọng nói của từng vai.
+ Người dẫn chuyện: vui, pha chút hài hước.
+ Ngựa: điềm tĩnh, giả bộ lễ phép, cầu khẩn.
+ Sói: gian giảo giả bộ nhân từ, khi đến gần ngựa vẻ mặt mừng rỡ.
- Các nhóm tự phân vai dựng thành vở kịch.
- Đại diện các nhóm lên thi diễn xuất.
- Học sinh và giáo viên nhận xét cá nhân hay nhóm diễn xuất tốt.
c. Củng cố:
? Qua câu chuyện con thấy Ngựa là con vật như thế nào? (Thông minh, nhanh trí
giúp mình thốt chết và cịn cho Sói một cú đá thật đau.)
? Sói là con vật như thế nào? (Sói là con vật gian giảo, độc ác nhưng ngu dốt sẽ
bị trừng trị đích đáng.)
*Nhận xét giờ dạy:
- Giáo viên đã thể hiện đúng nội dung, phương pháp của tiết dạy. Hầu như học

sinh đều nắm được nội dung câu chuyện. Biết kể lại từng đoạn của câu chuyện rất
tốt. Song phần đóng vai của các em chưa được tự nhiên.
- Học sinh biết nhận xét được tính cách của từng nhân vật và nhận ra những kẻ
gian giảo, độc ác sẽ bị trừng trị, còn những ai thông minh, nhanh nhẹn sẽ gặp được
nhiều may mắn trong cuộc sống.
- 13 -


- Qua dự giờ của đồng nghiệp tơi thấy có ưu nhược điểm sau:
*Ưu điểm: Tiết dạy kể chuyện đã đi đúng các bước lên lớp. Học sinh rất hứng
thú học tiết kể chuyện, các em thích được nghe và kể lại câu chuyện đã học. Đa số
các em có giọng kể rất tốt, biết thay đổi giọng điệu cho phù hợp với từng tính cách
nhân vật.
* Nhược điểm: Đầu tư thời gian cho việc chuẩn bị một tiết dạy kể chuyện chưa
nhiều.
- Đa số kể chuyện thường sử dụng tranh trong sách giáo khoa.
- Học sinh chưa có kỹ năng sử dụng giọng điệu, thay đổi lời kể, sử dụng các
yếu tố phi ngôn ngữ để diễn tả nội dung câu chuyện.
- Việc giáo dục đạo đức cho học sinh thơng qua câu chuyện cịn rất mờ nhạt,
hời hợt, giáo viên chỉ đi sâu vào việc cho học sinh kể lại câu chuyện.
- Nguyên nhân dẫn đến nhược điểm trên
* Về phía giáo viên: Qua tìm hiểu trao đổi với một số giáo viên trong trường tôi
nhận thấy rằng đa số các giáo viên đều coi tiết kể chuyện là phụ, chỉ cốt sao cho
học sinh được nghe kể lại câu chuyện và thuộc câu chuyện. Biết kể lại được câu
chuyện cho người khác nghe.
- Sự quan tâm đầu tư đồ dùng dạy học cho tiết kể chuyện còn bị coi nhẹ.
- Theo chương trình thay sách giáo khoa mới, tiết kể chuyện chỉ trú trọng
đầu tư cho việc kể chuyện đóng vai theo các nhân vật trong câu chuyện, còn việc
giáo dục đạo đức cho học sinh qua câu chuyện chiếm một lượng thời gian rất ít. Do
đó cũng ảnh hưởng tới việc tiếp nhận các hành vi đạo đức tốt, chuẩn mực tốt tới

học sinh.
* Về phía học sinh: Do các em lớp 2 con nhỏ, các em chỉ hiểu mọi vần đề một
cách đơn giản, đa số các em thường bắt chước và làm theo nên khả năng sáng tạo
là rất ít. Do đó kỹ năng kể chuyện của các em còn hạn chế. Mặt khác, cũng một
phần do giáo viên chưa có sự đầu tư nhiều về thời gian cho giờ dạy nên việc hướng
dẫn cách kể chuyện, giọng điệu kể cho học sinh còn hời hợt.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi thấy hoạt động chính trong giờ kể
chuyện là hoạt động nghe và kể của giáo viên và học sinh. Phân môn kể chuyện có
nhiệm vụ giúp các em thể hiện được nội dung tư tưởng, tình cảm và nhập vào vai
- 14 -


phù hợp với tính cách của từng nhân vật. Để đạt được điều đó, các em khơng chỉ
luyện đọc nhiều lần, luyện kể nhiều lần mà còn phải cảm thụ tốt nội dung câu
chuyện, tâm tư suy nghĩ của từng nhân vật. Thơng qua đó phát huy tốt chức năng
giáo dục đạo đức qua tính cách và nhân vật được biểu hiện trong câu chuyện.
Để có được điều đó thì người giáo viên phải biết hướng cho học sinh biết
tìm hiểu và khai thác tốt nội dung câu chuyện. Với những kiến thức đã học được
trong trường sư phạm cùng với những kiến thức thực tế qua giảng dạy và nghiên
cứu phân mơn kể chuyện lớp 2. Qua q trình dự giờ, trao đổi với giáo viên và học
sinh tôi thấy rằng: Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung câu chuyện đạt hiệu
quả cao phải có các biện pháp sau:
- Trước khi lên lớp người giáo viên phải có một giáo án tốt. Muốn giúp cho
học sinh tìm hiểu bài tốt trước hết người giáo viên phải cảm thụ vào vai thật tốt,
thật sâu sắc nội dung câu chuyện, phải hiểu và diễn đạt từng lời nói nhân vật để
giáo dục cho các em hiểu thế nào là cái hay, cái thiện, các ác.
- Khi kể chuyện người giáo viên phải có kỹ năng sử dụng giọng điệu, thay
đổi lời kể, chọn điểm ngừng hoặc nghỉ, điểm nhấn, các yếu tố phi ngôn ngữ, các đồ
dùng dạy học, tranh minh hoạ để diễn tả nội dung câu chuyện.

- Phải động viên, khuyến khích, tạo hứng thú để học sinh tìm cách diễn đạt
nội dung câu chuyện cho phù hợp, kể chuyện phải hấp dẫn, phải có sự truyền cảm.
Người kể phải thu hút người nghe vào câu chuyện, tạo cho người nghe cùng vui,
giận, cảm thông với diễn biến số phận của nhân vật với tình huống, cảnh ngộ trong
truyện.
- Luôn cải tiến phương pháp, sử dụng linh hoạt để luyện kể cho học sinh.
Chẳng hạn, giáo viên có thể để câu chuyện có kết thúc mờ. Sau đó yêu cầu cả lớp
thảo luận để kể tiếp câu chuyện và cử đại diện kể phần kết thúc câu chuyện đó.
Các nhóm khác cũng làm tương tự, cùng thảo luận kể. Sau đó nhận xét xem nhóm
nào kể tốt nhất.
- Nghiên cứu kỹ đặc điểm ngôn ngữ, thủ pháp xây dựng hình tượng nghệ
thuật, xem kỹ các tình tiết, các sự kiện và sự phát triển của chúng.
- 15 -


- Ở phần củng cố giáo viên có thể đặt 1, 2 câu hỏi hoặc có thể để cho học
sinh kể lại nội dung câu chuyện để nâng cao năng lực cho học sinh. Từ đó học sinh
thấy được giáo dục đạo đức là rất quan trọng. Vì vậy mỗi học sinh cần có ý thức tự
rèn luyện đạo đức cho bản thân.
- Cuối mỗi tiết học giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị ở nhà cho
câu chuyện lần sau. Nghiên cứu trước bài ở nhà và thấy được bài có ý nghĩa như
thế nào? Thơng qua đó các em sẽ học tập tốt, hiểu bài nhanh hơn.
Sau đây là tiết dạy minh hoạ:
Tên bài dạy:

Quả tim khỉ
Tiếng việt lớp 2 tập 2

I. Mục tiêu
1. Rèn kỹ năng nói:- Học sinh dựa vào trí nhớ và tranh minh hoạ kể lại được

từng đoạn câu chuyện.
- Biết cùng các bạn phân vai dựng lại câu chuyện. Bước đầu thể hiện đúng
giọng người kể chuyện, giọng khỉ, giọng Cá Sấu.
2. Rèn kỹ năng nghe: Tập trung theo dõi bạn kể, biết nhận xét đúng lời kể
của bạn, biết kể tiếp được lời kể của bạn.
3. Giáo dục HS phải chân thật trong tình bạn,khơng dối trá.
II. Đồ dùng: - 4 tranh minh hoạ sách giáo khoa, mặt nạ Khỉ, Cá Sấu
- Nội dung câu chuyện
III. Các hoạt động dạy và học
A. Kiểm tra bài cũ:
- Bài Bác sĩ Sói gồm mấy nhân vật đó -Gồm 3 nhân vật là: Người dẫn chuyện,
là những nhận vật nào?
Ngựa, sói.
- Gọi 3 HS lên kể lại câu chuyện “ Bác
sĩ Sói”. HS dưới lớp lắng nghe và nhận - 3 HS lên kể lại chuyện. HS dưới lớp
xét.
lắng nghe và nhận xét.
- Gọi HS nhận xét phần trình này của - HS nhận xét.
các bạn.
- GV nhận xét.
B. Bài mới
-HS lắng nghe.
1. Giới thiệu bài:
-GV treo tranh minh họa toàn bài và
- 16 -


hỏi HS bức tranh đó có những con vật
nào và những convật đó giúp em nhớ
lại câu chuyện nào ma các em đã học

trong bài tập đọc nào mà các em đã
học?
- GV nhận xét,kết luận.
- GV giới thiệu bài: “ Trong thế giới
loại vật có rất nhiều điều kì diệu các em
ạ. Trong tiết kể chuyện hôm nay lớp ta
cùng kể lại câu chuyện Quả tim Khỉ và
tìm xem điều kì diệu ẩn chứa trong
truyện này là gì nhé.
2. Hướng dẫn kể chuyện:
- Kể câu chuyện lần 1
- Đưa 4 bức tranh lên bảng và yêu cầu
HS quan sát kĩ từng bức tranh.
- Hỏi: quan sát và trả lời bức tranh số 1
vẽ gì? Và ở đâu?
- GV nhận xét.
- Quan sát bức tranh 2 và nói nội dung
bức tranh số 2.
- Yêu cầu HS nhận xét sau đó GV nhận
xét.
- Nhìn tranh 3 và nói bức tranh só 3 vẽ
gì? Và 2 con vật ấy có thái độ ntn?
- GV nhận xét.
- Quan sát 2 con vật và trả lời 2 có
những hành động và thái độ ntn?
xong 4 bức tranh và cũng đặt tên cho 4
bức tranh. Các con thảo lụa nhóm 4 và
kể lại 4 đoạn của bức tranh. Mỗi bạn
trong nhóm sẽ kể 1 đoạn.


- Đó là con Cá Sấu và con Khỉ.
Bài tập đọc: Quả tim khỉ.

-HS lắng nghe.

- HS lắng nghe
- HS quan sát kĩ từng tranh.
- Gồm 3 nhận vât : Người dẫn chuyện,
Khỉ, Cá Sấu.
- Câu chuyện xảy ra ở ven sơng.
- Cá Sấu 2 hàng nước mắt chảy dài vì
buồn bã.
- Ngày nào Cá Sấu cũng đến ăn hoa
quả mà Khỉ hái cho.
- Khỉ gặp Cá Sấu.
- Cá Sấu mời Khỉ đến nhà chơi và định
lấy tim Khỉ.
- Lúc đầu hoảng sợ rồi trấn tĩnh lai.
- Khỉ nói: “chuyện quan trọng vậy mà
bạn chẳng nói trước.Quả tim tơi để ở
nhà rồi,Bạn đưa tôi về,tôi lấy tim dâng
lên vua cho bạn.
- Cá Sấu vờ mời Khỉ tới nhà chơi.
- Cá Sấu tưởng thật đưa Khỉ về, Khỉ
nhờ vậy thoát chết.
- Khỉ nói: “Con vật bội bạc kia đi đi.
Chẳng ai thèm kết bạn những kẻ giả dối
như mi đâu.”
- Khỉ thoát nạn.
- Bị Khỉ mắng Cá Sấu tẽn tò lủi mất.

- Gọi 4 HS lên bảng và thi kể lại 4 - HS thảo luận và kể lại.
- 4 HS lên bảng kể lại câu chuyện.
đoạn.
- HS lắng nghe.
- 17 -


- GV nhận xét.
- Để kể hay hơn cô mời 1 bạn nhắc lại
bài gồm mấy nhân vật? những nhân vật
nào?
- Giọng kể của từng nhân vật ra sao?
Thay đổi ntn?

- Gồm 3 nhân vât: Người dẫn chuyện,
Khỉ, Cá Sấu.
- Giọng người dẫn chuyện: Đoạn 1: Vui
vẻ. đoạn 2 hồi hộp, đoạn 3-4: hả hê.
- Giọng khỉ: Chân thật, hồn nhiên ở
đoạn kết bạn với Cá Sấu, bình tĩnh,
khơn ngoan khi nói với Cá Sấu ở giữa
song, phẫn nộ khi mắng Cá Sấu.
- Giọng Cá Sấu: giả dối.
- HS thảo luận nhóm 3.

*Phân vai dựng lại câu chuyện
- HD h/s tự lập nhóm. Mỗi nhóm 3 em
dựng lại câu chuyện

- 3 nhóm kể lại câu chuyện.

- HS lắng nghe, nhận xét bình chọn
nhóm dựng lại câu chuyện hay nhất

- HS nhận vai và kể lại câu chuyện
- Các nhóm thi kể chuyện theo vai
trước lớp. Cả lớp nhận xét bình chọn
nhóm dựng lại câu chuyện hay nhất.
3. Củng cố – tổng kết:
- Khỉ là con vật như thế nào ?
- Cá Sấu là con vật như thế nào ?

- Khỉ tốt bụng thật thà thông minh.
- Cá Sấu giả dối, bội bạc, xảo quyệt,
độc ác.
- Trong tình bạn phải chân thật, khơng
- Câu chuyện muốn nói với em điều gì?
dối trá, những kẻ bội bạc, giả dối sẽ
không bao giờ có bạn. Khi bị lừa phải
- Yêu cầu 1 h/s kể lại truyện
bình tĩnh nhanh trí tìm kế để thốt thân
- Nhận xét giờ dạy
Trong quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy tôi rút ra những kinh
nghiệm về “ Giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 trong giờ kể chuyện”. Để các em
có thêm kỹ năng tiếp cận với các lớp trên được tốt, thì mỗi giáo viên khi dạy phân
môn kể chuyện phải bám sát và vận dụng vào 5 phương pháp trên. Có như vậy bài
học mới sinh động gây được hứng thú cho các em học sinh.
5. Kết quả đạt được

- 18 -



Quá trình nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân và thực tế dẫn đến việc học sinh
có những hành vi đạo đức không đúng. Đồng thời tham khảo ý kiến của các đồng
nghiệp và áp dụng một số kinh nghiệm, biện pháp khắc phục về rèn cho học sinh
có hành vi đạo đức đúng thông qua phân môn kể chuyện của bản thân đối tượng là
học sinh lớp 2E do tôi chủ nhiệm. Tôi thấy chất lượng đạo đức của học sinh tiến bộ
rõ rệt. Đặc biệt là học sinh có hành vi đạo đức chưa đúng giảm hẳn, số học sinh có
hành vi đạo đức đúng, ứng sử lịch sự được tăng lên.
Khảo sát cụ thể:
Thời gian
Hành vi đạo đức đúng
Hành vi đạo đức chưa đúng
Đầu năm
29 em
10em
Thời điểm
hiện tại
39 em
0 em
( Tháng 2)
Có được kết quả trên đã khẳng định được sự cố gắng trong việc tìm tịi biện
pháp khắc phục tình trạng học sinh có những hành vi đạo đức khơng đúng tiến tới
có hành vi đạo đức đúng trong mọi nơi, mọi lúc đó mới là cái đích của người giáo
viên hướng tới.

Phần III. KẾT LUẬN
1. Khẳng định giá trị của sáng kiến
Phân mơn kể chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục đạo đức cho học
sinh Tiểu học. Nó góp phần phát triển cảm xúc thẩm mĩ, giúp các em biết yêu cái
- 19 -



đẹp, cái thiện, lòng nhân ái bao dung, ghét những thói hư tật xấu, sự giả dối gian
ác, bội bạc. Nhờ có những câu chuyện mà học sinh nhận thức thế giới khơng chỉ
bằng trí tuệ mà bằng cả trái tim. Chính vì vậy việc giáo dục đạo đức cho học sinh
là rất cần thiết. Để làm được điều đó người giáo viên phải có lịng u nghề, mến
trẻ, khơng ngừng học hỏi có phương pháp dạy thích hợp, có giọng kể hay, hấp dẫn
kết hợp với các yếu tố phụ trợ khác như: nét mặt, cử chỉ, điệu bộ để gây hứng thú
cho học sinh. Qua thời gian nghiên cứu, làm đề tài và thực hiện các tiết dạy kể
chuyện tôi thấy việc giáo dục đạo đức cho học sinh có nhiều tiến bộ. Các em đã
học được những phẩm chất tốt đẹp, những đức tính cần thiết của người lao động
mới. Các em biết vận dụng những đức tính đó vào trong cuộc sống hằng ngày.
2. Bài học kinh nghiệm
2.1. Đối với giáo viên
- Cùng với sự đầu tư, học hỏi qua đồng nghiệp có kinh nghiệm, qua các tài
liệu hướng dẫn, qua chỉ đạo của cấp trên, qua quá trình thực hiện, đồng thời với kết
quả thu được ở trên tôi đã tự tin và rút ra bài học cho bản thân.
Phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, có tâm huyết và say mê với nghề nghiệp.
- Cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh, nắm đúng đặc điểm tâm sinh lý
của học sinh để lựa chọn phương pháp, điều chỉnh hình thức dạy cho phù hợp.
- Trong giảng dạy phải nghiên cứu kỹ chương trình, sách giáo khoa, tài liệu
tham khảo để phối hợp rèn luyện kỹ năng kể chuyện cho học sinh, đầu tư một cách
thích đáng cho bài dạy. Đồng thời có phương pháp hướng dẫn cho học sinh chủ
động lời kể và ngữ điệu sáng tạo có ý nghĩa với tất cả các môn học.
- Tự học, rèn luyện, mạnh dạn tự tin vận dụng phương pháp tổ chức các hình
thức dạy học cá nhân, nhóm, tập thể nhằm thực hiện nhiệm vụ mở rộng và tích cực
hố vốn từ ngữ, phát triển tư duy, nâng cao hiểu biết về đời sống, nhân cách con
người mới, con người của thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá.
- Cần biết động viên, khen ngợi những thành công, tiến bộ nhỏ nhất của các
em, để các em thêm tự tin ngày càng tiến bộ hơn, qua đó giúp các em ln có ý

thức phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện, vươn lên mọi mặt trở thành chủ nhân tương lai
của đất nước.
2.2. Đối với học sinh
- Học sinh phải có đầy đủ sách giáo khoa Tiếng Việt và đồ dùng cần thiết
khi học bộ môn
- 20 -


- Ln có ý thức say mê trong học tập và vận dụng những kiến thức đã học
vào thực tiễn.
3. Kiến nghị
3.1. Đối với giáo viên:
- Là giáo viên tiểu học, phải chú trọng đầu tư đều ở các môn học, không xem
nhẹ bất cứ môn học nào. GV phải nhiệt tình yêu nghề và quan tâm tìm hiểu tâm lí
học sinh.
- Ln tham khảo tài liệu có liên quan đến môn Tiếng Việt, môn Đạo đức để
lựa chọn phương pháp đầu tư thích hợp vào từng giờ dạy để phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Gay hứng thú học tập cho học sinh bằng kĩ năng giao tiếp để học
sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động và sáng tạo.
- Phải tôn trọng nhân cách học sinh.
- Mặt khác giáo viên phải luôn kết hợp biện pháp giáo dục, luôn tranh thủ
vận động các bậc phụ huynh, các bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài trường, kết
hợp với khả năng sư phạm sẵn có của bản thân để tìm ra phương pháp tối ưu nhất
giúp các em học tập tốt cũng như trau dồi nhân cách, đạo đức.
- Giáo viên phải nắm vững quy định về đạo đức nhà giáo, làm cơ sở để tự
rèn luyện phẩm chất đạo đức nhà giáo, qui tắc ứng xử sư phạm, có lối sống và
cách ứng xử chuẩn mực để thực sự làm tấm gương đạo đức học sinh noi theo ( lời
nói gắn liền hành động thực tiễn), mỗi giáo viên luôn trau dồi chuẩn mực đạo đức,
gương mẫu qua từng hành động, ln dịu dàng hết lịng thương yêu học sinh, bằng
lương tâm chức nghiệp của mình xây dựng chương trình hành động riêng trong

cơng tác giáo dục đạo đức học sinh.
3.2. Đối với tổ chuyên môn, nhà trường.
- Tổ chuyên môn quan tâm đến chất lượng thực tế của học sinh, quan tâm
tìm hiểu khả năng nhận thức chung của học sinh qua các môn học, thảo luận đổi
mới phương pháp dạy học thường xuyên, tăng cường dự giờ thăm lớp để học hỏi
kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau trong công tác.
3.3. Đối với cấp quản lí:
Qua đây tơi mong rằng các cấp, các ban ngành quan tâm hơn nữa với sự
nghiệp trồng người, đối với các cấp học nói chung và cấp Tiểu học nói riêng được
tiến hành thường xuyên và liên tục. Với ngành, phòng mở nhiều chuyên đề cấp
- 21 -


cụm, cấp thị xã, cấp tỉnh để chúng tôi được giao lưu học hỏi lẫn nhau có như vậy
sẽ năng cao tay nghề cho mỗi giáo viên và tận dụng vào thực tế giảng dạy của
mình để đi tới đỉnh cao của Tiếng Việt.
4. Điều kiện áp dụng kinh nghiệm
Kinh nghiệm này có thể áp dụng với tất cả các lớp 2 ở các trường tiểu học.
Nhưng muốn Giáo dục đạo đức cho hs lớp 2 qua phân môn Kể chuyện có hiệu quả
cần có các điều kiện sau:
4.1. Giáo viên
- Cần có hứng thú say mê nghề nghiệp.
- Thường xuyên nghiên cứu tài liệu nâng cao trình độ kiến thức chun mơn
của mình.
- Trong giờ dạy nên sử dụng hài hoà các phương pháp dạy học, đồng thời kết
hợp phương pháp dạy học truyền thống với phương pháp mới để nâng cao hiệu quả
dạy học
4.2. Học sinh
- Phải có đầy đủ đồ dùng, dụng cụ học tập
- HS phải có ý thức học tập, tự học, phải nhiệt tình, nghiêm túc, say mê

trong học tập.
5. Kết luận:
Trên đây là một số ý kiến của tôi khi thực hiện đề tài: “ Giáo dục đạo đức
cho học sinh lớp 2 qua phân môn Kể chuyện”. Là một giáo viên Tiểu học tơi ln
mong muốn mình sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tu dưỡng, rèn luyện học
sinh trở thành những con ngoan, trò giỏi, trở thành những con người phát triển tồn
diện. Điều đó đã thơi thúc tơi hồn thành đề tài này. Do thời gian có hạn cũng như
kinh nghiệm giảng dạy chưa được tích lũy nhiều, chắc chắn đề tài khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Tuy vậy tôi vẫn mạnh dạn viết ra để các bạn đồng nghiệp tham
khảo bổ sung ý kiến để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi khi áp dụng vào thực tế
giảng dạy đạt nhiều kết quả tốt hơn nữa.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

- 22 -


- 23 -



×