Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.51 KB, 32 trang )

Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
I/ PHẦN I: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Đặt vấn đề:
Trong công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra trên toàn cầu. Đòi hỏi
ngành giáo dục phải đào tạo con người đủ tài, đủ đức. Góp phần xây dựng đất nước
ngày càng phồn vinh sánh vai với các cường quốc tiên tiến trên thế giới. Để thực
hiện tốt vấn đề này nhà trường phải đổi mới phương pháp dạy học một cách hợp lý
và phù hợp từng đối tượng học sinh. Đây là việc làm tất yếu và thường xuyên trong
trường Tiểu học. Do vậy, các tiết học trên lớp của giáo viên và học sinh hiện nay
phải đổi mới phương pháp dạy học. Đó là một yêu cầu cần thiết và cấp bách của nền
giáo dục nước nhà. Vì thế, giáo viên phải chuyển sang phương pháp dạy học tích
cực lấy học sinh làm trung tâm. Các hoạt động dạy học luôn được đổi mới để phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường cũng như trình độ nhận thức của từng
học sinh. Vì hiện nay cả giáo viên và học sinh đều là những nhân tố tích cực trong
quá trình dạy học góp phần xây dựng đất nước trong thời gian tới.
Như chúng ta đã biết, đặc điểm của phương pháp dạy học truyền thống là có
sự mất cân đối rõ rệt giữa hoạt động dạy học của giáo viên và hoạt động học của học
sinh. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự phát triển
năng động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang làm cho việc
rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên thực tiễn hơn và
nhanh chóng hơn. Khoa học công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển
kinh tế xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học – công nghệ, phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu
trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ
hiện nay và tương lai mai sau.
Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là tạo nên những thay đổi sâu sắc
trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách học sinh
đến cách thức tổ chức quá trình dạy học. Nhà trường từ chỗ khép kính chuyển sang
mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học
công nghệ và ứng dụng. Nhà giáo thay vì truyền đạt tri thức chuyển sang cung cấp
cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách hệ thống, có tư duy phân


tích và tổng hợp.
Trong giáo dục quy trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao gồm các
yếu tố: Mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, hình thức tổ chức dạy học, phương
pháp dạy học. Trong đó phương pháp dạy học là khâu rất quan trọng bởi lẽ phương
pháp dạy học có hợp lý thì hiệu quả của việc dạy học mới cao, phương pháp có phù
hợp thì mới có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh. Vì vậy,
đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước trong thế kỉ XXI.
Năm học 2002 là năm học đầu tiên thay đổi sách giáo khoa cấp Tiểu học bắt
đầu từ lớp 1. Hiện nay chương trình sách giáo khoa mới ở tất cả các cấp đang được
triển khai và thực hiện trong cả nước. Sách giáo khoa Toán ở Tiểu học có rất nhiều
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
1
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
đổi mới về cấu trúc nội dung, cách thể hiện nội dung nhằm đổi mới phương pháp
dạy học. Rất nhiều giáo viên Tiểu học đã tập huấn chương trình thay sách giáo khoa.
Nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa mới từ đó có biện pháp dạy học
thích hợp theo phương pháp mới phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tuy nhiên,
vẫn còn vài giáo viên cập nhật chưa sâu sắc vấn đề này dẫn đến việc dạy học Toán ở
Tiểu học nói chung và việc đổi mới phương pháp dạy học phép nhân, phép chia
trong bảng ở lớp 3 nói riêng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản của đổi mới
phương pháp dạy ở Tiểu học.
Môn Toán là một trong những môn học có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu
học. Đối với học sinh lớp 3 việc đầu tiên là giúp các em nắm vững và thuộc phép
nhân, phép chia trong bảng để từ đó các em áp dụng thực hành nhân chia các số tự
nhiên ngoài bảng, tìm thành phần chưa biết, giải toán có lời văn . . . một cách chính
xác hơn, tự tin hơn.
Với những lý do trên tôi mạnh dạn chọn viết đề tài: “ Đổi mới phương pháp
dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân, chia trong bảng ở lớp 3”. Nhằm tạo điều
kiện cho chính bản thân tôi và giáo viên Tiểu học tham khảo, đút rút kinh nghiệm

cho các giờ lên lớp của môn Toán đạt kết quả khả quan. Đồng thời giúp học sinh lớp
tôi cũng như tất cả học sinh Tiểu học tự tin hơn, vững vàng hơn khi học môn Toán
và tạo tiền đề cho học sinh học tốt môn Toán ở những mạch kiến thức kế tiếp của
lớp 3, 4, 5 sau này.
Qua đề tài này sẽ giúp tôi tự tin hơn khi bước trên bục giảng đồng thời có thêm
kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân,
chia trong bảng ở lớp 3. Cũng như góp phần nhỏ bé của mình nâng cáo chất lượng
giáo dục của Trường Tiểu học Bình Trinh Đông ngày càng đi lên và bước lên chuẩn
quốc gia mức độ 2 năm 2012 cũng từ đó nâng dần chất lượng giáo dục của ngành
trong thời gian tới.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
a. Tìm hiểu những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học môn
Toán ở Tiểu học.
Một trong những định hướng đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học hiện nay
là vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Thực chất là không loại bỏ đi những phương pháp dạy học truyền thống để thay vào
một phương pháp dạy học mới mà là việc lựa chọn sử dụng, kết hợp các phương
pháp dạy học khác nhau trong giờ lên lớp để khắc phục nhược điểm của phương
pháp này và phát huy ưu điểm của phương pháp kia và ngược lại.
Bởi vì mỗi phương pháp dạy học có ưu điểm và nhược điểm riêng của nó,
không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Tuỳ theo đối tượng học sinh, nội
dung bài dạy mà giáo viên có thể lựa chọn, sử dụng, kết hợp các phương pháp dạy
học nhằm phát huy hiệu quả của giờ học.
Năm 2010 – 2011 tôi được phân công dạy lớp 3. Trong suốt một năm trực tiếp
giảng dạy, tôi nhận thấy rằng đa số các em đều có ý thức học tập. Bên cạnh đó, vẫn
còn không ít học sinh tiếp thu bài rất chậm về thực hành nhân, chia trong bảng cũng
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
2
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
như các dạng bài tập trong chương trình Toán lớp 3. Vì thế, trong năm học 2011 –

2012 này, tôi suy nghĩ mình phải làm thế nào? Và làm gì đây? Để tất cả học sinh
trong lớp đều nắm vững cách lập bảng nhân, bảng chia, ghi nhớ kiến thức mới một
cách sâu sắc để áp dụng làm bài tập một cách nhanh nhất, đúng nhất, hiệu quả nhất.
Cho nên tôi chọn viết đề tài này nhằm tích cực hoá các hoạt động dạy học trong việc
đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học.
b. Tìm hiểu mục tiêu và nội dung dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân,
chia trong bảng ở lớp 3.
* Mục tiêu:
- Thuộc phép nhân, phép chia trong bảng tại lớp.
- Biết tính nhẩm.
- Biết thực hành nhân, chia ngoài bảng.
- Vận dụng giải troán có lới văn, tìm thành phần chưa biết, . . .
* Nội dung:
- Lập được bảng nhân, bảng chia từ: 6, 7, 8, 9.
- Học các phép nhân chia ngoài bảng.
- Tính giá trị của biểu thức.
- So sánh số lớn gấp số bé một số lần.
- So sánh số bé bằng một phần mấy số lớn.
- gấp một số lên nhiều lần; giảm đi một số lần.
- Giải toán đơn, toán hợp.
c. Thiết kế các hoạt động dạy học thực hành phép nhân, chia trong bảng ở
lớp 3 theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh trong học tập góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học toán ở Tiểu học nói chung, số tự nhiên ở lớp 3 nói riêng.
Lần đầu tiên được phân công dạy lớp 3, qua tiếp xúc với học sinh trong từng
tiết dạy. Tôi thấy trình độ nhận thức của các em không đồng đều về mọi mặt nhất là
thực hành nhân chia trong bảng và các dạng bài tập khác.
Ở lớp 3 việc lập các bảng nhân, chia và hoàn thiện nó không phải là dễ và
cũng không phải là khó. Tuy nhiên giáo viên phải làm thế nào để tất cả học sinh
trong lớp đều nắm vững cách lập, ghi nhớ một cách sâu sắc bảng nhân, chia 6 để tiếp

nối các bảng nhân, chia còn lại và áp dụng giải bài tập một cách hiệu quả nhất. Vì
thế, tôi suy nghĩ rằng giáo viên trước khi đến lớp phải thiết kế bài giảng một cách
chu đáo sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Nhằm giúp học sinh lớp tôi
phụ trách đạt được một số yêu cầu sau:
- Học tốt môn toán và các môn học khác.
- Khích thích sự ham học hỏi, thích đến trường của học sinh.
- Tránh tình trạng lưu ban, bỏ học.
- Tạo mối quan hệ gần gũi giữa giáo viên và học sinh.
- Giúp học sinh có thái độ học tập đúng đắn.
- Giúp cho lớp học sôi nổi, phát huy óc sáng tạo, tính tích cực học tập của học
sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
3
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
- Đồng thời giúp học sinh lớp 3 vững tin tiếp bước đi lên lớp 4, 5 sau này.
3. Lịch sử đề tài:
Đối với đặc điểm riêng của học sinh lớp 3/
1
năm học 2011 – 2012 mà tôi đang
trực tiếp giảng dạy. Nên tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này đi sâu tìm hiểu thống kê
thực trạng để tìm nguyên nhân và thể nghiệm những giải pháp cụ thể nhằm giúp học
sinh lớp tôi tự tin hơn khi học môn Toán nói chung và kĩ năng thực hành nhân, chia
trong bảng ở lớp 3 nói riêng.
4. Phạm vi đề tài:
Dựa vào trình độ nhận thức của từng đối tượng học sinh lớp 3/
1
, là giáo viên
phụ trách lớp, tôi rất băn khoăn và lo lắng. Tôi luôn suy nghĩ mình phải làm gì? Để
tất cả học sinh lớp tôi học môn Toán một cách tự tin hơn. Vì thế ngay từ tuần 1 của
năm học tôi miệt mài nghiên cứu viết đề tài này để áp dụng cho học sinh của tôi và

tất cả học sinh lớp 3 trong toàn Tỉnh Long An.


Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
4
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
II/ PHẦN II. NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM:
1. Thực trạng đề tài:
a. Tại sao phải đổi mới phương pháp dạy học:
Công việc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng giờ, từng ngày trên khắp
đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng
lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống
xã hội luôn luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường
phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và
phương pháp dạy học.
Đặc điểm của lối dạy học cũ là có sự mất cân đối rõ rệt giữa hoạt động dạy
của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Trong đó:
- Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong
sách giáo khoa, sách giáo viên. Vì vậy, giáo viên thường làm việc một cách máy
móc và ít quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh.
- Học sinh học tập một cách thụ động, chủ yếu chỉ nghe giảng, ghi nhớ rồi
làm bài theo mẫu. Do đó học sinh ít hứng thú học tập, nội dung các hoạt động học
tập thường nghèo nàn, đơn điệu, các năng lực vốn có của cá nhân các em ít cơ hội
phát triển.
- Giáo viên là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Học sinh ít khi được tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Tiêu chuẩn đánh giá
học sinh là kết quả ghi nhớ, tái hiện lại những điều giáo viên đã giảng.
Cách dạy học như thế đang cản trở việc đào tạo những người lao động năng
động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với những đổi mới đang diễn ra
từng ngày. Dó đó chúng ta phải cố gắng đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao

chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong
giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, phương pháp dạy học là khâu rất quan trọng, bởi lẽ
phương pháp dạy học có hợp lý thì hiệu quả của việc dạy học mới cao. Phương pháp
có phù hợp thì mới phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh. Bởi vì
muốn đổi mới giáo dục trước hết phải đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng sự
đổi mới trong giai đoạn hiện nay và mai sau.
b. Đổi mới nhân thức của các cấp lãnh đạo chính quyền và quản lí ngành
giáo dục.
Nhìn lại năm học vừa qua, với chủ đề: “ Tiếp tục đổi mới quản lí và nâng cao
chất lượng giáo dục”. Ngành giáo dục đã quán triệt và tổ chức thực hiện toàn diện
các nhiệm vụ và chủ đề trọng tâm năm học, đề ra chủ trương sát, đúng, giải pháp
tích cực và thực hiện với tinh thần quyết liệt, cụ thể, có hiệu quả, ổn định và phát
triển cả về quy mô, chất lượng các điều kiện dạy học.
Quản lí ngành giáo dục triển khai có hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin
trong đổi mới phương pháp dạy và học ở từng trường. Toàn ngành tổ chức thực hiện
tốt ba cuộc vận động và phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”. Nhờ đó đã tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành động
thực tiễn của cấp quản lí giáo dục. Môi trường giáo dục thân thiện xanh – sạch – đẹp
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
5
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
có ảnh hưởng không nhỏ đến phương pháp dạy học. Việc dạy và học theo phương
pháp đổi mới thực chất đã đi vào nề nếp, học sinh tự giác và chăm học hơn. Các cấp
quản lí giáo dục đã có sự chủ động trong công tác tham mưu, tạo sự đồng thuận
trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục. cấp uỷ Đảng, chính
quyền địa phương quan tâm, chăm lo, chỉ đạo sâu sát hơn. Các ban ngành đoàn thể
phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục và đào tạo. Các lực lượng xã hội cũng chăm lo
đến việc học của con em mình.
Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp về đổi mới phương pháp dạy học ở
trường mình. Hiệu trưởng cần trân trọng, ủng hộ, khuyến khích mỗi sáng kiến, cải

tiến dù nhỏ của giáo viên, đồng thời cũng cần hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực thích hợp với từng môn học, đặc điểm học
sinh, điều kiện dạy và học ở địa phương làm cho phong trào đổi mới phương pháp
dạy học ngày càng rộng rãi, thường xuyên và có hiệu quả hơn.
c. Đổi mới nhận thức của giáo viên và học sinh.
 Đối với giáo viên:
Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi về chức
năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc đổi mới .
Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm vững
vàng, biết ứng xử tinh tế, biết sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, biết định
hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự
tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức.
Giáo viên là chủ thể trực tiếp đổi mới phương pháp dạy học, không ai làm
thay được và điều đó diễn ra tại bài học, môn học, lớp học, trường học trong quá
trình dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học là phương pháp dạy học mới mà giáo
viên là người tổ chức, hướng dẫn luôn lấy học sinh làm trung tâm”. Từ đó giáo viên
mới hiểu được yêu cầu của học sinh để cung cấp thông tin, định hướng mục tiêu học
tập, tổ chức cho học sinh chủ động tư duy, nhận thức, thực hành sáng tạo trong quá
trình tiếp nhận tri thức. Do đó, để đổi mới phương pháp dạy, mỗi giáo viên chúng ta
trước khi lên lớp phải tự tìm kiếm, lựa chọn các phương thức hoạt động phù hợp với
từng đối tượng học sinh nhằm thực hiện 3 chức năng của phương pháp dạy học
gồm: Nắm vững, giáo dục, phát triển.
Phương pháp giảng dạy của giáo viên có phù hợp sẽ phát huy hiệu quả, trực
tiếp ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy. Vì vậy, tôi nghĩ rằng: “ Một giờ dạy tốt của
một người thầy giỏi có khi in đậm trong trí nhớ học sinh hàng mấy chục năm”.
 Đối với học sinh:
Học sinh ngày nay dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích ứng
với phương pháp dạy học tích cực như: Giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong
học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của
lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc bằng mọi cách, phát triển các

loại hình tư duy biện chứng logic, hình tượng tư duy, kĩ thuật tư duy . . .
Học sinh ngày nay rất nhại bén, các em tiếp thu kiến thức rất nhanh và sẵn
sàng thực hiện, tìm tòi cách giải các bài tập khó. Các em nhận thấy sự mới mẻ trong
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
6
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
phương pháp làm việc, học và sẵn sàng tham gia vào các hoạt động học tập dưới sự
hướng dẫn của giáo viên.
Vì thế trong năm học 2011– 2012 trường Tiểu học Bình Trinh Đông đạt 14/49
học sinh giỏi toán Olympic trên mạng Internets cấp huyên. Trong đó lớp 3/
1
tôi phụ
trách đạt 4/6 học sinh. Đó cũng là sự cố gắng, tìm tòi cách giải hay đối với những
bài toán khó của thầy trò chúng tôi.
d. Đổi mới nhân thức của các bậc phụ huynh và dư luận xã hội.
Trường Tiểu học Bình Trinh Đông là trường thuộc xã thuần nông của huyện
Tân Trụ. Hầu hết đại bộ phận cha mẹ học sinh đều làm nghề nông. Những năm
trước đây nhận thức của phụ huynh học sinh chưa sâu sắc về vấn đề học tập của con
em mình. Quanh năm suốt tháng họ chỉ lo quần quật với ruộng đồng. Mọi việc dạy
chữ cũng như dạy người hầu như đều phó thác cho thầy cô giáo. Gần đây qua các
cuộc họp cha mẹ học sinh cũng như tiếp xúc với các dư luận xã hội. Suy nghĩ của họ
tiến bộ hơn, họ cho rằng: “ Học để có cái chữ, để có việc làm, có gia đình hạnh
phúc”.Cho nên họ luôn quan tâm đến việc học của con em mình. Họ luôn trao đổi
với giáo viên chủ nhiệm để tìm phương pháp dạy đúng nhất, dễ hiểu nhất cho con
em mình ở nhà. Ngoài ra phụ huynh còn tìm mua sách tham khảo để hướng dẫn học
sinh tự học ở nhà.
Ngoài xã hội, các mạnh thường quân, các nhà hảo tâm, các công ty, doanh
nghiệp , . . . cũng rất quan tâm đến việc học của học sinh. Vào đầu năm học, họ đã
đóng góp tập vở, quần áo, xe đạp, tiền, . . . cho học sinh nghèo để kịp cho ngày khai
giảng năm học mới. Hơn thế nữa, họ còn đóng góp không nhỏ để xây dựng trường

lớp, hàng rào bao quanh khuôn viên trường học, máy tính, . . . cho các trường vùng
sâu, vùng xa. Đây cũng là cái nhìn thiện chí, suy nghĩ mới, tiếp thêm sức mạnh, ươm
mầm cho các nhân tài tương lai sau này. Góp phần xây dựng quê hương đất nước
ngày càng giàu đẹp hơn, phồn thịnh hơn.
đ. Đổi mới chương trình và sách giáo khoa môn học.
Chương trình môn Toán ở lớp 3 là một bộ phận của chương trình môn Toán ở
Tiểu học. Chương trình này tiếp tục thực hiện những đổi mới về giáo dục toán học ở
các lớp 1 và lớp 2. Khắc phục một số tồn tại của dạy học toán các lớp 1, 2, 3 theo
chương trình cũ, góp phần đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm đáp ứng
những yêu cầu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đầu thế kỉ XXI.
Chương trình và sách giáo khoa phải giảm bớt khối lượng kiến thức quá tải,
tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động tích cực, giảm bớt những thông
tin buộc học sinh phải thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng cường các bài toán nhận
thức để học sinh tập giải, giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường những gợi ý
để học sinh tự nghiên cứu phát triển bài học.
e. Đổi mới cơ sở vật chất trang thiết bị và đồ dùng dạy học phục vụ việc
dạy và học môn Toán ở Tiểu học.
Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai chương
trình sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
7
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này
phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các
hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy
học được dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác như: Bàn
ghế, thiết bị nghe nhìn, . . .
Trong quá trình biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên các tác giả đã chú ý

lựa chọn danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số yêu cầu để
có thể phát huy vai trò của thiết bị dạy học. Những yêu cầu này rất cần được các cán
bộ chỉ đạo quản lý quán triệt và triển khai trong phạm vi mình phụ trách cụ thể như
sau:
- Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống thực tế và đạt chất lượng cao, tạo điều kiện
đẩy mạnh hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự khám phá kiến thức thông
qua hoạt động thực hành, thâm nhập thực tế trong quá trình học tập.
- Đảm bảo để nhà trường có thể đạt được thiết bị dạy học ở mức tối thiểu, đó
là những thiết bị cần thiết không thể thiếu được trong từng hoạt động học tập. Góp
phần đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh hiểu kiến thức mới và áp dụng
làm bài tập linh hoạt hơn.
- Chú trọng thiết bị thực hành giúp học sinh tự giải các bài tập thực hành.
Những thiết bị đồ dùng học tập đơn giản có thể được giáo viên, học sinh tự làm góp
phần làm phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà trường. Công việc này rất cần
được quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo trường, phòng, sở. Hàng năm, việc tổ chức
hội thi sáng tạo đồ dùng dạy học đã lôi cuốn không ít giáo viên tham gia. Điều đó
góp phần không nhỏ trong việc đổi mới phương pháp dạy học ở từng tiết học cụ thể
nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
g. Đổi mới hình thức tổ chức dạy học môn Toán nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh trong học tập.
Theo lối dạy học truyền thống trước đây hầu như giáo viên là người truyền
đạt kiến thức “ Thầy giảng – Trò nghe”. Sau đó ghi nhớ để áp dụng giải bài tập.
Ngày nay song song với việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải đổi mới
hình thức tổ chức dạy học. Nhằm phát huy tính sáng tạo, tích cực hoạt động của học
sinh trong học tập. Tôi thiết nghĩ để tiết dạy toán đạt kết quả cao giáo viên cần suy
nghĩ tìm tòi các hình thức tổ chức dạy học đa dạng và phong phú lôi cuốn học sinh
tham gia vào hoạt động học tập.
h. Đổi mới công tác kiểm tra và đánh giá việc dạy của giáo viên và kết quả
học tập của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới

của mục tiêu nên việc kiểm tra được phối hợp thường xuyên và định kì. Trong kế
hoạch dạy học từng bài mà giáo viên có thể kiểm tra vào thời điểm thích hợp, không
nhất thiết phải kiểm tra bài cũ vào đầu tiết học. Khi xây dựng đề kiểm tra phải tuân
thủ các nguyên tắc đúng chuẩn kiến thức kĩ năng, sắp xếp các câu hỏi, bài tập theo
thứ tự từ dễ đến khó và có đủ các dạng bài tập đại diện cho các kiến thức và kĩ năng
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
8
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
cơ bản nhất.
Đánh giá là khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả
năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình
hình đó. Nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và là cơ sở
cho bản thân học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn.
Trong dạy học đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động mà còn điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp dạy học
đổi mới giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng, tạo điều kiện thuận lợi
để học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động
kịp thời hành vi học tập của chính bản thân mình. Điều đó rất cần thiết cho sự thành
đạt trong cuộc sống sau này mà nhà trường đã trang bị cho học sinh.
Kiểm tra đánh giá phải công bằng, khách quan kết quả học tập của học sinh,
có thể đánh giá bằng các hình thức khác nhau như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập
trắc nghiệm , . . . chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh,
quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học,
kể cả ở tiết tiếp thu kiến thức mới lẫn thực hành. Điều này đòi hỏi giáo viên đầu tư
nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn.
2. Nội dung cần giải quyết:
a. Các hình thức dạy học môn Toán theo định hướng đổi mới phương pháp
dạy học.

a
1
. Hình thức dạy học theo nhóm.
a
2
. Hình thức tổ chức phiếu học tập toán học.
a
3
. Hình thức tổ chức trò chơi toán học.
a
4
. Hình thức tổ chức dạy học kết hợp với các phương tiện thiết bị dạy học.
a
5
. Hình thức tổ chức đố vui học toán.
a
6
. Hình thức tổ chức truyện kể toán học.
b. Một số thông tin về đổi mới phương pháp dạy học ở địa phương trong
nước, trong khu vực và trên thế giới.
c. Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học số tự nhiên ở lớp 3 trong trường Tiểu
học hiện nay.
 Việc dạy của giáo viên:
1. Phương pháp trực quan.
2. Phương pháp trò chơi toán học.
3. Phương pháp dạy học theo nhóm.
4. Phương pháp sử dụng phiếu học toán.
5. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
6. Phương pháp sử dụng câu đố vui toán học.
7. Phương pháp rút về đơn vị.

8. Phương pháp dùng chữ thay số.
9. Phương pháp ứng dụng sơ đồ.
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
9
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
10. Phương pháp thực hành – luyện tập.
 Về việc học của học sinh.
 Vấn đề cơ sở vật chất trang thiết bị và đồ dùng dạy và học số tự nhiên ở lớp 3.
 Những sai lầm và khó khăn thường gặp của giáo viên và học sinh trong quá
trình dạy học số tự nhiên của giáo viên và học sinh ở lớp 3.
d. Thiết kế các hoạt động dạy học đổi mới phương pháp rèn kĩ năng thực
hành phép nhân, phép chia trong bảng ở lớp 3 nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh.
3. Biện pháp giải quyết:
a. Các hình thức dạy học môn Toán theo định hướng đổi mới phương pháp
dạy học.
a
1
. Hình thức dạy học theo nhóm.
- Góp phần rèn luyện tinh thần tự chủ của mỗi học sinh. Giáo viên chỉ tổ chức
hướng dẫn học sinh làm, không cần can thiệp trực tiếp vào.
- Tạo cơ hội để học sinh hoà nhập cộng đồng. Học sinh tập lắng nghe ý kiến
người khác, tập lắng nghe ý kiến của chính mình.
- Tạo cơ hội để học sinh nâng cao năng lực hợp tác, học sinh tự xác định trách
nhiệm cá nhân đối với công việc chung của nhóm, nhận xét đánh giá suy nghĩ của
bạn và điều chỉnh suy nghĩ của mình.
- Tạo điều kiện để học sinh phát huy hết khả năng của mình theo hướng phân
hoá trong học tập.
Để lôi cuốn sự hứng thú cho học sinh trong hoạt động nhóm, giáo viên có thể
tiến hành chia nhóm theo một số cách sau:

+ Chia nhóm ngẫu nhiên.
+ Chia nhóm cùng trình độ.
+ Chia nhóm theo sở thích.
+ Chia nhóm theo bàn.
+ Chia nhóm theo màu sắc.
+ Chia nhóm theo loài hoa( con vật) em thích.
a
2
. Hình thức tổ chức phiếu học tập toán học.
Phiếu học tập có thể là một phần của vở bài tập, làm riêng cho một tiết học
hoặc một phần của tiết học. Coi như là một phương tiện tổ chức hoạt động dạy học.
Có nhiều loại phiếu học tập như: Phiếu kiểm tra, phiếu học, phiếu thực
hành…
a
3
. Hình thức tổ chức trò chơi toán học.
Trò chơi toán học là trò chơi chứa một yếu tố toán học nào đó. Trò chơi có thể
phân loại theo số người tham gia. Trò chơi tập thể, trò chơi cá nhân. Trò chơi có thể
là trò chơi vận động, có thể là trò chơi trí tuệ, cũng có thể kết hợp vận động với trí
tuệ.
Trò chơi toán học có thể tổ chức như một hoạt động dạy học toán. Cơ sở tâm
lý và sinh lý khẳng định hoạt động dạy học toán dưới dạng trò chơi là rất phù hợp
với lứa tuổi học sinh Tiểu học. Thực tế cho thấy hình thức tổ chức trò chơi toán học
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
10
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
được áp dụng trong giờ học toán, học sinh rất hứng thú và tích cực tham gia.
Ngoài trò chơi vận động, trò chơi trí tuệ, trò chơi toán học có thể là:
- Trò chơi nhằm dẫn dắt hình thành kiến thức mới.
- Trò chơi nhằm cũng cố kiến thức, luyện tập kĩ năng.

- Trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy trong giờ ngoại khoá.
a
4
. Hình thức tổ chức dạy học kết hợp với các phương tiện thiết bị dạy
học.
Đồ dùng dạy học toán là bất kì dụng cụ nào( đồ vật, mô hình, tranh ảnh, hình
vẽ, . . . ) được sử dụng trong dạy học toán. Đồ dùng dạy học toán rất đa dạng và
phong phú, từ những đồ vật đơn giản nhất như là que tính đến những dụng cụ đắt
tiền như máy vi tính, đèn chiếu, . . . đều có thể coi là đồ dùng dạy học toán.
Tư duy học sinh thường bắt đầu từ những biểu tượng cụ thể, nên kiến thức
toán học ở Tiểu học chủ yếu hình thành bằng con đường cụ thể. Chính điều này dẫn
đến xu hướng dạy học toán theo cách tổ chức cho học sinh: hoạt động bằng tay với
đồ vật – hoạt động quan sát với các mô hình, hình vẽ – hoạt động chơi với lời nói –
hoạt động trí óc. Trong rất nhiều trường hợp có thể tổ chức hoạt động mà không có
đồ dùng dạy học toán. Tuy nhiên đồ dùng dạy học toán phải được sử dụng đúng lúc,
đúng chỗ, đúng cách thì tiết học mới có hiệu quả. Đúng lúc nghĩa là khi cần sử dụng
thì sử dụng, khi không cần thì không sử dụng đồ dùng dạy học. Môn Toán có một
nhiệm vụ trọng đại là rèn luyện tư duy trừu tượng cho học sinh, cho nên lạm dụng
việc sử dụng đồ dùng dạy học cũng làm hạn chế kết quả học tập của học sinh.
Để biết sử dụng đồ dùng dạy học đúng lúc, đúng chỗ giáo viên phải nắm chắc
kiến thức. Thông qua việc sử dụng đồ dùng dạy học có thể đánh giá được giáo viên
có nắm vững kiến thức của tiết dạy hay không?
a
5
. Hình thức tổ chức đố vui học toán.
Đố vui toán học có nhiều tác dụng đối với dạy học toán như:
- Tạo không khí thư giãn thoải mái trong học tập.
- Tạo ra những tình huống kích thích học sinh suy nghĩ, góp phần rèn luyện
năng lực tư duy sáng tạo và gây hứng thú học toán cho học sinh.
Vì thế đố vui có thể xem là một hình thức giải lao tích cực.

a
6
. Hình thức tổ chức truyện kể toán học.
Truyện kể toán học là câu chuyện mà nội dung có yếu tố nào đó liên quan đến
toán học. Cụ thể hơn, truyện kể có thể là:
- Những câu chuyện gắn với các bài toán hay, các phát minh gần với toán học.
- Những câu chuyện về cách xử trí thông minh, ứng đối nhanh và độc đáo.
- Những câu chuyện trong cuộc sống hàng ngày, có chi tiết nào đó liên quan
đến toán học, dù là rất đơn giản.
Kể chuyện toán học cũng có thể xem là một hình thức hoạt động dạy học. Kể
chuyện một mặt làm thay đổi không khí lớp học như một hình thức nghỉ ngơi tích
cực, thư giãn đầu óc, chuẩn bị để tiếp tục học tập,mặt khác có tác dụng hỗ trợ dạy
học toán thông qua việc đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề cần suy nghĩ
để đề xuất cách giải quyết, ngoài ra còn góp phần giáo dục học sinh ý thức sáng tạo
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
11
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
trong lao động, tinh thần yêu nước, tính nhân đạo . . . Một câu chuyện kể trong vài
phút, nhưng có thể để lại ấn tượng sâu sắc, đậm nét suốt đời học sinh.
b. Một số thông tin về đổi mới phương pháp dạy học ở địa phương trong
nước, trong khu vực và trên thế giới.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh, không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy
học truyền thống hay phải “ hội nhập” một số phương pháp xa lạ vào quá trình dạy
học. Vấn đề là cần kế thừa phát triển những mặt tích cực của phương pháp dạy học
hiện có, đồng thời phải học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới một
cách linh hoạt nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong
học tập, phù hợp với hoàn cảnh điều kiện dạy học cụ thể.
Ngày nay, bài giảng hiện đại đang có khuynh hướng sử dụng ngày càng nhiều
các phương tiện công nghệ thông tin, làm tăng sức hấp dẫn cho người học và đạt

hiệu quả cao. Trước đây để minh hoạ bài giảng, giáo viên chỉ có thể sử dụng lời nói
giàu hình tượng và gợi cảm, kèm theo những cử chỉ , điệu bộ, diễn tả nội tâm hoặc
có thêm bộ tranh sách giáo khoa hỗ trợ. Hiện nay, có đầy đủ phương tiện để giáo
viên lựa chọn sử dụng như: máy chiếu, băng ghi âm, băng ghi hình, đĩa CD, phần
mềm vi tính . . .
Năm 2011 – 2012 là năm học mà ngành giáo dục huyện Tân Trụ phát động
100% giáo viên phải soạn bài trên máy vi tính, biết tự lên mạng Internets tìm hiểu
thêm thông tin, biết sử dụng đầu máy đa năng để thực hiện bài giảng của mình một
cách sinh động, hiệu quả, phát huy cao nhất tính tích cực học tập của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều
người. Khi nói về phương pháp dạy học, mọi người đang nói về những đối tượng lý
tưởng, đó là những giáo viên có tâm huyết với sự nghiệp trồng người, những học
sinh có khát vọng chiếm lĩnh tri thức, hoàn thiện nhân cách. Không có phương pháp
nào có thể phát huy hiệu quả đối với những giáo viên thiếu tâm huyết và đối với
những học sinh chưa có ý thức cao trong học tập.
Vì vậy, trách nhiệm của các nhà quản lý đất nước nói chung và quản lý giáo
dục nói riêng, một công việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa tạo nền tảng và động lực
cho sự phát triển giáo dục là làm sao để mục tiêu giáo dục thấm nhuần trong mỗi cán
bộ, giáo viên, học sinh. Điều này không phải thể hiện ở những khẩu hiệu ồn ào mà
được cụ thể hoá bằng những chế độ, chính sách, thành những quy chế và cuối cùng
trở thành hành động tự giác của thầy và trò trong quá trình dạy và học. Vấn đề này
đang là mục tiêu phấn đấu của đất nước ta.
Hiện tại đổi mới phương pháp vẫn gặp nhiều khó khăn về nội dung chương
trình: số môn học, tiết học và cấu tạo nội dung của nhiều tiết học vẫn còn bất cập với
thời gian cho phép người giáo viên thực hiện và khả năng lĩnh hội của học sinh. Vấn
đề bức xúc nhất tác động mạnh vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học vẫn là
cách kiểm tra đánh giá.
Tôi đã đọc trên mạng Internets được biết quan niệm thi cử ở Singapo chỉ là
một “ lát cắt” trong quá trình học tập mà thôi. Họ tập trung đánh giá một học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.

12
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
dựa vào cả quá trình học tập trên mọi bình diện từ việc giữ gìn sức khoẻ, khả năng
giao tiếp đến thành tích học tập các môn học.
Tại cuộc hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông do
Bộ giáo dục – Đào tạo tổ chức ngày 3 tháng 1 năm 2010. Phó Bộ trưởng – Bộ
trưởng Bộ giáo dục – Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: “ Một trong những
tiêu chí quan trọng nhất là sẽ lấy ý kiến nhận xét của học sinh về cách dạy của giáo
viên.”
c. Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học số tự nhiên ở lớp 3 trong trường
Tiểu học hiện nay.
Qua tìm hiểu sách giáo khoa Toán 3 mới. Cùng với việc nắm bắt ý kiến của
giáo viên trong các cuộc họp tổ chuyên môn. Đặc biệt là giáo viên đang trực tiếp
giảng dạy lớp 3 về nội dung dạy học bảng nhân, chia trong bảng ở lớp 3 tương đối
phù hợp với từng học sinh. Qua bảng nhân, chia 6, 7, 8, 9 các em sẽ áp dụng nhân,
chia ngoài bảng. Từ đó vận dụng giải các dạng bài toán như: gấp một số lên nhiều
lần; giảm đi một số lần; tính giá trị của biểu thức; so sánh số lớn gấp mấy lần số bé; .
. . tìm một trong các phần bằng nhau của một số. Ngoài ra học sinh còn biết giải
toán có liên quan đến rút về đơn vị; biết tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình
vuông. Đa số các bài tập đều phù hợp theo chuẩn kiến thức kĩ năng, ở dạng cơ bản
không có bài tập nâng cao dành cho học sinh giỏi để đáp ứng yêu cầu cho việc giải
toán Olympic trên mạng Internets. Vì vậy giáo viên phải tìm tòi, suy nghĩ những bài
toán nâng cao để luyện thêm cho học sinh giỏi.
VD: Một số tự nhiên chia cho 6 được kết quả là 21 , số dư lớn nhất có thể có
trong phép chia. Lấy số tự nhiên đó nhân với 6 được kết quả là . . . (786 )
: 6 = 21 ( dư 5)
= 21 x 6 + 5 = 131 131 x 6 = 786
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng số lượng và yêu cầu đặt ra cho mỗi bài toán
trong sách giáo khoa cũng tạo cơ hội cho giáo viên và học sinh có đủ thời gian tổ
chức hoạt động, nhất là hoạt động độc lập của học sinh. Đồng thời tạo cơ hội cho

giáo viên phát huy khả năng của mình trong dạy học, phải đầu tư, suy nghĩ để khai
thác nội dung bài dạy ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đưa ra những hình thức tổ chức
dạy học tích cực, tạo ra nhiều tình huống hấp dẫn lôi cuốn học sinh tham gia vào
hoạt động học tập một cách chủ động, sáng tạo chứ không phụ thuộc vào sách giáo
khoa, sách giáo viên một cách cứng nhắc.
Tóm lại: Muốn rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3 thật tốt,
giáo viên phải hiểu rõ khả năng nhận thức của từng học sinh mà xây dựng phương
pháp dạy học sao cho phù hợp. Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng,
việc dạy và học ở trường Tiểu học Bình Trinh Đông và cụ thể là lớp 3/
1
do tôi phụ
trách. Tôi thấy cần giải quyết một số vấn đề sau:
 Việc dạy của giáo viên:
* Ưu điểm:
- Đa số giáo viên nắm vững nội dung và phương pháp dạy học, nội dung dạy
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
13
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
nhân chia trong bảng ở lớp 3 đơn giản, có trọng tâm nên việc truyền thụ kiến thức
tương đối thuận lợi. Chính vì vậy mà hiện nay việc dạy phép nhân, phép chia được
giáo viên thực hiện tương đối nhẹ nhàng và đạt yêu cầu.
- Mặt khác trong những năm gần đây, Bộ giáo dục và đào tạo; Sở giáo dục
Long An rất quan tâm đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Hằng năm, giáo
viên được tham gia các lớp tập huấn để nâng cao tay nghề. Ngoài ra, giáo viên còn
tham gia thi giảng đổi mới phương pháp cấp huyện, cấp tỉnh, dự chuyên đề ở các
trường bạn do huyện tổ chức. Do vậy, mỗi giáo viên đều nhận thức được tinh thần
đổi mới phương pháp dạy học môn Toán.
Do quán triệt được tinh thần đổi mới phương pháp dạy học nên giáo viên đã
chủ động lập kế hoạch bài dạy cho những tiết học, tuần học. Giáo viên luôn chuẩn bị
bài giảng trước khi đến lớp một cách chu đáo. Vì tôi nghĩ rằng có chuẩn bị bài kĩ

giáo viên mới thấy cái khó, cái mà học sinh hay sai sót, vướn mắc để kịp thời sửa
chữa. Trong từng tiết dạy giáo viên nên lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù
hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
* Những mặt tồn tại:
- Bên cạnh những ưu điểm của một số đông giáo viên đã tích cực thay đổi
phương pháp dạy học, không tránh khỏi một số ít giáo viên vẫn còn giảng dạy rất
khuôn mẫu theo sách hướng dẫn của giáo viên, sách giáo khoa. Giáo viên chỉ chú ý
sao cho học sinh giải được bài toán cụ thể trong sách giáo khoa chứ chưa chú ý đến
việc phát triển các đề toán thành các bài toán tương tự bằng việc yêu cầu học sinh
thay đổi số liệu để giúp học sinh nắm vững dạng toán đồng thời giúp cho các em
phát triển năng lực tư duy. Giáo viên ít đi sâu, ít nghiên cứu bài dạy, ngại đổi mới
phương pháp và còn sử dụng phương pháp truyền thống nhiều hơn. Vì thế dẫn đến
học sinh thụ động, nhàm chán.
- Nhiều giáo viên cho học sinh luyện tập với không khí buồn tẻ, do đó có
nhiều dạng bài tập lặp lại mà giáo viên không đổi mới phương pháp, đổi mới các
hình thức chữa bài mà chủ yếu chữa bài một cách đơn điệu. Học sinh đứng đọc bài
làm hoặc lên bảng làm bài, lớp chữa bài. Vì vậy, chưa kích thích được hứng thú học
tập của học sinh.
VD: Bảng chia 6 trang 24 sách giáo khoa BT
1
và BT
2
có dạng giống nhau.
BT
1
: Tính nhẩm:
42 : 6 = 24 : 6 = 48 : 6 = 30 : 6 =
54 : 6 = 36 : 6 = 18 : 6 = 30 : 5 =
12 : 6 = 6 : 6 = 60 : 6 = 30 : 3 =
BT

2
: Tính nhẩm:
4 x 6 = 6 x 2 = 6 x 5 = 6 x 1 =
24 : 6 = 12 : 6 = 30 : 6 = 6 : 6 =
24 : 4 = 12 : 2 = 30 : 5 = 6 : 1 =
Tương tự: Bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 có bài tập 1 và bài tập 2 đều
giống nhau. Nhưng giáo viên cứ theo lối mòn cũ gọi học sinh làm và đọc kết quả, cả
lớp nhận xét chữa bài cứ rập khuôn như thế làm cho học sinh dễ nhàm chán, không
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
14
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
khí lớp học buồn tẻ, thụ động.
- Nội dung phép nhân, phép chia số tự nhiên trong Toán 3 là nội dung mới.
Để khắc sâu kiến thức, rèn kĩ năng tính toán cho học sinh, sách giáo khoa đưa ra
những bài tập tương tự nhau. Đặc biệt là trong các bài học về nhân chia trong bảng.
Chẳng hạn, các bài học ấy thường có 3 dạng bài tập:
+ Tính nhẩm.
+ Toán có lời văn.
+ Đếm thêm.
Không ít giáo viên chỉ vận dụng lặp lại phương pháp thực hành luyện tập
quen thuộc, không chịu đổi mới phương pháp.
Thực tế năm học 2011 – 2012 vừa qua, lớp 3/
1
do tôi phụ trách rất hứng thú,
say mê, sôi nổi trong học tập là do tôi sử dụng tốt một số phương pháp dạy học đổi
mới sau đây:
1. Phương pháp trực quan:
Ở lứa tuổi Tiểu học các em rất hay mau quên và cũng rất dễ nhớ nếu như các
em thực hành các thao tác trên đồ dùng học tập. Vì thế khi dạy bảng nhân 6, tôi
hướng dẫn học sinh hình thành bảng nhân trên các tấm bìa có 6 chấm tròn cụ thể

như sau:
Tôi lấy một tấm bìa có 6 chấm tròn và yêu cầu học sinh lấy theo.Sau đó tôi
hỏi học sinh:
- Các em vừa lấy bao nhiêu chấm tròn? ( 6 chấm tròn )
- Và lấy mấy lần? ( 1 lần )
- 6 chấm tròn lấy 1 lần ta có phép nhân nào? ( 6 x 1 = 6 )
Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh lấy thêm 1 tấm bìa nữa ( học sinh lấy theo
giáo viên ).
- 6 chấm tròn được lấy mấy lần? ( 2 lần )
- Chúng ta có phép nhân nào? ( 6 x 2 = 12 )
- Tương tự: Giáo viên yêu cầu học sinh lấy tiếp để hình thành bảng nhân 6.
Khi lập bảng nhân 6 xong, tôi yêu cầu học sinh tìm xem tích phép nhân sau bằng
tích phép nhân trước cộng thêm mấy? ( cộng thêm 6 )
VD: 6 x 5 = 6 x 4 + 6 = 24 + 6 = 30
2. Phương pháp trò chơi toán học:
Nhằm lôi cuốn sự chú ý trong học tập, giảm sự căn thẳng trong khi học. tôi
thường tổ chức trò chơi toán học để học sinh nghĩ rằng mình đang chơi nhưng thực
ra các em vẫn đang học.
VD
1
: Khi dạy bài: “ bảng nhân 6” bài tập 1 trang 19 sách giáo khoa.
Tôi tiến hành cho học sinh tính nhẩm bằng bút chì sách giáo khoa sau đó tôi
cho học sinh chơi trò chơi đoán số dưới hoa. Bằng cách mỗi phép tính tôi ghi tích
sẵn và hiệu ứng từng bông hoa che tích lại( giáo án dạy bằng Powerpoint). Nếu tiết
dạy bình thường thì tôi cắt từng bông hoa bằng bìa cứng để che kết quả lại và gọi 1
học sinh làm chủ trò “ đố bạn 6 x 4 = mấy?”. Bạn vừa trả lời đúng lại đố tiếp . . .
“ 6 x 0 = mấy?”
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
15
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.

1 Tính nhẩm:
6 x 4 = 6 x 1 = 6 x 9 = 6 x 10 =

6 x 6 = 6 x 3 = 6 x 2 = 0 x 6 =
6 x 8 = 6 x 5 = 6 x 7 = 6 x 0 =
VD
2
: Khi dạy bài “ luyện tập” trang 25 sách giáo khoa toán lớp 3. Phần kiểm
tra bài cũ giáo viên thường cho 1 bài toán nào đó gọi học sinh lên bảng làm, cả lớp
làm bảng con rồi cho học sinh nhận xét. Nhưng theo cách này cứ điệp khúc lặp đi,
lặp lại như thế dễ làm cho học sinh nhàm chán, không hứng thú tiếp thu kiến thức
mới. Vì thế, tôi tiến hành kiểm tra bài cũ bằng trò chơi “ xì điện”. Cách chơi như
sau: Giáo viên hoặc chủ trò ra đề toán 6 x 7 = mấy ? Học sinh trả lời đúng thì ra đề
toán tiếp. Cứ thế hết bảng nhân 6. Nhưng không trùng nhau. Làm như vậy sẽ tránh
tình trạng học vẹt. Nếu em nào trả lời không được thì bị “xì điện”.
Qua 2 năm kinh nghiệm dạy lớp 3 cho thấy có nhiều học sinh tính nhẩm các
bài tập rất nhanh.
VD
3
: BT
1
: trang 31 bài “ Bảng nhân 7”.
7 x 3 = . . . 7 x 8 = . . . 7 x 2 = . . . 7 x 1 = . . .
Chỉ học sinh yếu, trung bình phải đọc nhẩm lại bảng nhân 7 mới làm được.
Theo tôi, muốn tính được 7 x 8 = ? mà phải đọc lại từ 7 x 1 = 7; 7 x 2 = 14; . . . rồi
mới làm được 7 x 8 = 56 như thế sẽ mất thời gian. Vì thế, tôi luyện cho học sinh
chơi trò chơi “ xì điện”. nhằm tạo cho học sinh sự nhanh nhẹn, tự tin khi giải toán.
Ngoài ra, tôi còn áp dụng trò chơi “ xì điện” cho đôi bạn 15 phút đầu giờ truy
bài lẫn nhau. Với phương pháp này cho thấy học sinh tính rất nhanh nhẹn ở những
phép nhân, chia ngoài bảng.

Để trong từng tiết học toán thật sự hấp dẫn. lớp học thêm sinh động, sôi nổi,
lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập. Tôi còn sử dụng thêm
một số trò chơi học toán sau:
- Trò chơi: Ai nhanh hơn.
- Trò chơi: Hái hoa dâng chủ.
- Trò chơi: Câu cá nhanh giải toán đúng.
- Trò chơi: Khăn trải bàn; . . .
VD
4
: trang 31 sách giáo khoa bài “ Bảng nhân 7”
Đếm thêm 7 rồi viết số thích hợp vào ô trống.
7 14 21 42 63
Cách chơi: Tôi chọn 2 đội lên thi đua viết tiếp kết quả. Mỗi đội 5 học sinh , em thứ
nhất viết kết quả quả vào ô thứ nhất về trao phấn ( bút lông) cho em thứ hai viết
vào ô kế tiếp cứ thế đến ô cuối cùng. Đội nào xong trước thì lấy bông hoa
giáo viên đính trên bảng đem về. Sau đó giáo viên cùng học sinh nhận xét 2 đội.
- Bước 1: Nhận xét đội nào về trước ( đội có bông hoa là về trước).
- Bước 2: Nhận xét đội nào đúng ( mỗi ô vuông đúng đạt 2 điểm)
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
16
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
Nếu cả 2 đội đều đúng ( 10 điểm) thì sẽ tuyên dương đội về trước.
Trò chơi này có thể ghi 2 phiếu phát cho đầu bàn chuyền tay nhau làm đến em cuối
cùng làm xong lên dán kết quả. Nếu đội nào làm đúng và dán kết quả trước sẽ thắng.
VD
5
: Trò chơi “câu cá nhanh giải toán đúng”.
Khi dạy bài: “ Bảng nhân 9” sách giáo khoa trang 63 BT
2
.

a) 9 x 6 + 17 b) 9 x 7 – 25
9 x 3 x 2 9 x 9 : 9
Tôi cho cả lớp làm 3 bài còn lại bài 9 x 9 : 9 tôi sẽ ghi vào 3 phiếu và xếp lại bỏ vào
con cá được gấp bằng giấy màu có dán nam châm và 3 cây cần câu có 3 miếng mồi
bằng sắt. Sau đó cho 3 học sinh đại diện 3 tổ lên thi câu cá. Em nào câu được cá lấy
bài toán giải. Em nào giải xong trước, đúng sẽ thắng cuộc( cả lớp cổ vũ “ cố lên, cố
lên”).
Qua phương pháp sử dụng trò chơi học toán, tối thấy học sinh trung bình, yếu
cũng tích cực xin tham gia. Lưu ý nếu học sinh yếu thì tôi chọn bài toán dễ hơn so
với học sinh khá, giỏi.
3. Phương pháp dạy học theo nhóm:
Dạy học theo nhóm là một hình thức mới đối với giáo viên. Dạy học theo
nhóm sẽ giúp học sinh trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm bản thân,
cùng nhau xây dựng kiến thức mới. Bằng cách trao đổi ý kiến, mỗi học sinh có thể
nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề giáo viên đưa ra. Để thấy mình cần
học hỏi thêm điều gì. Do vậy, thành công của bài dạy phụ thuộc vào sự tham gia
nhiệt tình của từng thành viên trong nhóm.
Tuy vậy, dạy học theo nhóm bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học,
thời gian hạn định của tiết học. Vì thế giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học sinh
đã quen với cách dạy này thì mới có kết quả. Mỗi tiết học chỉ nên có 1 – 2 hoạt động
nhóm, mỗi lần hoạt động nhóm từ 5 10 phút. Cần nhớ rằng trong hoạt động
nhóm, tư duy tích cực của học sinh phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của
phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Cần
tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động
nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới.
VD
1
: Bài “ Bảng chia 6” sách giáo khoa trang 24.
Tôi cho học sinh lấy tấm bìa có 6 chấm tròn hình thành 6 x 1 = 6. Tôi đặt câu hỏi
gợi ý:

- Có 6 chấm tròn chia thành nhóm, mỗi nhóm có 6 chấm tròn. Hỏi có bao nhiêu
nhóm được chia? ( 1 nhóm). Từ đó rút ra phép chia 6 : 6 = 1.
Sau đó tôi cho học sinh thảo luận nhóm đôi. Hai học sinh ngồi cạnh nhau lấy 2 tấm
bìa có 6 chấm tròn và thảo luận tìm phép chia 12 : 6 = 2.
Tương tự đến tấm bìa thứ 10 cùng thảo luận ghi vào phiếu và gọi các nhóm đọc
bảng chia 6 vừa thành lập. Các nhóm còn lại dò và nhận xét.
Tôi tiếp tục cho cho học sinh thảo luận nhóm đôi để tìm mối liên hệ giữa phép nhân
6 x 2 = 12 và phép chia 12 : 6 = 2( lấy tích chia cho thừa số thứ 1 ta được thừa số
thứ 2 và ngược lại.)
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
17
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
Phương pháp này có thể áp dụng cho phép chia 7, 8, 9.
VD
2
: BT
1
: trang 63 bài “ Bảng nhân 9” lớp 3.
9 x 4 = 9 x 2 = 9 x 5 = 9 x 10 =
9 x 1 = 9 x 7 = 9 x 8 = 0 x 9 =
9 x 3 = 9 x 6 = 9 x 9 = 9 x 0 =
Tôi cho học sinh tính nhẩm vào sách giáo khoa bằng bút chì. Sau đó tôi cho
học sinh nêu miệng theo hình thức tiếp sức. Rồi hỏi em nào đúng cả 4 cột giơ tay.
Các em đều làm đúng bài tập 1. Bây giờ cô sẽ thưởng cho các em một món quà. Các
em thích món quà nào nào thì lấy món quà ấy. Ở 3 rổ của 3 tổ tôi để sẳn 4 loại quả:
xoài, mận, táo, cam. Hoặc là 4 loại hoa , 4 loại xe, 4 loại con vật nuôi. Sau đó học
sinh sẽ họp nhóm theo sở thích vừa lấy và đặt tên nhóm theo tên của món quà đã
chọn.( nhóm xoài, nhóm mận, nhóm táo, nhóm cam) để thảo luận nhóm 4 tìm cách
giải bài tập 2 sách giáo khoa trang 63.
a) 9 x 6 + 17 b) 9 x 7 – 25

9 x 3 x 2 9 x 9 : 9
Từ đó rút ra cách làm:
9 x 6 + 17 và 9 x 7 – 25 ( làm tính nhân trước)
9 x 3 x 2 và 9 x 9 : 9 ( làm từ trái sang phải)
Trong nhóm mỗi em làm 1 bài rồi trao đổi kiểm tra nhau. Sau đó gọi 4 học sinh đại
diện 4 nhóm lên bảng sửa bài bằng hình thức thi đua “ Ai nhanh hơn”
4. Phương pháp sử dụng phiếu học toán:
Phiếu học tập có thể coi là một phần của vở bài tập, có thể làm riêng cho một
tiết học hoặc một phần của tiết học, coi như là một phương tiện tổ chức hoạt động.
Có nhiều loại phiếu học tập như: phiếu kiểm tra, phiếu học và phiếu thực hành. Sau
đây là một ví dụ về “ phiếu học”.
Phiếu học là một hệ thống công việc được sắp xếp một cách khéo léo để học
sinh tự làm, qua phiếu các em có thể tự mình tìm ra kiến thức mới. Giáo viên chỉ cần
nói, hỏi hoặc dẫn dắt ít.
VD: Khi dạy bài “ Bảng chia 7” sách giáo khoa trang 35.
Nhằm phát huy tính tích cực độc lập của học sinh. Tôi soạn phiếu học cho tiết
học này như sau:
 Việc 1: Lập bảng nhân 7  Việc 2: Suy ra bảng chia 7
7 x 1 = . . . 7 : 7 = . . .
7 x 2 = . . . 14 : 7 = . . .
7 x 3 = . . . 21 : 7 = . . .
7 x 4 = . . . 28 : 7 = . . .
7 x 5 = . . . 35 : 7 = . . .
7 x 6 = . . . 42 : 7 = . . .
7 x 7 = . . . 49 : 7 = . . .
7 x 8 = . . . 56: 7 = . . .
7 x 9 = . . . 63 : 7 = . . .
7 x 10 = . . . 70 : 7 = . . .
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
18

Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
- Phiếu trên áp dụng cho học sinh yếu, trung bình.
- Đối với học sinh khá, giỏi thì phiếu học chỉ cần ghi việc 1, việc 2 tự học sinh
suy ra.
7 x 1 = . . .
7 x 2 = . . .

7 x 10 = . . .
5. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề:
Trong xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt,
thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một
năng lực đảm bảo sự thành đạt trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì vậy,
giáo viên tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra, giải quyết những vấn đề gặp
phải trong học tập, trong cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Không chỉ có ý
nghĩa tìm phương pháp dạy học mà phải đặt ra như một mục tiêu giáo dục và đào
tạo. Trong dạy học đặt và giải quyết vấn đề thường phân biệt hai cấp độ.
- Thuyết minh giải quyết vấn đề: Giáo viên tạo tình huống có vấn đề, học sinh
tự phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Tự nghiên cứu vấn đề: Giáo viên chỉ tạo tình huống có vấn đề, học sinh tự
phát hiện và giải quyết vấn đề.
Hiện nay, nhiều giáo viên Tiểu học thường áp dụng ở cấp độ thuyết trình giải
quyết vấn đề và chủ yếu tạo tình huống có vấn đề là một bộ phận của tiết học.
Phương pháp này gây niềm tin ở khả năng người học, làm cho học sinh thấy được
bài toán tuy chưa có lời giải ngay nhưng học sinh đã có kỹ năng liên quan đến vấn
đề đặt ra và nếu tích cực suy nghĩ thì có nhiều hy vọng giải quyết được bài toán đó.
VD: Bài tập 3 trang 69 sách giáo khoa lớp 3.
Một công ti dự định xây 36 ngôi nhà, đến nay đã xây được
9
1
số nhà đó. Hỏi

công ti còn phải xây tiếp bao nhiêu ngôi nhà nữa?
Đối với học sinh khá, giỏi tôi cho học sinh tự khám phá tìm ra cách giải.
Đối với học sinh yếu, trung bình tôi hướng dẫn để các em tìm ra cách giải như
sau:
- Đề toán hỏi gì?
- Đề toán cho biết gì?
- Muốn biết công ti còn phải xây tiếp bao nhiêu ngôi nhà nữa em phải tìm gì
trước?( công ti đã xây bao nhiêu ngôi nhà).
- Mà đề toán cho biết công ti đã xây được 1 phần mấy của 36 ngôi nhà? (
9
1
).
- Vậy tìm
9
1
số ngôi nhà đã xây em tìm được không?
- Tìm được số ngôi nhà đã xây rồi, em tìm được số ngôi nhà còn phải xây tiếp
được không?
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
19
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
6. Phương pháp sử dụng câu đố vui toán học:
Trong tiết học giáo viên sử dụng câu đố vui toán học sẽ tạo không khí thư
giãn, thoải mái trong lớp học. Đố vui toán học có thể xem là một hình thức giải lao
tích cực. Luôn tạo ra những tình huống kích thích học sinh suy nghĩ, góp phần rèn
luyện năng lực tư duy sáng tạo và gây hứng thú học toán cho học sinh.
Câu đố toán học có thể sử dụng vào dịp khởi động tiết học. Học sinh mới vào
lớp chưa trật tự, còn nghĩ tản mạn về các hoạt động lúc ra chơi. Lúc đó tôi ra một
câu đố để học sinh tập trung suy nghĩ, trật tự trở lại vào học kiến thức mới hoặc khi
học sinh bắt đầu mỏi mệt. Đố vui toán học là một hình thức giải lao tích cực, vừa là

một cách hấp dẫn để củng cố kiến thức của tiết học.
Khi vào tiết toán “ Bảng chia 8”. Học sinh chưa tập trung còn suy nghĩ tản
mạn về những trò chơi với bạn ngoài sân trường trong giờ ra chơi, chưa tập trung
vào tiết học. Có học sinh lại cãi nhau “ bạn chơi ăn gian”. Thế là tôi đặt một câu đố .
VD
1
: Mẹ đi chợ mua về một giỏ mận. Hai chị em chạy ra ngõ mừng mẹ và
hỏi: Mẹ ơi, mẹ mua bao nhiêu trái mận vậy mẹ? Mẹ trả lời: Đem chia 7 người trong
nhà, mỗi người 4 trái còn thừa 2 trái. Hỏi mẹ mua bao nhiêu trái mận?
VD
2
: Một người đi câu được một con cá to. Có người hỏi con cá nặng bao
nhiêu kí – lô – gam? Người đó trả lời: Đuôi cá nặng 2 kí – lô – gam. Đầu cá nặng
2
1
đuôi cá. Còn thân cá gấp 6 lần đuôi cá. Hỏi con cá đó nặng bao nhiêu kí – lô – gam?
7. Phương pháp rút về đơn vị:
Khi học sinh nắm vững các bảng nhân, chia. Từ đó các em áp dụng giải các
bài toán có lời văn một cách dễ dàng. Bởi vì các bài toán ấy đều áp dụng các phép
cộng, trừ hoặc nhân, chia trong bảng mà thôi. Đây là phương pháp để giải các bài
toán về đại lượng tỉ lệ thuận.
VD: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Bài toán 2: trang 128 lớp 3.
Giáo viên hướng dẫn tóm tắt:
7 can: 35 lít
2 can: . . . lít?
- Muốn tìm 2 can đựng bao nhiêu lít mật ong trước hết các em tìm bao nhiêu
can?( tìm xem 1 can đựng bao nhiêu lít).
- Vậy tìm 1 can em làm thế nào? ( lấy 35 : 7)
- Biết 1 can đựng ( . . . ) lít. Vậy các em tìm 2 can bằng cách nào?( lấy ( . . . )

số lít của 1 can vừa tìm được nhân với 2 can).
Chú ý: Không được lấy 2can nhân trước vì ta tìm số lít chứ không phải tìm số
can.
Từ đó tôi cho học sinh ứng dụng bài tập 1 trang 128 sách giáo khoa lớp 3
bằng cách cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm ra 3 vỉ thuốc có bao nhiêu viên
thuốc. Muốn vậy phải tìm 1vỉ có bao nhiêu viên thuốc. Sau đó cho 2 đội lên thi đua
giải bài tập 1, mỗi học sinh làm 1 bước rồi chuyền nhau đến em cuối cùng ghi đáp
số xong lấy bông hoa về. Nếu đội nào nhanh, đúng sẽ thắng cuộc.
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
20
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
8. Phương pháp dùng chữ thay số:
Phương pháp này dùng để giải một số bài toán có ký hiệu bằng 1 biểu tượng
nào đó ( , bằng chữ a, b, c, x, y, . . . ). Từ cách chọn ký hiệu nói trên theo điều
kiện của đề bài người ta đưa về một phép tính hay dãy tính có chứa các biểu tượng
này. Dựa vào thành phần chưa biết của phép tính, ta tính được số cần tìm. Cách giải
bài toán trên gọi là phương pháp dùng chữ thay số. Phương pháp này áp dụng để
giải toán về tìm thành phần chưa biết của phép tính.
VD: Nhân số có 3 chữ số với số có một chữ số.
Bài tập 4 trang 55 sách giáo khoa lớp 3.
a) x : 7 = 101 b) x : 6 = 107
- Tìm x là tìm số nào trong phép chia. Từ đó học sinh giải bài toán dễ dàng vì
101 x 7 và 107 x 6, các em chỉ cần học thuộc bảng nhân 6 và nhân 7 thì kết quả sẽ
tìm được rất nhanh.
a) x : 7 = 101 b) x : 6 = 107
x = 101 x 7 x = 107 x 6
x = 707 x = 742
9. Phương pháp ứng dụng sơ đồ:
Trong một số bài toán, ta gặp các đối tượng hoặc môt nhóm đối tượng khác
nhau mà giữa chúng có mối quan hệ nào đấy. Để giải các bài toán này ta dùng hình

vẽ để biểu diễn mối quan hệ giữa các đối tượng. Có thể sơ đồ là hình vuông, hình
tròn, bông hoa, . . . đoạn thẳng. Dùng Phương pháp này học sinh dễ dàng nhận ra
cách giải của bài toán.
VD: Bài tập 3 trang 54 – Toán 3.
Tóm tắt: Giải
Số mét dây điện đã cắt là:
/ / / / / / / / / / / / / / / / / / / 8 x 4 = 32 ( m)
8 m ? m Số mét dây điện còn lại là:
50 – 32 = 18 ( m)
Đáp số: 18 m
10. Phương pháp thực hành – luyện tập:
Phương pháp thực hành – luyện tập là phương pháp dạy học thông qua các
hoạt động thực hành – luyện tập của học sinh để giúp các em nắm được các kiến
thức và kĩ năng mới.
Các hoạt động thực hành – luyện tập bao gồm:
- Giải quyết các nhiệm vụ( hay bài tập ) do giáo viên nêu ra để tự học sinh có
thể tìm kiếm hoặc chiếm lĩnh được kiến thức mới.
- Tập vận dụng kiến thức vào làm tính, giải toán để củng cố kiến thức, hình
thành kĩ năng.
- Thực hành đo lường ( cân, đong, đo, . . . ). Vẽ hình, cắt ghép, xếp hình, . . .
- Từ các vấn đề thực tiễn tự đặt bài toán để giải.
- Làm đồ dùng học tập . . .
Khi tổ chức luyện tập thực hành giáo viên cần lưu ý:
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
21
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
- Phải chuẩn bị cho việc thực hành, luyện tập một cách chu đáo .
- Cần động viên cả lớp hoạt động độc lập, mọi học sinh đều tự suy nghĩ, tự
tìm biện pháp. Trong khi cả lớp làm việc nếu cần nhắc nhỡ, giúp đỡ, nên nhắc nhỡ
cá nhân học sinh, giáo viên không nên nói to làm mất sự tập trung suy nghĩ của cả

lớp.
- Nhất thiết phải tổng kết hoạt động độc lập của học sinh, điều chỉnh sai lầm,
có sự bổ sung kiến thức cần thiết.
- Các bài tập cần đi từ đơn giản đến phức tạp và nên có những bài tập nâng
cao.
- Giáo viên nên ra bài mẫu và giải bài mẫu một cách rõ ràng, đẹp, cẩn thận,
mẫu mực để học sinh bắt chước.
- Cần chú ý thay đổi hình thức luyện tập để gây hứng thú, học tập cho các em.
- Cần luyện tập nhiều, nhưng số lượng bài tập vừa phải, không bắt học sinh
làm việc quá sức, luyện tập ở lớp là chính.
VD
1
: Bài “ Chia số có ba chữ số cho số có một chữ số” trang 72.
a) 648 : 3 = ?
648 3 * 6 chia 3 được 2, viết 2.
6 216 2 nhân 3 bằng 6; 6 trừ 6 bằng 0.
04 * Hạ 4; 4 chia 3 được 1, viết 1.
3 1 nhân 3 bằng 3; 4 trừ 3 bằng 1.
18 * Hạ 8; được 18; 18 chia 3 được 6, viết 6.
18 6 nhân 3 bằng 18; 18 trừ 18 bằng 0.
0
Vậy: 648 : 3 = 216
VD
2
: b) 236 : 5 = ?
Giáo viên hướng dẫn tương tự, kĩ, chậm như sách giáo khoa Toán 3 trang 72.
Sau đó tôi cho học sinh độc lập suy nghĩ để giải BT
1
.
Bài a, b tôi cho học sinh làm bảng con 2 bài đầu để tiện theo dõi, sửa sai cho

học sinh. Còn 2 bài cuối tôi cho học sinh làm sách giáo khoa hay phiếu ( vở) để học
sinh tự làm và nhóm đôi ngồi cạnh nhau kiểm tra – báo cáo. Và cho 4 học sinh lên
bảng thi đua sửa 4 bài tập bằng “ trò chơi câu cá nhanh, giải toán đúng”. Em nào
giải nhanh, đúng sẽ thắng.
a) 872 4 375 5 390 6 905 5
b) 457 4 578 3 489 5 230 6
Bảng con Phiếu( vở, sách)
Những phương pháp trên là một trong những phương pháp điễn hình mà tôi
đã sử dụng trong việc giảng dạy học sinh về rèn kỹ năng thực hành phép nhân, chia
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
22
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
trong bảng ở lớp 3.
 Về việc học của học sinh:
Ở lứa tuổi Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng. Các em chưa hiểu hết ý
nghĩa của việc học toán hiện tại ở lớp cũng như tương lai sau này. Các em còn ham
chơi chưa tập trung trong giờ học. Một số phụ huynh suốt tháng quanh năm chỉ lo
quần quật với ruộng đồng chưa quan tâm đến việc học của con em mình. Do vậy có
một số học sinh không hề mở sách ra xem, cứ mang về rồi lại mang đi. Vì thế việc
học toán của các em rất chậm không theo kịp bạn bè.
Một số gia học sinh thì gia đình không sum họp, cha mẹ ly thân ( ly dị) nhau.
Do đó các em không được sự chăm sóc của cha mẹ mà chỉ mà chỉ được sự chăm
sóc, nuôi dưỡng của ông bà. Cho nên việc học của các em cũng bị sa sút. Mọi sự dạy
chữ và dạy người hầu như phó thác cho thầy cô giáo.
Một số học sinh thì do bẩm sinh học yếu, học trước quên sau, học phép chia
thì quên phép nhân. Vào lớp rất thụ động ít phát biểu. Vì thế việc thực hành các
phép nhân, chia cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại.
VD: Bài “ Luyện tập chung”sách Toán 3 trang 49.
BT
2

: Tính ( Học sinh thường sai lầm chia thành nhân)
b) 24 2 93 3 88 4 69 3
2 48 9 39 8 3232 6 227
04 03 08 09
4 3 8 9
0 0 0 0
Đây là dạng chia mà học sinh yếu hay lẫn thành nhân.
Năm đầu tiên được phân công chủ nhiệm lớp 3/
1
. Qua trực tiếp giảng dạy môn
Toán. Tôi thấy đa số học sinh đều làm tốt các bài tập về phép nhân, phép chia trong
sách giáo khoa. Kết quả đạt được tất khả quan. Nhưng đối với các bài toán có yêu
cầu cao hơn thì các em vẫn còn lúng túng. Đây là đều mà tất cả giáo viên đứng lớp
ai cũng băn khoăn, lo nghĩ mình phải làm thế nào để nâng dần số học sinh giỏi hàng
năm và phát huy được sự sáng tạo luôn tìm tòi cái mới, cái chưa biết để học môn
Toán đạt kết quả cao.
 Vấn đề cơ sở vật chất trang thiết bị và đồ dùng dạy và học số tự nhiên
ở lớp 3.
Trường Tiểu học Bình Trinh Đông là trường thuộc xã thuần nông của huyện
Tân Trụ - tỉnh Long An. Nhưng nhờ sự nỗ lực phấn đấu của thầy và trò trường Tiểu
học Bình Trinh Đông. Bên cạnh đó được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo trường
Tiểu học Bình Trinh Đông đã được công nhận trường “ Chuẩn quốc gia” mức độ 1
vào tháng 8 năm 2010. Vì thế trường, lớp khang trang hơn, có tương đối đầy đủ các
phòng chức năng. Trường trang bị phòng máy vi tính với 18 máy, 2 đèn chiếu, 1
máy laptop, . . . , bàn ghế được trang bị đầy đủ, đúng quy cách. Đồ dùng học toán
phục vụ cho dạy số tự nhiên ở lớp 3 cung cấp đầy đủ. Bên cạnh đó giáo còn tự làm
đồ dùng dạy học phục vụ cho từng tiết dạy, từng phương pháp dạy học nhằm lôi
cuốn học sinh tham gia hoạt động học tập. Tuy nhiên bàn ghế chưa phải là ghế xoay
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
23

Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
vì thế khó khăn cho việc thảo luận nhóm.
Hơn nữa đồ dùng dạy học là một phương tiện trực quan giúp học sinh dễ dàng
nắm vững kiến thức mới. Nên đòi hỏi người giáo viên phải sử dụng linh hoạt, đúng
lúc, đúng chỗ. Khi cần sử dụng thì sử dụng, khi không cần thì không sử dụng. Môn
Toán có một nhiệm vụ trọng đại là rèn luyện tư duy trừu tượng cho học sinh, cho
nên lạm dụng việc sử dụng đồ dùng dạy học cũng làm hạn chế kết quả học không
kém gì dạy “ chay”.
Để biết sử dụng đồ dùng dạy học đúng lúc, đúng chỗ giáo viên phải nắm chắc
kiến thức. Thông qua việc sử dụng đồ dùng dạy học có thể đánh giá được giáo viên
có vững về kiến thức của tiết dạy hay không?
Đúng cách nghĩa là giáo viên thực hiện đúng thao tác theo quy trình khi sử
dụng đồ dùng dạy học.
VD: Khi hướng dẫn học sinh tự lập “ Bảng nhân 6”, giáo viên yêu cầu học
sinh sử dụng các tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm tròn một cách hợp lý.
- Lấy một tấm bìa ta có: 6 x 1 = 6 vì 6 đuyợc lấy một lần.
- Lấy 2 lần, mỗi lần 1 tấm bìa có 6 chấm tròn 6 x 2 = 12. Tránh tình trạng
giáo viên lấy 1 lần 2 tấm bìa thì học sinh khó hình dung 6 x 2 = 12( mà học sinh có
thể hình dung là 12 x 1 = 12)
- Tương tự: Lấy 3 lần mỗi lần 1 tấm bìa có 6 chấm tròn. Học sinh nêu: “ 6
được lấy 3 lần, ta có 6 x 3 = 18.
Mặt khác: cũng từ 3 tấm bìa này ta thấy 6 x 3 = 18 chính là: 6 x 2 + 6
Vậy: 6 x 3 = 6 x 2 + 6 = 18.
Bằng cách như vậy, học sinh có thể không dùng tấm bìa mà vẫn tìm được kết
quả của phép tính:
6 x 4 = 6 x 3 + 6 = 24 hoặc 6 x 4 = 4 x 6 = 24 Dựa bảng nhân đã học ở lớp 2.
6 x 5 = 6 x 4 + 6 = 30 hoặc 6 x 5 = 5 x 6 = 30

6 x 10 = 6 x 9 + 6 = 60
Như vậy, giáo viên cần lưu ý sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý, đúng lúc,

đúng cách không chỉ giúp học sinh nắm được kiến thức mà còn phát triển tư duy.
 Những sai lầm và khó khăn của giáo viên khi dạy đổi mới phương pháp
dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân, chia trong bảng ở lớp 3.
- Thao tác và cách hướng dẫn học sinh hình thành phép chia 6, 7, 8, 9 còn
lúng túng.
VD: Bài “ Bảng chia 6” sách Toán 3 trang 24.
Khi hình thành 6 x 3 = 18, giáo viên thường mắc phải sai lầm lấy 1 lần 3 tấm
bìa có 6 chấm tròn thì học sinh khó hình dung 6 chấm tròn được lấy 3 lần. Sau đó từ
phép nhân 6 x 3 = 18 cùng với đồ dùng trực quan giáo viên đặt câu hỏi để chuyển
thành phép chia không rõ ràng.
+ 18 chấm tròn cô chia đều cho 6 chấm tròn. Hỏi có bao nhiêu nhóm được
chia?
+ Thay vì hỏi: 18 chấm tròn cô chia thành các nhóm, mỗi nhóm có 6 chấm
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
24
Giáo viên: Trần Thị Thương – Trường Tiểu học Bình Trinh Đông – Tân Trụ – Long An.
tròn. Hỏi có bao nhiêu nhóm được chia?
Vì thế, tôi nghĩ rằng nếu giáo viên hướng dẫn kĩ các thao tác và kĩ năng hình
thành phép chia 6 thì sang phép chia 7, 8, 9 học sinh sẽ dễ dàng hình thành mà cần
giáo viên hướng dẫn.
- Khi chuyển dạng toán hay chuyển từ BT
1
sang BT
2
giáo viên thường sử
dụng sách giáo khoa, bảng con cho học sinh làm chưa chuyển ý hoặc thay đổi hình
thức làm gây sự chú ý tập trung, lôi cuốn học sinh tham gia vào hoạt động học tập.
VD: Bảng chia 6 trang 24 – Toán 3.,
Khi sang phần thực hành BT
1

, BT
2
giáo viên chỉ cho học sinh điền kết quả
vào sách giáo khoa. Giáo viên còn ngại khó không tìm tòi phương pháp dạy học
theo hướng đổi mới nhằm làm cho lớp học sinh động hơn và học sinh không nhàm
chán.
BT
1
: Tính nhẩm:
42 : 6 = 24 : 6 = 48 : 6 = 30 : 6 =
54 : 6 = 36 : 6 = 18 : 6 = 30 : 5 =
12 : 6 = 6 : 6 = 60 : 6 = 30 : 3 =
BT
2
: Tính nhẩm:
6 x 4 = 6 x 2 = 6 x 5 = 6 x 1 =
24 : 6 = 12 : 6 = 30 : 6 = 6 : 6 =
24 : 4 = 12 : 2 = 30 : 5 = 6 : 1 =
Giáo viên còn sợ mất thời gian của một tiết học, nên thường giáo viên chỉ
thao tác với đồ dùng trực quan cho học sinh quan sát, chứ không cho học sinh thực
hành với chính đồ dùng học toán của mình. Bởi vì tôi nghĩ rằng, học sinh có tự mình
với đồ dùng trực quan thì học sinh sẽ nhớ kiến thức lâu hơn, cũng như phát triển tư
duy cho các em.
VD: Khi dạy các bài “ Bảng nhân 6, 7, 8, 9; bảng chia 6, 7, 8, 9. Giáo viên
không hề cho học sinh sử dụng các tấm bìa có số chấm tròn tương ứng để hình thành
bảng nhân, chia đó.
- Khi dạy các bài toán có lời văn, chưa phát huy phát huy tính tích cực của
học sinh. Giáo viên không để học sinh tự tóm tắt và tìm cách giải bài toán vì sợ mất
thời gian. Nên thường giáo viên tóm tắt và hướng dẫn cách làm.
VD: Bảng nhân 9 – Toán 3 trang 63.

Lớp 3 B có 3 tổ, mỗi tổ có 9 bạn. Hỏi lớp 3 B có bao nhiêu bạn?
Giáo viên tự tóm tắt:
Cách 1: Cách 2:
? bạn
1 tổ: 9 bạn
3 tổ: . . . bạn? 9 bạn
Thay vì tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng ( cách 2) thì học sinh dễ hiểu hơn thì
giáo viên lại tóm tắt qua loa bằng lời ( cách 1) rồi hướng dẫn giải ngay.
 Những sai lầm và khó khăn của học sinh khi học phép nhân, chia trong
bảng ở lớp 3.
Đổi mới phương pháp dạy học rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3.
25

×