Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới đối với học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.66 KB, 24 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

SÁNG KIẾN
TRANG TRÍ LỚP HỌC
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VIỆT NAM

Năm học 2014 - 2015
1


PHẦN 1 : MỞ ĐẦU
I.THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Trang trí lớp học theo mô hình trường học mới Việt Nam”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Không gian lớp học khối 3 trường Tiểu học
Bến Tắm - Thị xã Chí Linh.
3. Tác giả:
Hoàng Thị Hương Giang.
Sinh ngày: 9-7-1972

Giới tính: Nữ

Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm.
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Bến Tắm.
Điện thoại : 01213131269 hoặc 03203 887 038.
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Bến Tắm
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Lớp 3C trường Tiểu học Bến Tắm
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Học sinh khối 3
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013 - 2014
HỌ TÊN TÁC GIẢ



XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Hoàng Thị Hương Giang

2


II.TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Nghị quyết số 29 -NQ/TW ngày 04/11/2013 BCH TW Đảng khóa XI đã
chỉ rõ: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ
sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học....
Để thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục
và Đào tạo chỉ đạo đổi mới giáo dục tiểu học. Sau khi nghiên cứu Mô hình
trường học mới do UNESCO và Ngân hàng thế giới giới thiệu, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo nhận thấy những nhân tố của Mô hình trường học mới đã
có ở Việt Nam, những yếu tố tích cực của Mô hình trường học mới phù hợp với
định hướng đổi mới của giáo dục Việt Nam nên đã quyết định triển khai Mô
hình trường học mới tại Việt Nam ( VNEN).
Hải Dương là tỉnh thuộc nhóm ưu tiên 3 nên chỉ có trường Tiểu học nơi tôi
công tác là trường duy nhất trên địa bàn tỉnh được tham gia dự án, đây chính là
điều kiện thuận lợi để chúng tôi được phát huy tính sáng tạo của mình trong nội
dung trang trí lớp học.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:

Học sinh được học chương trình 10 buổi/tuần. Năm học 2012 - 2013 là
năm đầu tiên áp dụng với không gian lớp học và học sinh lớp 3. Năm học 2014 2015 là năm học thứ ba được áp dụng.
3. Nội dung sáng kiến:
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Đổi mới căn bản của Mô hình trường học mới là chuyển:
+ Hoạt động Dạy của giáo viên thành Hoạt động học của học sinh.
+ Hoạt động quy mô lớp thành hoạt động Quy mô nhóm.
+ Học sinh từ Làm việc với giáo viên thành Làm việc với sách, có sự
tương tác với bạn ( với giáo viên khi cần thiết).
3


Mô hình hướng tới chuyển các hoạt động giáo dục trong nhà trường thành
các hoạt động tự giáo dục cho học sinh, tập trung vào đổi mới sư phạm, đổi mới
phương pháp dạy - học.. lấy tự học của HS là hoạt động chủ đạo xuyên suốt quá
trình học tập. Chính vì thế nhịp độ học tập của các em trong một lớp có thể là
khác nhau. Các em còn được tự mình tham gia vào các hoạt động của lớp như
trang trí lớp học, tự xây dựng nội quy lớp học ...Vì vậy, theo cách học của mô
hình trường học mới, kiến thức được hình thành bằng quá trình tự trải nghiệm,
khám phá; được củng cố qua thực hành và ứng dụng vào thực tế.
3.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến.
Tất cả các em học sinh từ lớp 2 trở lên khi đã biết đọc thông, đọc hiểu Tiếng
Việt đều tham gia áp dụng. Vì dựa vào tài liệu hướng dẫn học các em biết được mình
sẽ phải làm gì, làm như thế nào, cần đạt được mục tiêu nào trong mỗi bài học.
Trang trí lớp học vừa làm cho lớp học thêm đẹp, vừa là công cụ hoạt động
để các em tham gia vào quá trình học tập trong mỗi môn học, mỗi bài học. Các
em được nhận xét đánh giá lẫn nhau, được đề xuất ý kiến với thầy cô, cha mẹ,
nhà trường, bạn bè thông qua các công cụ như Hộp thư bè bạn, điều em muốn
nói... Từ đó các em có thái độ học tập nghiêm túc hơn, có nhiều cơ hội độc lập
suy nghĩ, bộc lộ ý kiến. Kĩ năng giao tiếp của học sinh được nâng lên rõ rệt, các

em sẽ tự tin hơn.
4. Khẳng định giá trị, kết quả của sáng kiến:
Nội dung trang trí lớp học của lớp do tôi làm chủ nhiệm được nhà trường
đánh giá rất cao. Đây cũng chính là một trong những nội dung được Sở Giáo dục
và Đào tạo Hải Dương lựa chọn và chỉ đạo 100% các trường Tiểu học toàn tỉnh
vận dụng từ năm học 2014 - 2015.
5. Đề xuất, kiến nghị:
Nội dung trang trí lớp học cần được quan tâm, áp dụng rộng rãi trong các
trường học.

4


PHẦN 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Lý do chọn đề tài :
1.1. Cơ sở lí luận:
Mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân,
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. Nội dung dạy học ở Tiểu
học đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và
con người, có kĩ năng cơ bản về nghe, nói đọc viết và tính toán, có thói quen rèn
luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh, có hiểu biết ban đầu về hát múa, Âm nhạc và
Mĩ thuật. Kiến thức ở Tiểu học là những vấn đề cơ bản, cần thiết, đơn giản và
gần gũi với cuộc sống thực của học sinh. Nhiệm vụ trọng tâm của Tiểu học là
giúp các em hình thành và phát triển các kĩ năng.
Phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực

tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh Tiểu học là " Học mà chơi, chơi mà
học " nên việc thay đổi phương pháp giáo dục, hay môi trường giáo dục được
thay đổi nhẹ nhàng, phù hợp để kích thích lòng ham hiểu biết, sự sáng tạo của
các em là một việc làm cần thiết. Mô hình trường học mới đề cao tính tích cực
của học sinh, lấy học sinh là trung tâm của các hoạt động giáo dục; đổi mới hoạt
động sư phạm, tổ chức và hướng dẫn học sinh tự học, tăng cường liên hệ và ứng
dụng kiến thức vào thực tế; đổi mới đánh giá, chú trọng đánh giá quá trình học
tập của học sinh; cha mẹ học sinh, cộng đồng là nhân tố tham gia giáo dục học
sinh. Mô hình trường học mới hướng tới giáo dục toàn diện thể hiện ở ba nội dung:
Hình thành cho học sinh những kiến thức, kĩ năng theo mục tiêu chương trình,
là cơ sở cho sự phát triển nhân cách của mỗi con người;
Hình thành và phát triển những năng lực cơ bản cho học sinh: khả năng tự
phục vụ, tự quản; giao tiếp, hợp tác, tự học và giải quyết vấn đề; Hình thành các
5


phẩm chất cơ bản của học sinh: lòng yêu quê hương đất nước gia đình, yêu con
người; tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; chăm học, chăm
làm yêu thích nghệ thuật, thể thao.
Mô hình trường học mới tác động đến mọi nhân tố trong nhà trường, thay đổi
tích cực hoạt động của giáo viên, học sinh; tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường
với gia đình và cộng đồng; chú trọng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Giáo dục theo mô hình trường học mới Việt Nam cần tổ chức việc làm
cho trẻ em. Tìm ra hệ thống làm việc cho học sinh hoạt động và để các em thực
sự thoát khỏi tình trạng nghe giảng rồi nhắc lại nguyên vẹn lời giáo viên, và thực hiện
được công cuộc tự giáo dục cho chính mình, tự làm ra sản phẩm giáo dục.
Trong mô hình trường học mới, học sinh không còn là nhân vật thụ động
lắng nghe, ghi nhớ, học thuộc những điều thầy cô truyền thụ. Học sinh thực sự

là chủ thể của quá trình học tập: tự học theo sách, chia sẻ hợp tác với bạn, trao
đổi trong nhóm và báo cáo với giáo viên. Quy trình học tập trong mô hình
trường học mới hình thành cho học sinh thói quen tự giác, tự quản; khả năng tự
học, tự đánh giá và đánh giá bạn bè; lắng nghe, chia sẻ và hợp tác. Tự học là môi
trường, động lực biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo.
Vào lớp học của mô hình trường học mới, học sinh cảm thấy thân thiện, gần gũi với
các em. Những hình ảnh, những lời yêu thương đều được các em tự làm, tự nghĩ, tự
viết,… xung quanh bốn bức tường lớp học đều được chính bàn tay, trí tưởng tượng của
các em kết hợp cùng với cô giáo và các bậc phụ huynh tạo ra những góc học tập, góc
thư viện, góc đồ dùng, góc trưng bày sản phẩm, góc thiên nhiên, …. phục vụ vào chính
các nội dung, kiến thức hàng ngày các em được học.
Từ những định hướng trên chúng ta cần phải đổi mới nội dung, phương
pháp, cách thức tổ chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường sao cho thật
hiệu quả, đây chính là cơ sở, là cốt lõi của mô hình này. Vì vậy tôi đã tập trung
nghiên cứu và viết sáng kiến Trang trí lớp học theo mô hình trường học mới
Việt Nam, hi vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường
nói riêng, góp phần thực hiện thành công Dự án tại trường.

6


2. Mục đích nghiên cứu :
Tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao chất lượng dạy học và đổi
mới phương pháp giáo dục theo mô hình trường học mới Việt Nam.
Tạo hứng thú, lòng ham mê học tập, sự tự tin và nâng cao kĩ năng
sống cho học sinh trong nhà trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Học sinh khối 3 trong trường tiểu học tham gia mô hình trường học mới.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các văn kiện, các

công văn, văn bản hướng dẫn, tài liệu hướng dẫn về mô hình trường học mới.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Tìm hiểu, khảo sát, thu thập các dữ liệu thực tiễn có liên quan.
+ Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.
5. Nội dung, biện pháp thực hiện :
5.1. Điểm mới của mô hình trường học mới Việt Nam:
Mô hình trường học mới Việt Nam hướng tới chuyển các hoạt động giáo
dục trong nhà trường thành các hoạt động tự giáo dục cho HS.
Đặc trưng của Mô hình trường học mới là Tự:
Học sinh: Tự giác, tự quản, tự học, tự tin, tự đánh giá...
Giáo viên: Tự chủ, tự bồi dưỡng.
So với chương trình hiện hành, chương trình VNEN có sự đổi mới:
Về tổ chức lớp học: Thân thiện, tiện di chuyển và tham gia các hoạt động.
Phương pháp dạy học: Theo Bộ Giáo duc và Đào tạo, mô hình VNEN tăng
cường sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, tạo không khí học tập nhẹ nhàng,
thân thiện; giáo viên phải tự trau dồi, nâng cao trình độ; học sinh sẽ không học thụ
động mà bắt buộc phải có sự trao đổi, tư duy với giáo viên và các bạn cùng lớp, từ đó
sẽ nâng cao hiệu quả tiếp nhận đối với học sinh.
Như vậy, cách học của mô hình trường học mới, kiến thức được hình
thành bằng quá trình tự trải nghiệm, khám phá; được củng cố qua thực hành và
ứng dụng vào thực tế. Học theo mô hình trường học mới học sinh sẽ nắm được
kiến thức một cách chắc chắn và bền vững. Trang trí lớp học có các góc học tập,
7


có thêm những công cụ học tập như Cây lời yêu thương,10 bước học tập .... sẽ
giúp cho các tiết học sôi nổi, gây hứng thú cho học sinh, phát huy tính tích cực
và sáng tạo của học sinh. Giúp các em tự tin chiếm lĩnh các kiến thức mới một
cách chủ động hơn.
5.2. Thực trạng

5.2.1,Thực trạng của giáo dục Tiểu học hiện nay:
Trong thời gian qua, phong trào Giáo dục của thị xã Chí Linh phát triển
không ngừng, nhiều hoạt động phong phú góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục được triển khai rộng rãi ở các trường trong toàn tỉnh. Khuôn viên nhà
trường đảm bảo luôn sạch sẽ thoáng mát. Lớp học có đủ ánh sáng, bàn ghế hợp
lứa tuổi học sinh. Các công trình vệ sinh luôn được giữ gìn sạch sẽ...Các thầy cô
giáo năng động, sáng tạo, có nhiều phương pháp dạy hấp dẫn, khuyến khích
được sự chủ động tích cực và ý thức vươn lên của học sinh.
Các em học sinh biết hợp tác trong học tập, sinh hoạt và dần hình thành
được những kĩ năng sống tốt ...giúp các em tự tin hơn để phát triển năng lực,
góp phần tạo nên sự năng động, sáng tạo của các em, góp phần không nhỏ vào
việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam mới của thế kỉ 21.
Đây sẽ là yếu tố vô cùng thuận lợi cho việc triển khai vận dụng theo mô hình
trường học mới Việt Nam.
5.2.2. Thực trạng về nhà trường.
Trường Tiểu học nơi tôi công tác là một trường nhỏ, cơ sở vật chất còn
thiếu, chưa đồng bộ nhất là các phòng học còn có phòng không đủ diện tích theo
quy định. Phòng học đã xuống cấp tường lớp học đã bị hỏng, vôi ve bị mờ nhạt
lớp học không được khang trang. Sĩ số học sinh đã đảm bảo theo quy định. Đội
ngũ giáo viên trình độ chuyên môn không đồng đều, một số đồng chí chưa linh
hoạt trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
Song với sự nhiệt tình trách nhiệm của các giáo viên chủ nhiệm đoàn kết
cộng đồng trách nhiệm. Chất lượng đại trà được nâng dần sau mỗi năm. Trường
lớp ngày một khang trang, thân thiện. Học sinh ngoan, lễ phép nhiều em đã tích
cực rèn luyện tu dưỡng. Phụ huynh học sinh quan tâm, tạo nhiều điều kiện thuận
lợi để học sinh tiếp cận thực hiện dự án, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
8


5.2.3. Thực trạng lớp học tôi phụ trách

Việc dạy học theo mô hình trường học mới sẽ giúp cho việc nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện học sinh, đồng thời giúp cho người giáo viên nhẹ nhàng hơn
trong khâu soạn giảng, có nhiều thời gian đầu tư nghiên cứu bài dạy. Tuy nhiên, trong
quá trình tổ chức thực hiện có những khó khăn cần vượt qua như sau:
* Về giáo viên: Giáo viên chưa chủ động, còn lúng túng trong việc dạy
theo mô hình trường học mới cũng như việc trang trí lớp chưa sáng tạo, chưa
khoa học để đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Tuyên truyền với phụ huynh
học sinh còn hạn chế.
*Về học sinh: Một số ít học sinh kiến thức Tiếng Việt chưa tốt, nhất là việc
đọc hiểu của học sinh. Vì học theo nhóm nên giờ học ở lớp dễ trở nên lộn xộn, ồn
ào, nếu giáo viên chưa hướng dẫn kĩ học sinh kĩ năng hợp tác, biết lắng nghe ý
kiến của bạn thì giờ học sẽ kém hiệu quả. Sử dụng các công cụ học tập chưa
quen, còn lúng túng trong việc tự hoạt động học tập, tự làm, sưu tầm những đồ
dùng học tập phục vụ bài học chưa tự giác.
*Về CSVC chưa đáp ứng được nhu cầu học tập theo phương pháp mới
như bàn ghế không đúng quy định, đồ dùng học tập còn thiếu, Sử dụng các góc
học tập, các công cụ phục vụ học tập còn hạn chế, chưa khoa học.
* Về cha mẹ học sinh: Một số phụ huynh còn băn khoăn sợ con em mình
không thích ứng được cách học mới, một số khác thờ ơ thiếu sự hợp tác. Chưa
thấy được tầm quan trọng của việc trang trí lớp học không chỉ trang trí cho đẹp
không gian trong lớp mà còn là các công cụ giúp cho các em trong quá trình học
tập trên lớp hàng ngày.
Từ những thực trạng nêu trên, đặc biệt là nội dung tổ chức lớp học đang
thực hiện trong nhà trường. Tôi đã quyết định chọn nội dung Trang trí lớp học
theo mô hình trường học mới là vấn đề đầu tiên, cốt lõi để thực hiện, vận dụng
vào thực tế học sinh của lớp mình.
5.3. Nội dung , biện pháp thực hiện :
5.3.1. Công tác chuẩn bị :
Khi được nhà trường phân công làm công tác chủ nhiệm lớp, với đặc thù
của một lớp học theo mô hình VNEN, tôi đã lập dự thảo kế hoạch trang trí lớp

9


học theo mô hình trường học mới và trình bày rõ ràng nội dung của việc trang trí
lớp học theo mô hình trường học mới trong cuộc họp phụ huynh học sinh đầu
năm học. Những yêu cầu đề ra là lớp học phải đủ tiêu chuẩn, ấm về mùa đông,
thoáng mát về mùa hè, phải có hệ thống tủ để làm các góc ( góc Học tập, góc
Thư viện, góc Đồ dùng, Góc Trưng bày sản phẩm, góc Cộng đồng ) cho học
sinh sử dụng, phải có các bảng biểu treo tường ( Bản đồ cộng đồng, Nội quy lớp
học, Nhịp cầu bè bạn, Công việc trong tuần, Hộp thư Điều em muốn nói, Cây lời
yêu thương ) để học sinh viết, vẽ …..
Một số phụ huynh học sinh băn khoăn đưa ra ý kiến :
- Các con mới chỉ học lớp 3, ở nhà bố mẹ còn phải bón cơm, ru ngủ, làm
sao có thể đảm nhiệm được công việc, hay cô giáo cứ đưa ra các danh mục đồ
dùng sách vở cần thiết để ở các góc, chúng tôi sẽ góp tiền và cử người tìm mua
đầy đủ cho các cháu học.
- Nếu nội dung trong các biểu bảng mà để các con tự làm thì sẽ không
đẹp và sẽ ảnh hưởng tới xếp thứ thi đua của lớp trong nhà trường. Vậy phụ
huynh học sinh và cô giáo sẽ bàn bạc thống nhất các nội quy, công việc rồi thuê
in hoặc vẽ chuyên nghiệp thì sẽ đẹp.
Trước những ý kiến băn khoăn của phụ huynh học sinh đưa ra, tôi đã giải
thích ở hội nghị phụ huynh học sinh về ý nghĩa của việc trang trí lớp học. Trang
trí lớp học phải đẹp nhưng là để các em sử dụng, qua đó các em hiểu rõ quyền
và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn luyện các kĩ năng lãnh đạo,
kĩ năng tham gia, hợp tác...trong các hoạt động. Các tiêu chí: trang trí phải đẹp,
hài hòa, phù hợp, sáng tạo và hấp dẫn học sinh được hội phụ huynh học sinh
nhất trí cao. Hội phụ huynh học sinh đã trực tiếp phân chia công việc chuẩn bị
về cơ sở vật chất để trang trí lớp. Các góc trong lớp đều được sửa sang theo mục
đích sử dụng và sắp xếp khoa học. Hệ thống tủ nhôm có sẵn trong lớp được chia
thành các góc chuyên biệt: Góc học tập, Góc Thư viện, Góc Đồ dùng, Góc

Trưng bày sản phẩm, Góc Cộng đồng …và sẽ giao cho học sinh sắp xếp, quản lý
sử dụng. Các công cụ hỗ trợ hoạt động tự quản đều được thiết kế vừa tầm học
sinh sử dụng và phù hợp với tổng thể không gian lớp học.

10


Riêng góc thiên nhiên của lớp, vì các em mới là học sinh lớp 3, hội cha mẹ học
sinh cũng thống nhất quan điểm: bố mẹ sẽ xây dựng góc thiên nhiên: thiết kế
vườn cây, trồng cây còn học sinh thì chỉ chăm sóc tưới cây hàng ngày.
5.3.2. Tiến hành trang trí lớp học :
5.3.2.1.Tiêu chí trang trí :
5.3.2.1.1. Không gian lớp học phải đủ tiêu chuẩn: Do có sự kết hợp
chặt chẽ cùng hội phụ huynh học sinh, phòng học lớp tôi đã được các bậc phụ
huynh chung tay góp sức tạo nên một phòng học an toàn và tương đối đầy đủ về
cơ sở vật chất. Phụ huynh học sinh đã trực tiếp sửa chữa từng chiếc bàn ghế, các
khuy khóa cửa sổ, cửa chính. Hệ thống điện chiếu sáng cũng được phụ huynh
học sinh lắp đặt đảm bảo an toàn và đủ ánh sáng. Hệ thống máy chiếu, âm thanh
cũng được các vị phụ huynh học sinh có chuyên môn trực tiếp lắp đặt và chỉnh
sửa tại lớp. Nhiều phụ huynh học sinh xung phong trồng cây xanh để xây dựng
góc thiên nhiên. Sau một thời gian ngắn, phòng học lớp tôi đã đầy đủ, khang
trang và đảm bảo đủ tiêu chuẩn phục vụ cho dạy và học.
5.3.2.1.2.Lớp học phải được sắp xếp khoa học : Với quy trình 5 bước
trong mô hình VNEN là tạo hứng thú, trải nghiệm, phân tích, khám phá, rút ra
bài học thì việc tổ chức các trò chơi khởi động, các hoạt động thi đua nhóm ... là
rất cần thiết. Tôi nhận thấy các em học sinh và giáo viên phải có những lối đi
trong lớp, có không gian để hoạt động tập thể. Tôi đã kê bàn ghế cho các em
theo hướng tạo không gian thoáng, thuận tiện cho việc tổ chức các hoạt động
của tập thể và của các nhóm, của từng các nhân học sinh, thuận tiện cho việc di
chuyển của giáo viên và việc bao quát lớp. Khác với những tiết dạy học theo

phương pháp truyền thống: học sinh ngồi nhìn lên bảng nghe cô giảng bài thì ở
lớp học VNEN từ bất cứ một vị trí nào trong lớp đều là trung tâm của quá trình
dạy và học. Cô giáo sẽ đồng hành cùng học sinh khám phá, trải nghiệm những
kiến thức mới, tìm ra những khó khăn vướng mắc trong bài học.Việc cô học
cùng nhóm này hoặc nhóm kia là việc bình thường, cô sẽ trở nên gần gũi và thân
thiện với học trò, xóa bỏ khoảng cách từ bục giảng đến bàn học sinh theo
phương phương pháp dạy học truyền thống.
11


5.3.2.1.3. Lớp học phải gần gũi thân thiện với học sinh: Lớp học
VNEN là lớp học trang trí cho học sinh sử dụng. Các góc, các bảng trong lớp
hoàn toàn do học sinh sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh. Ở trong
môi trường đó, học sinh được tiếp thu tri thức trong một bầu không khí thân
thiện, gần gũi, điều đó góp phần giúp trẻ hứng thú trong học tập và đem lại hiệu
quả cao trong giáo dục. Lớp học được coi như ngôi nhà chung, ngôi nhà thứ hai
của mình và các em thấy được mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày vui,
bản thân các em thêm yêu trường yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó.
5.3.2.2. Xây dựng các góc : Mô hình VNEN thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính
tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh, chuyển việc truyền thụ của giáo
viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp học VNEN cần phải có tính linh
hoạt trong việc chuẩn bị sách vở , đồ dùng , tài liệu , tư liệu tham khảo ... cho
mỗi bài học. Chính vì vậy việc thiết kế các góc học tập, góc thư viện, góc đồ
dùng, góc trưng bày sản phẩm, góc cộng đồng...là rất cần thiết trong lớp học
VNEN. Ở các góc này, bất cứ lúc nào học sinh đều có thể tìm tòi, nghiên cứu bổ
sung kiến thức hoặc khám phá những điều mà mình còn chưa hiểu , chưa biết ,
học sinh cũng được khẳng định mình và tập đánh giá qua các sản phẩm được
trưng bày tại đây. Ngoài những tác dụng trên, các góc này còn tạo học sinh
cảm giác thân thiện gần gũi, ý thức gắn bó với lớp . Trong lớp học của mình, tôi

đã họp với HĐTQ và trưởng các ban bàn biện pháp xây dựng, quản lý và sử
dụng các góc để phát huy hết tính năng tác dụng của các góc. Mỗi góc được giao
cho một ban phụ trách: Góc Học tập giao cho Ban học tập, góc Thư viện giao
cho Ban thư viện, Góc Đồ dùng giao cho Ban Sức khỏe vệ sinh, góc Trưng bày
sản phẩm giao cho Ban Quyền lợi học sinh, góc Cộng đồng giao cho Ban đối
ngoại, góc Thiên nhiên giao cho Ban văn nghệ ...
5.3.2.2.1.Góc học tập: Sau khi nhận nhiệm vụ phụ trách Góc học tập, ban
Học tập đã phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong ban. Các em đã lập
được kế hoạch xây dựng góc học tập. Các đồ dùng thường xuyên trong tiết học
được các em sắp xếp vào một ngăn ở góc học tập: Các loại vở viết, Bảng nhóm,
Lọ mực, hộp phấn…Trong các giờ học VNEN, phiếu học tập là một công cụ cần
12


thiết trong mỗi tiết học, tôi đã hướng dẫn Ban học tập làm những chiếc hộp nhỏ
để phiếu học tập, thẻ, những bông hoa cắt bằng giấy….Hàng tuần, ban học tập
họp và lập kế hoạch chuẩn bị phiếu học tập, thẻ, hoa… cho các bài học của tuần
sau rồi phân công các bạn trong lớp lần lượt chuẩn bị các phiếu học tập đó.
5.3.2.2.2. Góc thư viện: Do đã được tham gia mô hình VNEN từ lớp 2
nên Ban thư viện lớp tôi nhanh chóng nắm bắt được nhiệm vụ của Ban. Các em
chủ động liên hệ với thư viện nhà trường mượn các loại sách truyện, tư liệu cần
thiết và sắp xếp tương đối khoa học. Các em cũng biết lập kế hoạch hoạt động
cho Ban của mình: phân công lần lượt từng thành viên trong ban trực thư viện
cho mượn truyện . Tôi cũng đã có gợi ý cho học sinh về việc xây dựng thư viện,
các em đã đề ra sáng kiến Góp sách truyện cho thư viện. Sau một thời gian thu
góp, thư viện lớp tôi đã có hàng chục đầu sách truyện, nhiều sách có giá trị cũng
được các em đóng góp cho thư viện. Ban thư viện còn chủ động đề ra lịch giới
thiệu sách hay trước lớp. Tuy việc giới thiệu sách của các em mới dừng lại ở
việc nêu tên sách, tên tác giả nhưng đây cũng là những bước tiền đề để rèn cho
học sinh thói quen ham đọc sách, nâng cao khả năng ngôn ngữ và trau dồi những

giá trị nhân văn cho học sinh.
5.3.2.2.3. Góc đồ dùng :Cùng với việc xây dựng, quản lý và sử dụng góc
thư viện, các em học sinh trong ban Sức khỏe vệ sinh lớp tôi cũng tự lập được
kế hoạch xây dựng góc đồ dùng. Bên cạnh việc mượn đồ dùng tại phòng đồ
dùng của nhà trường, các em còn biết tự phân công sưu tầm các đồ dùng phục
vụ cho việc dạy và học. Đồ dùng của các em chuẩn bị chỉ đơn giản là những bức
ảnh gia đình, những vật dụng gần gũi với đời sống của các em như những món
đồ chơi, củ khoai, các loại hạt đỗ, hạt lạc, hạt thóc...nhưng rất hữu ích trong các
bài học của các em.
5.3.2.2.4. Góc trưng bày sản phẩm: Khi được nhận nhiệm vụ xây dựng
và quản lý góc Trưng bày sản phẩm, các em học sinh trong ban Quyền lợi học
sinh cũng có nhiều băn khoăn. Bạn trưởng ban thì thắc mắc: nếu chỉ trưng bày
các sản phẩm của chúng em làm ra thì góc của em bây giờ có ít sản phẩm lắm
trong khi các góc khác các bạn có nhiều sản phẩm rồi. Một số bạn khác đưa ra ý
13


kiến: Hay chúng em tập trung làm một số sản phẩm trong vài ngày rồi bầy vào
cho đầy tủ.
Tôi đã cho các em thảo luận để tìm ra mục tiêu hoạt động của Góc trưng
bày sản phẩm. Những ý kiến, những thắc mắc của các em đều được bàn bạc trên
tinh thần: Trưng bày sản phẩm để phục vụ cho bài học của chính học sinh, để
rèn các kĩ năng cần thiết cho chính học sinh, để tạo cơ hội cho tất cả các học
sinh trong lớp được khẳng định mình.
Sau vài buổi thảo luận trong ban Quyền lợi học sinh và trước cả lớp, Ban
Quyền lợi học sinh cũng lập được ra kế hoạch cho công việc của ban. Các em
chủ động sắp xếp trưng bày các sản phẩm của chính các bạn trong lớp sau mỗi
tiết học. Từ những bài viết đẹp, những bài toán trình bày sáng tạo hay đơn giản
hơn là một lá đơn xin nghỉ học viết đúng mẫu, những sản phẩm thủ công, những
bài vẽ đẹp...đều được ban Quyền lợi học sinh chủ động trưng bày và giới thiệu

cho cả lớp tham khảo, học tập.
5.3.2.2.5. Góc cộng đồng: Khi định hướng cho các em học sinh trong
Ban đối ngoại phụ trách Góc cộng đồng, tôi tiến hành họp với cả ban để bổ sung
thêm những nhận thức về việc xây dựng góc cộng đồng cho các em. Những mối
quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng địa phương được các em đơn giản hóa
bằng sự giới thiệu chính gia đình của mình với những nhóm nghề nghiệp của bố
mẹ các em, các sản vật làm ra từ chính gia đình các em và những gia đình quanh
nơi em ở. Những đặc trưng của các vùng miền trên cả nước và thế giới cũng
được các em đề nghị sẽ sưu tầm để đưa vào trưng bày tại góc cộng đồng. Do đã
được tiếp cận với mô hình VNEN từ lớp 2 nên các em trong Ban đối ngoại cũng
đưa ra nhiều phương án để xây dựng góc cộng đồng và các em chủ động lập kế
hoạch hoạt động cho ban của mình. Tuy những sản phẩm của các em sưu tầm
được chưa nhiều và chưa mang tính đại diện nhưng ý thức cộng đồng cũng như
trách nhiệm với công việc chung được đề cao và lan tỏa tới nhiều phụ huynh học
sinh trong lớp và cộng đồng.
5.3.2.2.6. Góc thiên nhiên: Dạy và học đều là những hoạt động trí tuệ,
việc thư giãn nghỉ ngơi là vô cùng cần thiết. Chúng ta hiểu rằng hoạt động thần
kinh căng thẳng sẽ dịu đi khi mắt ta bắt gặp màu xanh của cây lá, sắc hoa thiên
14


nhiên. Trong các gia đình, cũng vì lợi ích đó mà người ta hay trang trí cây xanh,
cây cảnh. Do vậy cũng giống như mỗi căn nhà, việc xanh hóa lớp học là điều hết
sức cần thiết. Không gian xanh trong lớp học còn giúp giáo dục đạo đức nhân
các học sinh thông qua cảnh quan môi trường học đường, nâng cao ý thức trách
nhiệm cộng đồng vì một môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện. Việc
xây dựng Góc thiên nhiên ở lớp tôi có nhiều thuận lợi khi được sự đồng thuận
ủng hộ của phụ huynh học sinh. Nhiều phụ huynh học sinh xung phong sưu tầm
và trồng cây. Góc thiên nhiên với nhiều loại cây đẹp, dễ sống, dễ chăm nhanh
chóng được hình thành. Ban Đối ngoại đã lập kế hoạch chi tiết cho việc tưới cây

hàng ngày và các em còn phân công nhau giám sát việc tưới cây của các bạn để
có đánh giá nhận xét trong buổi sinh hoạt cuối tuần.
5.3.2.3. Thiết kế bộ công cụ hỗ trợ hoạt động tự quản: Mô hình trường
học mới hướng tới dạy chữ song song với dạy người. Học sinh được học kiến
thức nhưng cũng cần được rèn luyện để có được những kĩ năng cần thiết cho
cuộc sống. Học sinh phải có năng lực tự học, năng lực hợp tác, tự quản, năng lực
tự đánh giá, học sinh phải tự tin trong giao tiếp và trong các hoạt động giáo dục.
Vì vậy các công cụ học tập, đánh giá, giáo tiếp... trong lớp học là điều cần thiết.
Việc khai thác hiệu quả các công cụ chính là quá trình rèn kĩ năng cho học sinh.
5.3.2.3.1.Bản đồ cộng đồng: Bản đồ cộng đồng trong lớp học là một
công cụ cần thiết để phát triển tư duy lô gic cho học sinh, các kĩ năng xem bản
đồ, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng quan sát.... đều được hình thành qua việc xây
dựng bản đồ cộng đồng. Bên cạnh đó các em còn được hình thành thái độ thân
thiện , gần gũi với bạn bè và với cộng đồng. Không yêu cầu cao như những tấm
bản đồ tiêu chuẩn mà bản đồ cộng đồng là do học sinh tự xây dựng, mô tả đơn
giản về trường học, đường giao thông, vị trí nhà của tất cả các em học sinh. Học
sinh biết vị trí nhà mình và nhà các bạn trong lớp gần nhà mình. Qua đó giáo
viên có thể đến thăm gia đình học sinh hoặc giao việc cho học sinh phù hợp. Từ
những nguyên tắc trên, tôi đã cùng các em xây dựng một bản đồ cộng đồng. Các
con đường chính trong địa bàn được tôi đơn giản hóa bằng những đường thẳng,
các vị trí nhà của từng em được định vị bắt đầu từ vị trí của trường. Các em
nhanh chóng xác định được vị trí của nhà mình từ đường đi học hàng ngày, sau
15


nhà bạn nào, trước nhà bạn nào, đi đường nào thì sẽ đến Uỷ ban nhân dân xã.
Tuy Bản đồ cộng đồng của cô trò chúng tôi không có những kinh độ, vĩ độ hay
chi tiết như bản đồ trên Google Map nhưng khi hoàn thành bản đồ tất cả các em
học sinh trong lớp tôi đều rất hào hứng và tự hào vì chính các em là người làm
ra tấm bản đồ này. Bản đồ cộng đồng cũng giúp tôi nhiều trong công tác chủ

nhiệm lớp.
5.3.2.3.2. Nội quy lớp học: Để xây dựng nội quy của lớp, tôi đã cho cả
lớp thảo luận về những việc phải làm và những việc không được làm ở lớp.
Thành tích thi đua của lớp cũng là một yếu tố để các em đưa ra những quy định
chung. Những vi phạm trong các mặt hoạt động, học tập... đều được các em bàn
bạc và nêu hướng khắc phục. Từ các nhóm, các em nêu những tấm gương người
tốt việc tốt và cả những việc chưa làm được, những bạn hay làm trừ điểm thi đua
của lớp ..Sau một số buổi thảo luận trong lớp về nội dung những việc phải làm,
những việc không được làm, tôi đã cho triệu tập cuộc họp cốt cán trong lớp gồm
Chủ tịch, phó chủ tịch, các trưởng ban, trưởng nhóm trong lớp. Chúng tôi quyết
định sẽ xây dựng nội quy lớp dựa vào các ý kiến thảo luận của tập thể lớp, mỗi
ban sẽ cụ thể hóa nội quy bằng 5 điều ngắn gọn . Khi đã có phương hướng để
xây dựng nội quy lớp, mỗi ban đều đưa ra những quy định mang tính đặc thù
của ban và phù hợp với lớp. Các ban chọn và cử những bạn viết đẹp viết ra nội
quy của lớp và trình bày lên các bảng đã được hội cha mẹ học sinh chuẩn bị.
5.3.2.3.3.Công việc trong tuần: Công việc trong tuần là kế hoạch cho
một tuần hoạt động của cả lớp với những nhiệm vụ mà các ban đề ra. Việc lập
kế hoạch hoạt động cho tuần sau của các ban ở lớp tôi được các em thực hiện rất
tốt. Các ban biết phân công công việc cho từng thành viên một cách phù hợp.
Việc triển khai công việc cho cả lớp được đi vào nề nếp ngay từ đầu năm học.
Ban học tập biết phân công lần lượt các thành viên trong ban cho lớp truy bài
đầu giờ, kiểm tra hoạt động ứng dụng, đồ dùng sách vở của các bạn trong cả
tuần. Các loại sách vở, bảng nhóm, phiếu học tập cũng được ban học tập chuẩn
bị cho cả lớp đầy đủ trước mỗi giờ học.
Hoạt động của Ban văn nghệ lớp tôi cũng nhanh chóng đi vào nền nếp.
Ban văn nghệ tự phân công các thành viên cho lớp hát đầu giờ, chơi các trò chơi
16


khởi động…Các em còn nhận nhiệm vụ phụ trách Góc thiên nhiên nên chủ động

lập ra lịch tưới cây cho cả lớp và phân công từng thành viên giám sát việc tưới
cây, cuối tuần các em có đánh giá nhận xét cụ thể từng việc mình được giao.
Do được chủ động trong công việc, Ban đối ngoại lớp tôi đã rất năng động sáng
tạo, ngoài việc phân công các bạn trong lớp sưu tầm đồ dùng cần thiết để xây
dựng góc cộng đồng, các em còn tự lên lịch kiểm tra các bạn phong cách tự tin
trong giao tiếp. Các em biết hướng dẫn các bạn trong lớp tập giới thiệu về bản
thân, về lớp mình, trường mình, nhà mình….Những bạn làm tốt đều được các
em biểu dương cho lớp học tập trong các buổi sinh hoạt cuối tuần.
Ban sức khỏe vệ sinh của lớp cũng là một ban hoạt động tương đối đều
tay. Các em tự lập lịch phân công trực nhật cho các nhóm, lịch chuẩn bị đồ dùng
cho từng buổi học. Bên cạnh việc lập kế hoạch, các em còn phân công theo dõi,
giám sát và có đánh giá nhận xét vào cuối tuần.
Ban Quyền lợi học sinh cũng được định hướng hoạt động ngay từ đầu
năm học. Các em phân công từng thành viên với những công việc cụ thể: Tổ
chức sinh nhật cho các bạn, theo dõi việc viết thư từ hòm thư các nhân của các
bạn trong lớp, chuyển những chia sẻ của các bạn tới cô giáo từ Hòm thư Điều
em muốn nói…..
Cuối mỗi tuần, các ban đều có họp đánh giá lại công việc trong tuần và
lập kế hoạch hoạt động cho tuần sau.
5.3.2.3.4. Nhịp cầu bè bạn: Ngay từ khi định hướng xây dựng Nhịp cầu
bè bạn, tôi đã có ý tưởng phân chia các em thành các nhóm theo tiêu chí mùa
sinh: Các em sinh vào những tháng 1,2,3 sẽ vào nhóm Mùa xuân, các em sinh vào
những tháng 4,5,6 sẽ vào nhóm Mùa hè ,các em sinh vào những tháng 7,8,9 vào nhóm
Mùa thu, các em sinh vào tháng 10,11,12 vào nhóm Mùa đông. Từ các nhóm mỗi em
được tự tạo cho mình một hòm thư có ảnh đại diện và bức tranh nhỏ do chính các em
tự vẽ. Việc thường xuyên viết thư chia sẻ với bạn bè hình thành cho các em những kĩ
năng cần thiết trong cuộc sống. Các em có thể kể về các bức vẽ, hình ảnh của mình
với các bạn xung quanh, chúc mừng sinh nhật bạn….Các em cũng có thể chia sẻ với
bạn những niềm vui, nỗi buồn, kể về một món đồ chơi mới có hoặc một chuyến đi
chơi cùng bố mẹ, một món ăn ngon….

17


Việc phân chia các nhóm theo mùa cũng giúp các em nhớ ngày sinh nhật của
mình, của bạn.Từ đó ban Quyền lợi học sinh sẽ bố trí sắp xếp và tổ chức chúc
mừng sinh nhật cho các bạn.
5.3.2.3.5. Bảng chỉ dẫn 10 bước học tập: Bảng này được treo trên tường
phòng học, không cần hướng dẫn của giáo viên, các em học sinh phải tự thực
hiện lần lượt và đầy đủ các bước để chiếm lĩnh bài học.
5.3.2.3.6. Cây lời yêu thương: Cây lời yêu thương là nơi các em thể hiện
tình cảm của mình với bố mẹ, thầy cô, bạn bè, trường, lớp…Đó cũng là nơi giúp
các em bồi dưỡng khả năng diễn đạt tình cảm bằng ngôn ngữ viết. Chủ điểm của
cây được thay đổi thường xuyên như: Chủ điểm Em yêu trường em, Lớp học của
em, Bà mẹ và cô giáo, Em yêu cô giáo….Các em học sinh sẽ thể hiện tình cảm
của mình bằng cách viết những lời yêu thương dán lên cây. Các em cũng có thể
sưu tầm các câu văn câu thơ, câu hát hay theo đúng chủ điểm.
5.3.2.3.7. Hộp thư Điều em muốn nói : Hộp thư điều em muốn nói là nơi
mà học sinh có thể chia sẻ với cô những tâm tư nguyện vọng, thậm chí cả những
niềm vui, nỗi buồn, những thắc mắc riêng tư...Từ những điều rất nhỏ nhặt bình
thường như: con muốn đổi chỗ, bạn bên cạnh con hay trêu con hay những việc
tế nhị hơn: cô ơi, con buồn lắm vì bố mẹ con toàn yêu em bé thôi...các em đều
viết thư chia sẻ với cô qua hộp thư này. Có những điều tôi phải xử lý trước lớp
trong giờ sinh hoạt cuối tuần, nhưng có những điều tôi lại phải cùng học, cùng
chơi với học sinh để gỡ rối cho các em, cũng có nhiều vấn đề tôi phải trao đổi
với cha mẹ học sinh để kịp thời giải quyết .
5.3.3.Khai thác sử dụng: Sau khi hoàn thành trang trí lớp học, việc khai
thác sử dụng các công cụ ở lớp tôi được giao cho Hội đồng tự quản điều hành.
Các em đưa các hoạt động của lớp vào nề nếp với sự hỗ trợ của bộ công cụ.
Trong các giờ học, các em chủ động chuẩn bị, sắp xếp các loại sách vở, đồ dùng,
thiết bị, phiếu học tập cần thiết. Những sản phẩm học tập có tính làm gương

được các em bình chọn đưa vào Góc trưng bày sản phẩm. các em còn chủ động
tổ chức giới thiệu các sản phẩm ( những bài toán trình bày sạch đẹp, sáng tạo,
những bài văn hay, những bài viết đẹp .....). Trong ngày Tết trung thu vừa qua,
các em cũng đã chủ động đề nghị Hội phụ huynh học sinh ủng hộ cho một số
18


loại quả trồng tại vườn nhà một số bạn trong lớp để liên hoan. Các nề nếp hoạt
động được hình thành và đi vào hoạt động hiệu quả. Các ban trong lớp đều có
lịch cụ thể cho cả tuần treo tại bảng phân công công việc trong tuần. Từ việc cho
lớp truy bài đầu giờ đến việc đọc truyện, từ việc trực nhật cho đến việc tưới cây,
từ việc cho lớp hát đến tổ chức chúc mừng sinh nhật cho các bạn... tất cả đều
được Hội đồng tự quản điều hành hiệu quả, có đánh giá, nhận xét chi tiết vào
cuối tuần. Mặc dù các em mới học lớp 3 nhưng qua một số công cụ như: Nhịp
cầu bè bạn, Điều em muốn nói, Cây lời yêu thương...các em đã biết chia sẻ
những cảm xúc của mình với bạn bè, cô giáo, bố mẹ...bằng những câu ý nghĩa.
Nhiều vị phụ huynh học sinh đưa con đi học, được đọc những lời yêu thương
của con viết gửi bố mẹ đã rất xúc động: “’Bố ơi bố, Quỳnh Hương yêu bố lắm.
Quỳnh Hương của bố !’’, “”Con yêu mẹ Hà nhất ”, “Cô Vượng ơi, con nhớ cô
lắm ” “’Bà ơi, cháu yêu bà lắm, bà sống thật lâu với cháu nhé’’...Qua hộp thư
Điều em muốn nói, nhiều tâm tư nguyện vọng của các em cũng được gửi đến cô
như những lời thủ thỉ: “Cô ơi, con muốn vào đội văn nghệ của lớp”, “Cô ơi, các
bạn cứ trêu con đen, sao da con lại không trắng đẹp như các bạn thế hả cô ”, “Cô
ơi, cô đổi chỗ cho con vì con không thích ngồi với bạn Nam ”. Ngày sinh nhật
của các em, ngoài những bài hát chúc mừng sinh nhật của cả lớp, các em còn
nhận được thư chúc mừng sinh nhật của tất cả các bạn trong lớp....
Các hoạt động tự quản của các em có thể chưa hoàn toàn được đầy đủ, chi tiết,
đây đó vẫn còn những việc phải uốn nắn, rút kinh nghiệm, còn những việc mới
chỉ ở mức độ thử nghiệm...nhưng công tác tự quản ở lớp tôi đã thu được nhiều
kết quả tốt đẹp. Các em đã chủ động tự học, tự quản, tự đánh giá và trong giao

tiếp các em đều khá tự tin, tự chủ mặc dù các em mới chỉ là những đứa trẻ 8
tuổi. Tất cả các em học sinh lớp tôi đều rất yêu lớp học của mình, các em thực
sự mong muốn đến lớp, muốn được làm công việc của mình thật tốt, muốn
khẳng định mình trong tập thể...Có được những kết quả ấy, việc trang trí lớp với
tác dụng các góc chuyện biệt, khai thác bộ công cụ hỗ trợ hoạt động tự quản là
một yếu tố lớn góp phần làm nên thành công.

19


PHẦN 3: KẾT LUẬN.
1.Kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện.
Sau 2 năm qua, tôi đã được tiếp cận và trực tiếp tham gia giảng dạy và
chủ nhiệm lớp. Việc trang trí lớp học của tôi được ban giám hiệu cũng như phụ
huynh đánh giá rất cao. Sau mỗi lần thi đua lớp tôi được đánh giá là một lớp
điển hình của trường, để các lớp trong trường học tập và làm theo. Năm học
2014 - 2015 tôi đã tuyên truyền đến tất cả phụ huynh học sinh trong lớp thấy rõ
được tầm quan trọng của việc trang trí lớp học. Tôi đã làm tốt công tác xã hội
hóa giáo dục đã có những cá nhân phụ huynh tặng hiện vật như phụ huynh của
em Nguyễn Thị Quỳnh Hương đã tặng1 máy chiếu, 1 bộ máy tính để phục vụ
cho việc học tập. Nhiều phụ huynh đóng góp , ủng hộ số tiền lên tới hàng chục
triệu đồng ... Đến nay cả cô và trò khi bước vào lớp đều cảm thấy gần gũi, thân
thiện, sạch sẽ, thoáng mát. Tinh thần được thoải mái tham gia vào học tập các
em chiếm lĩnh kiến thức tự tin hơn. Chỉ sau 2 năm nhà trường thực hiện mô hình
trường học mới các lớp đã được trang trí một cách khoa học, khang trang đẹp đẽ
góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Kết quả
học tập của lớp như sau:
Năm học 2012 - 2013
Năm học 2013 - 2014
Học sinh xuất sắc

HS tiên tiến
Học sinh xuất sắc
HS tiên tiến
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8
25
10
32
15
48
16
52
- Hoàn thành chương trình lớp học: 100%
- Lớp đạt: lớp xuất sắc
- Các hội thi do trường tổ chức:
+ Thi viết chữ đẹp: đạt giải nhất.
+ Thi tiếng hát dân ca: đạt giải nhì.
+ Thi giao lưu học sinh giỏi: xếp thứ 2/ 15
+ Trang trí lớp học: đạt giải nhất
+ Các phong trào của lớp: luôn là lớp dẫn đầu của nhà trường.
1.1. Về học sinh:
20



* Ưu điểm:
- Học sinh được tự học theo hướng dẫn của tài liệu, được trải nghiệm, tìm
tòi khám phá, hình thành kiến thức và rút ra bài học nên rất hứng thú tham gia.
- Học sinh tự giác tham gia vào các hoạt động của lớp, tự xây dựng các nội quy
của lớp, của ban,tự giác chăm sóc các cây xanh ở góc thiên nhiên của lớp. Ý thức giữ
gìn và bảo vệ của công của học sinh trong lớp tốt hơn rất nhiều.
- Kĩ năng giao tiếp của học sinh được nâng lên rõ rệt, các em tự tin hơn, tự giác
học tập hơn, dám trình bày những suy nghĩ, chính kiến của mình trước đám đông.
Chia sẻ với thầy cô, với ông bà, cha mẹ, anh chị em và các bạn trong lớp những lời
yêu thương hay những lời tâm sự của mình.
- Khi đến lớp các em thấy được trách nhiệm của mình với lớp và tự bảo
vệ , chăm sóc những thành quả mà các em vun đắp lên.
1.2.Về giáo viên:
Khi tham gia mô hình trường học mới, tôi được tiếp cận với phương pháp
dạy học mới. Giáo viên không phải soạn bài, không giảng bài mà là người tổ
chức hoạt động học cho học sinh. Căn cứ đặc điểm của lớp giáo viên chủ động
nghiên cứu bài học, chuẩn bị đồ dùng dạy học, tổ chức và điều hành lớp học cho
phù hợp, hình dung những khó khăn vướng mắc, dự kiến các tình huống và các
giải pháp hỗ trợ kịp thời cho học sinh, chủ động về thời gian và tiến độ hoàn
thành bài học trong chương trình, ghi nhận biểu dương những nỗ lực, thành tích,
tiến bộ của học sinh.
Giáo viên chủ động hơn trong mọi công việc, tự tin với việc làm của
mình. Qua đó đòi hỏi giáo viên phải nhiệt tình, trách nhiệm cao, năng động, linh
hoạt, có óc thẩm mĩ, sáng tạo trong mọi việc nhất là trang trí lớp sao cho vừa
khoa học, vừa đẹp, vừa thân thiện phù hợp với lứa tuổi của các em.
Mô hình trường học mới đòi hỏi giáo viên phải tự học, tự bồi dưỡng, tự
chủ trong hoạt động chuyên môn, trong mọi phong trào của nhà trường, của lớp.
Tăng cường học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, với cộng đồng về
mọi hoạt động.

1.3.Cộng đồng
21


Gia đình, cộng đồng trở thành một trong những nhân tố tham gia giáo dục
học sinh. Cộng đồng chủ động đến với nhà trường bằng tất cả tình cảm, khả
năng và trách nhiệm. Góp phần cùng với lớp hoàn thành các chỉ tiêu đề, để tất cả
học sinh trong cộng đồng đều yêu cha mẹ, yêu quê hương, ngoan ngoãn, khỏe
mạnh, học giỏi, có kĩ năng sống tốt... Cùng tham gia vào việc trang trí lớp học
với các em học sinh, với giáo viên chủ nhiệm. Tất cả những điều đó là kết quả
mong đợi của nhà trường, của lớp, gia đình và cộng đồng, là hạnh phúc của mọi
nhà và của toàn xã hội.
2. Bài học kinh nghiệm
Trong giai đoạn hiện nay việc xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước ngang tầm với thời đại, phù hợp với sự phát triển của xã hội phụ thuộc rất
nhiều vào nền giáo dục. Mục tiêu đặt ra là người giáo viên phải tìm tòi, nghiên cứu
nắm vững chương trình dạy học. Mặt khác phải có khả năng tiếp cận đổi mới
thường xuyên, nhằm đáp ứng yêu cầu cao về hiệu quả, chất lượng công việc. Ngoài
ra cần huy động mọi nguồn lực cần thiết ưu tiên cho hoạt động giáo dục vì "Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho con người".
Để mô hình thành công, đặc biệt là việc tổ chức lớp học, trang trí lớp học
đem lại kết quả theo đúng tinh thần chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong
mỗi nhà trường cần tập trung làm tốt các nội dung sau:
2.1. Giáo viên: Tâm huyết, nhiệt tình, hợp tác với cha mẹ học sinh. Tích
cực tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sư phạm.
2.2. Học sinh: Tự học, tự quản, tự tin, tự chủ, tự đánh giá.
2.3. Cha mẹ học sinh và cộng đồng: Có niềm tin, đồng thuận, ủng hộ.
Quan tâm đến học hành của con cái. Chủ động phối hợp chặt chẽ với nhà
trường. Tạo cơ hội cho nhà trường, cho học sinh trong việc ứng dụng kiến thức,
tìm hiểu sưu tầm kiến thức địa phương. Cha mẹ, cộng đồng biết con cái học

được gì ở nhà trường, giúp các em liên hệ kiến thức học ở nhà trường với thực tế
cuộc sống tại gia đình. Cộng đồng giúp học sinh đem truyền thống văn hóa, lịch
sử, bản sắc quê hương vào nhà trường, làm phong phú nội dung và phương pháp
giáo dục nhà trường.
22


Mặc dù khó khăn ban đầu nhưng với sự chỉ đạo sát sao của các cấp, sự
đồng tình, đoàn kết của tập thể sư phạm nhà trường, sự cố gắng nỗ lực của mỗi
giáo viên chắc chắn sẽ thực hiện thành công nhiệm vụ năm học, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học trong tình hình mới. Từ đó sẽ làm tăng hiệu quả trong
quản lý, giảng dạy và học tập trong ngành giáo dục nói chung và giáo dục ở
trường tôi nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng đúng mục
tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài mà Đảng, Nhà
nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra.
3. Khuyến nghị đề xuất:
3.1. Với Lãnh đạo các cấp.
Quan tâm tổ chức chuyên đề hội thảo về mô hình trường học mới với các
tỉnh lân cận, các trường trên địa bàn tỉnh để chúng tôi có thêm cơ hội được giao
lưu học hỏi.
Đầu tư cơ sở vật chất xây dựng nhà trường đảm bảo các điều kiện học tập
ngày càng tốt hơn.
3.2. Với cộng đồng.
Mô hình trường học mới cần sự đồng thuận, tự nguyện của cha mẹ học
sinh và cộng đồng, ủng hộ những chủ trương đổi mới và cả những đóng góp về
vật chất lẫn tinh thần cho hoạt động giáo dục học sinh.
Trên đây là sáng kiến Trang trí lớp học theo mô hình trường học mới
Việt Nam( VNEN) của tôi, chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi mong rằng sẽ
được Hội đồng khoa học và các đồng nghiệp giúp đỡ, nhận xét và bổ sung góp ý
thêm để kinh nghiệm của tôi thêm hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn !

23


MỤC LỤC:
Phần 1

Phần 2

Phần 3

Mở đầu
I. Thông tin chung về sáng kiến

Trang 2

II.Toám tắt sáng kiến

Trang 3 - 4

Mô tả sáng kiến
1. Lý do chọn đề tài

Trang 5 - 6

2. Mục đích nghiên cứu

Trang 7


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trang 7

4. Phương pháp nghiên cứu

Trang 7

5. Nội dung , biện pháp thực hiện

Trang 7 - 19

Kết luận
1. Kết quả

Trang 20 - 22

2. Bài học kinh nghiệm

Trang 22- 23

3. Khuyến nghị , đề xuất

Trang 23

4. Mục lục

Trang 24

24




×