PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Phương pháp dạy bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn ở lớp 2.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Toán lớp 2.
3. Tác giả:
Họ và tên: Trần Thị Hoa
Nữ
Ngày tháng/năm sinh: 01/4/1978
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên – Trường Tiểu học Bắc An
Điện thoại: 01628458789
4. Đồng tác giả: Không
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Bắc An - Thị xã
Chí Linh - Tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203887034
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Dùng cho giáo viên giảng dạy môn Toán tại trường tiểu học và áp dụng
trong giảng dạy đối với học sinh lớp 2
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013 – 2014.
HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Trần Thị Hoa
1
TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Lý do lựa chọn:
Sáng kiến của tôi trình bày về phương pháp dạy bài toán về nhiều hơn, bài toán
về ít hơn ở lớp 2. Xuất phát từ thực trạng dạy bài toán có lời văn nói chung và dạy
bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn nói riêng ở các trường tiểu học trong đó
có trường tôi chưa được hiệu quả, học sinh còn làm bài một cách máy móc, thụ
động, chưa hiệu quả. Vì vậy tôi đã lựa chọn mảng kiến thức này trong chương trình
toán lớp 2 để nghiên cứu nhằm đưa ra phương pháp dạy học có hiệu quả, học sinh
hiểu bản chất của vấn đề, từ đó các em làm bài có hiệu quả, nắm bài chắc là cơ sở
cho các em học các dạng toán tương tự ở các lớp học trên.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng:
- Sáng kiến được áp dụng trong điều kiện học sinh đã hoàn thành chương
trình học lớp 1, học sinh đã đọc thông, viết thạo, tính toán cộng trừ trong phạm vi
100 không nhớ.
- Sáng kiến này được áp dụng rộng rãi đối với học giáo viên và học sinh khối
2 của các trường tiểu học đang học chương trình sách giáo khoa hiện hành của Bộ
Giáo dục và Đào tạo do nhà xuất bản giáo dục ban hành.
- Thời gian được áp dụng từ tuần 5 của chương trình học toán khối 2.
3. Nội dung của sáng kiến:
Trong sáng kiến này tôi đã đưa ra được một cách ngắn gọn, đầy đủ, rõ ràng
các giải pháp áp dụng dạy học bài toán nhiều hơn, bài toán ít hơn ở lớp 2 nhằm
phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy
toán ở tiểu học nhằm đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện nay là đào tạo ra
những con người phát triển toàn diện, linh hoạt, năng động, sáng tạo. Mục đích của
sáng kiến là góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn toán , toán có lời văn nói
chung và dạy bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn ở lớp 2 nói riêng.
- Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến: Sáng kiến chỉ ra phương pháp để
dạy
2
bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn. Cụ thể sáng kiến bám vào sự so sánh để
học sinh nắm chắc được sự vật A nhiều hơn sự vật B nghĩa là sự vật B ít hơn sự vật
A và ngược lại, sự vật B ít hơn sự vật A nghĩa là sự vật A nhiều hơn sự vật B. Vì
vậy nếu bài toán yêu cầu tìm sự vật A nghĩa là đi tìm số lớn và ngược lại nếu bài
toán yêu cầu đi tìm sự vật B nghĩa là đi tìm số bé. Từ đó giáo viên gợi mở cách
thức để các em học sinh tìm số lớn trong bài toán nhiều hơn và tìm số bé trong bài
toán ít hơn. Vì vậy các em nắm bài chắc hơn có thể tìm số lớn hoặc số bé ở dạng
đảo, đổi, nâng cao.
- Khả năng áp dụng: Sáng kiến này được áp dụng rộng rãi đối với tất cả các
giáo viên đang dạy toán lớp 2 theo chương trình hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Khi áp dụng , giáo viên cần thực hiện theo các bước:
+ Bước 1: Đọc và tìm hiểu đề toán.
+ Bước 2: Tóm tắt đề toán.
+ Bước 3: Tìm cách giải và trình bày bài giải.
+ Bước 4: Thử lại đáp số
4. Giá trị và kết quả đạt được của sáng kiến:
Sau khi được áp dụng các biện pháp giảng dạy, các em học sinh có hứng thú
với tuyến kiến thức trừu tượng này hơn, các em cảm thấy yêu thích bộ môn học;
còn giáo viên cảm thấy tự tin, sáng tạo trong dạy học. Đặc biệt giờ học sôi nổi hơn
trước rất nhiều, học sinh tự tin hăng hái xây dựng bài, các em không ngại đưa ra
những ứng dụng giải toán có lời văn dạng bài toán về nhiều hơn và bài toán về ít
hơn vào thực tế. Hơn nữa là kết quả học tập của các em được nâng cao rõ rệt, chất
lượng học sinh nắm chắc bài được nâng cao, học sinh nắm bài máy móc giảm
nhiều. Điều đặc biệt đa phần các em đều làm bài rất tốt ở dạng đảo, đổi, ẩn dữ liệu
hay nâng cao.
5. Đề xuất, kiến nghị:
Để thực hiện việc áp dụng sáng kiến này vào trong dạy học có hiệu quả, các
giáo viên khi giảng dạy dạng toán này cần nghiên cứu thật kĩ nội dung chương
3
trình toán lớp 2 để thấy được sự liên hệ mật thiết giữa các bài học với nhau, bên
cạnh đó cần nghiên cứu thêm chương trình toán của các lớp 1,3,4,5 vì chương trình
toán ở Tiểu học được xây dựng theo hướng vòng tròn đồng tâm hay nôm na theo
cách gọi vòng xoáy ốc. Bên cạnh đó giáo viên cần có sự chuẩn bị về đồ dùng dạy
học đầy đủ, học sinh có đủ sách giáo khoa, vở ghi, bút mực và văn phòng phẩm
phục vụ việc học có hiệu quả.
4
PHẦN 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Trong chương trình môn học ở bậc học tiểu học thì môn toán chiếm số giờ rất
lớn. Việc nâng cao hiệu quả của dạy và học môn Toán là một yêu cầu bức xúc hiện
nay. Cùng với môn Tiếng Việt thì môn Toán có một vị trí rất quan trọng. Nó cung
cấp những kiến thức cơ bản. Nó chính là chìa khoá vạn năng để giúp các em mở
cánh cửa lâu đài trí thức của dân tộc và nhân loại trên thế giới. Môn toán là một
trong những môn học mà nhiều trường, nhiều giáo viên mong muốn đạt chất lượng
cao. Chương trình Toán lớp 2 là một bộ phận của chương trình môn Toán Tiểu học
và là sự tiếp nối của chương trình Toán lớp 1.
Mặt khác, đối với học sinh lớp 2, việc dạy học giải toán nói chung và giải bài
toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn nói riêng có một vị trí rất quan trọng. Có thể
coi giải toán là “hòn đá thử vàng” của dạy học toán. Khi học giải toán nói chung và
học giải bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn nói riêng, học sinh phải tư duy
một cách tích cực và linh hoạt, huy động một cách thích hợp các kiến thức và khả
năng đã có vào các tình huống khác nhau. Trong nhiều điều kiện phải phát hiện ra
các dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong một
chừng mực nào đó phải suy nghĩ một cách năng động, sáng tạo. Vì vậy giải toán
nói chung và giải bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn nói riêng là một trong
những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh.
1.2. Lý do chọn sáng kiến:
Qua nghiên cứu nội dung, chương trình , Sách giáo khoa Toán lớp 2 và qua
thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Toán lớp 2 được cấu trúc bởi các mảng nội dung
sau:
+ Dạy số học
+ Dạy học các đại lượng và đo đại lượng
+ Dạy học các yếu tố hình học
5
+ Dạy học giải toán có lời văn
Trong các nội dung trên thì “Dạy học giải toán có lời văn nói chung và dạy Bài
toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn nói riêng” là tuyến kiến thức đòi hỏi học sinh
phải có khả năng tư duy lôgíc và tư duy trừu tượng cao. Mảng kiến thức này là nền
tảng quan trọng cho học sinh tiếp tục tìm hiểu toán có lời văn ở bậc học cao hơn.
Hiện nay qua theo dõi quan sát tôi thấy việc dạy và học môn toán nói chung
đặc biệt là dạy Bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn của giáo viên và học sinh
còn nhiều hạn chế cụ thể như sau:
*Đối với Học sinh:
- Kĩ năng giải toán của học sinh còn nhiều hạn chế. Đại đa số các em mắc bệnh
chủ quan. Khi gặp dạng toán này các em chỉ đọc lướt qua đầu bài một lần là đặt bút
làm ngay. Thậm trí có những em chưa nắm được dữ kiện đầu bài cho biết gì, đầu
bài hỏi gì để tìm phép tính giải một cách hợp lý.
- Học sinh chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, tự mình chiếm lĩnh kiến
thức dưới sự hướng dẫn (có mức độ) của giáo viên.
- Đa phần các em còn giải bài toán một cách máy móc, chỉ dựa vào từ “ nhiều
hơn” để làm phép tính cộng, hoặc từ “ ít hơn” để làm phép tính trừ, giải bài mà
không nắm được bản chất của bài toán.
- Trình bày của các em còn chủ quan, thiếu tính cẩn thận. Các em chưa có thói
quen tìm nhiều cách giải cho một bài toán và kiểm tra lại kết quả của bài toán đó.
*Đối với Giáo viên:
- Việc đầu tư nghiên cứu, thiết kế bài dạy phù hợp cho đối tượng học sinh lớp
mình còn hạn chế. Đại đa số các giáo viên dạy các em dạng toán này một cách máy
móc chủ yếu bám vào từ “ nhiều hơn” để làm phép tính cộng, hoặc từ “ ít hơn” để
làm phép trừ mà không hướng dẫn các em bản chất của bài toán.
- Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải trong sách giáo khoa, vì vậy giáo
viên thường chỉ làm việc một cách máy móc và thường ít quan tâm đến phát huy
khả năng sáng tạo của học sinh
6
Chính vì vậy tôi đã đi sâu nghiên cứu nội dung chương trình, phương pháp
giảng dạy Toán ở lớp 2. Đồng thời tích cực học hỏi đồng nghiệp, thâm nhập thực
tế… Sau một thời gian tôi đã rút ra một số kinh nghiệm: “Phương pháp dạy bài
toán về nhiều hơn; Bài toán về ít hơn ”
1.3. Mục đích nghiên cứu:
Tôi nghiên cứu nội dung này với mục đích là giúp cho học sinh nắm bài
chắc hơn, sâu hơn về dạng toán nhiều hơn, ít hơn. Từ đó các em làm bài tốt hơn, có
kiến thức, kĩ năng để học toán tốt hơn ở các lớp trên. Mặt khác giúp giáo viên vững
về kiến thức, chắc về phương pháp khi dạy mảng toán này. Từ đó các thầy cô thấy
tự tin khi lên lớp giảng dạy toán có lời văn nói chung và toán về nhiều hơn, ít hơn
nói riêng, góp phần tạo không khí lớp học sôi nổi.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nghiên cứu : Phương pháp dạy học bài toán về nhiều hơn, bài toán
về ít hơn
- Đối tượng nghiên cứu : + Giáo viên dạy khối 2
+ Học sinh khối 2:
Lớp 2A gồm 25 học sinh: Lớp thực nghiệm (Lựa chọn ngẫu nhiên từ 1 đến 25)
Lớp 2B gồm 25 học sinh: Lớp đối chứng (Lựa chọn ngẫu nhiên từ 1 đến 25)
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
Để viết Sáng kiến này, tôi đã áp một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu : Đọc tài liệu và sách tham khảo có liên
quan và phục vụ cho việc nghiên cứu;
- Phương pháp thống kê phân loại: Phân tích hệ thống hóa tài liệu
thu thập được.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh: Tổ chức khảo sát nắm chất lượng, đối chiếu
so sánh kết quả.
- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức dạy thực nghiệm.
- Phương pháp rút kinh nghiệm
7
1.6. Điểm mới của vấn đề nghiên cứu:
Việc giải các bài toán có lời văn nói riêng và giải bài toán về nhiều hơn,
bài toán về ít hơn nói riêng sẽ giúp học sinh phát triển trí thông minh, óc sáng tạo
và thói quen làm việc khoa học. Bởi vì khi giải toán, học sinh phải tập trung chú ý
vào các bản chất của đề toán, các em phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu, phải biết
phân biệt cái đã cho với cái phải tìm. Vì vậy mà cách suy nghĩ và cách làm của các
em sẽ khoa học hơn, tư duy logic hơn, sáng suốt hơn, tinh tế hơn, linh hoạt hơn.
Vì vậy, tôi đưa kinh nghiệm của bản thân để từ đó giáo viên biết cách áp
dụng phương pháp để dạy nội dung toán có lời văn ở dạng bài toán về nhiều hơn,
bài toán về ít hơn có hiệu quả. Điểm mới của vấn đề nghiên cứu là chỉ ra được cách
áp dụng phương pháp dạy học để dạy dạng toán này ở lớp 2 làm cơ sở cho các em
học dạng toán tương tự ở các lớp trên và đặc biệt là dạng toán Tìm trung bình cộng
của toán ở lớp 4, lớp 5. Cụ thể, khi nghiên cứu vấn đề này, tôi hướng các em bám
chắc vào so sánh hai sự vật A và B. Sự vật A nhiều hơn sự vật B nghĩa là sự vật B
ít hơn sự vật A và ngược lại, sự vật B ít hơn sự vật A nghĩa là sự vật A nhiều hơn
sự vật B. Vì vậy nếu bài toán yêu cầu tìm sự vật A nghĩa là đi tìm số lớn và ngược
lại nếu bài toán yêu cầu đi tìm sự vật B nghĩa là đi tìm số bé. Từ đó giáo viên gợi
mở cách thức để các em học sinh tìm số lớn trong bài toán nhiều hơn và tìm số bé
trong bài toán ít hơn. Vì vậy các em nắm bài chắc hơn có thể tìm số lớn hoặc số bé
ở dạng đảo, đổi, nâng cao.
2. Một số vấn đề về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
2.1. Cơ sở lí luận
- Phương pháp dạy học Toán là cách thức hoạt động của Giáo viên và học
sinh nhằm đạt được các mục tiêu dạy học toán.
- Phương pháp dạy học Toán là sự vận dụng một cách hợp lý các phương pháp
dạy học theo đặc trưng của môn Toán. Các phương pháp dạy học thường sử dụng
khi dạy toán là: Phương pháp thuyết trình, phương pháp giảng giải – minh họa,
8
phương pháp gợi mở vấn đáp, phương pháp trực quan, phương pháp thực hành –
luyện tập…
- Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học là sự vận dụng các phương pháp dạy
học Toán nói chung cho phù hợp với mục tiêu, nội dung, các điều kiện dạy học,
tâm lý lứa tuổi của học sinh … Do đặc điểm về nhận thức của học sinh Tiểu học,
trong quá trình dạy học Toán, giáo viên thường phải vận dụng linh hoạt các phương
pháp trực quan, thực hành – luyện tập, gợi mở, vấn đáp, giảng giải – minh họa…
Mức độ vận dụng từng phương pháp trên ở từng loại bài học, ở từng lớp, từng giai
đoạn dạy học không giống nhau.
- Hiện nay ở Tiểu học đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, các
phương pháp dạy học Toán nêu trên vẫn rất cần thiết, chúng được vận dụng theo
hướng tích cực hóa các hoạt động học tập của học sinh để phát triển năng lực học
tập toán của từng học sinh.
2.2.Cơ sở thực tiễn
Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong
trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp Tiểu
học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện, đồng thời
phát triển được khả năng của mình về một môn nào đó nhằm chuẩn bị ngay từ bậc
Tiểu học những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của
cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Trong chương trình dạy toán 2, bài toán có lời văn nói chung và bài toán về
nhiều hơn, bài toán về ít hơn nói riêng có vị trí vô cùng quan trọng. Phần lớn thời
gian học toán của học sinh trong học kì 1 dành cho việc giải các bài toán ấy. Việc
giải các bài toán dạng này có tác dụng vô cùng to lớn và toàn diện như: Giúp học
sinh hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học, về đo lường, về các yếu tố đại
số, yếu tố hình học đã được học. Mặt khác, các khái niệm, quy tắc, tính chất toán
học đều được học sinh tiếp thu qua đường giải toán nói chung và giải bài toán về
nhiều hơn; bài toán về ít hơn nói riêng chứ không phải qua con đường lí luận.
9
Việc giải toán sẽ giúp học sinh phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói
quen làm việc một cách khoa học. Bởi vì khi giải toán, học sinh phải biết tập trung
chú ý vào vác bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu, phải biết
phân biệt cái đã cho với cái cần tìm. Nhờ đó mà đầu óc các em sẽ sáng suốt hơn,
tinh tế hơn, tư duy các em linh hoạt hơn, cách suy nghĩ và cách làm việc của các
em sẽ khoa học hơn.
2.3 Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy bài toán về nhiều hơn, bài toán
về ít hơn
2.3.1. Mục tiêu của việc dạy bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn
- Việc dạy giải toán có lời văn nói chung và bài toán có về nhiều hơn và bài
toán ít hơn nói riêng ở lớp 2 nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến
thức về toán, được rèn luyện kỹ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện
một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc dạy học giải toán mà học sinh có điều kiện
rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những
phẩm chất cần thiết của người lao động mới.
- Giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác: xác lập được mối liên hệ
giữa các giữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán, chọn
được phép tính thích hợp trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
2.3.2. Nội dung dạy toán ở lớp 2
Trong chương trình Toán 2 các em được học các mảng kiến thức sau:
Số học:
- Phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100:
+ Giới thiệu tên gọi thành phần và kết quả của phép cộng ( số hạng, tổng) và
phép trừ ( số bị trừ, số trừ, hiệu ).
+ Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 20.
+ Phép cộng và phép trừ không nhớ hoặc có nhớ 1 lần trong phạm vi 100. Tính
nhẩm và tính viết.
+ Tính giá trị biểu thức số có đến 2 dấu phép tính cộng ,trừ.
+ Giải bài tập dạng: Tìm x biết a + x = b, x + a = b, x – a = b, a – x = b ( với a,
10
b là các số bé đã học ) bằng sử dụng mối quan hệ giữa thành phần và kết quả của
phép tính.
- Các số đến 1000. Phép cộng và phép trừ trong phạm vi 1000.
+ Đọc, viết, so sánh các số có 3 chữ số. Giới thiệu hàng đơn vị, hàng chục
hàng trăm.
+ Phép cộng các số có đến 3 chữ số. tổng không quá 1000, không nhớ hoặc có
nhớ 1 lần. Tính nhẩm và tính viết.
+ Phép trừ các số có đến 3 chữ số, không nhớ hoặc có nhớ 1 lần.
+ Tính giá trị các biểu thức số có đến 2 dấu phép tính cộng, trừ, có hoặc không
có dấu ngoặc.
- Phép nhân và phép chia:
+ Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép nhân: Lập phép nhân từ tổng các số
hạng bằng nhau. Giới thiệu thừa số và tích.
+ Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép chia: Lập phép chia từ phép nhân có
một thừa số chưa biết khi biết tích và thừa số kia. Giới thiệu số bị chia, số chia,
thương.
+ Lập bảng nhân 2,3,4,5 có tích không quá 50.
+ Lập bảng chia cho 2,3,4,5, có số chia không quá 50.
+ Nhân với 1 và chia cho 1.
+ Nhân với 0. Số bị chia là 0, không thể chia cho 0.
+ Số chẵn, số lẻ.
+ Giới thiệu bước đầu về tính chất giao hoán của phép nhân và vai trò của số 1
trong phép nhân.
+ Thực hành tính: Nhân, chia nhẩm trong phạm vi các bảng tính. Nhân số có
đến 2 chữ số với số có 1 chữ số không nhớ hoặc có nhớ 1 lần. Chia số có đến 2 chữ
số cho số có 1 chữ số, các bước chia trong phạm vi bảng tính.
+ Tính giá trị biểu thức số có đến 2 dấu phép tính cộng, trừ hoặc nhân, chia.
Tìm số còn thiếu trong phép nhân và phép chia, dạng:
11
3 x … = 15
…:3=5
+ Giới thiệu các phần bằng nhau của đơn vị (có dạng 1/n với n là số tự nhiên
khác 0 và không vượt quá 5).
Đại lượng và đo đại lượng:
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài đềximét, mét, kilômét, và milimét. Đọc, viết
các
số đo độ dài theo đơn vị đo mới học. Quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài: 1dm =
10cm, 1m = 100cm, 1km = 1000m, 1m = 1000mm. Tập chuyển đổi các đơn vị đo
độ dài (các trường hợp đơn giản) Tập đo và ước lượng độ dài.
- Giới thiệu về lít: đọc, viết, làm tính với các số đo theo đơn vị lít. Tập đong
đo, ước lượng theo lít.
- Giới thiệu đơn vị đo khối lượng kilôgam: Đọc, viết, làm tính với các số đo
theo đơn vị kilôgam. Tập cân và ước lượng theo kilôgam.
- Giới thiệu đơn vị đo thời gian: Giờ, tháng. Thực hành đọc lịch (loại lịch
hàng
ngày), đọc giờ đúng trên đồng hồ (khi kim phút chỉ vào số 12) và đọc giờ khi kim
phút chỉ vào số 3, 6, 9. Thực hiện phép tính với các số đo theo đơn vị giờ, tháng.
- Giới thiệu tiền Việt Nam (trong phạm vi các số đang học). Tập đổi tiền
trong
trường hợp đơn giản. Đọc, đếm, làm tính với số đo theo đơn vị đồng.
Yếu tố hình học:
- Giới thiệu về đường thẳng. Ba điểm thẳng hàng. Điểm ở giữa và trung điểm
của đoạn thẳng.
- Giới thiệu đường gấp khúc. Tính độ dài đường gấp khúc.
- Giới thiệu hình tứ giác, hình chữ nhật. Vẽ hình trên giấy ô vuông.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về chu vi của hình hình học. Tính chu vi của
hình tam giác, hình tứ giác.
12
Giải toán:
- Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ, về phép nhân và phép chia,
trong đó có các bài toán so sánh hai số hơn, kém một số đơn vị, so sánh hai số gấp,
kém một số lần.
- Giới thiệu bước đầu về các bài toán có đến hai bước tính, chủ yếu là các
dạng có hai phép cộng, hai phép trừ, một phép cộng và một phép trừ.
Mạch toán dạng bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn nằm trong phần giải
toán. Được thể hiện bằng hai tiết dạy cụ thể là:
+ Tiết thứ 5 của tuần 5: Bài toán về nhiều hơn (trang 24).
+ Tiết thứ 6 của tuần 6: Bài toán về ít hơn (trang 30).
Các bài tập dạng bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn được đan xen với các
mạch kiến thức khác thể hiện ở phần luyện tập trong các bài toán có lời văn bắt đầu
từ tuần 6 trở đi.
2.3.3. Phương pháp dạy học thường sử dụng trong dạy học toán ở Tiểu học
23.3.1.Phương pháp trực quan:
- Sử dụng phương pháp trực quan nghĩa là giáo viên tổ chức, hướng dẫn học
sinh hoạt động trực tiếp trên các hiện tượng, sự vật cụ thể để dựa vào đó mà nắm
bắt được kiến thức, kĩ năng của môn toán.
- Sử dụng phương pháp trực quan là quá trình kết hợp giữa cụ thể và trừu
tượng, nghĩa là tổ chức cho học sinh nắm bắt được các kiến thức trừu tượng, khái
quát dựa trên những cái cụ thể, gần gũi với học sinh, sau đó vận dụng những quy tắc,
khái niệm trừu tượng để giải quyết những vấn đề cụ thể của học tập và đời sống.
- Sử dụng phương pháp dạy học trực qua rất cần thiết, vì: Nhận thức của trẻ từ
6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể.
Trong khi đó các kiến thức của môn toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao.
Sử dụng phương pháp trực quan sẽ giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy,
bổ sung vốn hiểu biết để nắm được các kiến thức trừu tượng, phát triển năng lực tư
duy trừu tượng và trí tưởng tượng.
13
- Yêu cầu khi sử dụng phương pháp trực quan:
+ Có các phương tiện trực quan phù hợp với từng giai đoạn học tập của học sinh.
+ Sử dụng đúng lúc, đúng mức độ các đồ dùng dạy học Toán.
+ Chuyển dần, chuyển kịp thời các phương tiện trực quan từ dạng cụ thể sang
dạng trừu tượng hơn.
+ Không lạm dụng phương pháp trực quan vì nếu quá phụ thuộc thì dẫn đến
hạn chế khả năng phát triển của học sinh, tạo điều kiện cho các em ngại suy nghĩ,
ngại sử dụng trí tưởng tượng, làm việc máy móc thiếu linh hoạt.
2.3.3.2. Phương pháp thực hành – luyện tập:
- Là phương pháp dạy học liên quan đến hoạt động thực hành luyện tập các
kiến thức – kĩ năng của môn học.
- Hoạt động thực hành luyện tập trong môn Toán chiếm tới 50% tổng thời gian
dạy học Toán. Vì vậy phương pháp thực hành – luyện tập được sử dụng thường
xuyên. Trong các tiết luyện tập và thực hành toán học, phương pháp dạy học chủ
yếu là phương pháp thực hành – luyện tập.
- Khi dạy học kiến thức mới, bằng cách hướng dẫn học sinh sử dụng các đồ
dùng học tập của từng học sinh, hoặc giải bài toán có mục đích dẫn tới việc nhận
biết, phát hiện ra kiến thức mới, giáo viên có thể sử dụng phương pháp thực hành –
luyện tập để giúp học sinh học bài mới một cách tích cực.
- Yêu cầu cơ bản khi sử dụng phương pháp thực hành – luyện tập:
+ Giáo viên phải chuẩn bị chu đáo nội dung thực hành luyện tập rồi căn cứ vào
đó chuẩn bị phương pháp dạy học tích cực.
+ Cần tạo điều kiện để học sinh được thực hành – luyện tập nhiều và đặc biệt là
cần tổ chức, hướng dẫn các em chủ động, tích cực, sáng tạo trong thực hành luyện
tập, tránh làm thay hoặc áp đặt các em.
2.3.3.3. Phương pháp gợi mở - vấn đáp:
- Là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh
mà sử dụng một hệ thống các câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ và lần lượt
14
trả lời từng câu hỏi, từng bước tiến dần đến kết luận cần thiết, giúp học sinh tự
mình tìm ra kiến thức mới.
- Phương pháp này rất cần thiết vì khi sử dụng phương pháp này tạo điều kiện
cho học sinh tích cực, chủ động, độc lập trong suy nghĩ để tìm ra kiến thức mới.
Mặt khác, khi sử dụng phương pháp này sẽ góp phần làm cho không khí lớp học
sôi nổi, nảy sinh gây hứng thú học tập, tạo niềm tin vào khả năng học tập của các
em đồng thời rèn luyện cho các em cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, làm cho
kết quả vững chắc.
- Yêu cầu khi sử dụng phương pháp gợi mở - vấn đáp:
+ Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với các đối tượng học sinh, nội dung câu
hỏi phải chính xác phù hợp mục đích, yêu cầu của bài học. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ
ràng, không mập mờ khó hiểu. Câu hỏi phải gợi ra vấn đề cần suy nghĩ, giải quyết.
+ Phải sử dụng đúng lúc, đúng mức độ phương pháp gợi mở - vấn đáp.
+ Khi dạy học, giáo viên nêu câu hỏi cho tất cả học sinh cùng suy nghĩ, sau đó
gọi học sinh trả lời. Khi các em trả lời, cả giáo viên và học sinh trong lớp cần theo
dõi rồi có thể nhận xét, bổ sung.
2.3.3.4. Phương pháp giảng giải – minh họa
- Là phương pháp dùng lời nói để giải thích tài liệu toán kết hợp với các
phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.
- Phương pháp này thường được sử dụng khi dạy bài mới, khi hướng dẫn học
sinh luyện tập và thực hành, khi tổ chức học sinh ôn tập kiến thức đã học.
Tuy nhiên, giáo viên nên hạn chế giảng giải – minh họa vì phương pháp này
đặt học sinh ở tình trạng thụ động, ít phát huy được tính tích cực trong học tập. Khi
cần phải giảng giải – minh họa thì giáo viên nên nói ngắn gọn, rõ ràng và càng ở
lớp dưới thì càng giảng giải ít, minh họa nhiều hơn, kết hợp giảng giải – minh họa
với gợi mở - vấn đáp.
- Yêu cầu khi sử dụng phương pháp giảng giải minh họa:
+ Giáo viên cần dự đoán và lựa chọn nội dung bắt buộc phải giảng giải – minh
15
họa. Khi đã dự kiến phải giảng giải minh họa thì phải chuẩn bị cách giảng giải thật
đơn giản, ngắn gọn, chuẩn bị sẵn các tài liệu để minh họa và cách sử dụng các tài
liệu đó.
+ Khi tổ chức tiết dạy, có thể có có một số trường hợp sau: giảng giải – minh
họa cho một số cá nhân hoặc cho một nhóm học sinh có nhu cầu; giảng giải – minh
họa cho cả lớp khi giáo viên phát hiện ra có vấn đề cả lớp chưa giải quyết được
hoặc giải quyết chưa trọn vẹn.
2.3.3.5. Nguyên tắc lựa chọn và vận dụng hợp lý các phương pháp dạy học
- Đảm bảo tính khoa học và vừa sức:
+ Dạy học phải chính xác (kiến thức, ngôn ngữ, kí hiệu, phương pháp suy luận …)
+ Dạy học phải giúp học sinh thấy được nguồn gốc thực tế của kiến thức, mối
quan hệ giữa các kiến thức, tính thiết thực của các kiến thức.
+ Dạy học theo trình độ chuẩn và tạo điều kiện để mọi học sinh đều phát triển
theo khả năng của mình (dạy phân hóa đối tượng).
- Đảm bảo tính trực quan và tính tích cực, tự giác:
+ Kiến thức toán trừu tượng khái quát. Muốn giúp học sinh dễ học, dễ hiểu
phải đảm bảo tính trực quan để dạy học chuyển từ trực quan sinh động sang tư duy
trừu tượng. Sử dụng trực quan đúng mức sẽ góp phần phát triển tư duy trừu tượng
cho học sinh.
+ Để có thể nắm vững các kiến thức, kĩ năng, học sinh phải chủ động, tích cực
và tự giác trong học tập. Muốn vậy giáo viên phải định hướng, giúp đỡ học sinh
phát hiện vấn đề và tích cực hoạt động để giải quyết vấn đề.
- Đảm bảo tính hệ thống và tính vững chắc:
+ Dạy học đảm bảo tính hệ thống góp phần giúp học sinh nắm chắc kiến thức
thức kĩ năng của môn học. Muốn vậy phải:
Xác định rõ vị trí của từng bài học ở từng chương mục, ở từng lớp và trong
toàn bộ chương trình.
16
Thường xuyên quan tâm đến hệ thống hóa kiến thức từng bài học, từng phần,
từng chương, từng năm học, từng giai đoạn học tập. Trên cơ sở đó mà lựa chọn các
phương pháp dạy học thích hợp, để khắc sâu kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm
và mối quan hệ giữa chúng.
+ Sự vững chắc giữa kiến thức và kĩ năng đòi hỏi phải củng cố, ôn tập, thực
hành thường xuyên và phải học tập trung vào những nội dung cơ bản, trọng tâm
đúng mức đến các phương pháp giúp học sinh hiểu rõ, nhớ lâu những nội dung cần
ghi nhớ và vận dụng linh hoạt những nội dung đó để làm bài, để giải quyết những
vấn đề của học tập và đời sống.
- Đảm bảo cân đối giữa học và hành, kết hợp dạy học với ứng dụng trong đời
sống:
+ Nắm chắc đặc điểm của dạy Toán là thông qua thực hành theo các nội dung
gắn bó với đời sống để dạy học Toán. Từ đó cần coi trọng phương pháp thực hành,
coi trọng rèn luyện các kĩ năng thực hành (tính toán, giải toán, trình bày…) hết sức
hạn chế các phương pháp làm thay cho học sinh.
+ Nội dung Toán gắn bó chặt chẽ với thực tế đời sống và có nhiều ứng dụng rất
thiết thực trong cuộc sống. Vì vậy, cần lựa chọn các phương pháp để góp phần giúp
học sinh nhận biết được nguồn gốc thực tế và khả năng vận dụng trong đời sống
hàng ngày của các nội dung trừu tượng của môn Toán.
3. Thực trạng và nguyên nhân
3.1. Thực trạng
Về phía học sinh:
Kĩ năng giải bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn của các em còn nhiều
hạn chế. Đại đa số các em mắc bệnh chủ quan, mới đọc lướt qua đã đặt bút làm
ngay. Nhiều em thấy trong bài toán có từ “nhiều hơn” là đem làm tính cộng và
ngược lại thấy từ “ít hơn” thì làm phép trừ mà không hề quan tâm bài toán cho biết
cái gì rồi, bài toán yêu cầu đi tìm cài gì, cái cho biết và cái đi tìm có liên quan gì
đến nhau. Mặt khác, các em chưa tích cực tư duy, suy nghĩ trước và trong khi làm.
17
Trình bày của các em còn chủ quan, thiếu tính cẩn thận. Câu trả lời của các em còn
máy móc bằng việc bỏ chữ “Hỏi” và thay từ “bao nhiêu”, “mấy” bằng từ “số”,
thay dấu ? bằng từ “là và dấu:”
Về phía giáo viên:
Việc đầu tư nghiên cứu, thiết kế bài dạy phù hợp với đối tượng học sinh lớp
mình còn hạn chế. Đại đa số các giáo viên khi dạy bài toán dạng này thường dạy
các em một cách qua loa, chiếu lệ, hình thức, máy móc. Giáo viên chỉ nhấn mạnh
hướng dẫn học sinh trong bài toán có từ “nhiều hơn” thì làm phép tính cộng còn bài
toán có từ “ít hơn” thì làm phép tính trừ. Nhiều giáo viên dạy học sinh cách trả lời
bằng phương pháp nhớ máy móc bằng việc bỏ chữ “Hỏi” và thay từ “bao nhiêu”,
“mấy” bằng từ “số”, thay dấu ? bằng từ “là và dấu:”. Giáo viên còn sử dụng đồ
dùng dạy học chưa hiệu quả hoặc thậm trí còn dạy chay.
3.2. Nguyên nhân
- Nguyên nhân từ phía nhà trường:
Cấp quản lí trực tiếp về chuyên môn chưa chú ý nhiều đến mở các hội thảo,
chuyên đề cho khối chuyên môn sinh hoạt riêng mà mới chỉ dừng lại ở việc mở
chuyên đề cho tổ chuyên môn
- Nguyên nhân từ phía giáo viên:
Chưa đầu tư nhiều về thời gian cho việc nghiên cứu phương pháp dạy học ở
dạng toán này. Giáo viên chưa nắm được bản chất của việc dạy bài toán về nhiều
hơn, bài toán về ít hơn chính là dạy cho các em về giải toán ở dạng so sánh hai sự
vật, để từ đó các em phải đi tìm sự vật nhiều hơn (số lớn) hay sự vật ít hơn (số bé).
- Nguyên nhân từ phía học sinh:
Học sinh chưa chủ động tích cực lĩnh hội tri thức. Các em ghi nhớ một cách
máy móc. Các em còn quá lệ thuộc vào cách giảng dạy của giáo viên.
4. Giải pháp thực hiện
4.1. Dạng Bài toán về nhiều hơn:
Trong chương trình toán lớp 2, học sinh bắt đầu được làm quen với bài toán về
18
nhiều hơn từ tuần học thứ 5 qua tiết học: Bài toán về nhiều hơn trang 24. Ở tiết học
này, yêu cầu các em biết giải và trình bày bài giải bài toán về nhiều hơn. Đây là
yêu cầu khó đối với các em vì các em mới được làm quen với dạng toán này. Để
giúp các em nắm chắc dạng toán này, khi dạy tôi hướng dẫn các em thực hiện qua 4
bước như sau:
+ Bước 1: Đọc và tìm hiểu đề toán.
+ Bước 2: Tóm tắt đề toán.
+ Bước 3: Tìm cách giải và trình bày bài giải.
+ Bước 4: Thử lại đáp số.
Phương pháp dạy cụ thể cho từng bước như sau:
Ví dụ: Hàng trên có 5 quả cam, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 quả cam.
Hỏi hàng dưới có mấy quả cam?
Bước 1: Đọc và tìm hiểu đề toán: Ở bước này, giáo viên hướng dẫn học sinh
đọc thật kĩ đề toán (ít nhất là đọc 2 lần). Sau đó yêu cầu các em phải phân biệt được
cái đã cho và cái phải tìm: Cái đã cho là: hàng trên có 5 quả cam, hàng dưới có
nhiều hơn hàng trên 2 quả cam; cái phải tìm là: hàng dưới có mấy quả cam?
Ở phần này, giáo viên gợi mở để học sinh biết được số cam ở hàng nào đã biết ;
số cam ở hàng nào phải tìm; số cam ở hàng phải tìm đó có liên hệ như thế nào với
số cam ở hàng đã biết (nhiều hơn) như thế nào? Từ đó gợi cho các em so sánh số
cam ở hàng đã biết với số cam ở hàng phải tìm để các em thấy được số cam ở hàng
phải tìm là số lớn (vì nhiều hơn) số cam ở hàng đã biết là số bé.
Ở bước này giáo viên nên sử dụng phương pháp gợi mở - vấn đáp nhiều. Tuy
nhiên nên kết hợp với phương pháp trực quan, phương pháp giảng giải minh họa.
Bước 2: Tóm tắt đề toán: Mặc dù phần tóm tắt đề toán không bắt buộc, nhưng
bước này vô cùng quan trọng đối với học sinh. Việc tóm tắt đề toán sẽ giúp các em
bớt đi được một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó quan hệ giữa các số
đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Khi học sinh tóm tắt được bài toán và nhìn
vào tóm tắt đó để nêu lại đề toán có nghĩa là các em đã thực sự hiểu bải toán một
19
cách thấu đáo, nắm được bản chất của bài toán (cái cần thiết nhất khi học toán có
lời văn nói chung).
Có nhiều cách tóm tắt: Tóm tắt bằng chữ, tóm tắt bằng hình tượng trưng, tóm
tắt bằng sơ đồ, tóm tắt bằng bảng kẻ ô…Giáo viên khuyến khích học sinh nên tóm
tắt một bài toán bằng nhiều cách vì học sinh càng biết nhiều cách tóm tắt sẽ càng
nhanh tìm ra cách giải bài toán. Tuy nhiên giáo viên vần hướng dẫn học sinh chọn
cách tóm tắt cho phù hợp nhất để tìm ra lời giải nhanh nhất.
Với dạng toán này giáo viên nên sử dụng cách tóm tắt bằng hình tượng trưng (với
các bài mới hình thành), và tóm tắt bằng sơ đồ (với các bài luyện tập thực hành)
Với bài toán trên, giáo viên hướng dẫn các em tóm tắt như sau:
Cách 1: Tóm tắt bằng hình tượng trưng.
Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Biểu thị số cam ở hàng trên là 1 đoạn thẳng, thì đoạn thẳng này biểu thị 5
quả cam.
5 quả
Hàng trên:
Số cam ở hàng dưới như thế nào so với số cam ở hàng trên? (nhiều hơn).
Vậy nếu biểu thị số cam ở hàng dưới là 1 đoạn thẳng thì đoạn thẳng này như
thế nào so với đoạn thẳng ở trên? (dài hơn). Vì sao dài hơn? (vì hàng dưới
2 quả
nhiều hơn hàng trên).
Hàng dưới:
? quả
20
Vậy ta có tóm tắt hoàn chỉnh như sau:
5 quả
2 quả
Hàng trên:
Hàng dưới:
? quả
Ở bước này giáo viên nên sử dụng kết hợp giữa phương pháp trực quan, phương
pháp gợi mở vấn đáp và phương pháp giảng giải minh họa để cho học sinh dễ
hiểu nhất.
Bước 3:Tìm cách giải và trình bày bài giải: Đây là bước học sinh suy nghĩ để
tự tìm cách giải bài toán dựa vào những yếu tố đã biết để tìm yếu tố chưa biết. Đó
chính là cầu nối để học sinh tìm ra cách giải quyết bài toán một cách hợp lý. Giáo
viên không được làm thay, không được áp đặt cách giải. Cần tạo ra cho học sinh tự
tìm ra cách giải bài toán, khuyến khích các em tự tìm nhiều cách giải và biết so
sánh, lựa chọn cách giải tốt nhất. Dần dần hình thành cho các em thói quen không
bằng lòng với kết quả đã đạt được và có lòng mong muốn tìm giải pháp tốt cho bài
làm của mình. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cùng học sinh khai thác triệt để
tiềm năng các bài tập có sẵn trong sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học sinh
trao đổi ý kiến về các cách giải, qua đó củng cố, khắc sâu kiến thức bài học, chứ
không nhất thiết là bắt học sinh làm được nhiều bài hay giáo viên cung cấp thêm
nhiều bài tập.
Ở ví dụ trên, giáo viên hướng dẫn các em tìm cách giải như sau: Nhìn vào hình
vẽ (hoặc sơ đồ), Số cam ở hàng dưới như thế nào so với hàng trên? (So sánh sự vật
A với sự vật B) : nhiều hơn. Vậy số cam ở hàng dưới không những bằng mà nó còn
nhiều hơn số cam ở hàng trên, vậy số cam ở hàng dưới sẽ là số lớn còn số cam ở
hàng trên sẽ là số bé.
Nhìn vào hình vẽ hoặc sơ đồ, muốn tìm số cam ở hàng dưới ta làm như thế
nào?- Lấy số cam ở hàng trên cộng với phần hàng dưới nhiều hơn hàng trên.( tức là
lấy số bé cộng với phần nhiều hơn). Đi tìm số cam ở hàng dưới tức là đi tìm số lớn,
21
vậy muốn tìm số lớn ta làm như thế nào? Muốn tìm số lớn ta lấy số bé cộng với
phần nhiều hơn.
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải, giáo viên hướng dẫn học sinh trình
bày bài giải. Bài giải được trình bày 3 dòng: Dòng thứ nhất viết câu trả lời; dòng
thứ hai viết phép tính; dòng thứ 3 viết đáp số. Khuyến khích học sinh trả lời bằng
nhiều cách. Với bài này các em có thể trả lời là: Hàng dưới có số quả cam là :
Hoặc: Số quả cam ở hàng dưới là: … Bài toán này được trình bày như sau:
Bài giải:
Hàng dưới có số quả cam là:
5 + 2 = 7 (quả)
Đáp số: 7 quả cam.
Giáo viên lưu ý cho học sinh danh số ở phần phép tính được ghi trong ngoặc,
còn ở phần đáp số không có dấu ngoặc và phải được ghi đầy đủ (quả cam). Đáp số
được trình bày thẳng với dấu bằng.
Giáo viên nên khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải cho một bài toán.
Trong khi giải, yêu cầu học sinh viết câu lời giải phải ngắn gọn, rõ ràng; phép
tính phải đúng, kết quả tính toán phải chính xác, phải kèm danh số thích hợp.
Ở bước này, giáo viên cần phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học như:
phương pháp trực quan, phương pháp gợi mở vấn đáp, phương pháp giảng giải
minh họa và đặc biệt là phương pháp thực hành luyện tập.
Bước 4: Thử lại đáp số: Đây chính là bước thử lại để khẳng định xem cách làm
của mình là đúng hay sai. Nếu sai có thể tìm lại cách làm khác. Đây là bước quan
trọng song nhiều giáo viên lớp 1, lớp 2 lại bỏ qua bởi vì cho rằng kết quả của các
bài toán thường nhỏ hơn100, ai cũng có thể nhìn ra không cần phải thử lại. Đây là
một sai lầm lớn vì để các em có một thói quen thử lại khi làm toán(vô cùng cần
thiết ở các lớp trên) thì thói quen này phải được hình thành từ bé, ngay từ lớp1,lớp 2.
Ở bước này, giáo viên nên kết hợp giữa phương pháp trực quan với phương
pháp thực hành luyện tập.
22
• Tóm lại: Với bài toán về nhiều hơn, khi dạy giáo viên nên gắn với việc
đi tìm số lớn qua việc so sánh sự vật A nhiều hơn sự vật B, chứ không nên gắn với
từ “nhiều hơn”. Tìm số lớn bằng cách lấy số bé cộng với phần nhiều hơn.
Ví dụ: Hàng trên có 5 quả cam, hàng trên có nhiều hơn hàng dưới 2 quả
cam. Hỏi hàng dưới có mấy quả cam?
Với bài toán này, nếu dạy học sinh một cách máy móc thì các em sẽ trình
bày bài làm của mình như sau:
Bài giải:
Hàng dưới có số quả cam là:
5 + 2 = 7 (quả)
Đáp số: 7 quả cam.
Đây chính là bài giải sai của đại đa phần học sinh. Lý do các em làm như trên
vì trong bài toán xuất hiện từ “nhiều hơn”. Và vì vậy các em cứ máy móc là đem
cộng vào mà các em không hiểu được bài toán đã cho biết số lớn, yêu cầu đi tìm số
bé.
4.1. Dạng Bài toán về ít hơn:
Trong chương trình toán lớp 2, học sinh bắt đầu được làm quen với bài toán về
ít hơn từ tuần học thứ 6 qua tiết học: Bài toán về ít hơn trang 20. Ở tiết học này,
yêu cầu các em biết giải và trình bày bài giải bài toán về ít hơn. Đây là yêu cầu khó
đối với các em vì các em mới được làm quen với dạng toán này. Để giúp các em
nắm chắc dạng toán này, khi dạy tôi cũng hướng dẫn các em thực hiện qua 4 bước
như sau:
+ Bước 1: Đọc và tìm hiểu đề toán.
+ Bước 2: Tóm tắt đề toán.
+ Bước 3: Tìm cách giải và trình bày bài giải.
+ Bước 4: Thử lại đáp số.
Phương pháp dạy cụ thể cho từng bước như sau:
Ví dụ: Hàng trên có 7 quả cam, hàng dưới có ít hơn hàng trên 3 quả cam.
23
Hỏi hàng dưới có mấy quả cam?
Bước 1: Đọc và tìm hiểu đề toán: Ở bước này, giáo viên hướng dẫn học sinh
đọc thật kĩ đề toán (ít nhất là đọc 2 lần). Sau đó yêu cầu các em phải phân biệt được
cái đã cho và cái phải tìm: Cái đã cho là: hàng trên có 7 quả cam, hàng dưới có
ít hơn hàng trên 3 quả cam; cái phải tìm là: hàng dưới có mấy quả cam?
Ở phần này, giáo viên gợi mở để học sinh biết được số cam ở hàng nào đã biết ;
số cam ở hàng nào phải tìm; số cam ở hàng phải tìm đó có liên hệ như thế nào với
số cam ở hàng đã biết (ít hơn). Từ đó gợi cho các em so sánh số cam ở hàng đã biết
với số cam ở hàng phải tìm để các em thấy được số cam ở hàng phải tìm là số bé
(vì ít hơn) số cam ở hàng đã biết là số lớn.
Ở bước này giáo viên nên sử dụng phương pháp gợi mở - vấn đáp nhiều. Tuy
nhiên nên kết hợp với phương pháp trực quan, phương pháp giảng giải minh họa.
Bước 2: Tóm tắt đề toán: Có nhiều cách tóm tắt: Tóm tắt bằng chữ, tóm tắt
bằng hình tượng trưng, tóm tắt bằng sơ đồ, tóm tắt bằng bảng kẻ ô…Giáo viên
khuyến khích học sinh nên tóm tắt một bài toán bằng nhiều cách vì học sinh càng
biết nhiều cách tóm tắt sẽ càng nhanh tìm ra cách giải bài toán. Tuy nhiên giáo viên
vần hướng dẫn học sinh chọn cách tóm tắt cho phù hợp nhất để tìm ra lời giải
nhanh nhất.
Với dạng toán này giáo viên nên sử dụng cách tóm tắt bằng hình tượng
trưng (với các bài mới hình thành), và tóm tắt bằng sơ đồ (với các bài luyện
tập thực hành)
Với bài toán trên, giáo viên hướng dẫn các em tóm tắt như sau:
Cách 1: Tóm tắt bằng hình tượng trưng.
24
Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Biểu thị số cam ở hàng trên là 1 đoạn thẳng, thì đoạn thẳng này biểu thị 7
7 quả
quả cam.
Hàng trên:
Số cam ở hàng dưới như thế nào so với số cam ở hàng trên? (ít hơn). Vậy
nếu biểu thị số cam ở hàng dưới là 1 đoạn thẳng thì đoạn thẳng này như thế nào so
với đoạn thẳng ở trên? (ngắn hơn). Vì sao ngắn hơn? (vì hàng dưới ít hơn hàng
trên). Ngược lại, số cam ở hàng trên như thế nào so với số cam ở hàng dưới? (nhiều
hơn). Phần nhiều hơn thể hiện mấy quả cam? (3 quả cam)
7 quả
Hàng trên:
3 quả
Hàng dưới:
? quả
Ở bước này giáo viên nên sử dụng kết hợp giữa phương pháp trực quan,
phương pháp gợi mở vấn đáp và phương pháp giảng giải minh họa để cho học sinh
dễ hiểu nhất.
Bước 3 :Tìm cách giải và trình bày bài giải: Đây là bước học sinh suy nghĩ để
tự tìm cách giải bài toán dựa vào những yếu tố đã biết để tìm yếu tố chưa biết. Đó
chính là cầu nối để học sinh tìm ra cách giải quyết bài toán một cách hợp lý. Giáo
viên không được làm thay, không được áp đặt cách giải. Cần tạo ra cho học sinh tự
tìm ra cách giải bài toán, khuyến khích các em tự tìm nhiều cách giải và biết so
sánh, lựa chọn cách giải tốt nhất. Dần dần hình thành cho các em thói quen không
bằng lòng với kết quả đã đạt được và có lòng mong muốn tìm giải pháp tốt cho bài
làm của mình. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cùng học sinh khai thác triệt để
tiềm năng các bài tập có sẵn trong sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học sinh
trao đổi ý kiến về các cách giải, qua đó củng cố, khắc sâu kiến thức bài học, chứ
25