UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
*******************
BẢN MÔ TẢ KINH NGHIỆM
“ Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Ngữ văn”
Môn: Ngữ văn
Năm học 2014 - 2015
1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Sáng kiến: Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Ngữ văn.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Ngữ văn lớp 9
3. Tác giả: Phạm Thị Liễu - Nữ
Ngày/ tháng/năm sinh: 20/2/1972
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ: Tổ trưởng tổ Khoa học xã hội
Đơn vị công tác: THCS Hoàng Tân
Điện thoại: 0975.691.795
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Đơn vị: Trường THCS Hoàng Tân
- Địa chỉ: Phường Hoàng Tân – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương
- Điện thoại: 0320.590.054
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu : Trường THCS Hoàng Tân.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Đối tượng học sinh lớp 9
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013 – 2014.
TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Phạm Thị Liễu
2
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Đổi mới phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
tư duy sáng tạo và tích cực để học sinh chủ động nắm bắt kiến thức được coi là
nhiệm vụ trọng tâm của công tác giáo dục. Muốn thực hiện được nhiệm vụ này,
trước hết, mỗi giáo viên phải tạo được hứng thú cho học sinh để các em say mê,
hứng thú và sau đó là tự giác học tập. Những năm gần đây, dạy học theo hướng
tích hợp kiến thức liên môn được đề cập và vận dụng nhiều đem lại hiệu quả cho
việc giảng dạy trong đó có việc giảng dạy Ngữ văn. Qua tìm hiểu, nghiên cứu tôi
thấy cách dạy này có nhiều ưu điểm, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh. Bởi vậy, tôi quyết định áp dụng hình thức này vào quá trình
giảng dạy văn bản lớp 9 và đã đạt hiệu quả nhất định.
2. Mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu về đề tài này tôi muốn cùng đồng nghiệp nhận thấy được rõ ý nghĩa,
vai trò của việc tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Ngữ văn lớp 9.
- Tạo không khí hứng thú, phấn khích cho học sinh THCS - lứa tuổi hiếu động
thích khám phá, tìm tòi và thể hiện, khiến cho các tiết học không bị đơn điệu,
nhàm chán mà trong một tiết học, các em có thể củng cố được nhiều kiến thức ở
các bộ môn khác nhau.
- Tìm hiểu một số bài dạy có thể tích hợp được kiến thức của nhiều môn học.
- Rèn luyện tư duy suy luận nhanh nhạy, kĩ năng liên hệ, tổng hợp, đánh giá, nhận
xét, so sánh, đối chiếu… và nhiều kĩ năng khác cho học sinh.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Học sinh trường THCS, tập trung vào đối tượng lớp 9
- Phạm vi: Tập trung đi sâu tìm hiểu các ý nghĩa, tầm quan trọng và cách tích hợp
kiến thức liên môn trong dạy học các văn bản thuộc chương trình Ngữ văn 9.
3
2.3. Đối tượng áp dụng: Trong bài viết này, tôi trình bày vai trò, ý nghĩa, tầm
quan trọng của cách thức tích hợp kiến thức liên môn trong tiết học Ngữ văn lớp 9.
Bên cạnh đó, hình thức này còn áp dụng phương pháp này ở cả các tiết học văn
bản trong trường THCS.
3. Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra, tôi sử
dụng các phương pháp cơ bản sau:
- Tìm hiểu, nghiên cứu đặc thù của bộ môn Ngữ văn 9, trọng tâm là các văn bản.
- Phương pháp trắc nghiệm hứng thú của học sinh đối với việc học môn Ngữ văn
và tích hợp kiến thức liên môn trong giờ học. Trong số em học sinh được phỏng
vấn và trả lời phiếu trắc nghiệm khách quan, tôi nhận thấy trên 70% số đối tượng
tham gia khảo sát đều cho rằng không thích học môn Ngữ văn do mệt mỏi, đơn
điệu, phải ghi chép nhiều. Và 100% các em rất hứng thú với việc tích hợp kiến
thức liên môn trong giờ học Ngữ văn.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu đã có về tích hợp kiến thức liên môn trong dạy
họ, quan sát học sinh trong các tiết học.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh, tổng kết kinh nghiệm.
4. Điểm mới của đề tài: Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Ngữ văn là
phương pháp không hoàn toàn mới mà đã được ứng dụng khá nhiều từ những năm
trước đây. Tuy nhiên hình thức hoạt động này chưa được vận dụng nhiều vì tâm lí
thầy cô sợ mất nhiều thời gian dẫn đến ảnh hưởng sang thời lượng của các đơn vị
kiến thức trong bài dạy, không đảm bảo thời gian hướng dẫn các em tìm hiểu kiến
thức trọng tâm. Hơn nữa, nếu tích hợp kiến thức lan man sẽ dễ gây nhàm chán làm
loãng không khí tiết học.Vì vậy, qua quá trình nghiên cứu, áp dụng, tôi thấy muốn
thực hiện có hiệu quả vấn đề này thì việc lựa chọn các kiến thức của các bộ môn
học khác để tích hợp nội dung bài dạy như thể nào để vừa đảm bảo kiến thức trọng
tâm, vừa tạo được hứng thú say mê cho học sinh là vấn đề quan trọng nhất.
4
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1.Lí do chọn đề tài.
1.1. Cơ sở lí luận:
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan
tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta,
từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp với
những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu, thử nghiệm và
áp dụng vào nhà trường phổ thông, chủ yếu ở bậc Tiểu học và cấp THCS nhưng
chỉ ở mức thử nghiệm. Chúng ta đều thấy rằng, tinh thần giảng dạy tích hợp chỉ
mới được thực hiện ở những mức độ thấp như liên hệ, phối hợp các kiến thức, kĩ
năng thuộc các môn học hay phân môn khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng
dạy.
Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm
và áp dụng vào đổi mới chương trình cho học sinh các cấp học từ Tiểu học, THCS
đến THPT. Giữa môn Ngữ văn và các môn học khác có liên quan rất mật thiết chặt
chẽ. Kiến thức của các môn có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau giúp cho kiến thức
của bài Ngữ văn được mở rộng, phong phú và sinh động hơn.
Chính vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng
nguyên tắc tích hợp vào dạy học Ngữ văn nhằm hình thành và phát triển năng lực
cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Thực tế những năm gần đây cho thấy học sinh ở tất cả các trường học nói
chung đều có phần không thích học bộ môn Ngữ văn, nhất là các em học sinh khối
lớp 9. Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy rằng, các em không thích một phần do xu hướng
cho rằng môn Ngữ văn không có tính ứng dụng cao như các môn Toán, Lí, Hóa.
Nhưng nguyên nhân cơ bản là các tiết học Ngữ văn còn đơn điệu, tuy đã có sự đổi
mới nhưng chưa thoát ra khỏi tính lí thuyết khô khan, thiếu tính thực tế. Các tiết
học chưa có sự mở rộng phạm vi kiến thức ở nhiều lĩnh vực. Chính vì thế, khi học
5
môn Ngữ văn, các em thường chỉ tiếp cận kiến thức độc lập của riêng môn Ngữ
văn mà chưa có sự liên hệ với các môn khác. Đó cũng là nguyên nhân mà các em
chưa hứng thú với môn học dẫn đến nắm kiến thức chưa chắc, chưa sâu, chưa áp
dụng được kiến thức đã học vào cuộc sống.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy
học Ngữ văn ở trường THCS chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí
luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn
cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ
thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy
học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập
giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời kiến
thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau
này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân môn”, biệt lập các
bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn và các môn học khác . Vận dụng quan
điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn chính là cách thức để khắc phục, hạn chế lối
dạy học độc lập từng môn học, nhằm nâng cao năng lực sử dụng những kiến thức
và kĩ năng mà HS lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi HS khả năng huy động có hiệu
quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống có ý
nghĩa, cũng có khi là một tình huống khó khăn, bất ngờ, một tình huống chưa từng
gặp... Mặt khác, tránh được những nội dung, kiến thức và kĩ năng trùng lặp, đồng
thời lĩnh hội những nội dung, tri thức và năng lực mà mỗi môn học hay phân môn
riêng rẽ không có được.
Như vậy, xét về cả lí luận và thực tiễn, đây là phương pháp dạy học tích cực,
góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng môn Ngữ
văn nói riêng và các phân môn khác nói chung. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài
“ Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Ngữ văn”.
2. Thực trạng của việc dạy Ngữ văn.
6
Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy phương pháp giảng dạy truyền thống
giữa các phân môn chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau tách rời từng phương
diện kiến thức, học sinh hoạt động chưa tích cực, hiệu quả đem lại cũng chưa cao.
Chính vì lẽ đó, dạy học theo quan điểm tích hợp là một xu hướng tất yếu của
dạy học hiện đại, là biện pháp để tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
Học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ thống
và lôgic. Qua đó học sinh cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến
thức được học trong chương trình, vận dụng các kiến thức lí thuyết và các kĩ năng
thực hành, đưa được những kiến thức về văn, Tiếng Việt vào quá trình tạo lập văn
bản một cách hiệu quả.
Có nhiều hình thức tích hợp: Kiểu tích hợp giữa các phân môn trong cùng
một bộ môn (chẳng hạn ở môn Ngữ văn có Văn - Tiếng Việt -Tập làm văn). Điều
này thể hiện trong việc bố trí các bài học giữa các phân môn một cách đồng bộ và
sự liên kết với nhau trên nhiều mặt nhằm hỗ trợ nhau, bổ sung làm nổi bật cho
nhau. Phân môn này sẽ củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức cho phân môn khác và
đều hướng đến mục đích cuối cùng là nâng cao trình độ sử dụng tiếng mẹ đẻ và
năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
Hình thức tích hợp được các giáo viên vận dụng và hiện đang được đẩy mạnh là
tích hợp liên môn. Đây là quan điểm tích hợp mở rộng kiến thức trong bài học
với các kiến thức của các bộ môn khác, các ngành khoa học, nghệ thuật khác,
cũng như các kiến thức đời sống mà học sinh tích lũy được từ cuộc sống cộng
đồng, qua đó làm giàu thêm vốn hiểu biết và phát triển nhân cách cho học sinh
3. Sơ lược cách hiểu về “ Tích hợp kiến thức liên môn”.
3.1. Quan điểm tích hợp trong dạy học nói chung.
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào
quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục
pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông...
7
Còn tích hợp liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến
hai hay nhiều môn học để dạy, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một
nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau.
Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành
các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song
song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.
3.2. Sự khác nhau giữa chủ đề "đơn môn" và chủ đề "liên môn"?
Chủ đề đơn môn đề cập đến kiến thức thuộc về một môn học nào đó còn chủ
đề liên môn đề cập đến kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học.
Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thì không có gì khác biệt. Đối với
một chủ đề, dù đơn môn hay liên môn, thì chúng ta vẫn phải chú trọng việc ứng
dụng kiến thức của chủ đề ấy, bao gồm ứng dụng vào thực tiễn cũng như ứng
dụng trong các môn học khác. Do vậy, về mặt phương pháp dạy học thì không có
phân biệt giữa dạy học một chủ đề đơn môn hay dạy học một chủ đề tích hợp liên
môn. Điều quan trọng là dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh đòi hỏi phải
tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh, mà các hoạt động
ấy phải được tổ chức ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường, ngoài trường, ở nhà và
cộng đồng, đặc biệt quan tâm đến hoạt động thực hành và ứng dụng kiến thức vào
giải quyết những vấn đề thực tiễn.
4. Vai trò, tác dụng của việc tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Ngữ
văn.
- Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học. Đây
được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, có tác dụng nâng cao chất lượng giáo
dục trong các nhà trường.
- Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn
học với nhau, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là con
đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau. Nguyên
tắc dạy học này có vai trò và ý nghĩa quan trọng với cả người dạy và người học.
8
* Đối với học sinh:
- Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp
dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho
học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng
kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến
thức một cách máy móc.
- Dạy học liên môn cũng góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở học sinh.
Tạo cho học sinh một thói quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một vấn
đề phải đặt chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mới có thể nhận thức vấn đề một
cách nhanh nhất.
- Điều quan trọng hơn là khi tích hợp các nội dung kiến thức từ các môn học, các
lĩnh vực học tập khác nhau vào nội dung một bài học, cùng phối hợp các tri thức
có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn giúp cho học sinh phát triển các năng
lực, đặc biệt là trí tưởng tượng khoa học và năng lực tư duy, nhờ đó các em có đủ
khả năng giải quyết các vấn đề trong học tập và cuộc sống.
Bên cạnh đó, các em cũng không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung
kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có
được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp
vào thực tiễn.
* Đối với giáo viên: Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có nhiều khó khăn do
việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên
khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục bởi hai lý do:
- Thứ nhất, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường
xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã
có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó.
- Thứ hai, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên
không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định
hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học. Vì vậy, giáo viên
9
các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau
trong qua trình hoạt động dạy học. Đặc biệt giáo viên định hướng để cho chính các
em học sinh có thể tự tìm hiểu các kiến thức liên quan đến bài học.
Như vậy, dạy học tích hợp kiến thức liên môn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao
kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên
bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên
môn, tích hợp.
5. Những môn học có thể khi tích hợp khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn
bản Ngữ văn 9.
- Trong quá trình học tập ở nhà trường, các em sẽ được học các môn học bao gồm
các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học tự nhiên gồm các môn:
Toán, Lí, Hóa, Sinh, Địa…, và khoa học xã hội gồm: Văn, Sử, Giáo dục công dân,
Âm nhạc, Mĩ thuật… Giữa các bộ môn trong nhóm có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong một giờ học văn bản lớp 9, chúng ta có thể tích hợp với nhiều môn học
khác nhau, trong đó một số môn được tích hợp nhiều ở tiết dạy văn bản là:
* Tích hợp với môn Lịch sử:
- Có thể nói, đây là bộ môn được tích hợp nhiều nhất khi dạy tác phẩm văn học.
Bởi các tác phẩm được học trong chương trình có quan hệ mật thiết với lịch sử.
Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học, bao giờ ta cũng phải đặt tác phẩm vào hoàn
cảnh sáng tác và bối cảnh xã hội cụ thể. Có nắm được hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm ta mới thấy hết được giá trị tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Ví như, ta tìm
hiểu truyện ngắn “ Làng” của Kim Lân, nếu không hiểu rõ tác phẩm này ra đời
vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ta có thể thấy cách nói của
ông Hai – nhân vật chính của truyện thật ngây ngô, buồn cười. Nhưng nếu hiểu
hoàn cảnh đất nước ta khi đó, khi mà đến 95% dân số mù chữ, người dân phải
thoát mù bằng cả cách học bình dân học vụ ta mới thấy cách nói của ông thật đáng
yêu và đáng để ta trân trọng. Hoặc khi ta ttm hiểu bài “ Mùa xuân nho nhỏ”, nếu
10
không giới thiệu cho học sinh biết về Chiến tranh Biên giới phía Bắc năm 1979 và
hoàn cảnh cả nước ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi đất nước
thống nhất thì học sinh khó có thể cảm nhận được giá trị nội dung hai đoạn thơ
“ Mùa xuân người cầm sung. Lộc giắt đầy trên lưng. Mùa xuân người ra đồng.
Lộc trải dài nương mạ” một cách đầy đủ và sâu sắc
* Tích hợp với môn Địa lí:
Đây cũng là một môn học được sử dụng nhiều trong quá trình dạy văn bản.
Môn học này sẽ phát huy tác dụng khi giúp cho học sinh nắm được quê quán tác
giả, những địa danh mà tác phẩm đề cập đến. Bởi mỗi vùng miền đều có đặc điểm
rất riêng. Ví dụ: Khi ta vận dụng kiến thức Địa lí 8, bài “ Đặc điểm đất Việt Nam”,
“ Đặc điểm khí hậu Việt Nam” ta sẽ giúp học sinh hiểu được sâu sắc được điểm
tương đồng trong hoàn cảnh xuất thân và sự chia sẻ cảm động của người lính trong
cuộc kháng chiến chống Pháp giữa điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.
Hay khi ta dạy bài “ Chiếc lược ngà”, ta có thể giới thiệu thêm cho HS về vùng
đất Nam Bộ để học sinh hiểu sâu chủ đề tác phẩm hơn.
* Tích hợp với môn Giáo dục công dân:
Ta thấy, phần lớn các bài dạy văn bản đều liên quan đến môn Giáo dục công
dân. Vì ta thấy cái đích của dạy văn bản Ngữ văn là bồi dưỡng nhân cách đạo đức
cho học sinh, hướng các em đến lối sống cao đẹp, có văn hóa. Đó cũng chính nội
dung dạy học môn Giáo dục công dân. Khi ta tích hợp với môn học này, học sinh
sẽ biết vận dụng từ những kiến thức thành bài học để ứng dụng vào trong cuộc
sống.
Ví dụ: Tích hợp GDCD 8, bài “ Xây dựng tình bạn lành mạnh” với bài “ Đồng
chí” các em học tập được tình tri kỉ của những người lính. Hay tích hợp bài
“ Lí tưởng sống của thanh niên”, bài “ Năng động sáng tạo”, “ Làm việc có năng
xuất, chất lượng, hiệu quả” với truyện “ Lặng lẽ Sa Pa”, ta sẽ giúp học sinh nhận
thấy các em cần phải sống có lí tưởng và từ đó các em có có ý thức xây dựng và
sống theo lí tưởng cao đẹp. Hoặc khi ta tích hợp với GDCD 6, bài “ Công ước liên
11
hiệp quốc về quyền trẻ em” với bài “ Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền
được bảo vệ và phát triển của trẻ em”, học sinh sẽ có nhận thức đúng đắn, đầy đủ
hơn về quyền trẻ em, trách nhiệm của mọi người. Từ đó tích cực tham gia vào các
hoạt động bảo vệ trẻ em, góp phần giúp cho trẻ em có đươc cuộc sống tốt hơn.
* Tích hợp với môn Mĩ thuật:
Đây là một phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học Ngữ văn, giúp học
sinh phát triển toàn diện về mọi mặt. Ví dụ như bài “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính”, Giáo viên có thể đưa ra những tranh, ảnh về cuộc kháng chiến chống Mĩ,
đặc biệt là hình ảnh những đoàn xe vượt qua mưa bom bão đạn để miền Bắc kịp
thời tiếp tế sức người sức của cho miền Nam ruột thịt, đánh thắng giặc Mĩ. Hay
sau khi dạy xong bài “ Đoàn thuyền đánh cá” ta có thể nêu yêu cầu cho học sinh
vận dụng kiến thức của môn Mĩ thuật để vẽ bức tranh theo nội dung của bài hoặc
của đoạn thơ nào đó mà học sinh thấy tâm đắc nhất. Chính quá trình vẽ tranh sẽ
giúp cho học sinh củng cố và nắm kiến thức sâu chắc hơn.
* Tích hợp với môn Ậm nhạc:
Vận dụng kiến thức âm nhạc sẽ làm cho giờ học Văn không còn đơn
điệu, tẻ nhạt mà trở nên vô cùng sôi nổi, hứng thú, không còn nặng nề, nhàm chán.
Vì thế mà các em dễ nhớ, dễ thuộc, dễ hiểu bài hơn. Khi học bài “ Đồng chí”, bài
“ Mùa xuân nho nhỏ”, bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, bài
“ Viếng lăng Bác”…tiết học sẽ trở nên thú vị hơn, cảm xúc của các em sẽ sâu lắng
hơn và hiệu quả của bài học sẽ cao hơn nếu ta cho học nghe hoặc hát những bài
hát đã đươc phổ nhạc từ những bài thơ đó.
Ngoài ra, giáo viên Ngữ văn còn có thể tích hợp với nhiều môn khác như:
Hoạt động ngoài giờ lên lớp, Toán, Lí, Hóa, Sinh, Tin học…với những mức độ
khác nhau.
6. Cách đưa kiến thức liên môn vào trong bài dạy
Phần lớn giáo viên GV khi thực hiện định hướng tích hợp thường chỉ quan
tâm đến khâu dạy học bài mới mà không mấy chú ý đến các khâu còn lại. Theo
12
tôi, để thực hiện có hiệu quả, GV nên sử dụng tích hợp ở tất cả các khâu trong quá
trình dạy học: từ kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới cho đến khâu dạy học bài mới,
củng cố và hướng dẫn tự học cho các em.
6.1 Tích hợp liên môn khi kiểm tra bài cũ : Là thao tác đầu tiên trong
chuỗi hoạt động, nhằm kiểm tra chất lượng học tập của HS. Đây là công việc
thường xuyên và cần thiết nhằm đánh giá kết quả nắm kiến thức cũ trước khi dạy
bài mới, giúp GV nhanh chóng nắm bắt tình hình học tập, mức độ tiếp thu và trình
độ của HS. Dùng những câu hỏi mang tính tích hợp để kiểm tra bài cũ buộc HS
phải huy động nhiều bộ phận kiến thức liên quan để trả lời, khi đó GV không chỉ
nắm được mức độ hiểu bài ở tiết học trước mà tư duy tổng hợp, khái quát của các
em cũng được rèn luyện.
Để có được những câu hỏi mang tính tích hợp cao trong khâu kiểm tra bài cũ,
GV cần đầu tư công sức, thời gian thích đáng ngay từ lúc bắt đầu soạn giáo án. Hệ
thống câu hỏi đó cần được cải tiến, biên soạn lại qua mỗi lớp học, năm học. Có
như vậy việc kiểm tra mới góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học của thầy và trò.
6.2 Tích hợp liên môn khi giới thiệu bài mới: là một khâu khá quan trọng,
mở đầu cho các thao tác dạy học bài mới của GV. Giới thiệu bài một cách sinh
động, hấp dẫn có thể gây sự chú ý và hứng thú học tập cho HS, tạo cho các em
tâm thế tích cực chuẩn bị tiếp nhận bài mới.
Sử dụng tích hợp ngay từ khâu vào bài sẽ giúp khởi động bộ máy tư duy của
HS, buộc các em phải ý thức rõ đối tượng mình đang nhận thức và xác định hướng
huy động kiến thức đã có để giải quyết bài học mới.
6.3. Tích hợp liên môn khi dạy bài mới:
GV cần phải tìm ra những kiến thức ở những môn học khác nhau có thể tích
hợp để tạo không khí sôi nổi, hứng thú, đồng thời tránh được những sự trùng lặp
không cần thiết. Có vận dụng phương hướng tích hợp thì GV mới có thể truyền
đạt đầy đủ những nội dung kiến thức đa dạng, phong phú trong nội dung của các
văn bản.
13
6.4 Tích hợp liên môn khi củng cố, hướng dẫn HS tự học: Có thể tích hợp ở
phần củng để học sinh rút ra bài học cho bản thân sau khi được tiếp cận văn bản.
Tích hợp ở khâu này sẽ giúp cho bài học mà các em rút ra sẽ sâu sắc hơn. Sau đó,
phần làm bài tập ở nhà các em cũng có ý thức vận dụng kiến thức liên môn để
hoàn thành bài tập mà thầy cô giao như: vẽ sơ đồ tư duy, vẽ tranh, sáng tác nhạc
7. Một số phương pháp được sử dụng khi dạy học tích hợp kiến thức liên
môn.
Để nâng cao hiệu quả của môn học tích hợp, tôi xin đưa ra một số phương
pháp dạy học được sử dụng nhiều như sau:
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
Trong các phương pháp trên, chúng ta thường sử dụng nhiều nhất phương pháp
nêu và giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp dạy học trong đó GV tạo ra những
tình huống có vấn đề, điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực,
chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn
luyện kĩ năng và đạt được nhũng mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của
phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn là “tình huống gợi vấn đề” vì “Tư duy
chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề”.
Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi ra cho
HS những khó khăn về lý thuyết hay thực tiễn mà họ thấy cần có khả năng vượt
qua, nhưng không phải ngay tức khắc bằng một thực giải, mà phải trải qua quá
trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều khiển
kiến thức sẵn có.
Đây chính là một trong những hình thức dạy học vận dụng kiến thức liên
môn để giải quyết những vấn đề đặt ra trong bài học.
8. Cách thiết kế giáo án dạy tích hợp kiến thức liên môn.
14
8.1. Những điều cần chú ý khi thiết kế giáo án dạy tích hợp kiến thức liên
môn.
Giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn không phải là một bản đề
cương kiến thức để giáo viên lên lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho học sinh,
mà là một bản thiết kế các hoạt động, thao tác nhằm tổ chức cho HS thực hiện
trong giờ lên lớp để lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo mục
đích giáo dục và giáo dưỡng của bộ môn.
Đó là bản thiết kế gồm hai phần có quan hệ chặt chẽ, thống nhất: Một là, hệ
thống các tình huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách quan của bài dạy, phù
hợp với tính chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. Hai là, một hệ thống các hoạt
động, thao tác tương ứng với các tình huống trên do giáo viên sắp xếp, tổ chức
hợp lí nhằm hướng dẫn HS từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh bài học một cách tích
cực và sáng tạo.Thiết kế giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải bảo
đảm nội dung và cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng
nhắc mà cần tạo ra những “chân trời mở” cho sự tìm tòi sáng tạo trong các
phương án tiếp nhận của học sinh, trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu
chung của giờ học. Giáo án dạy theo hướng tích hợp kiến thức liên môn cũng
không có gì thay đổi nhiều so với giáo án truyền thống mà trên cơ sở giáo án
truyền thống người giáo viên chú ý đến kiến thức của các môn học khác được tích
hợp trong bài dạy.. Khi thiết kế một giáo án để dạy tích hợp kiến thức liên môn
cần chú ý những nội dung sau:
+ Trước hết, giáo viên cần xác định được chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt được
của bài. Cần xác định đâu là kiến thức trọng tâm, khối lượng kiến thức, thời gian.
Từ đó giáo viên mới xác định những kiến thức các bộ môn có liên quan đến nội
dung bài dạy.
+ Nội dung của giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải làm rõ những tri
thức và kĩ năng cần hình thành theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng và những kiến
thức của bộ môn khác có thể tích hợp được trong tiết học.
15
- Giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn theo quan điểm tích hợp phải chú
trọng thiết kế các tình huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động tích cực để
học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn vào xử lí các
tình huống đặt ra, qua đó giúp học sinh không những lĩnh hội được những tri thức
và kĩ năng riêng của môn Ngữ văn mà còn chiếm lĩnh tri thức của các môn học
khác.
8.2. Những điểm cần tránh khi thiết kế giáo án tích hợp kiến thức liên môn
trong dạy văn bản lớp 9.
Chúng ta đều biết, khối lượng kiến thức của các văn bản được học trong
chương trình Ngữ văn 9 thường có dung lượng khá dài. Mặt khác, giáo viên lại
cần phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ, hiểu sâu để rèn cho các em khả năng cảm
thụ văn học, kĩ năng cơ bản chuẩn bị cho các em thi vào THPT. Trong một quỹ
thời gian hẹn hẹp như vậy, ta phải thiết kế giáo án như thế nào để vừa đảm bảo
kiến thức trọng tâm của bài, vừa tích hợp được với các kiến thức khác.
- Thứ nhất, chỉ nên tích hợp với kiến thức của các môn khác khi phù hợp, khi
những kiến thức đó có tác dụng làm rõ, làm sâu hơn kiến thức của bài học.
- Không lạm dụng khi không cần thiết. Bởi vì, cách tích hợp liên môn này sẽ
không những không mang lại kết quả mà nó còn làm loãng nội dung chính của bài
vì phải chia sẻ thời lượng cho những kiến thức khác. Hậu quả là bài dạy lan man,
học sinh không xác định được kiến thức trọng tâm, từ đó không nắm chắc kiến
thức.
- Đối với những bài có lượng kiến thức nhiều cũng không nên quá chú trọng đến
việc tích hợp.
- Hệ thống câu hỏi tích hợp cần phải đặt thật khéo, tránh lộ liễu làm cho bài dạy
trở nên rời rạc. Câu hỏi thể hiện kiến thức tích hợp cần phải nằm trong mạch hệ
thống câu hỏi toàn bài và góp phần làm rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Như vậy, một bài dạy trên lớp cũng như một chế biến một món ăn, mà việc
vận dụng dạy học liên môn cũng là một thứ “gia vị”, còn giáo viên là “đầu bếp”.
16
Nếu cho quá nhiều gia vị thì món ăn sẽ rất “khó ăn và không ngon”. Chúng ta có
thể so sánh như vậy khi dạy học tích hợp liên môn.
9. Cách tổ chức tiết học.
Tổ chức giờ học trên lớp là tiến trình thực thi bản kế hoạch phối hợp hữu
cơ hoạt động của giáo viên và học sinh theo một cơ cấu sư phạm hợp lí, khoa học,
trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng chứ
không phải truyền thụ áp đặt một chiều. Học sinh được đặt vào vị trí trung tâm của
quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ, trực tiếp tiến
hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức.
Tổ chức hoạt động đọc - hiểu vận dụng kiến thức liên môn trên lớp, giáo viên
phải chú trọng mối quan hệ giữa học sinh và nội dung dạy học, phải coi đây là mối
quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy, giáo viên phải
từ bỏ vai trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho học sinh,
còn học sinh không thể duy trì thói quen nghe giảng, ghi chép, học thuộc, rồi “làm
văn” theo lối tái hiện, sao chép, làm thui chột dần năng lực tư duy, khả năng tự
đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ chức các kiến thức một cách sáng tạo.
10 . Giáo án minh họa.:
Sau đây, tôi xin phép được giới thiệu hai giáo án minh họa trong số các giáo án
mà tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy.
* Giáo án thứ nhất:
Tuần 2- tiết 7
ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HOÀ BÌNH – Tiếp
- Gac-xi-a Mác-két -
A. Mục tiêu bài học
I . Kiến thức, kĩ năng, thái độ:
1.Kiến thức :
17
- Hiểu được nội dung vấn đề đặt ra trong văn bản : Nguy cơ chiến tranh hạt nhân
đang đe doạ toàn bộ sự sống trên trái đất, ảnh hưởng đến môi trường sống chiến
tranh hạt nhân là cực kì phi lí.
- Đoàn kết để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân vì một thế giới hoà bình là nhiệm
vụ của mọi người.
- Thấy được nghệ thuật nghị luận của tác giả : Hệ thống luận điểm, luận cứ, cách
lập luận.
2. Kĩ năng.
- Đọc- hiểu văn bản nhật dụng bàn luận về một vấn đề liên quan đến nhiệm vụ đấu
tranh vì hoà bình của nhân loại.
3. Thái độ
- Học sinh nhận thức, hành động đúng: lên án chiến tranh để góp phần bảo vệ
hoà bình, bảo vệ môi trường sống trên Trái Đất.
II . Năng lực hình thành thông qua bài dạy:
- Năng lực giải quyết vấn đề.
- Năng lực sáng tạo.
- Năng lực hợp tác
- Năng lực giao tiếp Tiếng Việt
-Năng lực phân tích văn bản nghị luận.
- Năng lực tính toán, so sánh, đối chiếu.
B. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
1. Giáo viên :
- Giáo án điện tử, bài giảng điện tử, tư liệu về bài dạy.
- Xác định các kiến thức của các bộ môn khác có thể tích hợp với bài dạy:
+ Môn Lịch sử 8: Bài 12 « Nhật Bản giữa thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX » ; bài 21
« Chiến tranh thế giới thứ hai » ( 1939 – 1945) ; thuật ngữ thuộc môn Lịch sử : kỉ
địa chất.
+ Môn GDCD 7, bài 14 « Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên ».
18
+ Môn Âm nhạc : Lớp 7, bài « Chúng em cần bầu trời hòa bình », Ậm nhạc 8, bài
« Ngôi nhà chung của chúng ta » ( Bài hát tuyên truyền để mọi người cùng chung
tay bảo vệ Trái Đất – ngôi nhà chung của nhân loại.)
+ Môn Mĩ thuật : Hình ảnh minh họa về các loại vũ khí hạt nhân, hậu quả của vũ
khí hạt nhân.
+ Môn Toán : HS có kĩ năng tính toán, so sánh để thấy được sự chi phí lớn đến
mức phi lí, phi nhân đạo của việc chạy đua vũ trang hạt nhân.
+ Môn Hóa học : Nhận biết và giải thích được một số thuật ngữ : thuốc nổ, vũ khí
hạt nhân
+ Môn Địa lí : Nhận biết và hiểu về các từ « hành tinh », « hệ mặt trời ».
+ Ứng dụng môn Công nghệ thông tin: sử dụng bài giảng điện tử, máy chiếu, máy
tính, mạng internet.
2. Học sinh : Soạn bài theo câu hỏi SGK + Đọc kĩ đoạn trích và chú thích ().
C.Tiến trình hoạt động dạy-học .
I.Tổ chức lớp: ( 1’
II.Kiểm tra bài cũ : ( 5’)
- Những hiểu biết của em về nhà văn Mác-két và hoàn cảnh ra đời tác phẩm ?
- Tại sao nói nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ loài người và sự sống trên trái
đất ?
III. Bài mới: ( 35’)
Hoạt động của GV và HS
Nội dung cần đạt
II. Đọc – hiểu văn bản
1.Đọc - chú giải
2.Kiểu văn bản :
3. Bố cục :
4. Phân tích ( 30‘)
- HS đọc từ “ Năm 1981 -> thế giới ”. b. Chạy đua vũ khí hạt nhân làm mất khả
? Khái quát nội dung của đoạn văn.
năng con người được sống tốt đẹp hơn
? Em nhận xét gì về cách nói của tác
19
giả: dịch hạch hạt nhân, cái cảnh tận
thế tiềm tàng trong bệ phóng cái chết
( Vận dụng kiến thức môn Sinh học,
hóa học, vật lí để giải thích các từ
“ dịch hạch, hạt nhân, bệ phóng”
Chi phí cho chạy đua
vũ trang hạt nhân
100 máy bay ném bom
tốt đẹp bị mất đi
100 tỉ đô la cho 500
và dưới 7000 tên lửa
triệu trẻ em nghèo khổ
vượt đại dương
10 tàu sân bay
Chương trình phòng
bệnh 14 năm bảo vệ hơn
-> Nhà văn đã cách nói giàu sức gợi tả
và biểu cảm, gây ấn tượng mạnh.
? Tác giả đưa ra những dẫn chứng cụ
1 tỉ người và 14 triệu trẻ
149 tên lửa MX
thể nào
( Chiếu một số hình ảnh về vũ khí
hạt nhân)
Khả năng sống
em
Cứu đói cho 575 triệu
người
27 tên lửa MX
Nông cụ ch nước nghèo
2 chiếc tàu ngầm
trong 4 năm
Xoá nạn mù chữ toàn
thế giới
? Nét độc đáo trong nghệ thuật nghị - So sánh bằng những con số biết nói
luận của tác giả
( HS vận dụngToán học, đối chiếu
so sánh để thấy được sự chi phí của
chiến tranh hạt nhân.)
? Hiệu quả của nghệ thuật nghị luận
=> Chiến tranh hạt nhân cực kì tốn kém và vô
nhân đạo, cướp đi cuộc sống tốt đẹp của con
đó?
? Đoạn văn gợi cho em suy nghĩ gì về người
chiến tranh hạt nhân
( GV tích hợp với môn Lịch sử Bài
12 « Nhật Bản giữa thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX » ; bài 21 « Chiến tranh thế
giới thứ hai » ( 1939 – 1945) cùng
các hình ảnh minh họa để giúp học
sinh thấy được chiến tranh hạt nhân
cướp đi cuộc sống tốt đẹp của con
người, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
20
đến môi trường sống)
? Hiện tại nhân loại đã tìm ra những
cách nào để hạn chế cuộc chạy đua vũ
trang hạt nhân?
- Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân,
hạn chế số lượng đầu đạn hạt nhân
? Em hiểu thế nào là lí trí tự nhiên?
c. Chiến tranh hạt nhân chẳng những đi
- Quy luật của tự nhiên, lô gic tất yếu ngược lại lí trí con người mà còn đi ngược lí
của tự nhiên.
trí tự nhiên
? Để làm sáng tỏ luận điểm, tác giả - 380 triệu năm con bướm mới biết bay
đưa ra những chứng cớ nào
- 180 triệu năm bông hồng mới nở
- Bốn kỉ địa chất con người mới biết hát và biết
chết vì yêu
? Cảm nhận về những chứng cớ đó
-> Con số khách quan, khoa học
? Những con sô đó nói với em điều gì => Sự tiến hoá của sự sống trên trái đất vô
về sự sống trên trái đất
cùng vĩ đại, đáng trân trọng và bảo vệ
? Điều gì xảy ra nếu chiến tranh hạt - Bấm nút một cái là sự sống trở lại điểm xuất
nhân bùng nổ
phát – chẳng có gì đáng tự hào
? Tác giả bình luận gì về sự phát minh
vũ khí hạt nhân?
? Em có tán thành lời bình luận đó
không? Vì sao?
? Nhận xét nghệ thuật nghị luận của
-> Phân tích, so sánh cụ thể, ngôn ngữ giàu
hình ảnh và sắc thái biểu cảm
tác giả?
? Từ đó em có nhận thức gì về chiến => Chiến tranh hạt nhân là cực kì phí lí, dã
tranh hạt nhân?
man
? Từ việc phân tích những nguy cơ d. Đấu tranh ngăn chặn nguy cơ chiến tranh
khủng khiếp của thảm hoạ hạt nhân, hạt nhân, cho một thế giới hoà bình
tác giả gửi tới nhân loại thông điệp gì?
? Thông điệp đó được diễn đạt cụ thể - Tham gia vào bản đồng ca đòi hỏi một thế
ntn?
giới không có vũ khí,… hoà bình, công bằng
21
? Em hiểu ntn là bản đồng ca?
? Em có cần góp tiếng nói vào bản
đồng ca đó không? Vì sao
? Tác giả đưa ra lời đề nghị gì
- Lưu trữ trí nhớ để nhân loại tương lai biết kẻ
thù của loài người, của sự sống
? Ý nghĩa sâu xa của lời đề nghị đó
=> Tố cáo tình chất phi lí của chiến tranh hạt
? Qua văn bản em hiểu gì về nhà văn nhân. Kết án, buộc tội, cảnh cáo các thế lực
Mắc-két
hiếu chiến
- Yêu chuộng sự sống, hoà bình. Nhiệt
tình tranh đấu bảo vệ hoà bình và
hạnh phúc của nhân loại?
? Nét đặc sắc về nghệ thuật của tác
giả?
4. Tổng kết :
a. Nghệ thuật :
- Lập luận chặt chẽ, luận điểm đúng đắn, dẫn
chứng cụ thể, xác thực
- Sử dụng nghệ thuật so sánh sắc sảo bằng
nhiều dẫn chứng toàn diện và tập trung -> giàu
sức thuyết phục
? Khái quát về nội dung văn bản?
b. Nội dung :
- Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe dọa toàn
nhân loại và sự phi lí của cuộc chạy đua vũ
trang
- Lời kêu gọi đấu tranh vì một thế giớ hòa bình
- HS đọc phần ghi nhớ
không có chiến tranh.
* Ghi nhớ. SGK/21
III. Luyện tập
? Hiện nay cuộc chạy đua vũ trang hạt - 17 quốc gia đang sở hữu vũ khí hạt nhân:
nhân đang diễn ra ntn? Quan điểm của Anh Quốc, Ấn Độ, Ba Lan, Brasil, Canada,
em về hiện tượng đó?
Đài Loan, Iran, Hà Lan, Hoa Kỳ, Iraq, Israel,
22
( HS bộc lộ)
Nam Phi, Nga, Pakistan, Pháp, Triều Tiên,
Trung Quốc.
? Em dự định tham gia vào bản đồng
ca của nhân loại bằng thái độ và hành
động cụ thể ntn? ( HS bộc lộ)
( Tích hợp kiến thức Môn GDCD 7,
bài 14 « Bảo vệ môi trường và tài
nguyên thiên nhiên »)
- Tham gia vào việc chống chiến tranh
hạt nhân chính là chúng ta đang góp
phần bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên
nhiên và bảo vệ cuộc sống của chúng
ta.
IV. Củng cố ( 2’: Khái quát những nét chính về nội dung và nghệ thuật của bài?
V. Hướng dẫn về nhà : ( 2’)
- Nắm nội dung bài: hệ thống luận điểm, luận cứ.
- Tìm hiểu thêm bài hát « Chúng em cần bầu trời hòa bình », « Ngôi nhà chung
của chúng ta » để thấy được mơ ước của tất cả mọi người về một thế giới hòa
bình, từ đó xây dựng ý thức tích cực tham gia chống chiến tranh hạt nhân.- Làm
bài tập bổ trợ (HS giỏi + Khá): Viết một bức thư kêu gọi các quốc gia có vũ khí
hạt nhân cam kết không chạy đua vũ trang và huỷ bỏ vũ khí hạt nhân
- Soạn bài tiếp theo : Các phương châm hội thoại ( tiếp).
--------------------------------------------------------------------------------------Tuần 9 – Tiết 45
ĐỒNG CHÍ
Chính Hữu
A.
Mục tiêu bài học:
I. Kiến thức, kĩ năng, thái độ:
23
1.Kiến thức :
- Một số hiểu biết về hiện thực những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của dân tộc ta.
- Lí tưởng cao đẹp và tình cảm keo sơn gắn bó làm nên sức mạnh tinh thần của
những người chiến sĩ trong bài thơ.
- Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ: ngôn ngữ thơ bình dị, biểu cảm, hình ảnh tự
nhiên, chân thực.
2. Kĩ năng.
- Đọc diễn cảm một bài thơ hiện đại.
- Bao quát toàn bộ tác phẩm, thấy được mạch cảm xúc trong bài thơ.
- Tìm hiểu một số chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, từ đó thấy được giá trị nghệ thuật
của chúng trong bài thơ.
3. Thái độ
- Giáo dục học sinh niềm tự hào, lòng yêu nước, yêu mến anh bộ đội cụ Hồ.
II . Năng lực hình thành thông qua bài dạy:
- Năng lực giải quyết vấn đề.
- Năng lực giao tiếp Tiếng Việt
- Năng lực sáng tạo.
- Năng lực liên hệ, tích hợp.
- Năng lực hợp tác
- Năng lực cảm thụ văn học
B. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
1. Giáo viên : - Giáo án điện tử, bài giảng điện tử, tư liệu về bài dạy.
- Xá định các kiến thức của các bộ môn khác có thể tích hợp với
bài dạy:
+ Môn Lịch sử 9: Bài 25 « Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp »
mục IV « Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông 1947 »
+ Môn Địa lí 8: Bài 31 “ Đặc điểm khí hậu Việt Nam”; bài 36: “Đặc điểm đất Việt
Nam”.
24
+ Giáo dục công dân 9, bài 17: “ Nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc”, bài 10 “ Lí tưởng sống
của thanh niên”.; GDCD 8, bài 6 “ Xây dựng tình bạn trong sáng lành mạnh”;
GDCD 6, bài 6 “ Biết ơn”.
+ Môn Mĩ thuật 6, bài “ Vẽ tranh: Đề tài bộ đội”, vận dụng kĩ năng quan sát tranh
minh họa.
+ Môn Ậm nhạc 8, tiết 6, bài “ Hò kéo pháo” (Ca ngợi các anh bộ đội pháo binh
trong cuộc kháng chiến chống Pháp).
+ Ứng dụng môn Công nghệ thông tin: sử dụng bài giảng điện tử, máy chiếu, máy
tính, mạng internet.
2. Học sinh : Soạn bài theo câu hỏi SGK + Đọc kĩ đoạn trích và chú thích ().
C.Tiến trình hoạt động dạy-học .
I.Tổ chức lớp: 1’
II. Kiểm tra bài cũ :5’
Câu 1: Nêu những giá trị nội dung cơ bản nhất của “ Truyện Lục Vân Tiên”?
Câu 2: Qua đọan trích “ Lục Vân Tiên cứu KNN”, nhà thơ NĐC đã khắc họa
hình ảnh LVT như thế nào?
III. Bài mới: (35’) HS nghe 1 đoạn trong bài hát “ tình đồng chí”. ( Tích hợp với
kiến thức môn Âm nhạc)
Chúng ta vừa nghe một đoạn trong bài “ Tình đồng chí”. Đây là bài hát được
nhạc sĩ Minh Quốc phổ nhạc từ lời bài thơ “ Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu.
Bài thơ ca ngợi hình ảnh người lính trong cuộc k/c chống Pháp. Có thể nói, trong
thơ ca, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ chiếm vị trí rất đặc biệt. Rất nhiều nhà thơ đã
dành tình cảm sâu nặng cho đề tài này. “Đồng chí” của Chính Hữu là một trong
những bài thơ như thế. Đây là bài thơ mở đầu cho đề tài viết về anh bộ đội Cụ Hồ.
Hôm nay, cô cùng các em sẽ khám phá vẻ đẹp của bài thơ này.
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung cần đạt
? Trình bày những hiểu biết của em về I . Giới thiệu bài: 3’
tác giả Chính Hữu ?
1. Tác giả (1926 - 2007).
25