Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

skkn tổ chức hoạt động ngoại khóa về lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.76 KB, 28 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Tổ chức hoạt động ngoại khóa về Lịch sử địa phương
trong dạy học Lịch sử 7
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lịch sử khối 7
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Hải Yến

Nam (Nữ): Nữ

Ngày/tháng/năm sinh: 21/ 10/ 1979
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm chuyên ngành Lịch sử
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên – Tổ phó Tổ Khoa học Xã hội
Trường THCS Cộng Hòa, Chí Linh, Hải Dương.
Điện thoại: 0984473432
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tên đơn vị, địa chỉ, điện thoại
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Cộng Hòa, Chí
Linh, Hải Dương; Điện thoại: 03203.882.669
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
+ Môi trường giáo dục gồm: Giáo viên, học sinh và các cơ sở vật chất
của trường học.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2012 – 2013
HỌ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Hải Yến

1



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong dạy học lịch sử, cũng như các bộ môn khác ở nhà trường phổ
thông, ngoài việc tiến hành bài học nội khoá - hình thức dạy học cơ bản, còn
có các hoạt động giáo dục ngoài lớp. Hoạt động ngoại khoá có tác dụng tích
cực đối với việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển toàn diện học sinh, góp
phần quan trọng cùng với các bài học lên lớp, thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ bộ môn. Ngoại khóa các vấn đề lịch sử địa phương là một phần quan trọng
trong việc dạy và học lịch sử có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục đạo đức
tư tưởng tình cảm chọ học sinh.
Sống ở địa phương mình mỗi người đều phải có sự hiểu biết nhất định
về địa phương mình. Khi nghiên cứu được lịch sử địa phương thì sẽ là một
cống hiến không nhỏ cho khoa học lịch sử nước nhà. Ngày hôm nay, chúng
ta có được cuộc sống bình yên là nhờ công lao to lớn của các vị anh hùng đã
xả thân vì nước, do vậy chúng ta phải giữ gìn trân trọng những di sản của
cha ông. Hơn nữa, xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, nước ta mở rộng
giao lưu văn hoá với nước ngoài. Một số thanh thiếu niên đã quên đi nét văn
hoá truyền thống của quê hương mình hoặc hiểu biết rất sơ sài về lịch sử của
địa phương mình.
Vậy để hiểu biết về truyền thống lịch sử địa phương, lịch sử dân tộc
cần phải tìm hiểu quan tâm hơn nữa đến những di tích, danh lam thắng cảnh
ở địa phương mình. Từ đó biết trân trọng gìn giữ bảo tồn những di tích lịch
sử những danh lam thắng cảnh của quê hương, đặc biệt là giáo dục tư tưởng
đạo đức ý thức giữ gìn và bảo vệ những di sản văn hoá của cha ông để lại
cho các thế hệ trẻ.
Với những lí do trên nên tôi đã chọn đề tài là tổ chức một hoạt động
ngoại khoá lịch sử địa phương lớp 7 với chủ đề “ Anh hùng Trần Hưng Đạo
với di tích lịch sử đền Kiếp Bạc” với mong muốn là góp thêm một số kinh
nghiệm để nâng cao hiệu quả trong việc dạy và học lịch sử địa phương.

2


2. Đối tượng áp dụng sáng kiến
a. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình dạy và học các vấn đề ngoại khoá lịch sử địa phương ở
trường THCS.
- Học sinh bậc THCS, cụ thể là học sinh khối 7
b. Phạm vi đề tài
- Hoạt động ngoại khoá vô cùng phong phú và đa dạng với những hình
thức khác nhau. Trong phạm vi đề tài này tôi xin đề cập đến một vấn đề nhỏ
đó là tổ chức một hoạt động nói chuyện lịch sử vể chủ đề:
“Anh hùng Trần Hưng Đạo với di tích lịch sử đền Kiếp Bạc”
3. Nội dung sáng kiến
- Tiến hành sưu tầm nghiên cứu về lịch sử địa phương với chủ đề:
“Anh hùng Trần Hưng Đạo với di tích lịch sử đền Kiếp Bạc” và thực hiện
hoạt động nói chuyện lịch sử về nội dung trên.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
- Qua đề tài này tôi mong muốn cung cấp nguồn tư liệu những sự kiện,
hiện tượng, di tích, những đánh giá…để góp phần vào việc hiểu biết về anh
hùng Trần Hưng Đạo với di tích lịch sử Kiếp Bạc – làm cho học sinh hiểu rõ
hơn về lịch sử địa phương, về những anh hùng dân tộc găn liền với những di
tích lịch sử trên quê hương mình, tự hào về truyền thống đấu tranh đánh giặc
giữ nước của cha ông, đồng thời giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức giữ gìn
và bảo vệ những di sản văn hoá do cha ông ta để lại.
5. Đề xuất
- Nhà trường tạo điều kiện cho học sinh được đi tham quan tìm hiểu
các di tích lịch sử có ở địa phương.

3



MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong dạy học lịch sử, cũng như các bộ môn khác ở nhà trường phổ
thông, ngoài việc tiến hành bài học nội khoá - hình thức dạy học cơ bản, còn
có các hoạt động giáo dục ngoài lớp. Hoạt động ngoại khoá có tác dụng tích
cực đối với việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển toàn diện học sinh, góp
phần quan trọng, cùng với các bài lên lớp, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
bộ môn. Song do quan niệm chưa đúng, nên hoạt động này ở trường phổ
thông hiện nay còn nghèo nàn, hiệu quả chưa cao.
Hoạt động ngoại khoá có tác dụng giáo dục lớn đối với học sinh.
Trong hoạt động ngoại khoá, những cá tính, phẩm chất, ý thức khuynh
hướng của học sinh bộc lộ rõ rệt. Bời vì, những hoạt động ngoại khoá trong
học tập lịch sử ở trường phổ thông được thực hiện phù hợp với những đặc
điểm tâm lí lứa tuổi, trình độ của học sinh, với nhiều hình thức phong phú,
bổ ích như: trò chơi, các câu đố lịch sử, diễn các câu chuyện lịch sử ...
Ngoại khóa các vấn đề lịch sử địa phương là một phần quan trọng
trong việc dạy và học lịch sử có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục đạo đức
tư tưởng tình cảm chọ học sinh.
Về mặt giáo dưỡng: Tri thức lịch sử địa phương góp phần làm cho lịch
sử dân tộc và thế giới của học sinh trở nên hoàn chỉnh, đa dạng, sinh động,
phong phú, làm cho học sinh không chỉ hiểu biết về lịch sử địa phương mà
còn hiểu sâu sắc hơn về tiến trình lịch sử dân tộc và thế giới.
Về mặt giáo dục: Qua các bài học về ngoại khoá, các vấn đề lịch sử
địa phương sẽ góp phần giáo dục các em lòng yêu quê hương, tự hào về
truyền thống quê hương đất nước của mình, từ đó nâng cao ý thức trong các
em về lòng tự hào dân tộc và ý thức tôn trọng, bảo vệ các di tích lịch sử địa
phương, biết ơn các anh hùng liệt sĩ, những người đã ngã xuống vì nền độc
lập dân tộc. Trên cơ sở đó các em sẽ yêu mến quê hương và có ý thức xây

dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp.

4


Về mặt rèn luyện và phát triển: Ngoại khoá các vấn đề lịch sử địa
phương còn góp phần xây dựng thế giới quan khoa học cho các em, rèn
luyện cho các em thói quen học đi đôi với hành, hình thành cho các em các
kĩ năng về thực hành bộ môn như: Kĩ năng sưu tầm tư liệu, kĩ năng hệ thống
hoá tư liệu lịch sử địa phương…
Hoạt động ngoại khóa còn góp phần phát triển học sinh. Nếu bài nội
khóa là hình thức bắt buộc của việc học tập, tuân thủ nghiêm ngặt chương
trình đã quy định về thời gian, nội dung…thì hoạt động ngoại khóa lại mở ra
một khả năng rộng lớn để hình thành các thói quen, kỹ năng về trí tuệ và
thực hành cho học sinh trong học tập lịch sử. Các em có thể tự chọn và tham
gia một công tác hợp với sở thích và trình độ của mình. Tính chất tự nguyện
trong việc tham gia hoạt động ngoại khóa đã phát huy năng lực nhận thức
độc lập, làm nảy sinh và phát triển hứng thú của học sinh
Tuy nhiên, vấn đề dạy và học lịch sử địa phương nhìn chung chưa
được người dạy và người học đầu tư và chú trọng nên kết quả của việc giáo
dục đạo đức tư tưởng cho học sinh đạt được kết quả chưa cao, chưa phát huy
được sức mạnh của bộ môn lịch sử trong việc giáo dục nhân cách, đạo đức tư
tưởng, truyền thống yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, dẫn tới
học sinh không biết về lịch sử địa phương.
Với những lí do trên nên tôi đã chọn đề tài là tổ chức một hoạt động
ngoại khoá lịch sử địa phương lớp 7 với chủ đề “Anh hùng Trần Hưng Đạo
với di tích lịch sử đền Kiếp Bạc” với mong muốn là góp thêm một số kinh
nghiệm để nâng cao hiệu quả trong việc dạy và học lịch sử địa phương.
2. Thực trạng của vấn đề
Phát huy truyền thống yêu nước, giáo dục truyền thống cách mạng cho

thế hệ trẻ là điều hết sức cần thiết, vì thế nhiệm vụ của việc dạy và học lịch
sử địa phương có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, tư
tưởng cho các em.
Tuy nhiên, thời gian qua, việc đưa chương trình ngoại khoá lịch sử địa
phương vào giảng dạy, giáo dục truyền thống trong các trường nói còn có
5


những hạn chế. Nguyên nhân chính là chưa có tài liệu phong phú, chưa đáp
ứng được nhu cầu dạy và học bộ môn. Việc hướng dẫn cho học sinh tham
quan học tập, nghiên cứu, tìm hiểu các di tích lịch sử địa phương chưa được
chú trọng, phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa thực sự lôi cuốn học
sinh, chưa tạo được hứng thú cho các em yêu thích môn lịch sử, điều đó đã
làm ảnh hưởng đến hiệu quả dạy và học lịch sử nói riêng và việc giáo dục
đạo đức tư tưởng tình cảm cho học sinh nói chung, chưa phát huy hết sức
mạnh bộ môn trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, cho học sinh.
Trong quá trình dạy học, hoạt động ngoại khoá có tác dụng tích cực
đối với việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển tư duy của học sinh. Hoạt
động ngoại khoá giúp học sinh đem những kiến thức đã học, những kĩ năng
đã được rèn luyện trong giờ nội khoá vận dụng vào công tác thực tế như sưu
tầm tài liệu, biên soạn lịch sử địa phương, công tác xã hội, góp phần rèn
luyện năng lực hành động.
Muốn biết lịch sử dân tộc chúng ta cần xem xét nghiên cứu lịch sử của
từng địa phương vì lịch sử địa phương chính là tế bào cấu thành lịch sử dân
tộc. Sống ở địa phương mình mỗi người đều phải có sự hiểu biết nhất định
về địa phương mình. Khi nghiên cứu được lịch sử địa phương thì sẽ là một
cống hiến không nhỏ cho khoa học lịch sử nước nhà, vì nó sẽ là nguồn cung
quốc gia có nền văn hiến lâu đời nhân dân ta rất anh hùng, lịch sử dân tộc ta
vẻ vang. Vì vậy, công tác nghiên cứu lịch sử mà chỉ dựa vào sách vở cũ và
công sức nghiên cứu của cá nhân riêng lẻ, sẽ không thể làm nổi bật được hết

những sự thật lịch sử dân tộc ta. Cho nên khi nghiên cứu lịch sử địa phương,
với sự tham gia của các lực lượng khác nhau dưới sự chỉ dẫn của người thực
hiện đề tài sẽ giúp học sinh tiếp cận với công tác nghiên cứu lịch sử, qua đó
giáo dục lòng yêu nước của thanh niên, học sinh ở địa phương quê hương,
những di sản văn hoá để lại. Đồng thời sẽ khơi dạy đạo lí “Uống nước nhớ
nguồn” nhắc nhở mỗi người khi sinh ra và lớn lên ở quê hương thì phải biết
cách sống, cách cư xử đúng mức. Ngày hôm nay, chúng ta được sống yên
ấm, là nhờ phần lớn vào công lao của các vị anh hùng đã xả thân vì nước, do
6


vậy chúng ta phải giữ gìn trân trọng những di sản của cha ông. Hơn nữa,
xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, nước ta mở rộng giao lưu văn hoá với
nước ngoài. Một số thanh thiếu niên đã quên đi nét văn hoá truyền thống của
quê hương mình hoặc hiểu biết rất sơ sài về lịch sử của địa phương mình.
Vậy để hiểu biết về truyền thống lịch sử địa phương, lịch sử dân tộc
cần phải tìm hiểu quan tâm hơn nữa đến những di tích, danh lam thắng cảnh
ở địa phương mình. Từ đó biết trân trọng gìn giữ bảo tồn những di tích lịch
sử những danh lam thắng cảnh của quê hương, đặc biệt là giáo dục tư tưởng
đạo đức ý thức giữ gìn và bảo vệ những di sản văn hoá của cha ông để lại
cho các thế hệ trẻ. Căn cứ vào cơ sở đã trình bày, trong đề tài này tôi mạnh
dạn thực hiện sưu tầm nghiên cứu về lịch sử địa phương: “Anh hùng Trần
Hưng Đạo với di tích lịch sử đền Kiếp Bạc” và thực hiện hoạt động nói
chuyện lịch sử về nội dung trên.
Qua đề tài này tôi mong muốn cung cấp nguồn tư liệu những sự kiện,
hiện tượng, di tích, những đánh giá…để góp phần vào việc hiểu biết về anh
hùng Trần Hưng Đạo với di tích lịch sử Kiếp Bạc – Hiểu được truyền thống
cao đẹp của quê hương mình, góp phần làm tăng thêm lòng yêu quê hương
đất nước, niềm tự hào truyền thống tốt đẹp của Tổ tiên.
3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện

Có nhiều hình thức ngoại khoá khác nhau, tuỳ thuộc ở mục đích tổ
chức, ở quy mô tổ chức, trình độ học sinh và thời gian tiến hành. Dưới đây
tôi xin giới thiệu một số hình thức hoạt động ngoại khoá cơ bản, phổ biến
thích hợp với điều kiện trường phổ thông hiện nay.
3.1. Đọc sách:
Đây là hình thức có hiệu quả nhằm cung cấp thêm kiến thức cho học
sinh trong giờ nội khóa, song chủ yếu trong hoạt động ngoại khóa. Trước
tiên giáo viên giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc cho mỗi khóa trình
trong năm học. Trong danh mục nên có phần “tối đa” và phần “tối thiểu”, tức
là những loại sách cần đọc và loại sách đọc thêm nếu có thời gian

7


Việc hướng dẫn của giáo viên đối với học sinh trong chọn sách và
phương pháp thích hợp, có hiệu qua là yêu cầu quan trọng cho việc đọc sách
không tản mạn chệch hướng.
Trong chương trình lịch sử THCS, học sinh có thể tìm đọc các loại
sách thích hợp. Ở khóa trình lịch sử thế giới cổ - trung đại, học sinh cần đọc
các quyển: lịch sử thế giới cổ đaị và lịch sử thế giới trung đại. Ngoài ra học
sinh còn có thể đọc các tập sách thần thoại, cổ tích của Việt Nam của các
nước khác như Iliat, Ôđixê, thần thoại Hy Lạp, thần thoại Ấn Độ…; các sách
nói về cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của các nô lệ, nông nô;
Trong chương trình lịch sử việt Nam từ thời kì dựng nước đến nay có
rất nhiều loại sách, không chỉ phù hợp với nội dung các bài nội khóa, mà còn
có thể sử dụng cho ngoại khóa. Khi lựa chọn, giáo viên có thể hướng dẫn
học sinh tập trung vào các loại sau đây:
- Những tài liệu văn kiện của Đảng, của Chủ Tịch Hồ Chí Minh viết về
lịch sử dân tộc, các loại sách về các cuộc khởi nghĩa (Lam Sơn, Tây Sơn…),
các chiến thắng (Điện Biên Phủ, Đại thắng mùa xuân 1975…) các anh hùng

dân tộc (Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo…). Các hồi kí, ký sự cách mạng.
Biện pháp thực hiện: Có hai hình thức đọc sách đem lại hiệu quả tốt:
Cá nhân tự đọc và đọc chung ở lớp, ở tổ. Hai hình thức này đều phải tiến
hành đối với mỗi học sinh, tùy theo kế hoạch, điều kiện tổ chức.
Đọc sách không phải để giải trí, mà cần biết ghi chép theo mẫu sau
đây:
- Tên sách.Tác giả .Thời gian đọc
- Nội dung của sách theo từng phần, từng chương, ghi chép những câu
thích thú…
- Những vấn đề rút ra sau khi đọc sách .
3.2. Kể chuyện lịch sử:
Đây là hình thức ngoại khóa hấp dẫn, dễ làm và có tác dụng giáo dục
cao. Nội dung kể chuyện lịch sử là việc phổ biến kiến thức lịch sử một cách
khoa học, chứ không phải những chuyện hư cấu. Do đó, nội dung câu chuyện
8


kể phải có chủ đề - một sự kiện, một nhân vật – dựa vào một tài liệu chính
xác. Có nhiều cách kể chuyện: kể lại nội dung một cuốn sách hay đã đọc, một
câu chuyện được ghi chép tài liệu, hay của chính người tham gia, chứng kiến
sự kiện thuật lại
Biện pháp thực hiện: Khi kể chuyện, nội dung câu chuyện phải liên
quan đến các sự kiện cơ bản trong bài học, chân xác, tránh li kì, không có giá
trị khoa học, không phù hợp với yêu cầu học tập. Kể chuyện phải làm cho
người nghe xúc động như được sống lại sự kiện ấy, như câu chuyện các
nhân chứng lịch sử hay việc trình bày của học sinh đã “nhập thân” với sự
kiện. Kể chuyện khác với thông báo. Nội dung bài kể chuyện không chỉ có
khối lượng sự kiện, tri thức được cung cấp, mà còn bao gồm cả việc phân
tích, nêu lên bản chất sự vật, hiện tượng. Nếu logíc của câu chuyện kể được
xây dựng trên cơ sở những sự kiện, tri thức chính xác thì nó có ý nghĩa giáo

dục rất lớn.
3.3. Nói chuyện lịch sử:
Nói chuyện lịch sử có nội dung, yêu cầu cao hơn kể chuyện lịch sử.
Kể chuyện chủ yéu là việc trình bày các sự kiện cụ thể nâng lên trình độ tư
duy khái quát, còn nói chuyên lịch sử chủ yếu là làm cho người nghe nhận
thứ một cách khái quát, được minh họa, dẫn chứng bằng các sự kiện cụ thể
theo một chủ đề nào đấy. Ví dụ, kể chuyện về một cuộc đấu tranh chính trị
của “Đội quân tóc dài” với nhiều tài liệu – sự kiện cụ thể làm người nghe
như được chứng kiến sự kiện này.
Biện pháp thực hiện : Thực hiện hoạt động nói chuyện lịch sử phải có
chủ đề rõ ràng, chủ đề phải phù hợp với nội dung chương trình nội khóa, với
nhiệm vụ chính trị trước mắt. Nói chuyện lịch sử không thể tổ chức thường
xuyên và ở bất cứ nơi nào như kể chuyện lịch sử. Nó thường được tổ chức
nhân ngày kỉ niệm một sự kiện lịch sử quan trọng, một danh nhân, lãnh tụ
cách mạng…, những đợt sinh hoạt chính trị, bồi dưỡng về văn hóa, nghiên
cứu lịch sử địa phương. Người nói chuyện phải là người am hiểu sâu sắc vấn
đề trình bày. Do đó, người nói chuyện thường là giáo viên, cán bộ nghiên
9


cứu cán bộ giảng dạy ở các trường đại học, cán bộ làm công tác tuyên huấn.
Trong một số trường hợp đặc biệt, giáo viên có thể bồi dưỡng cho một học
sinh giỏi để nói chuyện lịch sử với lớp, hay một học sinh lớp trên nói chuyện
với các học sinh lớp dưới.
3.4. Trao đổi, thảo luận:
Đây là hình thức ngoại khóa nhằm giúp học sinh bày tỏ ý kiến của
mình để củng cố kiến thức đã học, lòng tin sau khi đọc một quyển sách, nghe
kể chuyện, nói chuyện lịch sử, hoặc suy nghi về một vấn đề nào đấy. Có
nhiều cách tiến hành trao đổi thảo luận. Trước hết, có thể tổ chức trao đổi
thảo luận trong phạm vi lớp. Đối với học sinh THCS, những cuộc trao đổi

thảo luận không chỉ để ghi nhớ nội dung một vấn đề, mà chủ yếu là khơi dạy
những suy nghĩ độc lập cuẩ các em. Chủ đề nêu ra là những vấn đề cơ bản có
tính chất tổng hợp, khái quát, những vấn đề mà nhiều người quan tâm, có liên
quan đến cuộc sông hiện tại.
Trong quá trình trao đổi, giáo viên cần động viên các em đề xuất và
giải quyết vấn đề theo suy nghĩ độc lập của mình, đồng thời cũng khiêm tốn
học tập và tôn trọng ý kiến của bạn. Giáo viên theo dõi, kịp thời bổ sung
những thiếu sót, uốn nắn các lệch lạc, khi kết thúc thảo luận có nhận xét,
đánh giá, rút kinh nghiệm.
Biện pháp thực hiện: Trao đổi, thảo luận được tiến hành trên cơ sở
một số chủ đề quan trọng, có tác động đến việc bổ sung kiến thức đã học. Ví
dụ, trao đổi, thảo luận về “ý nghĩa bước ngoặt” của việc thành lập Đảng với
cách mạng Việt Nam.
Có những hình thức tổ chức trao đổi thảo luận với nội dung phong phú
hơn, như tổ chức các “hộp thư” trao đổi trên báo tường.
3.5. Dạ hội lịch sử:
Dạ hội lịch sử là một hoạt động ngoại khóa có tính chất tổng hợp, thu
hút tất cả học sinh trong lớp, trường tham dự.
Biện pháp thực hiện: Lực lượng tham gia dạ hội lịch sử thường có ít
nhất 2 nhóm học sinh tham gia biểu diễn và đông đảo học sinh khác là khán
10


giả. Đối với cả hai nhóm, dạ hội lịch sử có tác dụng củng cố, làm sâu sắc,
phong phú thêm nhiều tri thức khoa học và nghệ thuật, gợi dậy những xúc
cảm làm cơ sở để giáo dục tình cảm bồi dưỡng óc thẩm mĩ, gây hứng thú học
tập bộ môn.
3.6. Tham quan có một vị trí quan trọng trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Những dấu vết của quá khứ, những hiện vật trưng bày
trong bảo tàng không chỉ cụ thể hóa kiến thức, mà còn để lại một ấn tượng

mạnh mẽ nâg cao hứng thú học tập và rèn luyện khả năng quan sát, phân tích
của học sinh.
Biện pháp thực hiện: Trong thực tế, có thể tổ chức hai loại tham quan
lịch sử chủ yếu, phù hợp với yêu cầu học tập và điều kiện tổ chức:
Thứ nhất, những cuộc tham quan phục vụ trực tiếp nội dung bài học
nội khóa, và có thể là bài giảng trong nhà bảo tàng, hoặc trên thực địa ở địa
phương trường đóng.
Thứ hai, những cuộc tham quan có tinh chất một hoạt đông ngoại khóa
ở nhà bảo tàng, di tích lịch sử xa trường, cuộc hành quân thăm chiến trường
xưa, “theo bước chân người anh hùng chiến sĩ”.
Việc tham quan lịch sử có thể được tổ chức vào đầu năm học hoặc
nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn: 22-12 (Thành lập quân đội nhân dân Việt
Nam), ngày mồng 3-2 (Thành lập Đảng) ngày 19-5 (Kỉ niệm sinh nhật Chủ
tịch Hồ Chí Minh)…
3.7. Những hình thức ngoại khóa khác
Các hình thức tham quan lịch sử trình bày trên là những hình thức chủ
yếu, cần thực hiện trong những điều kiện cho phép, vì nó làm cho hoạt động
ngoại khóa được phong phú, sinh động. Ngoài những hình thức ngoại khóa
có tính chất phổ biến và cần thiết nêu trên, có thể kể thêm một số hoạt động
khác. Những hoạt động này hoặc là bộ phận cuả hình thức ngoại khóa nào
đấy hoặc chỉ là sự thay đổi môi trường hoạt động, đói tượng phục vụ.
a. Trò chơi lịch sử, là một hình thức ngoại khóa gọn nhẹ, dễ tổ chức,
mà hấp dẫn học sinh. Đây không chỉ là một việc giải trí, mà đòi hỏi người
11


tham dự phải phát huy năng lực tư duy, trí thông minh để giải quyết các vấn
đề đặt ra. Nếu trò chơi không đòi hỏi sự lỗ nực, không đòi hỏi sự hoạt đông
tích cực của tư duy thì trò chơi đó chưa đạt yêu cầu về mặt giáo dưỡng,giáo
dục và phát triển mà chỉ là công việc giải trí,không có ích gì cho việc dạy

học lịch sử.
Biện pháp thực hiện: tiến hành dưới các hình thức vui chơi. Hinh thức
này phải phù hợp với sự sôi nổi của tuổi trẻ và có ý nghĩa giáo dục. Phân biệt
trò chơi lịch sử với việc thi tìm hiểu lịch sử. Trò chơi lịch sử không đòi hỏi
học sinh phải hiểu biết sâu rộng, chuẩn bị lâu và kỹ, như trong khi tìm hiểu
lịch sử mà dựa vào vốn hiểu biết sẵn có của ngươi tham dự, sự thông minh
nhanh trí
b. Gặp gỡ những chiến sĩ cách mạng, những người có thành tích trong
công tác, sản xuất chiến đấu. Hình thức này rất có tác dụng trong việc giáo
dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cho học sinh. Bời vì tiếp xúc trực tiếp với
những con người thật-nhân chứng lịch sử - có sức thuyết phục mạnh với học
sinh hơn bất cứ các phương tiện dạy học nào khác.
Biện pháp thực hiện: Có thể nhân dịp kỉ niệm chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ (Ngày 7-5), giáo viên tổ chức cho học sinh gặp gỡ những người ở
các địa phương trường đóng đã từng tham gia chiến đấu ở Điện Biên Phủ.
Đây là hinh thức giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ để các em biết ơn
những ngừơi có công với đất nước, noi gương trong học tập và lao động.
c. Công tác công ích xã hội không chỉ có tác dụng củng cố, hiểu sâu
sắc hơn kiến thức, mà còn là biện pháp gắn nhà trường với xã hội, rèn luyện
năng lực hành động cho học sinh.
Biện pháp thực hiện:
- Xây dựng nhà bảo tàng, nhà truyền thống cách mạng địa phương.
Công việc này do giáo viên lịch sử phụ trách, nhưng phải kết hợp chặt chẽ
với chính quyền xã, ban văn hóa xã và biến thanh một việc chung của nhân
dân địa phương.

12


- Tổ chức triển lãm nói chuyện ở địa phương nhân ngày lễ lớn nhằm

tuyên truyền phổ biến kiến thức lịch sử cho nhân dân.
- Chăm sóc, bảo vệ các di tích lịch sử, cách mạng, nghĩa trang liệt sĩ…
- Tham gia công tác Trần Quốc Toản, thăm viếng các bà mẹ Việt Nam
anh hùng, các thương binh, lão thành cách mạng, gia đình liệt sĩ, gia đình
chính sách, neo đơn, nghèo khổ…
4. Kết quả đạt được
- Tôi đã tiến hành sưu tầm, nghiên cứu những tài liệu lịch sử địa
phương và xây dựng thành những đề tài để áp dụng vào tổ chức các buổi
ngoại khoá trong năm học, cụ thể là giảng dạy trong các tiết lịch sử địa
phương ở khối lớp 7, kết quả đạt được rất khả quan. Tôi đã tổ chức buổi
ngoại khoá nói chuyện về lịch sử địa phương cho học sinh khối 7 với đề tài
"Anh hùng Trần Hưng Đạo với di tích lịch sử Kiếp Bạc" Sau buổi ngoại
khoá tôi yêu cầu học sinh viết bản thu hoạch với nội dung câu hỏi.
(1) Trình bày hiểu biết của em về tiểu sử Trần Hưng Đạo?
(2) Em hãy viết bài giới thiệu về di tích lịch sử Kiếp Bạc?
Kết quả cụ thể
*Trước khi thực hiện ngoại khóa :
Lớp

Số lượng bài
kiểm tra

7A
7B
7C

34
30
30


Giỏi
SL
%
6
17,6
5
16,7
6
20,0

Kết quả
Khá
SL
%
20
58,9
16
53,3
13
43,3

Trung bình
SL
%
8
23,5
9
30,0
11
36,7


Kết quả
Khá
SL
%
13
38,2
14
46,7
15
50,0

Trung bình
SL
%
3
8,8
4
13,3
5
16,7

* Sau khi thực hiện ngoại khóa :
Lớp

Số lượng bài
kiểm tra

7A
7B

7C

34
30
30

Giỏi
SL
15
12
10

%
44,1
40,0
33,3

13


Qua bài thu hoạch của học sinh hầu hết các em đều trình bày được
những điểm cơ bản về anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo cũng như mối quan
hệ giữa Trần Hưng Đạo với di tích lịch sử Kiếp Bạc.
Như vậy qua việc giáo viên tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động
ngoại khóa lịch sử địa phương đã giúp học sinh lĩnh hội được những kiến
thức lịch sử, làm cho các em hiểu rõ về lịch sử địa phương, về những anh
hùng dân tộc găn liền với những di tích lịch sử trên quê hương mình, tự hào
về truyền thống đấu tranh đánh giặc giữ nước của cha ông, đồng thời giáo
dục tư tưởng đạo đức, ý thức giữ gìn và bảo vệ những di sản văn hoá do cha
ông ta để lại.


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Lịch sử địa phương là một phần của lịch sử dân tộc, nó góp phần quan
trọng trong việc giáo dục truyền thống cách mạng, tình yêu quê hương đất
14


nước cho thế hệ trẻ mà đặc biệt là lứa tuổi học đường, nhằm khơi dậy trong
các em lòng tự hào về quê hương Chí Linh anh hùng, từ đó các em có ý thức,
phấn đấu, học tập, rèn luyện góp phần xây dựng quê hương, đất nước “Vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đưa
nước ta vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, qua việc thường xuyên nghiên cứu sưu tầm tài liệu lịch sử
địa phương, tôi nhận thấy việc sưu tầm, nghiên cứu tài liệu lịch sử địa
phương là rất cần thiết trong các tiết dạy lịch sử địa phương ở các khối lớp
trong nhà trường phổ thông và đặc biệt thích hợp cho việc tổ chức các buổi
ngoại khoá về lịch sử cho học sinh. Hải Dương là một vùng đất địa linh nhân
kiệt, nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa như: Di tích lịch sử Côn Sơn- Kiếp
Bạc. Đền thờ Bà chúa Sao Sa, đền thờ thầy giáo Chu Văn An…
Khi sưu tầm, nghiên cứu các vấn đề trên chúng ta lên kết hợp với các
tổ chức khác như là: Địa phương, nhà trường với tổ khoa học xã hội thực
hiện các buổi ngoại khoá hàng năm. Đồng thời qua việc tổ chức cho học sinh
tham gia sưu tầm tư liệu, đã khích lệ tinh thần ham học hỏi, hăng say tìm
hiểu truyền thống lịch sử địa phương và có ý thức trân trọng bảo vệ giữ gìn
những di sản văn hoá đó.
2. Khuyến nghị
- Nhà trường tạo điều kiện cho học sinh được đi tham quan tìm hiểu
các di tích lịch sử có ở địa phương.
-Trong quá trình nghiên cứu đề tài và trong quá trình thực hiện cũng

như đánh giá còn có những vấn đề chưa đề cập tới, có những quan điểm còn
phải tranh luận, còn có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi. Tôi rất
mong muốn và biết ơn những đóng góp chân thành của các thày cô và đồng
nghiệp, để kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và có hiệu quả thiết thực với
bộ môn trong những năm tới.

15


PHỤ LỤC: THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
HÌNH THỨC: NÓI CHUYỆN LỊCH SỬ
Đề tài "Anh hùng Trần Hưng Đạo với di tích lịch sử Kiếp Bạc"
Đối tượng: Học sinh khối 7
16


1.Giới thiệu: Thân thế, sự nghiệp anh hùng Trần Hưng Đạo.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1228?-1300) là con An Sinh
Vương Trần Liễu và bà Nguyệt phu nhân, cháu vua Trần Thái Tông. Quê
quán tại hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, trấn Nam Sơn hạ, nay là huyện
Mỹ Lộc tỉnh Nam Định. Thủơ nhỏ, ông có tư chất hơn người, thông minh tài
trí lại được giáo dục toàn diện nên sớm trở thành một trang tuấn kiệt, văn võ
song toàn. Ông luôn được ngồi bên Thái Tông hoàng đế để bàn luận nghĩa
lý, kinh sách, thường giảng dạy tôn tử binh pháp, bát trận đồ cho các tướng
sĩ. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo gắn liền với cuộc kháng chiến
chống xâm lược Nguyên Mông của nhân dân Đại Việt.
Thế kỷ XIII đế quốc Nguyên Mông tung vó ngựa xâm lược các quốc
gia từ bờ biển Thái Bình Dương đến bờ biển Hắc Hải. Các dân tộc từ Á sang
Âu phải chịu cảnh nô lệ hoặc bị xoá tên trên bản đồ thế giới, biết bao nhiêu

kinh thành cổ kính, làng mạc yên lành đã bị dày xéo. Nhưng cả ba lần kéo
quân sang xâm luợc Đại Việt chúng đều bị thất bại thảm hại trước ý chí đấu
tranh của vua tôi nhà Trần đặc biệt tài cầm quân của Hưng Đạo Đại Vương.
Ông chính là linh hồn của cuộc kháng chiến.
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1258). Trần Hưng Đạo được giao
quyền tiết chế, chỉ huy các tướng bảo vệ biên giới. Cuộc kháng chiến lần hai
(1285), lần ba (1288) ông được vua Trần phong chức Quốc Công tiết chế
tổng chỉ huy quân đội nhà Trần. Tháng 8/1284, Ông tổ chức duyệt binh lớn ở
Đông Bộ Đầu, sau đó cử quân sĩ đi trấn các vùng Bình Than, Chi Lăng, Vĩnh
Phú…rồi về lập đại bản doanh, xây dựng phòng tuyến chống giặc ở Vạn
Kiếp.
Về Vạn Kiếp, Trần Hưng Đạo đã xây dựng hệ thống căn cứ quân sự liên
hoàn gồm: Sông Vang là nơi giấu và chuyển thuyền chiến ra sông Lục Đầu,
lập Xưởng Thuyền bên cạnh sông Vang là nơi đóng và sửa chữa thuyền
chiến; xây dựng Lò Gốm trên cánh đồng Vạn Yên phục vụ sinh hoạt và
kháng chiến; cho dựng Hang Tiền là nơi cất giữ tiền, bạc, ngân khố của phủ
đệ; xây dựng Ao Cháo dưới chân Hố máng nước của núi Rồng là nơi dưỡng
17


thương cho quân sĩ; tương truyền ở sườn núi trán Rồng phát hiện ba cấp bãi
bằng rộng từ 150-300m có dấu tích bờ kè là nơi luyện quân hoặc lập đàn tế
trời?. Mặt khác,Ông xây dựng khu vực hậu phương vững chắc và nơi cất giữ,
dự trữ, tập trung lương thảo gọi là Hố Thóc. Đặc biệt với tư tưởng người
Nam dùng thuốc nam, Trần Hưng Đạo đã cho trồng những cây thuốc nam
trên núi Nam Tào (Dược sơn) để chữa bệnh trị thương cho quân sĩ…Với trận
đồ "tiền công hậu thủ vững chắc" Vạn Kiếp luôn là trung tâm của vùng chiến
lược.
Cuối năm 1282, tại bến Đại Than trên sông Lục Đầu vua Trần đã tổ
chức hội nghị Bình Than tề họp các vương hầu tướng soái cao cấp bàn kế

đánh giặc.
Tháng 2/1285 sau trận giao chiến quyết liệt ở ải Nội Bàng (Chũ - Bắc
Giang) với hàng vạn quân Mông cổ do Thoát Hoan chỉ huy, Trần Hưng Đạo
đã rút lui về Vạn Kiếp. Tại đây, ông tập trung hơn 20 vạn quân và hơn 1000
thuyền chiến, trong đó phần lớn là lực lượng của bốn vị con trai đóng ở các
xứ: Bằng Hà -Thanh Hà, Trà Hương - Kinh Môn, Na Sầm - Lục Ngạn, Kiến
Thuỵ -Hải Phòng...chuẩn bị cho cuộc chặn đánh chiến lược, hòng ngăn mũi
tấn công của kẻ thù, bảo vệ kinh thành Thăng Long. ý chí và tinh thần đấu
tranh kiên cường bất khuất của vua tôi nhà Trần càng được nâng lên khi Trần
Hưng Đạo khẳng khái rằng: "Hãy chém đầu thần trước rồi hãy hàng"…
Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần ba (1288) nhận thấy ưu thế
chiến lược của Vạn Kiếp, ngay từ buổi đầu quân Nguyên đã chiếm đóng nơi
đây thành căn cứ quân sự hùng hậu, phòng bố vững chắc. Vạn Kiếp trở
thành vùng đệm chiến lược. Tháng 3/1288, từ căn cứ Vạn Kiếp, Hưng Đạo
Vương cùng vua Trần Nhân Tông, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông tổ
chức phản công, đánh trận quyết chiến Bạch Đằng, tiêu diệt và bắt sống 30 vạn
quân xâm lược, kết thúc thắng lợi 3 lần kháng chiến chống đế quốc Nguyên
Mông vĩ đại của dân tộc.
Trần Hưng Đạo với bản lĩnh, tinh thần, tài năng, trí tuệ của bậc thống
soái quân sự đã khéo léo sắp đặt, sử dụng, khai thác triệt để Vạn Kiếp với
18


đầy đủ tiềm năng và giá trị vốn có, ứng phó kịp thời, phù hợp trong từng kế
sách tiến, lui, phòng, phản chiến lược. Chính vì vậy, trong hai cuộc kháng
chiến lần hai, lần ba, tại Vạn Kiếp đã diễn ra hơn 6 lần giao chiến quyết liệt
giữa quân ta và quân Nguyên, đã không ít tướng sĩ của ta phải tử trận, và
thây xác của kẻ thù phải bỏ mạng nơi đây.
Kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, Trần Hưng Đạo cùng
phu nhân về sống những năm tháng thanh bình tại tư dinh Vạn Kiếp - mảnh

đất đã gắn bó, chở che ông suốt những năm dài kháng chiến. Tại đây, ông đã
tôi luyện và cống hiến tài năng, trí tuệ do sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông
là tấm gương sáng về nhân cách, đức độ và khí phách của bậc quân vương,
xứng đáng là bậc Đại Nhân, Đại Trí, Đại Đức, Đại Dũng, Đại Nghĩa. Do có
công lao to lớn, vua Trần tiến phong tước Đại Vương, gia phong "Thượng
Quốc Công" được quyền tự ban tước phẩm cho người khác, được lập Sinh Từ
(đền thờ khi ông còn sống- còn gọi là Từ Cũ ) tại thái ấp Vạn Kiếp. Thượng
hoàng Trần Thánh Tông cho khắc bia (Sinh Bi) để ca ngợi công đức của ông.
Cuộc đời của Trần Hưng Đạo luôn chăm lo cho dân, cho nước, khi
lâm bệnh ông vẫn lo cho vận mệnh dân tộc. Vua Trần Anh Tông nghe tin
Hưng Đạo Đại Vương bệnh nặng đã về tư dinh Vạn Kiếp viếng thăm và hỏi
Người kế sách giữ nước:"Nếu chẳng may Thượng Phụ qua đời, giặc phương
Bắc lại tràn sang thì kế sách phải làm sao?. Trần Hưng Đạo trả lời rằng
giặc cậy trường trận, ta dùng đoản binh, lấy đoản chống trường là việc
thường trong binh pháp. Nếu quân giặc kéo đến ồ ạt như lửa cháy gió thổi,
thì dễ bề chế ngự nhược bằng chúng kéo đến chậm, dần dà như tằm ăn lá,
không cần của dân, không cần thắng chóng thì giặcđó mới là khó trị, phải
dùng tướng tài, thu phục quyền binh như thế cờ, tuỳ thời mà làm. Vả lại,
phải khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc, đó mới là thượng sách giữ
nước".
( Trích Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).
Ngày 20 tháng 8 âm lịch năm Hưng Long thứ 8(1300) “ mặt đất rung
động,… trên trời có một ngôi sao sa xuống…”1 tại tư dinh Vạn Kiếp, trái tim
19


Người anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương đã ngừng đập. Vua Trần Anh
Tông thương xót, khóc rằng: "Thượng phụ là bậc trụ thạch của triều đình,
mặc áo giáp, cầm mũi nhọn, quét sạch bụi Hồ, vỗ yên trăm họ. Nay bỏ Trẫm
mà đi, tìm đâu được người yêu dân, lo cho nước như Thượng phụ". Triều

đình bãi triều 10 ngày, các quan mặc áo tang. Vua thân đi xe mộc, ngựa
trắng đến lo tang lễ.
Trần Hưng Đạo Đại Vương mất đi là tổn thất lớn cho nhân dân Đại
Việt
Trước khi qua đời, Trần Hưng Đạo căn dặn con cháu rằng: "Ta chết
tất phải hoả táng cho xương vào ống tròn, chôn ở vườn An Lạc sau trồng
cây như cũ, người đời sau không biết đâu mà tìm" .
Là bậc kỳ tài, tinh thông nho, y, lý, số Trần Hưng Đạo chọn vật hình
tròn tượng trưng cho vũ trụ - Trời (càn) thuộc về dương, hợp với mình (nam
giới) để về yên nghỉ trong lòng Đất (khôn) thuộc về âm để được hài hoà, hợp
với lẽ tự nhiên của trời đất. (Trích Đại Việt Sử Ký toàn thư, tr78.)
Sau khi mất Trần Hưng Đạo được Triều đình phong: Thái Sự
Thượng Phụ, Thượng Quốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên Suý, Vĩ Liệt
Hồng Huân Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương, sắc chỉ cho nhân dân Vạn
Kiếp lập đền thờ tại thái ấp của Người, nay gọi là Đền Kiếp Bạc.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất đi, để lại cho dân tộc di
sản là những trước tác tư tưởng chính trị, khoa học, quân sự, văn hoá vượt
thời đại.
* Về quân sự:
Ông soạn “Binh Thư yếu lược”, viết “ Vạn Kiếp Tông Bí Truyền
Thư”, thảo “Hịch Tướng Sĩ” khích lệ tinh thần, ý chí đấu tranh của quân sĩ.
Đây là những tác phẩm quân sự xuất sắc, là bản anh hùng ca bất hủ của dân
tộc, là cơ sở nền tảng cho sự phát triển của binh pháp Việt Nam.
Đương thời, ông luôn đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích cá nhân,
chăm lo vun đắp, mối đoàn kết đồng tộc, dạy quân lính tướng sĩ phải hoà
thuận, trên dưới một lòng
20


Ông dạy người làm tướng: "Trong quân có người ốm thì tướng phải

thân hình đem thuốc đến chữa, trong quân có người chết thì tướng phải
thương xót đau buồn. Quân đi thú xa thì tướng phải cử vợ con đến nhà thăm
hỏi. Khi có thưởng phải chia đều cho quan quân, khi cắt đặt chức vụ thì phải
họp bàn, phàm những việc định rồi mới đánh. Vì vậy tướng lĩnh và quân sỹ
có cái ơn hoà rượu và uống máu".
Chính vì thế, Trần Hưng Đạo đã xây dựng được đội quân hậu bị vững
chắc. Họ là những gia thần, môn khách nổi tiếng như: Yết Kiêu, Dã Tượng,
Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Địa Lô, Nguyễn Chế Nghĩa...
* Về văn hoá : Xã hội Đại Việt lúc bấy giờ đi theo hệ tư tưởng "tam
giáo đồng nguyên" ( Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo), tuy có lúc Nho giáo
bước lên vị trí cao hơn song về cơ bản các Vua Trần thực hành tư tưởng tam
giáo để xây dựng chính quyền và ổn định xã hội. Trần Hưng Đạo - tôn thất
nhà Trần cũng ảnh hưởng hệ tư tưởng chính thống đương thời nhưng lại có
phần thiên về đạo giáo phù chú. Điều này, thể hiện rõ trong suốt thời gian ông
ở Vạn Kiếp, tiến hành cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Từ việc trồng
cây thuốc để chữa bệnh cho quân lính và nhân dân trong vùng, kết hợp với
việc trừ tà, quỷ quái (Giặc Phạm Nhan) rồi "Dần dần trong tâm thức dân
gian Trần Hưng Đạo có khả năng chưã bệnh bằng pháp thuật". Pháp thuật
của ông hiệu nghiệm đối với bệnh của phụ nữ, trẻ em, đàn bà sinh sản đau
ốm…

Kết quả của cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông đã đưa Trần

Hưng Đạo - anh hùng dân tộc, trở thành người Cha thiêng liêng, Đức Thánh
sánh với Ngọc Hoàng Thượng Đế có chức năng diệt trừ ma quỷ, bảo vệ chúng
sinh. Rõ ràng, Đức Thánh Trần đã được dân gian Thánh hoá có nguồn gốc
trên thượng giới, với đầy đủ quyền năng mầu nhiệm để cứu dân độ thế, ban
phát tài lộc, đảm bảo là chỗ dựa linh thiêng cho người dân hướng về. Và sự
hoá - cái chết của Đức ThánhTrần cũng đầy màu sắc huyền ảo. "trời vừa tối
thì gió mưa lớn, sấm chớp ầm ầm trong tiếng gió mưa thét gào có tiếng xa

giá, tiếng đàn sao vi vu ngoài phủ đệ. Thánh Vương liền hoá"(. Sự tích Đức
Thánh Trần/ Hoàng Giáp, Nguyễn Khăc Minh, trang 26, 27)
21


Sự huyền diệu, siêu trần về nguồn gốc của Đức Thánh Trần cùng với
quá trình lịch sử hoá nhân vật lịch sử đã "bảo lãnh " cho sự ra đời của dòng
nội đạo mang đậm màu sắc đạo giáo Việt Nam, đứng đầu là giáo chủ : Đức
thánh Trần.
Đức thánh Trần ngự trị trong tâm thức của tín đồ Đạo nội, có mặt ở
hầu hết các thần điện, đình đền, miếu mạo của làng quê Việt Nam, đặc biệt
"Đạo nội ở Bắc Việt phát triển nhất ở đền Kiếp Bạc huyện Chí Linh Tỉnh
Hải Dương - nơi thánh địa của anh hùng". Mặc nhiên, Vạn Kiếp/ đền Kiếp
Bạc trở thành trung tâm văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng lớn của đất nước.
2. Giới thiệu: Lễ hội truyền thống tại đền Kiếp Bạc- Chí Linh Hải Dương
Gắn với hệ thống di tích lịch sử văn hoá và cảnh quan thiên nhiên
Kiếp Bạc là kho tàng văn hoá phi vật thể phong phú về loại hình, đa dạng về
chức năng, chứa đựng trong đó là dấu ấn, tình cảm của bao lớp người lao
động bình dân đến tư tưởng tri thức của các bậc hiền tài, các vị quân vương,
thánh thần tiêu biểu của các triều đại phong kiến, bao gồm: Phong tục tập
quán, Lễ hội truyền thống, Nghề cổ truyền, Văn hoá ẩm thực, Nghệ thật dân
gian, Tri thức dân gian. Các giá trị văn hoá này được bồi tích theo thời gian có
sức lan toả và ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống tâm linh mỗi người. Đặc biệt
trong đó, Lễ hội truyền thống đền Kiếp Bạc chiếm một vị trí quan trọng, là
điểm hẹn thiêng liêng của đồng bào cả nước.
Dù ai buôn bán gần xa
Hai mươi tháng tám giỗ Cha thì về
"Tháng tám giỗ Cha" từ lâu đã đi sâu vào tâm thức thiêng liêng của
mỗi người dân Việt Nam, trở thành tập tục văn hoá truyền thống uống nước
nhớ nguồn của dân tộc. Hàng năm, lễ hội Kiếp Bạc tổ chức từ 15 - 20/8 âm

lịch. Vào những ngày này, không khí lễ hội tràn ngập và lan toả cả vùng :"
từ bến đò đi lên đông nghịt những người, dồn dập kẻ ra người vào, hết lớp
nọ, tới lớp kia, chen chân, lấn bước, đi thật khó..." (Trích lễ hội Đức Thánh
Trần/ Phạm Quỳnh Phương)
22


Hơn 700 năm qua, lễ hội truyền thống đền Kiếp Bạc - kỷ niệm ngày
mất của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn vẫn gìn giữ, bảo lưu và phát
huy giá trị đặc sắc, độc đáo, hấp dẫn của kì "Quốc lễ". Lệ xưa, đến ngày kị
của Đức Thánh, Triều đình đều cử các quan đại thần, các quan phủ, trấn
vùng lân cận về dự tế, lễ.
Ngày 15/8 âm lịch hai làng VạnYên và Dược Sơn làm lễ tế cáo yết
(xin mở cửa Đền). Ngày 18/8 âm lịch Nhà nước tổ chức lễ dâng hương
tưởng niệm, khai ấn Đức Thánh, cùng Quốc tế ban ân. Ngày 20/8 âm lịch
diễn ra nghi lễ rước kiệu Đức Thánh của hai làng và nhân dân thập phương.
Đoàn rước uy nghi, long trọng, có cờ hoa, bát biểu, chấp kích, long đình,
kiệu thờ, lễ phẩm đủ loại mâm ô, cỗ đầy do chính người làng làm lên dâng
thánh. Đoàn rước tập trung ở chùa Nam Tào, Bắc Đẩu tiến về Đền trong
tiếng trống giong, cờ mở. Đội tế của làng tiến hành nghi lễ tế tạ (lễ đóng cửa
Đền).
Lễ hội Đền Kiếp Bạc còn thu hút đông đảo các cơ cánh ngư dân vùng
sông nước như Trà Cổ (Quảng Ninh), Cát Bà, Đồ Sơn (Hải Phòng), Kênh
Giang, Kinh Môn (Hải Dương), Tuyên Quang, Vĩnh Phúc....Họ đem về
những sản vật quý hiếm, tình cảm, sự tôn kính Đức Thánh rất riêng. Họ tham
gia vào lễ rước thuỷ, hội quân hoành tráng trên sông Lục Đầu. Từ rạng sáng
ngày 15/8 âm lịch các đoàn thuyền tấp nập cập bến dày đặc cả khúc sông.
Trên thuyền trang hoàng cờ, xí, chiêng trống, và ngai của đức Thánh diễu
hành trên sông. Trước khi đoàn rước trở về đền người ta tổ chức đua thuyền,
làng nào thắng thì làng đó gặp nhiều may mắn. Đêm hoa đăng, buông những

khúc chuối cắm hương, đốt nến, vàng mã trôi trên mặt nước cầu siêu, thả đèn
trời lung linh huyền ảo, bừng sáng mây trời Vạn Kiếp.
Hội Kiếp Bạc còn hấp dẫn bởi những trò chơi dân gian đặc sắc, thể
hiện tinh thần thượng võ, biểu dương tài năng, sức mạnh của quân dân nhà
Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, khoe tài đọ sức trước cửa
thánh nhằm cầu phúc, cầu mùa, cầu quốc thái dân an, như đua thuyền, đấu
vật, bắt vịt dưới nước, đập niêu, đi cầu thùm, múa rối...
23


Trong tín ngưỡng dân gian, Đức Thánh Trần được tôn vinh là giáo chủ
của Đạo nội Việt Nam, đã hình thành và quy tụ hệ thống tín đồ lớn, đứng
đầu là thanh đồng( xuất phát từ linh danh thanh y đồng tử của Đức Thánh),
hành đạo ở trung tâm - đền Kiếp Bạc và các đền, phủ thờ Đức Thánh như
đền Trần, Đền Cố Trạch (Nam Định), đền A Sào (Thái Bình)...
Nghi thức đặc trưng của Đạo nội diễn ra ở Kiếp Bạc là: Cầu duyên,
cầu tự, bắt ma, trừ tà, chữa bệnh Phạm Nhan... “Trong những ngày hội nhiều
phụ nữ sinh con không nuôi được thường qùy niềm thần chú trước sân đền.
Ông đồng quần áo loè loẹt dắt cờ xanh đỏ quanh người, nhẩy múa gõ trống
khua thanh la, đánh đuổi ta ma đang ẩn nấp trong người phụ nữ. Khi người
phụ nữ bị thôi miên thường có những động tác sợ sệt, lăn lộn, đập đầu
xuống đất, đầu óc ruc rượi, thậm trí còn lao xuống sông… thì đó là ta ma đã
bị trừ”( Việt Nam phong tục/ Phan Kế Bính, năm 1990). Đặc biệt ở đây phổ
biến hình thức bùa ngải để diệt trừ tà ma: phía trước cửa đền có giếng nước
cổ, mọi người coi đó như nước thần, mong muốn được uống để diệt trừ tà
ma, giúp sinh con đẻ cái theo nguyện ước, phía sau hậu cung có gò đất cao,
người ta cho rằng lấy những mẫu đất, ăn vào có thể giúp người phụ nữ sinh
con dễ dàng và mang lại điều lành cho trẻ sơ sinh. Đáng chú ý nữa ở đền
Kiếp Bạc còn có phong tục “ vào cửa Cha, ra cửa Mẹ” cầu sức khoẻ, bình an
và nghi lễ hầu bóng được xem là nét văn hoá tâm linh đặc sắc, lôi cuốn, hấp

dẫn. Vào những ngày hội, các cơ cánh, thanh đồng, dù xa, dù gần đều tề tựu
về đền Kiếp Bạc mở canh hầu, lập chai đàn tế Thánh.
Với những giá trị tiềm ẩn của khu di tích Kiếp Bạc, tiến tới kỷ niệm
1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Bộ Văn hoá thông tin, UBND, Sở Văn hoá
thông tin tỉnh Hải Dương cho phép quy hoạch tổng thể khu di tích (giai đoạn
2005 - 2020), khôi phục, trùng tu, tôn tạo, xây dựng nhiều hạng mục công
trình phù hợp không gian cảnh quan và tái hiện lại diện mạo, quần thể các
công trình kiến trúc vốn đã tồn tại trên mảnh đất này đồng thời cho phép xây
dựng đè án nâng cấp lễ hội giai đoạn 2006 - 2010 nhằm thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, văn hoá xã hội của tỉnh và khu vực.
24


Tháng 5/2012, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận "Khu di
tích Côn Sơn - Kiếp Bạc là Di tích Lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật quốc gia
đặc biệt"
Lễ hội truyền thống Kiếp Bạc là nét văn hoá đặc sắc của nhân dân tỉnh
Hải Dương nói riêng và nhân dân khu vực Đồng bằng Bắc Bộ nói chung, để
tôn vinh công đức to lớn của anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại vương Trần
Quốc Tuấn, giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế
hệ người Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị (chủ biên): Phương pháp dạy học lịch sử.
NXB Giáo dục năm 2000
2. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Nguyễn Phan Quang: Công tác ngoại khóa
thực hành môn Lịch sử ở trường phổ thông, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1968.
3. Phan Ngọc Liên (chủ biên): Từ điển thuật ngữ lịch sử ở trường phổ thông.
4. Lương Ninh : Trò chơi lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1973.


25


×