Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

skkn tích hợp kiến thức ngữ văn, âm nhạc vào dạy học lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.84 KB, 26 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VĂN, ÂM NHẠC VÀO
DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS
Bộ môn: Lịch sử

Năm học: 2014 – 2015
1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: “Tích hợp kiến thức Ngữ văn, Âm nhạc vào dạy học Lịch
sử ở trường THCS”
2. Lĩnh vực áp dụng: Ngành khoa học giáo dục; Bộ môn Lịch sử
3. Tác giả:
Họ và tên:Nguyễn Văn Cương

Nam

Sinh ngày 16 tháng 06 năm 1976
4. Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Sử
Chức vụ, đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng trường THCS Lê Lợi
Điện thoại: 0978734600
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Trường THCS Lê Lợi.
- Địa chỉ: Thị tứ Lê Lợi – xã Lê Lợi – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương
- Điện thoại: 03203593126
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu ( nếu có ): Trường THCS Lê Lợi – Lê Lợi
– Chí Linh- Hải Dương.


Điện thoại: 03203 593 126.
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Đầu tư nghiên cứu bài giảng, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo
nội dung đổi mới.
- Nghiên cứu và nắm chắc về phương dạy Lịch sử liên môn.
- Học sinh phải có ý thức và tích cực học tập bộ môn. Có hứng thú say mê học
tập, tạo cho các em kĩ năng nghe và ghi bài trên lớp, kĩ năng sử dụng sách giáo
khoa một cách có hiệu quả...
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Thời gian áp dụng lần đầu cho bộ môn
Lịch sử THCS Lê lợi năm học 2013– 2014.
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ
( Ký tên )

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Thực tế cho thấy trong những năm qua tình trạng học sinh học tập môn
Lịch sử rất lười, hầu hết các em đều ngại học môn Lịch sử được thể hiện rõ
nhất qua các điểm số biết nói. Trong các cuộc thi hoặc bài kiểm tra điểm của
các em đều rất thấp...điều đó chứng tỏ sự hiểu biết về lịch sử của các em còn
yếu và lí do nữa là do các em quá lười học, chưa có hứng thú say mê với môn
học.
Bên cạnh đó cơ sở vật chất, trang thiết bị còn hạn chế chưa có phòng nghe
nhìn riêng, các tư liệu, tài liệu còn hạn hẹp chưa phong phú cũng ảnh hưởng
đến kết quả của môn học.
Để tạo cho các em có sự hứng thú say mê với môn học theo tôi cần phải

hiểu được tâm lí và tạo cho các em cảm thấy thoải mái mỗi khi đón nhận tiết
học đòi hỏi người thầy luôn phải tìm tòi, đổi mới phương pháp cách dạy, cách
tiếp cận để tạo cho các em tâm thế tốt nhất cho giờ học sử.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc dạy môn Lịch sử và
mong muốn các em sẽ đạt được những thành tích nhất định với bộ môn các em
học. Đó chính là lí do để tôi chọn tên sáng kiến kinh nghiệm “Tích hợp kiến
thức Ngữ văn, Âm nhạc vào dạy học Lịch sử ở trường THCS”.
2. Điều kiện, thời gian áp dụng sáng kiến
- Điều kiện: Phòng học bộ môn, máy chiếu, lược đồ, sách giáo khoa, tài
liệu, tư liệu lịch sử liên quan đến nội dung bài học.
- Thời gian: Từ tháng 9 / 2013 đến tháng 05 / 2014.
- Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu là học sinh các đối tượng.
3. Nội dung sáng kiến
- Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến: Với những kiến thức đã dạy các
em tôi đan xen thêm kiến thức Ngữ văn ( phần văn học) và âm nhạc vào trong
mỗi tiết dạy có nội dung phù hợp để tạo cho các em có hứng thú hơn khi đến
3


với môn học đặc biệt là tạo cho các em nhớ lâu hơn về các mốc thời gian và các
sự kiện quan trọng thông qua việc học tích hợp các kiến thức liên môn.
- Khả năng áp dụng của sáng kiến: Trong quá trình giảng dạy học sinh
đại trà, ôn luyện đội tuyển của trường tôi thấy khả năng áp dụng của sáng kiến
vào thực tế đối với học sinh đại trà và học sinh đội tuyển học sinh giỏi là khả
thi và đạt đươc kết quả tốt.
- Lợi ích giá trị của sáng kiến: đối với sáng kiến sẽ mang lại cho người
dạy những lợi ích căn bản, những bài tập, phương pháp phù hợp với đối tượng
học sinh để nâng cao thành tích kết quả học tập của các em.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Sau thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2013 đến tháng 05/2014 kết hợp với

những phương pháp dạy học phù hợp mang tính tích cực và tích hợp với kiến
thức liên môn Ngữ văn, Âm nhạc vào giảng dạy môn Lịch sử tôi thấy kết quả
mang lại là rõ dệt, các em có hứng thú , say mê và đón nhận tiết học một cách
nhiệt tình hơn, nhiều em thích học lịch sử, đặc biệt là những em học sinh giỏi
nhớ những nhân vật và sự kiện lịch sử nhanh hơn.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến:
Để áp dụng được điều đó trong giảng dạy người giáo viên cần phải:
Nhiệt tình, trình độ chuyên môn vững vàng, có tâm huyết với nghề thực sự và
luôn xác định được mục tiêu nhiệm vụ của người làm công tác giáo dục trong
nhà trường. Luôn tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu vận dụng các phương pháp giáo
dục phù hợp với tâm sinh lí với lứa tuổi, cách dạy linh hoạt kết hợp với việc
tích hợp kiến thức môn Ngữ văn( phần văn học) và Âm nhạc vào bài dạy để đạt
được kết quả cao nhất đó chính là bí quyết thực hiện thành công trong giáo dục
học sinh.

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học
ở trường phổ thông nói chung, môn Lịch sử nói riêng. Nó góp phần bổ sung
lượng kiến thức các môn học khác cho bài học, giúp học sinh hứng thú say mê
học tập, góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
Mặt khác, bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những tri thức ở nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc và
thế giới (cả tri thức về khoa học xã hội và khoa học tự nhiên). Do đó việc dạy
học liên môn là dùng các kiến thức ở các bộ môn khác bổ sung, hỗ trợ làm sáng
rõ hơn kiến thức mà học sinh đang được học trong môn học, cụ thể ở đây là bộ
môn Lịch sử và việc sử dụng tài liệu Ngữ văn, Âm nhạc trong dạy học Lịch sử.

Từ cơ sở đó tôi mạnh dạn xin trình bày một số kinh nghiệm về sử dụng tài liệu
Ngữ văn, Âm nhạc trong giờ học sử.
2. Cơ sở lý luận của vấn đề
“Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ; lịch sử loài người mà
chúng ta học là toàn bộ những hoạt động của con người từ khi xuất hiện
đến nay” (SGK Lịch sử 6 – trang 3 – NXB Giáo dục năm 2002).
Như vậy, qua khái niệm trên chúng ta đều thấy rằng: Việc học lịch sử có
nét đặc trưng riêng, có cái khó riêng. Đó là người học không thể tri giác trực
tiếp; không thể “sờ” hay làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm.... mà buộc
phải tư duy, phải trừu tượng hoá, khái quát hoá để dựng lại những gì đã diễn ra
trong quá khứ, thông qua các sự kiện, niên đại, nhân vật....Để làm được điều đó
ngoài việc sử dụng các nguồn tư liệu sử học (hiện vật, văn tự cổ....) thì việc sử
dụng các tác phẩm văn học cũng có tác dụng rất lớn trong việc “dựng lại” lịch
sử.
Bên cạnh đó, việc dạy và học lịch sử ở nhiều trường phổ thông hiện nay
đang gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận học sinh đang dần “xa
lánh” môn Lịch sử, không còn hứng thú với việc học tập môn Lịch sử. Đây là
thực trạng đáng buồn. Bởi vì, sử học ở trường phổ thông có vai trò rất quan
5


trọng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và hình thành nhân cách của học
sinh.
Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trên, theo tôi có nhiều nguyên
nhân (gia đình – xã hội – nhà trường). Trong đó một nguyên nhân quan trọng
dẫn tới hiện tượng trên đó là: Giáo viên dạy sử còn để giờ dạy sử quá khô khan,
nặng nề nên thiếu sự thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục hiện tượng
này, theo tôi ngoài việc đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng
trực quan.... thì chúng ta nên sử dụng nhiều hơn nữa nguồn tài liệu Ngữ văn,
Âm nhạc trong giờ học lịch sử để làm bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn hơn.

3. Thực trạng của vấn đề
Trước tình hình thực tế trường THCS tôi đang dạy, hầu hết các em ngại
và lười trong việc học môn Lịch sử, do nhiều nguyên nhân như: nhiều mốc thời
gian, sự kiện, nhân vật lịch sử, địa danh...nên các em khó nhớ một cách chính
xác.
Do giáo viên chưa tạo được hứng thú cho các em trong giờ học lịch sử,
giờ học còn khô khan, nặng nề nên các em có tâm lí chán nản khi học bộ môn
Lịch sử.
Từ thực trạng đó đặt ra cho mỗi thầy cô giáo dạy học lịch sử cần tích cực
đổi mới phương pháp dạy học, tạo hứng thú, sự say mê cho các em trong mỗi
giờ học sử. Vì vậy tôi đã đưa đề tài “Tích hợp kiến thức Ngữ văn, Âm nhạc
vào dạy học Lịch sử ở trường THCS”.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1. Tài liệu tham khảo trong: Dạy học lịch sử
Theo tiến sĩ N.G Đairi trong cuốn “chuẩn bị bài học lịch sử như thế
nào” (NXB Giáo dục Hà Nội 1973 – trang 35). Thì bài giảng lịch sử trên lớp
nên thực hiện theo sơ đồ sau:
1

2
2

3

6


Trong đó, con số 1 chỉ phần tài liệu tham khảo không có trong SGK, giáo
viên đưa vào bài giảng nhằm nâng cao tính khoa học, sự trong sáng vừa sức, sự
hấp dẫn lôi cuốn của giờ học lịch sử.

Ngoài SGK, tài liệu tham khảo có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc
làm phong phú kiến thức lịch sử đang học, hiểu sâu hơn quá khứ, tạo bài giảng
hấp dẫn, sinh động có sức lôi cuốn học sinh.
Phân loại tài liệu tham khảo, theo tài liệu BDTX chu kì 3, nó có các loại
như sau:
- Tài liệu lịch sử gốc: Gồm các văn kiện, tài liệu có liên quan trực tiếp
đến sự kiện, ra đời vào thời điểm xảy ra sự kiện như các hiệp ước, điều ước,
tuyên ngôn.... Ví dụ: Hiệp ước Hác Măng (1883); tuyên ngôn độc lập khai sinh
ra nước VNDCCH (2/9/1945).
- Tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước, phong trào công nhân và cộng
sản Quốc tế....
- Các tài liệu Ngữ văn (văn học dân gian, văn học bác học).
- Tài liệu lịch sử rút ra từ các công trình nghiên cứu sử học, dân tộc
học....
Như vậy, trong giờ dạy học việc sử dụng tài liệu tham khảo giúp học
sinh có thêm cơ sở để nắm vững, hiểu bản chất sự kiện lịch sử; hình thành khái
niệm, hiểu rõ quy luật, bài học của lịch sử. Nó giúp các em khắc phục việc
“hiện đại hoá” lịch sử hoặc “hư cấu” sai sự thực lịch sử.
4.2. Sử dụng tài liệu Ngữ văn, âm nhạc trong giờ học sử:
4.2.1. Vai trò, ý nghĩa của tài liệu Ngữ văn:
Tài liệu Ngữ văn trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông
có vai trò to lớn.
Trước hết, các tác phẩm Ngữ văn với những hình tượng cụ thể có tác
động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận
kiến thức, khắc sâu kiến thức 1 cách dễ dàng hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài 27 (lịch sử 7) chế độ phong kiến nhà Nguyễn. mục II. Các
cuộc nổi dậy của nhân dân; khi dạy về cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 7


1856) để khắc sâu về nhân vật lịch sử này và làm phong phú thêm bài giảng.

Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh bài thơ Cao Bá Quát viết khi ông đi
phục dịch phái đoàn nước ta sang nước ngoài.
“Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói
Kéo áo rì rầm chuyện với nhau....
.... Uốn éo đòi chồng nâng trở dậy
Biết đâu đến khách biệt ly này.”
4.2.2. Các loại tài liệu Ngữ văn và cách sử dụng:
Trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông tuỳ vào từng khoá trình,
nội dung từng bài, từng phần mà giáo viên có thể đưa vào bài giảng các loại tài
liệu Ngữ văn khác nhau như: Văn học dân gian; tác phẩm văn học ra đời vào
thời kì xảy ra sự kiện lịch sử; Tiểu thuyết lịch sử; Hồi kí cách mạng.... Mỗi loại
lại có ý nghĩa khoa học riêng, dó đó khi sử dụng phải phù hợp với yêu cầu bài
giảng; với từng sự kiện, nhân vật lịch sử mà giáo viên lựa chọn đưa vào.
a. Văn học dân gian:
VHDG ra đời từ rất sớm và rất phong phú với nhiều thể loại khác nhau
như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, dân ca.... Đây là những tài
liệu có giá trị, nó phản ánh nội dung nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân
tộc.
Ví dụ như: khi dạy bài 15 “Nước Âu Lạc”. Khi giảng dạy về việc xây
dựng thành Cổ Loa và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Triệu, giáo viên
có thể đưa vào đó 1 số câu chuyện cổ tích về Nỏ Thần, về xây Thành Cổ Loa.
Nhưng quan trọng hơn là qua những câu chuyện đó giáo viên phải giúp học
sinh thấy được bước tiến lớn của quân dân Âu Lạc về kĩ thuật xây dựng cũng
như kĩ thuật chế tác vũ khí.
Các loại hình văn học dân gian còn góp phần minh hoạ, làm rõ sự kiện,
nhân vật lịch sử. Do đó, giáo viên nên đưa vào để học sinh hiểu rõ hơn về sự
kiện, nhân vật lịch sử đó.
8



Ví như khi dạy bài 23 (lịch sử 6). Những cuộc khởi nghĩa lớn trong các
thế kỉ VII – IX. Mục 2 khởi nghĩa Mai Trúc Loan (722) để làm rõ sự kiện, nhân
vật. Giáo viên có thể đưa vào đoạn thơ sau:
“Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng
Vạn An thành luỹ khói hương xông
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
Trăm trận Lý Đường phục võ công....
.... Đường đi cống vai từ đây đứt
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.”
Không những vậy, tài liệu văn học dân gian còn làm cho bài học sinh
động, tạo được không khí gần gũi với bối cảnh lịch sử đang học. Nó phản ánh
những hiểu biết về các sự kiện lịch sử đang học, giúp học sinh hiểu được vấn
đề cụ thể rõ ràng hơn.
Ví như khi dạy Bài 25 (lịch sử 8) kháng chiến lan rộng ra toàn quốc
(1873 - 1884). Mục II – phần 2, nhân dân Bắc Kì tiếp tục kháng Pháp. Để làm
cho học sinh hiểu rõ tình cảnh rối ren của triều Nguyễn khi Tự Đức mất cũng
như hiểu tại sao Pháp lại không nhân nhượng triều Nguyễn như năm 1874 nữa.
Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe 2 câu ca dao sau:
“Một nhà sinh được Ba vua
Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài.”
(Ba vua này là Đồng Khánh (sống) Kiến Phúc (chết) Hàm Nghi chạy ra
Tân Sở đều là con của Kiến Thái Vương (một nhà)). Tất nhiên giáo viên cần
lưu ý giải thích từ “thua” thuộc quan điểm giai cấp nào?
Hoặc khi dạy Bài 29 (lịch sử 8) chương trình khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp và những chuyển biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Tại phần I
mục 2 chính sách kinh tế. Để mô phỏng cảnh nhân dân ta phải nộp sưu thuế.
Giáo viên có thể sử dụng 4 câu ca dao sau:
“Ôi nhớ những năm nào thuở trước

Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
9


Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy.”
Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian còn giúp học sinh biết
được, hiểu được về chí khí con người, về địa danh của 1 nhân vật lịch sử nào
đó. Ví như khi nói về Lí Công Uốn giáo viên có thể dùng 4 câu thơ sau:
“Màn có trời cao, chiếu đất liền
Đêm trăng Thanh thả giấc Thần tiên
Suốt đêm nào dám vung chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.”
Hoặc khi giảng về cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành, để giúp học sinh dễ
dàng nhớ về địa danh nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa, quê hương ông. Giáo viên có
thể dùng 2 câu ca dao sau:
“Trên trời có ông sao Rua
Giữa làng Minh Giám có vua Ba Vành.”
Bên cạnh những tác dụng trên, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian sẽ
giúp cho việc giáo dục tư tưởng, đạo đức nói chung và giáo dục truyền thống
dân tộc nói riêng có kết quả hơn. Chẳng hạn như: để giáo dục truyền thống đấu
tranh bất khuất của dân tộc, giáo viên có thể sử dụng trong bài giảng những tác
phẩm như: Hịch Tướng Sĩ; bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt;.... Hoặc để giáo
dục lòng biết ơn các vua Hùng, giáo viên sử dụng 2 câu nói về Bác Hồ:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước.”
b. Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử:
Đối với các tác phẩm văn học này, nó có ý nghĩa rất lớn đối với khi
khơi lại hình ảnh quá khứ. Nó làm quá khứ của sự kiện lịch sử trở lên
sống động hơn, chân thật hơn. Sự kiện trở nên có sức sống hơn và thu

hút học sinh hơn khi theo dõi bài giảng.
Ví dụ như: khi dạy Bài 24 (lịch sử 8) Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến
năm 1873. Tại mục II. Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858 đến năm
1873. Tuỳ vào diễn biến bài giảng giáo viên có thể lồng ghép bài thơ sau sao
cho phù hợp tiến trình bài học. Cụ thể là:
10


“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút ra tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trăng dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này!”
(Theo thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – NXB Văn học, Hà Nội 1963)
Hoặc để nói lên khí thế chống giặc của người dân Nam Bộ nói chung, 3
tỉnh miền Tây Nam Kì nói riêng, giáo viên có thể trích 1 đoạn trong văn tế
Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu như:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn: Toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng
bộ....
.... Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn găn; ngày xem ống khói
chạy đen xì, muốn ra cắn cỏ”.
.... Hoả mai đánh bằng rơm con cúc, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo
dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ....
Trong quá trình lịch sử từ đầu thế kỉ XX, khi nói về sự biến đổi của xã
hội Việt Nam, cũng như thân phận của người nông dân trong xã hội thuộc

Pháp. Giáo viên có thể sử dụng nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: “Tắt
đèn” của Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan; “Lão Hạc”
của Nam Cao.... để khắc sâu hình ảnh thân phận người nông dân trong lòng xã
hội cũ.
Hoặc như trong khoá trình Lịch sử 9, khi dạy bài 19: Phong trào cách
mạng trong những năm 1930 – 1935. Mục II: Phong trào cách mạng 1930 –
1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh. Giảng về phong trào ở Nghệ Tĩnh giáo

11


viên có thê đưa vào bài giảng đoạn trích sau trong “Bài ca cách mạng” cụ thể
là:
“.... Than ôi, nước mất nhà xiêu
Thế không chịu nổi, liệu chiều tính mau.
Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh 1 phen dậy rồi....
..... Trên gió cả cờ đào phất thẳng
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra
Chiến trường một trận xông pha
Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng....”
(Thơ văn cách mạng 1930 – 1945 NXB Văn học.H.1930)
Hoặc như khi dạy Bài 27 (lịch sử 9) Cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953 - 1954) tại phần II mục 2 chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ. Giáo viên có thể sử dụng các tác phẩm văn học viết về
Điện Biên Phủ trong thời kì này vào bài giảng. Ví dụ: Bài “Hoan hô chiến sĩ
Điện Biên” (Tố Hữu). Giáo viên có thể trích dẫn 2 câu thơ sau để khắc sâu về
hình ảnh chiến đấu dũng cảm của chiến sĩ Điện Biên đó là:

“Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn.”
Như vậy, có thể nói rằng, các tác phẩm văn học xuất hiện cùng thời kì
diễn ra các sự kiện lịch sử đã giúp học sinh thấy được “bức tranh” sống động
của lịch sử, làm cho các em nhận thức được sự kiện đó 1 cách toàn diện hơn.
Học để học sinh ghi nhớ nhanh kết quả của chiến dịch Điện Biên Phủ,giáo
viên có thể sử dụng những câu thơ sau:
“ Một chiều hè lịch sử
Bố kể truyện Điện Biên
Bộ đội mình chiến thắng
Lũ Tây bị bắt sống
12


Ta giải đi từng đoàn.
Tướng Đờ Cát xin hàng
Bốt đồn đều san phẳng.
Cờ quyết chiến quyết thắng
Tung bay trên nóc hầm.
Chiều mồng bẩy tháng năm
Một chiều hè lịch sử ”.
Qua đó phân tích cho học sinh nắm được chiều ngày 7/5/1954,quân ta đánh
vào sở chỉ huy địch ,bắt sống toàn bộ bọn giặc tại đây .lá cờ đỏ sao vàng của
quân dân ta đó tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Ca-x tơ-ri.
Một ví dụ khác khi, dạy bài 30: “ Hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước
( 1973-1975)”– Lịch sử 9. Để học sinh nắm được ý nghĩa lịch sử của cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước, giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ trong bài
Trận thắng cuối cùng của nhà thơ Lê Đức Thọ viết ngay tại sân bay Tân Sơn
Nhất vào ngày 2/5/1975:

Quyết xây dựng lại tương lai đất nước
Cho Tổ quốc ta giàu đẹp gấp ngàn lần
Không còn những ngày đói khổ gian truân
Tình ruột thịt Bắc Nam một nhà sum họp
Lời Bác dặn đã hoàn thành trọn vẹn
Giờ này đây Bác ngủ hẳn yên lòng
Trời hôm nay, trong sáng, đẹp vô cùng.
4.2.3. Vai trò, ý nghĩa của tài liệu âm nhạc:
Âm nhạc đem lại niềm vui, sự sảng khoái, vui vẻ, thoải mái cho con
người, âm nhạc còn giáo dục kêu gọi con người có trách nhiệm với bản thân
với gia đình và xã hội qua các cung bậc của âm thanh. Âm nhạc có sức cảm
hóa, tăng thêm nghị lực cho con người, giúp con người có một nhân cách toàn
vẹn hơn. Với giai điệu nhạc trong sáng lành mạnh, hào hùng...ca từ lời hát đơn
giản có nội dung, có ý nghĩa ca ngợi những cuộc kháng chiến, ca ngợi quê
13


hương đất nước từ đó tạo cho các em lòng tự hào tự tôn dân tộc. Giáo dục các
em có tinh thần yêu quê hương đất nước, biết trân trọng giá trị lịch sử của dân
tộc, biết nhớ ơn những người đã có công trong hai cuộc kháng chiến đánh tan
quân xâm lược đem lại nền độc lập cho dân tộc Việt Nam ta như ngày hôm nay
như bài hát: “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” của Phạm Tuyên, “Đất
nước trọn niềm vui” của Hoàng Hà, “Tiến quân ca” của Văn Cao, “Giải phóng
Điện Biên” của Đỗ Nhuận, “Mười chín tháng tám ” của Xuân Oanh...
4.2.4. Một số ca khúc có thể khai thác và cách sử dụngtrong dạy học lịch sử:
Trong quá trình dạy học môn lịch sử,nhằm khơi dậy sự yêu thích môn học
của học sinh,tôi đã sưu tầm một số bài hát sử ca để phục vụ việc dạy học.Có
một số bài tôi lồng nhạc vào khi giới thiệu bài mới,một số bài tôi đưa trực tiếp
vào bài giảng, một số bài tôi cho học sinh hát sau khi kết thúc tiết học.
Đối với chương trình lớp 9, giáo viên có thể khai thác triệt để các ca khúc sau:

STT
1
2
3
4
5

Tên ca khúc
Mười chín tháng tám
Sông Lô
Hò kéo pháo
Chiến thắng Điện Biên
Câu hò bên bờ Hiền Lương

Tên tác giả
Nhạc và lời : Xuân Oanh
Nhạc và lời : Văn Cao
Nhạc và lời : Hoàng Vân
Nhạc và lời : Đỗ Nhuận
Nhạc : Hoàng Hiệp
Lời:Hoàng

Hoàng

Lớp
9
9
9
9
9




6

Dáng đứng Bến tre

Đằng Giao
Nhạc và lời: Nguyễn Văn

9

7


Như có Bác trong ngày vui đại Nhạc và lời : Phạm

9

thắng
Tuyên
Đối với chương trình lớp 6,7 giáo viên có thể khai thác và sử dụng ca khúc
sau
1
2
3
4
5
6
7


Trưng Nữ vương
Hoa Trưng Nữ vương
Phất Cờ Nương Tử
Hai Bà Trương
Bóng Cờ Lau
Đinh Bộ Lĩnh
Người anh hùng cờ lau

Thẩm Oánh
Uy Thi Ca
Công Minh
Khuyết Danh
Hoàng Quý
Lê Văn Chiêu
Trương Quang Lục

6
6
6
6
7
7
7
14


8
9
10

11
12
13
14
15
16

Nam Quốc Sơn Hà
Sấm vang dòng như nguyệt
Chu Văn An
Lê Quý Đôn
Vua Quang Trung
Anh hùng áo vải
Bước chân thần tốc
Đoàn quân Quang Trung
Thăng Long đại thắng mùa

Vũ Hoàng
Chương Đức
Ngô Ganh
Trương quang Lục
Ngô Ganh
Bùi Hoàng Yến
Lê Trọng Hà
Xuân Giao
Nguyễn Văn Hiên

7
7
7

7
7
7
7
7
7

17
18

xuân
Theo cha đến ải Nam Quan
Hùng Thiêng Yên Thế

Ngô Tiến Thịnh
Bùi Hoàng Yến

7
8

4.2.5. Một vài ví dụ minh họa về sử dụng âm nhạc trong dạy học lịch sử trong
THCS
Ví dụ 1: Sử dụng ca khúc “Mười chín tháng Tám”, nhạc và lời : Xuân Oanh để
dạy mục II: Giành chính quyền ở Hà Nội trong bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Mục đích:
Giúp học sinh thấy được không khí giành chính quyền ở Hà Nội trong
cách mạng tháng tám năm 1945, khắc sâu sự kiện ngày 19 tháng 8 giành chính
quyền ở Hà Nội, cách mạng tháng Tám thành công, đồng thời cho học sinh
thấy được không khí cách mạng trong cả nước.

Cách thực hiện:
Khi chuyển sang mục II giành chính quyền ở Hà Nội:
- Giáo viên cho học sinh nghe ca khúc “Mười chín tháng Tám”.
- Học sinh nghe xong giáo viên đặt câu hỏi: sau khi nghe xong ca khúc “Mười
chín tháng Tám”, em có nhận gì về không khí giành chính quyền ở Hà Nội?
- Qua ca khúc được nghe học sinh có thể thấy được không khí cách mạng ở thủ
đô Hà Nội đồng thời thấy được lòng quyết tâm của nhân dân thủ đô trong việc
giành chính quyền.
- Sau khi học sinh trả lời xong giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Qua ca khúc em
hãy cho biết giành chính quyền ở Hà Nội diễn ra vào thời gian nào?
15


- Học sinh dễ dàng nhận ra đó là ngày 19 tháng 8.
Đến đây giáo viên có thể cho học sinh nghe lại ca khúc “Mười chín
tháng Tám”.
Kết quả đạt được: Sau khi sử dụng ca khúc “Mười chín tháng Tám” dạy
phần II bài 23 Lịch sử lớp 9 tôi thấy: Khi nói đến việc dành chính quyền ở Hà
Nội trong cách mạng tháng Tám, các em nhớ đến ca khúc “Mười chín tháng
Tám” và nhớ đến không khí giành chính quyền ở Hà Nội và sự kiện 19 tháng 8
là ngày giành chính quyền ở Hà Nội.
Ví dụ 2: Sử dụng ca khúc “Câu hò bên bờ Hiền Lương” nhạc: Hoàng Hiệp, lời
Hoàng Hiệp và Đằng Giao dạy mục I Tình hình nước ta sau hiệp định Giơ- nevơ 1954 về Đông Dương.
Mục đích:
Qua ca khúc “Câu hò bên bờ Hiền Lương” cho học sinh thấy được tình hình
nước ta sau hiệp định Giơ- ne- vơ: tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam- Bắc,
lấy sông Hiền Lương ( Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời.
Từ ca khúc “Câu hò bên bờ Hiền Lương” thể hiện một niềm tin sắt son,
đất nước Việt Nam không bao giờ ngăn cách đôi bờ.
Cách thực hiện:

- Khi bước vào mục I: Tình hình nước ta sau hiệp định Giơ- ne- vơ 1954 về
Đông Dương.
- Giáo viên cho học sinh nghe ca khúc “Câu hò bên bờ Hiền Lương”.
- Sau khi học sinh nghe xong giáo viên đặt câu hỏi: Qua ca khúc, em hãy cho
biết tình hình nước ta sau hiệp định Giơ- ne- vơ như thế nào? Học sinh dễ dàng
nhận thấy sau hiệp định Giơ- ne- vơ nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền
Nam- Bắc.
- Giáo viên cho học sinh nghe lại bài hát một lần nữa và đặt câu hỏi: Thông
điệp bài hát cho chúng ta thấy điều gì? Học sinh bày tỏ cảm nghĩ của mình.
Cuối cùng giáo viên chốt lại: Bài hát cho chúng ta thấy sự quyết tâm thống nhất
đất nước của dân tộc.

16


Kết quả: Sau khi sử dụng ca khúc “Câu hò bên bờ Hiền Lương” trong
dạy học mục I: Tình hình nước ta sau hiệp định Giơ- ne- vơ 1954 về Đông
Dương, học sinh dễ dàng hình dung được bối cảnh nước ta sau hiệp định Giơne- vơ. Nhớ được địa danh sông Hiền Lương( Bến Hải), làm giới tuyến quân sự
tạm thời chia cắt hai miền đất nước. Đồng thời qua ca khúc, học sinh thấy được
một niềm tin vững chắc và sự quyết tâm thống nhất hai miền Nam- Bắc trước
âm mưu chia cắt nước ta của kẻ thù.
4.2.6. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử:
Theo Trịnh Tùng trong cuốn Phương pháp dạy học lịch sử (trang 164.
NXB Giáo Dục 1999). Để sử dụng tài liệu văn học trong giờ dạy lịch sử, có thể
tiến hành theo cách sau:
Thứ nhất: Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh
hoạ những sự kiện đang học làm cho nội dung bài học được phong phú và giờ
học thêm sinh động.
Thứ hai: Dùng một đoạn trích để cụ thể hoá sự kiện, nêu ra một kết luận
khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kì, một sự kiện lịch sử.

Thứ ba: Tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi ngoại
khoá (Dạ hội lịch sử).
Tuỳ vào nội dung bài học, tiết dạy và năng lực của mỗi giáo viên mà
chúng ta có thể sử dụng một trong những cách trên sao cho phù hợp.
4.2.7. Phương pháp sử dụng âm nhạc trong dạy học lịch sử:
Việc khai thác và sử dụng âm nhạc trong lịch sử của trường THCS là
một hướng đổi mới trong phương pháp dạy học, góp phần khắc phục tính khô
khan của kiến thức lịch sử, đồng thời nâng cao chất lượng bộ môn.
4.2.8. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu âm nhạc trong giờ học sử:
Tuy nhiên để thực hiện có hiệu quả việc sử dụng âm nhạc trong dạy học
lịch sử giáo viên cần lưu ý:
Cần biết khai thác và sử dụng một cách hợp lí trong các bài dạy, tránh
lạm dụng dễ biến giờ học lịch sử thành giờ học âm nhạc. Phải biết chọn lọc bài

17


hát, hay một đoạn của bài hát nào đó phù hợp và đưa ra đúng lúc, đúng chỗ liên
hệ một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, điều đó sẽ đem đến hiệu quả cao hơn.
Cần tìm hiểu nhiều tư liệu âm nhạc có liên quan đến bài dạy lịch sử để
đưa vào bài dạy cho phù hợp, phải luôn học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp để rút
kinh nghiệm và nâng cao hiệu quả của việc khai thác và sử đụng âm nhạc trong
dạy học lịch sử.
Trong trường hợp cơ sở vật chất, đài, băng đĩa, máy tính...nhà trường
chưa đáp ứng được nhu cầu của việc khai thác và sử dụng âm nhạc trong dạy
học lịch sử mà giáo viên lại hạn chế về năng khiếu âm nhạc thì có thể yêu cầu
một học sinh hát một bài hay một đoạn của bài hát nào đó có nội dung phù hợp
với bài học
4.2.9. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu Ngữ văn trong giờ học sử:
Sử dụng tài liệu Ngữ văn trong giờ học sử, giúp giờ học trở nên sinh

động, hấp dẫn lôi cuốn học sinh. Giúp học sinh có cái nhìn đa chiều đối với
một sự kiện, một nhân vật, một hiện tượng lịch sử. Dễ dàng đưa kiến thức sử
đến với học sinh. Tuy vậy, theo tôi việc sử dụng tài liệu Ngữ văn trong giờ học
sử phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Tài liệu Ngữ văn đó phải đảm bảo cả giá trị giáo dưỡng, giáo
dục và giá trị văn học.
Thứ hai: Tài liệu ấy phải là một bức tranh sinh động về những sự kiện,
nhân vật lịch sử đang học phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
Thứ ba: Đối với giáo viên:
- Trước khi sử dụng, cần có sự lựa chọn kĩ càng, phải loại bỏ những yếu
tố không phù hợp. Đặc biệt đối với tài liệu VHDG như thần thoại, cổ tích, ca
dao, dân ca.... giáo viên cần loại bỏ những yếu tố thần bí hoang đường giữ lại
những điểm cơ bản, khoa học phục vụ bài giảng.
- Khi sử dụng giáo viên chỉ đưa vào những nội dung phù hợp, tránh
việc lạm dụng đưa vào quá nhiều, làm loãng nội dung bài học lịch sử. Biến
giờ học sử thành giờ giới thiệu các tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới sự tập
trung nhận thức của học sinh vào những vấn đề đang học. Đồng thời, giáo
18


viên cần sử dụng ngữ điệu phù hợp với tài liệu văn học, với nội dung sự kiện
lịch sử cần minh hoạ phải đưa vào bài giảng một cách hợp lí, lôgíc.... làm
được điều đó thì tính thuyết phục, hấp dẫn sẽ tăng lên rất nhiều.
Nói tóm lại, việc sử dụng tài liệu Ngữ văn trong giờ học sử là một trong
những cách thức để giáo viên đưa tài liệu tham khảo vào trong giờ dạy sử.
Thực hiện theo sơ đồ dạy học của Đairi, qua đó hoàn thành mục tiêu bài học, kế
hoạch dạy học và nâng cao chất lượng bộ môn trong trường phổ thông.
5. Kết quả đạt được
Sau thời gian nghiên cứu và thực hiện với đối tượng học sinh các khối
lớp 6,7,8,9 tại trường tôi đang dạy với cách thức sau:

- Đối với các lớp 7A, , 8D, 9A, thường tiến hành sử dụng tài liệu môn
Ngữ văn ( phần văn học), Âm nhạc trong giờ học sử.
- Đối với các lớp 6A, 8C, 9B ít thực hiện.
Qua các loại bài kiểm tra, phiếu kiểm tra thu được kết quả so sánh như
sau:
Các mức độ
Hứng thú học tập bộ

Khối lớp thực hiện

Khối lớp ít thực hiện

Tăng

Không tăng

môn
Khả năng ghi nhớ sự

- Nhanh.

kiện, nhân vật

- Nhiều, hiểu rõ sự kiện.

Khả năng làm bài phân

- Đa dạng, phân tích có

tích sự kiện


chiều sâu.

Công tác giáo dục tư
tưởng

- Mức độ chậm.
- Chủ yếu học thuộc
lòng, ghi nhớ các sự

Học sinh có tình cảm,

kiện.
- Học sinh có thái độ

thái độ đúng đắn đối với

đúng đắn đối với sự

sự kiện, nhân vật.

kiện, nhân vật.

Qua quá trình thực hiện, kết quả đáng mừng là số học sinh có hứng thú
học tập bộ môn tăng, số chất lượng dạy học bộ môn tăng. Nhiều em đã tích cực
tham gia ôn tập và dự thi HSG môn sử cấp trường, huyện đạt kết quả cao (Năm

19



học 2012- 2013, hai học sinh vào đội tuyển cấp thị xã ; Năm học 2013- 2014
một học sinh đạt giải ba và một học sinh đạt giỏi vào đội tuyển).
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng: về nhân lực, trang thiết bị, kĩ
thuật...
Nhận thức về vai trò và vị trí của môn Lịch sử trong trường THCS.
6.1. Chất lượng đội ngũ giáo viên phải đạt chuẩn, đúng chuyên nghành Lịch sử.
Nhiệt tình với bộ môn, tâm huyết với nghề, hăng say học hỏi và rèn luyện nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
6.2. Cần chú trọng học tập và tổ chức thi môn Lịch sử vào cấp III. Các trường
phải có phòng bộ môn, có đầy đủ trang thiết bị dạy học. Có giáo viên chuyên
ngành Sử có tâm huyết với nghề giảng dạy mới đạt được những kết quả cao
như mong muốn. Tổ chức cho học sinh tham quan một số danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử của địa phương.
6.3. Chương trình sách giáo khoa cần có sự cân đối giữa phần Lịch sử Việt
Nam và Lịch sử thế giới. Sách giáo khoa cần có nhiều hình ảnh, nhân vật lịch
sử, địa danh nổi tiếng giúp cho các em nắm chắc thêm về thông tin và hiểu rõ
hơn về sự kiện, nhân vật lịch sử.
6.4. Cần đổi mới phương pháp phù hợp với thời đại khoa học công nghệ hiện
nay. Nên cho các em đi thăm những địa danh, những nhân vật lịch sử có liên
quan đến quá trình học tập lịch sử ở trường THCS.
6.5. Việc kiểm tra đánh giá phát triển được năng lực, tư duy sáng tạo, năng lực
của học sinh, hạn chế việc kiểm tra đánh giá, học thuộc lòng các sự kiện lịch
sử. Cần nhiều hơn ở các em kĩ năng phân tích, rút ra nhận xét, kết luận.

20


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Học sinh hiện nay còn lười học môn Lịch sử một phần vì các em ngại

học do kiến thức khô khan và quá dài, một phần vì lượng kiến thức các môn
học hiện nay quá nặng, điều đặc biệt là các em dành thời gian nhiều thời gian
cho môn học Văn và Toán thi vào THPT.
Phụ huynh không muốn con em mình dành nhiều thời gian cho môn Lịch
sử, không muốn con em mình đầu tư nhiều thời gian cho môn Lịch sử, ví dụ
khi con em họ được chọn vào đội tuyển Lịch sử họ không vui, thất vọng, tìm
cách xin cho con mình sang đội tuyển khác.
21


Những giáo viên thực sự tâm huyết với bộ môn Lịch sử ngày càng ít.
Kết quả điểm thi, điểm kiểm tra của học sinh qua các kì thi chưa cao, còn
có nhiều điểm không.
Dạy học cần bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng bộ môn.
Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập phù hợp, chú trọng phân hóa đối
tượng học sinh.
Chuẩn bị tài liệu tham khảo, đồ dùng, thiết bị dạy học đầy đủ.
Chú trọng đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá.
Thiết kế, xây dựng cấu trúc bài học hợp lí. Kết hợp kiến thức liên môn
trong dạy học Lịch sử đặc biệt là Ngữ văn và Âm nhạc.
Với việc kết hợp các phương pháp trên tôi thấy thu được kết quả nhất
định: Tạo ra được hứng thú, phát huy được tính tích cực của học sinh trong việc
học tập môn Lịch sử. Điểm số qua các bài kiểm tra được nâng lên. Chất lượng
đại trà được cải thiện rõ rệt. Năm học 2013-2014 đội tuyển học sinh giỏi do tôi
phụ trách tham gia thi học sinh giỏi cấp thị xã môn Lịch sử có hai em đi thi đều
được vào đội tuyển, trong đó có một em được giải ba và đứng thứ 4 trên 19
trường.
2. Khuyến nghị:
2.1. Với nhà trường
Kiểm tra lại năng lực của giáo viên dạy môn Lịch sử để có kế hoạch bồi

dưỡng, nhằm góp phần nâng cao trong việc dạy môn Lịch sử. Những giáo viên
không đủ năng lực đề nghị bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hoặc chuyển công
tác khác cho phù hợp.
2.2. Với phòng giáo dục
Cần bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên dạy Lịch sử.
Thường xuyên tổ chức các hội thảo để tìm ra phương pháp giảng dạy đạt hiệu
quả cao nhất. Giáo viên nào chưa đạt chuẩn đào đạo phải đi học để đạt chuẩn
và trên chuẩn theo chuyên nghành.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên lịch sử 6 - NXB Giáo dục.
2. Sách giáo viên lịch sử 7 - NXB Giáo dục.
3. Sách giáo viên lịch sử 8 - NXB Giáo dục.
4. Tuyển tập Thơ văn cách mạng 1930 – 1945 (NXB Văn học.H.1980).
5. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị. Phương pháp dạy học lịch sử - NXB GD –
1999.
6. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng. Các triều đại Việt Nam – NXB Thanh Niên –
1995.
23


7. Quốc Chấn – Thần đồng xưa của nước ta – NXB Giáo Dục – 1998.

MỤC LỤC
NỘI DUNG
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN


Trang
2
3-4

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
2.Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
3. Nội dung sáng kiến
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng
sáng kiến
24


MÔ TẢ SÁNG KIẾN

5

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

6

2. Thực trạng của vấn đề

6

3. Các giải pháp và biện pháp thực hiện

6


4. Kết quả đạt được

18

5. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.

19

KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ

22

1. Kết luận

22

2. Khuyến nghị

23

25


×