Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Biện pháp tạo hứng thú trong học tập môn âm nhạc ở lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.28 MB, 96 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật dùng âm thanh và tiết tấu để diễn
đạt tư tưởng tình cảm của con người. Bản chất của âm nhạc là niềm vui lạc
quan, yêu đời và đưa con người đến với những tình cảm cao thượng. Âm nhạc
tác động trực tiếp vào tâm hồn, chiếm lĩnh ý thức con người, được con người
cảm thụ tinh tế theo từng hoàn cảnh, từng lứa tuổi. Nó tồn tại trong suốt quá
trình phát triển xã hội, nó gắn bó với con người từ khi chào đời cho đến khi về
già. Với trẻ em, âm nhạc như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tinh thần, như nhịp cầu
nối tâm thức trẻ với mọi bài học về cuộc sống. Trẻ cảm nhận sự kì diệu của
âm nhạc như cảm nhận sự ngọt ngào, âu yếm của người mẹ. Thông qua âm
nhạc, trẻ tiếp cận và tiếp nhận các bài học dễ dàng hơn, sâu sắc hơn. Âm nhạc
cũng chính là phương tiện giúp trẻ phát triển cảm xúc, phát triển tình cảm, trí
tuệ, mở rộng nhận thức. Vậy phải làm thế nào để phát huy vai trò của âm nhạc
trong dạy học?
Hiện nay, dạy học Âm nhạc ở nhà trường Tiểu học đã áp dụng các
phương pháp dạy học hiện đại kết hợp với phương pháp dạy học truyền thống
đã mang lại hiệu quả tốt trong việc tiếp thu các bài hát, giảm bớt sự đơn điệu.
Tuy nhiên ,ở một số trường Tiểu học tình trạng dạy chay vẫn diễn ra khá
nhiều, đồ dùng dạy học hỗ trợ môn Âm nhạc còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng
không nhỏ đến hứng thú học tập của các em. Mặt khác, nhiều giáo viên chưa
nhận thức đúng khả năng Âm nhạc ở các em học sinh, luôn suy nghĩ với một
quan điểm cổ hũ: “Âm nhạc đòi hỏi phải có năng khiếu bẩm sinh.” Đặc biệt,
ở các trường Tiểu học vùng sâu vùng xa giáo viên chưa nắm vững về việc
đổi mới phương pháp dạy học và dạy học như thế nào cho phù hợp. Chính vì
thế, tư tưởng ngại khó khiến cho giáo viên không có sự đầu tư trong việc
chuẩn bị phương pháp dạy học, nghiên cứu tài liệu cũng như chuẩn bị đồ
dùng, các thiết bị dạy học có liên quan. Vậy làm thế nào để giúp giáo viên

1



giải quyết những vấn đề khó khắn và có những biện pháp dạy học đúng đắn
để triển khai quá trình dạy học Âm nhạc một cách thuận lợi nhất?
Với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi Tiểu học, đặc biệt là các em học
sinh lớp 1. Nhận thức của các em vẫn thường gắn liền với những điều gần gũi,
thân thiết trong cuộc sống. Trong dạy học Âm nhạc cũng như trong việc dạy
các môn học khác, nếu giáo viên biết khai thác tốt các phương tiện, đồ dùng
dạy học một cách linh động, sáng tạo thì sẽ giúp các em có hứng thú học tập
và tiếp thu bài tốt hơn. Vậy làm thế nào để một người giáo viên có thể phát
huy được vai trò và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình?
Hiện nay, ngành giáo dục đang đặt ra vấn đề về đổi mới phương pháp
dạy học, làm thế nào để học sinh thực sự tích cực, chủ động và sáng tạo trong
quá trình lĩnh hội tri thức của mình. Quá trình đổi mới phải toàn diện, đồng bộ
trên tất cả các phương tiện từ mục tiêu, nội dung đến hình thức, phương pháp,
phương tiện dạy học... Hướng đến mục tiêu đó, mỗi giáo viên cần phải không
ngừng học hỏi, linh hoạt sử dụng các phương pháp, phương tiện, đồ dùng dạy
học phù hợp để có một tiết học hấp dẫn, sinh động và có thể lôi cuốn các em
vào các hoạt động học tập. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, vai
trò của một người giáo viên là hết sức quan trọng.
Để trả lời cho các câu hỏi trên, đồng thời để góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả dạy học Âm nhạc trong nhà trường Tiểu học nói chung và
Âm nhạc lớp 1 nói riêng, chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Biện
pháp tạo hứng thú trong học tập môn Âm nhạc ở lớp 1”. Với mong muốn sẽ
xây dựng được các biện pháp giảng dạy tốt để hỗ trợ cho giáo viên dạy Âm
nhạc lớp 1. Từ đó cũng làm tư liệu cho bản thân, phục vụ cho công tác giảng
dạy sau này
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Phrebac đã coi hứng thú như một thuộc tính có sẵn, mang tính bẩm sinh
của con người. U.Giêmxơ cho rằng: Hứng thú có nguồn gốc sinh vật, còn
Framixka quan niệm hứng thú là trường hợp riêng biệt của thiên hướng.


2


Sau này, các nhà tâm lý học đã đưa ra định nghĩa tương đối hoàn chỉnh
về hứng thú: “Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với một
đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống vừa có khả năng mang lại
xúc cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động”. Ở đây, hứng thú thể hiện
mối quan hệ giữa chủ thể với thế giới khách quan, giữa đối tượng với nhu cầu
và xúc cảm, tình cảm của chủ thể hoạt động …
2.1. Ở ngoài nước
Những công trình nghiên cứu về hứng thú ở trên thế giới xuất hiện
tương đối sớm và ngày càng phát triển
Ovide Decroly (1871 – 1932) bác sĩ và nhà tâm lý khi nghiên cứu về
khả năng tập đọc, tập làm tính của trẻ đã xây dựng về những học thuyết về
những trung tâm hứng thú và lao động tích cực
Năm 1976, A.K.Marcôva nghiên cứu về vai trò của dạy học nêu vấn đề
với hứng thú học tập của học sinh.
J.Piaget (1896 – 1996) nhà tâm lý học nổi tiếng người Thụy Sĩ có rất
nhiều công trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ em và giáo dục. Ông rất chú trọng
đến hứng thú của học sinh và cho rằng “Nhà trường kiểu mới đòi hỏi phải
hoạt động thực sự, phải làm việc một cách chủ động dựa trên nhu cầu và hứng
thú cá nhân”.
2.2. Ở trong nước
Ở Việt Nam, vấn đề hứng thú rất được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Năm 1969, Lê Ngọc lan với đề tài “Tìm hiểu hứng thú học môn Toán
của học sinh cấp II”, mục đích của đề tài là nghiên cứu nhằm hứng thú học
tập của học sinh đối với môn toán.
Năm 1977, Phạm Ngọc Quỳnh với đề tài “Hứng thú với môn văn của
học sinh lớp cấp II” đã nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân gây hứng thú học

văn và nguyên nhân làm cho không hứng thú học văn.
Năm 2005, Vũ Thị Việt Hiếu với đề tài “Hứng thú học âm nhạc của trẻ
4- 5 tuổi ở một số trường mầm non tỉnh Yên Bái”

3


Năm 1988, Vũ Thị Nho với đề tài “Tìm hiểu hứng thú với năng lực học
văn của học sinh lớp 6”.
Năm 1990, Imkock trong luận án phó tiến sĩ “Tìm hiểu hứng thú đối
với môn toán của học sinh lớp 8
Một số biện pháp giúp học sinh phát triển môn Âm nhạc ở trường Tiểu
học EaHiao – xã EaHiao – Huyện EaH’leo” (Cao Phan Minh Hằng)
Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Âm nhạc lớp 5” (Nguyễn
Thị Tuyết Sương)
Phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Âm
nhạc trong trường Tiểu học” (Nguyễn Thị Hồng Huệ)
Tuy nhiên, các đề tài trên đều tập trung chủ yếu vào các biện pháp dạy
học nói chung, chưa đi sâu việc khai thác từng biện pháp cụ thể ở từng khối lớp.
Trong phạm vi của một đề tài KLTN, chúng tôi muốn tiến hành trao đổi về
phương pháp tạo hứng thú nhằm nâng cao chất lượng học tập các bài hát trong
chương trình cho học sinh lớp 1. Vì vậy, đề tài: “Biện pháp tạo hứng thú trong
học tập môn Âm nhạc ở lớp 1” là một vấn đề mới mẻ và có tính thiết thực trong
dạy học Âm nhạc lớp 1.
3. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra một số biện pháp để áp dụng trong hỗ trợ dạy học Âm nhạc ở
nhà trường Tiểu học nói chung và môn Âm nhạc lớp 1 nói riêng
Góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học nói chung và bộ
môn Âm nhạc nói riêng. Tạo điều kiện thuận lợi để các em có thể tiếp thu bài
một cách tốt nhất mà không bị ép buộc hay gò bó.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Biện pháp tạo hứng thú trong học tập môn Âm nhạc
4.2. Phạm vi
Nghiên cứu trong phạm vi 12 bài hát chính khóa trong chương trình
sách giáo khoa Tập bài hát lớp 1
5. Giả thiết khoa học

4


Biện pháp tạo hứng thú trong học tập môn Âm nhạc ở lớp 1 sẽ là nguồn
tài liệu phong phú, đa dạng giúp giáo viên vận dụng trong quá trình giảng dạy
của mình. Những biện pháp tích cực sẽ góp phần tạo hứng thú học tậ, tính tích
cực, niềm say mê Âm nhạc cho học sinh. Nhờ đó, trong quá trình giảng dạy
và học tập sẽ mang lại chất lượng hiệu quả ở nhà trường Tiểu học
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu các khái niệm đặc thù của bộ môn Âm nhạc
- Nghiên cứu đặc điểm tấm sinh lí của học sinh lớp 1
- Nghiên cứu nội dung chương trình dạy học các bài hát lớp 1
- Nghiên cứu các biện pháp nhằm gây hứng thú trong học tập cho học
sinh lớp 1
6.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Thực nghiệm sư phạm
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu lí thuyết
- Điều tra, phân tích thực tế
- Phân tích, tổng hợp kiến thức, kĩ năng về học tập Âm nhạc khối lớp 1

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
- Tìm hiểu thực tế
- Nghiên cứu kết hợp vận dụng lí luận
8. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, kết luận thì đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Biện pháp tạo hứng thú trong học tập môn Âm nhạc lớp 1
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm và đề xuất ý kiến

5


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Âm nhạc
1.1.1.1. Khái niệm về âm nhạc
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật đặc sắc phản ánh hiện thực khách quan
bằng những hình tượng có sức biểu cảm của âm thanh. Cùng với các phương
tiện diễn tả âm thanh: giai điệu, cường độ, âm sắc…. Âm nhạc biểu đạt tâm
lý, tình cảm của con người qua nhiều cung bậc khác nhau
Âm nhạc là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của
mỗi con người. Hầu hết mọi người đều biết lựa chọn, lắng nghe, thưởng thức
những ca khúc mà mình yêu thích. Tuy nhiên, ít ai có thể tường minh được
nguồn gốc cũng như nắm bắt được khái niệm âm nhạc một cách trọn vẹn và
đầy đủ.
Âm nhạc bắt nguồn từ đời sống lao động, sản xuất của con người, lột tả
phần nào cuộc sống thường nhật, hỗ trợ và tác động trở lại đến cuộc sống con
người. Như ThS Nguyễn Tố Mai trong “ Giáo trình lịch sử âm nhạc” đã viết:
“ Âm nhạc được bắt nguồn từ cuộc sống và lao động sản xuất của con người.

Con người đã biến âm nhạc thành một bộ môn nghệ thuật và nó không thể
thiếu trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người, phản ánh
chân thật mọi khía cạnh của cuộc sống, là phương tiện biểu cảm vô giới hạn”.
Trong cuốn “ Âm nhạc phổ thông”, hai tác giả Phạm Trọng Cầu và Thy
Mai đẫ có những lập luận, dẫn chứng hết sức thuyết phục, họ cho rằng: “ Âm
nhạc đã có mặt từ rất sớm trong đời sống con người. Trong buổi bình minh
của lịch sử, người nguyên thủy đã biết quần tụ quanh đống lửa để hát ca, nhảy
múa. Gắn liền với cuộc sống là những âm thanh như tiếng hò dô đẩy thuyền,
tiếng tù thôi thúc trong những buổi săn thú rừng… đã trở thành một loại hình
âm nhạc đầu tiên mang tính phổ biến của dân tộc. Từ buổi sơ khai, âm nhạc là

6


một loại hình nghệ thuật được dùng trong những buổi tế lễ thần linh, trời đất.
Khi đó, người ta dùng trống để vỗ đệm cho tiếng hát, tiếng reo hò, … trống là
một trong những loại nhạc cụ cổ xưa nhất mà con người đã chế ra để tạo âm
thanh. Kế tiếp sau đó là nhạc cụ bằng hơi như sáo, tiêu, địch,…được tạo ra từ
tre, trúc, xương thú vật, gỗ, đất sét, v..v… cùng với những sinh hoạt đa dạng
và phong phú của con người mà các nhạc cụ và các thể loại âm nhạc khác
cũng dần dần xuất hiện: Các điệu lí, hò, vè, ca múa dân gian… đã thể hiện
đậm nét sắc thái đời sống xã hội và tinh thần của con người. Ngày nay, khi
cuộc sống ngày càng phát triển, những đòi hỏi về nhu cầu tinh thần càng đa
dạng. Bên cạnh những loại hình âm nhạc mang tính truyền thống đã xuất hiện
những loại hình mang tính hiện đại. Rõ ràng, âm nhạc ngày càng phát huy vai
trò tích cực của nó trong đời sống chúng ta.”
Hai tác giả Nguyễn Minh Toàn và Nguyễn Hoành Thông trong cuốn “
Âm nhạc và phương pháp dạy học” lại cho rằng: “ Âm nhạc là nghệ thuật của
âm thanh, nghệ thuật dùng âm thanh. Âm thanh như một thứ “ vật liệu” đặc
biệt làm nên âm nhạc”. Âm nhạc sẽ không tồn tại nếu không có âm thanh.

Đồng thời, các tác giả cũng cho rằng: “Âm nhạc là nghệ thuật biểu hiện. Ngôn
ngữ nghệ thuật âm thanh là ngôn ngữ mang đặc trưng của nghệ thuật biểu
hiện, ngôn ngữ biểu cảm, tình cảm.” Đó chính là khả năng đặc biệt của âm
nhạc, biểu hiện tình cảm, tâm trạng và tác động đến cảm xúc của con người.
Theo cuốn “ Âm nhạc và phương pháp dạy học” của nhà xuất bản giáo
dục năm 2000 cho rằng: “Âm nhạc là nghệ thuật biểu hiện cảm xúc của con
người vào cuộc sống bằng âm thanh, là nghệ thuậ diễn ra trong thời gian,
nghệ thuật động, nghệ thuật của thính giác. Nó luôn luôn gắn bó và đòi hỏi
hoạt động biểu hiện trực tiếp của con người. Những đặc trưng cơ bản này
khác biệt nếu so với nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật hội họa”
Theo quan điểm của L.Tonxtoi, Âm nhạc là “Nghệ thuật tốc kí của tình
cảm”. Âm nhạc tác động trực tiếp, mạnh mẽ vào tình cảm, xốc cảm con

7


người. Đồng nhất quan điểm đó, nhà lí luận giáo dục âm nhạc A.Xokhor đã
nói: “Không có một thứ nghệ thuật nào khác lại đột nhập với một uy lực như
thế vào thế giới cảm xúc của con người, buộc con người phải chịu sự chi phối
của nó. Sau đó, mới là tác động đến thế giới quan, đến toàn bộ ý thức, tư
tưởng con người”.
Theo hai tác giả khác là Hoàng Lân và Văn Nhân trong cuốn “Giáo
trình giảng dạy âm nhạc” cho rằng: “Âm nhạc là loại hình nghệ thuật biểu
hiện, sử dụng âm thanh để diễn tả tư tưởng, tình cảm, đời sống và cảnh vật.
Những âm thanh này được tổ chức một cách chặt chẽ thành hệ thống có tính
chất logic tác động đến tình cảm con người, đem lại cho con người một cảm
giác, một quan niệm triết học.”
Nhạc sĩ – Giảng viên âm nhạc Trần Hữu ý trong cuốn “ Lí thuyết âm
nhạc” cũng đề cập đến nguồn gốc của âm nhạc: “Âm nhạc bắt nguồn từ đâu?
Từ cuộc sống và lao động sản xuất của con người. Để tập trung phát huy sức

mạnh tập thể trong lao động, các câu hò có tiết tấu đã xuất hiện ( dô tá dô taấy dô khoan ta dô khoan) hay như trong lao động sản xuất cực khổ cả ngày,
đếm đến tập trung bên đống lửa nhảy múa, ca hát nhằm quên đi những chuyện
đời thường gian truân cực khổ bằng sự bày tỏ những ước muốn, những tình
cảm của mình hướng tới những gì tốt đẹp hơn ở tương lai. Âm nhạc làm cho
họ gần nhau hơn, đoàn kết hơn.” Đồng thời, tác giả còn có khái niệm: “ Âm
nhạc là một bô môn phối hợp âm thanh, tiết tấu để diễn tả tư tưởng, tình cảm
của đời sống con người, mô tả phản ánh cuộc sống bằng các hình tượng âm
thanh, điều đó có nghĩa là phương tiên biểu đạt ngôn ngữ của âm nhạc trước
hết là âm thanh. Nói cách khác, âm nhạc là loại hình nghệ thuật lấy âm thanh
làm phương tiện biểu hiện.”
Có rất nhiều quan điểm về nguồn gốc và khái niệm âm nhạc của nhiểu
nhà nghiên cứu được đưa ra. Mỗi nhà nghiên cứu, nhà lí luận đều có góc nhìn
và ý kiến riếng. Tuy nhiện, trong mỗi quan điểm đó lại có sự thống nhất với

8


nhau. Các tác gỉa đều đồng tình khi cho rằng âm nhạc đã có từ thời xa xưa và
nó gắn chặt với mọi hoạt động của con người từ trong lao động hay trong sản
xuất. Âm nhạc là nghệ thuật lấy âm thanh làm chất liệu và phương tiện để
biểu hiện tư tưởng, tình cảm. Âm nhạc có sức mạnh vô cùng to lớn trong việc
thể hiện và tác động một cách sâu sắc thế giới nội tâm của con người. Do đó,
âm nhạc là món ăn tinh thần không thể thiếu, giúp hình thành thị hiếu thẫm
mĩ và phát triển nhân cách toàn diện con người mới. Vậy, có thể kết luận một
khái niệm mang tính khái quát, phổ biến rằng: Âm nhạc là nghệ thuật dùng
những hình thức âm thanh để diễn tả tư tưởng, tình cảm của con người.
1.1.1.2. Vai trò của môn âm nhạc trong nhà trường tiểu học
Âm nhạc là một trong chín môn học ở nhà trường tiểu học. Âm nhạc
cùng với các môn học khác góp phần định hướng cho sự hình thành những cơ
sở ban đầu của nhân cách người công dân, người lao động tương lai của học

sinh. Môn học âm nhạc góp phần làm cho nội dung giáo dục ở nhà trường có
tính toàn diện, làm thăng bằng, hài hòa các hoạt động học tập ở nhà trường.
Mục tiêu giáo dục ở nhà trường tiểu học là “ Nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo dức,
trí tuệ, thể chất, thẫm mĩ.” (Điều 27 Luật giáo dục, 2005). Việc dạy và học âm
nhạc ở nhà trường có vái trò quan trọng đáp ứng nhu cầu đào tạo con người
toàn diện về Đức – Trí – Thể - Mĩ .
a. Giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng của quá trình sư phạm,
đặc biệt đối với học sinh tiểu học. Trong dạy và học âm nhạc, vai trò giáo dục
đạo đức cho học sinh đươc thể hiện rõ. Mỗi bản nhạc hay mỗi câu chuyện
luôn chứa đựng những cảm xúc, tình cảm, tư tưởng mà tác giả muốn gửi đến.
Những bài học giáo dục đạo đức trong âm nhạc được thể hiện dưới lớp ca từ
phong phú mà gần gũi, dễ tác động tới tâm hồn các em hơn. Nhờ đó, âm nhạc
đem lại cho các em những xúc cảm có thật, hình thành những hành vi cao

9


đẹp, loại bỏ những thói hư tật xấu. Như vậy, âm nhạc có khả năng đánh thức
thế giới tình cảm trong tâm hồn mỗi con người. Thông qua đó, học sinh tự
hình thành ý thức đạo đức cho mình một cách đúng đắn. Đôi khi những tác
động của âm nhạc còn đem lại hiệu quả hơn cả những lời khuyên răng, dạy dỗ
nghiêm khắc. Qua con đường âm nhạc, học sinh được khơi gợi từ những tình
cảm trong sáng, tình yêu thương con người, long khát khao về một cuộc sống
tốt đẹp. Điều này được thể hiện qua những thái độ, hành động thể hiện tình
yêu với quê hương, tổ quốc, long biết ơn cha mẹ, tình cảm thầy trò, bạn bè…
Chẳng hạn, qua những bài hát ca ngợi thiên nhiên, đất nước, con người hay
những bài ca truyền thống như “ Hoa lá mùa xuân” (Hoàng Hà), “Bàn tay
mẹ” (Bùi Đình Thảo), “Lớp chúng ta đoàn kết” (Mộng Lân), “Quốc ca Việt

Nam” (Văn Cao)… Các em có thể làm những công việc nhỏ để bảo vệ môi
trường như trồng cây, giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, giúp đỡ , chăm sóc ông
bà, cha mẹ… Học sinh có thái độ ghi nhớ những công lao hi sinh của các anh
hùng, tự hào về ý chí quật cường của dân tộc ta trong các cuộc chiến tranh
chống giặc ngoại xâm. Từ đó, các em thêm yêu quý cuộc sống tươi đẹp hôm
nay, ra sức học tập tốt để góp phần xây dựng nước nhà. Bên cạnh đó, khi
được học những bài hát dân ca nước ngoài cũng như những tác phẩm của các
nhạc sĩ nổi tiếng giuos hình thành trong các em tình yêu thương, đoàn kết,
hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới, có thái độ khiêm tốn, hòa nhập trong
cộng đồng hơn. Một số bài hát như: “Thiếu nhi thế giới kiên hoan” (Lưu Hữu
Phước), “Ước mơ” (Nhạc Trung Quốc, lời việt: An Hòa)… Ngoài ra, các bài
dân ca của các dân tộc Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc như: “ Quê
hương tươi đẹp” (Dân ca Nùng, Đặc lời: Anh Hoàng), “ Lí cây xanh” (Dân ca
Nam Bộ)… Giáo dục học sinh có ý thức giữ gìn, long tự hào về văn hóa dân
tộc, đem lại sự yêu thích, hứng thú tìm hiểu nền âm nhạc của nước nhà.
Tiết học âm nhạc có ảnh hưởng tích cực góp phần hình thành những
hành vi, thái độ ứng xử cho người học. Những hoạt động âm nhạc còn giúp

10


các em thiếu tự tin trở nên mạnh dạn hơn, hòa đồng hơn. Có thể nói, âm nhạc
định hướng các em trở thành một con người có nhân cách vơí những nét
phẩm chất đạo đức vững chắc.
b. Giáo dục thẩm mĩ
Âm nhạc mang đặc thù riêng chứa những cái hay, cái đẹp của âm thanh
cùng ngôn ngữ biểu hiện của nó. Đó là sự hoàn chỉnh về đường nét,tiết tấu,sự
hài hòa về màu sắc âm thanh, gắn liền với màu sắc của cuộc sống chính nhờ
những cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ biểu hiện - âm thanh, âm nhạc đã lôi cuốn
con người, đưa người nghe đến những cảm xúc tinh tế và cao quý. Qua đó làm

con người trở nên thích thú, sảng khoái, trí tuệ sáng suốt, chấp cánh cho tâm
hồn được bay bổng và con người trở nên cao thượng, tốt đẹp hơn. Cho nên,giáo
dục cái hay, cái đẹp là nội dung trọng tâm của giáo dục thẩm mĩ.
Nhà giáo dục Nga Xu-khom-Lin-xki đã từng nói: “Thể dục uốn nắn
thân thể còn âm nhạc uốn nắn tâm hồn con người”. Âm nhạc tác đọng từ cảm
xúc đến tình cảm,tâm hồn các em.Từ đó, học sinh có nhận thức phân biệt
giữa cái tốt, cái xấu, biết tiếp thu lĩnh hội cái tốt, hình thành thị hiếu thẩm mĩ.
Âm nhạc vừa là phương tiện, vừa là nơi cung cấp nội dung giáo dục quan
trọng và hiệu quả. Khi tiếp xúc với âm nhạc trong nhà trường, các em được
định hướng trong cách cảm thụ và cách biểu cảm sao cho phù hợp với tác
phẩm âm nhạc.
Chẳng hạn, khi học sinh học hát bài : “ Em yêu trường em” (Hoàng
Vân- Lớp 3). Với gia điệu vui tươi, nhịp nhàng, lời nhạc trong sáng, gần gũi
những chất chứa nhiều xúc cảm. Như tựa đề, bài hát thể hiện tình yêu trường
da diết, niềm vui và niềm tự hào khi được đến trường mỗi ngày của lớp lớp
học sinh. Mái trường là nơi lưu dấu biết bao kỉ niệm, tình yêu thương của
thầy cô, tình thân ái của bạn bè. Chính điều đó đã thôi thúc trong lòng các
em, trở thành động lực, khuyến khích các em chăm ngoan học tập, làm nhiều
điều tốt đẹp hơn.

11


Như vậy, giáo dục thẫm mĩ thông qua bộ môn âm nhạc cần phải đảm
bảo sự phát triển toàn vẹn nhân cách người học. Qua việc tìm hiểu và cảm
thụ tác phẩm âm nhạc, học sinh được giáo dục tình cảm, hình thành các ý thức
thẩm mĩ đúng đắn. Dó đó, nhiệm vụ cần thiết của dạy học âm nhạc ở nhà
trường là làm sao có thể giữ gìn và phát triển tình cảm thẫm mĩ đó lên.
c. Phát triển trí tuệ
Khi tiến hành công tác giáo dục văn hóa âm nhạc, đòi hỏi học sinh phải

vận dụng tư duy, trí tuệ, theo dõi và nhận biết về âm nhạc. Khi được giáo dục
bộ môn âm nhạc, học sinh được xây dựng một tư duy khá trừu tượng, đó là
nhận biết các cấu trúc âm nhạc.
Cảm thụ âm nhạc gắn liền với phát triển trí tuệ, đòi hỏi học sinh phải có
sự nhạy bén, nắm bắt được đường nét âm nhạc. Học sinh lắng nghe, quan sát,
xác định ý nghĩa biểu cảm của âm thanh, tính chất hình tượng của âm nhạc.
Học hát là nội dung quan trọng trong chương trình âm nhạc ở Tiểu học.
Khi học nội dung này, học sinh không chỉ là hát thuộc, hát đúng giai điệu và
lời ca mà phải thể hiện được sắc thái cảm xúc mà tác giả gửi gắm. Trong quá
trình tiếp cận lời ca, học sinh được vẽ ra trong trí óc những mảng màu sắc
tươi sáng về quê hương, đất nước, trí tưởng tượng, tư duy của học sinh ngày
càng được phát triển.
Hơn thế nữa, học sinh được khám phá, nhận thức những hiện tượng, sự
vật của đời sống xã hội, vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người cũng như
những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên
được phản ánh trong các bài hát. Từ đó khơi gợi ý thức tích cực học hỏi, làm
mở mang, phong phú thêm về vốn hiểu biết của học sinh. Chẳng hạn, khi học
bài “Lí cây xanh” (Dân ca Nam Bộ) các em được hiểu thêm về nguồn gốc dân
ca, bên cạnh đó là vẻ đẹp yên bình, trù phú của vùng đất Nam Bộ, những nét
tinh thần đáng quý của người dân nơi đây. Từ đó, các em thêm yêu quý, tự
hào về đất nước, con người và văn hóa dân tộc mình hơn.

12


d. Phát triển thể chất
Tác dụng của âm nhạc có một phạm vi ảnh hưởng khá rộng lớn, nó chi
phối mọi sự sống trên Trái Đất, vì thế âm nhạc cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến phát triển cơ thể con người.
Trước hết âm nhạc được xem là bộ môn hữu hiệu phát triển thính giác.

Trong quá trình học sinh được nghe bài hát, tập đọc nhạc, học sinh được rèn
luyện khả năng chú ý đến âm thanh nhằm lĩnh hội được bản nhạc từ lời ca
đến hạc điệu, tiết tấu, nhịp độ… Các cơ quan phát thanh dần làm cho giọng
hát của các em ngày càng ổn định, mở rộng về âm vực, âm lượng, tạo điều
kiện sự phối hợp chặt chẽ giữa nghe và hát.
Trong quá trình ca hát, các hình thức vận động minh họa bài hát giúp
học sinh nâng cao trí tưởng tượng, dễ thuộc lời ca đồng thời việc di chuyển,
nhảy múa tạo điều kiện phát triển thể chất hài hòa, rèn luyện tính dẻo dai,
khéo léo trong các cử động của cơ thể.
Như vậy, môn học âm nhạc trong nhà trường Tiểu học có vai trò quan
trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Âm nhạc không
chỉ giúp thỏa mãn nhu cầu tinh thần mà còn là nền tảng, là động lực lôi cuốn
các em vào các hoạt động học tập. Trên cơ sở đó, âm nhạc góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục chung ở nhà trường tiểu học. Có thể nói tóm lại vai trò của
giáo dục âm nhạc bằng danh ngôn nổi tiếng của nhà sư phạm lỗi lạc người
Nga Xu – Khôm – Lin – Xki: “Giáo dục Âm nhạc không phải là sáng tạo ra
một nhạc sĩ, mà trước hết là giáo dục cho con người được hoàn thiện”.
1.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của môn Âm nhạc
1.1.2.1. Mục tiêu dạy học môn Âm nhạc lớp 1
Trong nhà trường Tiểu học, môn học âm nhạc nhằm “phát triển năng
lực cảm thụ âm nhạc cho học sinh đồng thời góp phần giáo dục tư tưởng tình
cảm cho các em, tích cực góp phần đào tạo có chất lượng những người lao

13


động mới phát triển toàn diện.” Mục tiêu của môn học âm nhạc được chia làm
hai giai đoạn: Giai đoạn 1 (lớp 1-2-3) và giai đoạn 2 (lớp 4-5).
Giai đoạn 1
Ở lớp 1-2-3, phân môn âm nhạc chủ yếu là Tập bài hát. Qua học hát,

học sinh được cung cấp một số kiến thức âm nhạc cơ bản như cao độ, trường
độ, tiết tấu…. Rèn luyện một số kĩ năng đơn giản như: Hát đúng nhạc, giai
điệu và bước đầu biết cách biểu diễn ca khúc. Đồng thời, phân môn Phát triển
khả năng nghe nhạc nhằm mục tiêu giáo dục thẫm mỹ bằng sự cảm nhận cái
hay, cái đẹp. Ở giai đoạn này chưa đề cập đến vấn đề Nhạc lí và Tập đọc
nhạc, chủ yếu thông qua một số hoạt động vui học để tiếp xúc, làm quen với
một vài kí hiệu âm nhạc thông thường như: Tên nốt, hình nốt, vị trí nốt…
Ngoài ra tập nhận biết một số loại nhịp thông dụng như: 2 phách – 3 phách…
Riêng ở lớp 1, dạy âm nhạc cho các em chủ yếu là dạy hát, thông qua
dạy hát để giáo dục âm nhạc, cụ thể:
- Kiến thức:
+ GIúp cho các em hiểu và phân biệt được những âm thanh cao, thấp,
dài, ngắn với tốc độ khác nhau
+ Phát triển năng lực nghe nhạc và năng lực cảm thụ âm nhạc thông
qua tập hát và các hoạt động kết hợp với âm nhạc.
- Kĩ năng:
+ Rèn cho các em một số kĩ năng như hát đúng gia điệu, tiết tấu và
bước đầu biết thể hiện diễn cảm những bài hát phù hợp với lứa tuổi
+ Tập cho các em quen hát tập thể , hát đồng đều và hòa giọng
- Thái độ:
+ Thông qua các bài học cụ thể, giáo dục cho các em những tình cảm
tỏng sáng lành mạnh, làm cho đời sống tinh thần các em thêm phong phú,
giúp các em phát triển toàn diện hơn.

14


1.1.2.2. Nhiệm vụ dạy học môn Âm nhạc lớp 1
Nhiệm vụ dạy học âm nhạc cũng như nhiệm vụ dạy các môn khác ở
Tiểu học, trước hết phải đảm bảo góp phần thực hiện một cách có chất lượng

và hiệu quả mục tiêu giáo dục tiểu học. Thông qua môn học Âm nhạc các em
được hoạt động, được nhận thức, được cảm thụ âm nhạc… và trang bị một số
kiến thức về văn hóa âm nhạc phổ thông, góp phần cùng các môn học khác
giáo dục nhân cách cho học sinh.
Để thực hiện được mục tiêu này, nhiệm vụ dạy hát ở tiểu học được xác
định là phải làm sao cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của hình tượng
âm thanh, nhịp điệu trong bài hát, đồng thời phân biệt được sự thay đổi của
âm thanh về độ cao thấp, mạnh nhẹ, sắc thái biểu cảm… Bên cạnh đó, còn
trang bị cho các em một số cách thức, kĩ năng cơ bản về ca hát phổ thông
như: Hát đều, hát chính xác, hát có sắc thái, truyền cảm và rõ lời. Ngoài ra,
dạy hát có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu âm nhạc cho học sinh
Từ nhiệm vụ dạy hát ở tiểu học, chúng ta có thể cụ thể hóa nhiệm vụ
dạy học môn Âm nhạc lớp 1 như sau:
a. Phát triển sự ham thích, say mê đối với âm nhạc, làm cho học sinh
hưởng ứng một cách tích cực, mang lại niềm vui, hứng thú học tập.
Trong dạy học, tạo hứng thú, sự ham thích đối với môn học cho học
sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Đặc biệt, đối với học sinh lớp 1, lần đầu
tiên cắp sách đến trường, tham gia các hoạt động mà trong 6 năm đầu đời các
em chưa hề biết. Vì vậy, giáo viên có nhiệm vụ đưa đến cho trẻ những tri thức
mới, kích thích hứng thú, tạo động cơ, nhu cầu học tập.
b. Phát triển thính giác nhạy bén ở học sinh, tức là phát triển khả năng
tri giác âm thanh, làm cho các em cách biết hát đúng, hát hay, khơi dậy những
tình cảm trong sáng và nhận thức đúng đắn qua mỗi bài hát.
c. Phát triển những kĩ năng và thói quen ca hát phổ thông, hòa mình
trong mọi hoạt động tập thể , mạnh dạn thể hiện mình nhằm phát triển bản
thân ngày càng được hoàn thiện hơn.

15



d. Phát triển tình cảm, thẫm mỹ, thị hiếu nghệ thuật lành mạnh, trong
sáng, cơ sở hình thành nhân cách con người mới.
Ca hát đưa các em đến với những cảm xúc tràn đầy. Điều quan trọng là
phải tác động đến tâm hồn, để các em nắm bắt, cảm thụ và biểu hiện một cách
phù hợp. Đây được coi là nhiệm vụ đặc trưng cơ bản nhất của việc dạy hát ở
nhà trường.
1.1.3. Đặc điểm tâm – sinh lí của học sinh lớp 1
Lớp 1 là giai đoạn đầu cử sự chuyển tiếp từ trẻ mẫu giáo trở thành học
sinh phổ thông. Đây là bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Ở lứa tuổi
này, học sinh có những đặc điểm kết hợp của một đứa trẻ và một học sinh. Gia
nhập cuộc sống nhà trường Tiểu học, các em phải tiến hành hoạt động học một
cách nghiêm chỉnh, có kĩ cương. Khi trở thành học sinh, hoạt động trò chơi mất
dần vị trí hàng đầu, thay vào đó là hoạt động học tập. Quá trình chuyển đổi này
dẫn đến những biến đổi cơ bản về mặt tâm sinh lí của học sinh.
Việc tổ chức hoạt động học của các em được tiến hành bằng nhiều
phương pháp. Trên cơ sở nhận thức những biến đổi về đặc điểm tâm sinh lí để
giáo viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy nhằm giúp học sinh lĩnh hội tri thức
phù hợp với đặc điểm nhận thức
1.1.3.1. Về mặt tâm lí
a. Tri giác
Ở các lớp đầu bậc Tiểu học, tri giác của các em thường gắn với hành
động, hoạt động thực tiễn thì các em mới tri giác được. Các em dễ tri giác sự
vật, những dấu hiệu, những đặc điểm nào trực tiếp gây cho các em những xúc
cảm. Tính hưng phấn liên quan đến cảm xúc cũng là đặc điểm quan trọng của
các em học sinh Tiểu học trong vấn đề dạy học hát. Những cái trực quan, rực
rỡ, sinh động được các em tri giác tốt hơn, dễ gây ấn tượng tích cực. Do đó,
trong dạy học nên vận dụng nguyên tắc: “ Trăm nghe không bằng một thấy,
trăm thấy không bằng một làm”

16



Trong dạy học âm nhạc, điều này được thể hiện qua việc giới thiệu
tranh ảnh, băng hình, mở rộng thông tin một cách lí thú bằng câu chuyện kể…
Giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, định hướng khả năng quan sát, lắng nghe,
tổ chức hoạt động để các em tri giác một đối tượng nào đó trên nhiều mặt.
Việc tri giác bằng cảm xúc dưới tác động của quá trình ca hát là tiền đề thuận
lợi để hình thành các năng lực ca hát, tình cảm thẫm mĩ, khát vọng vượt qua
khó khắn, tạo nên vẻ đẹp trong nghệ thuật cũng như trong cuộc sống.
b. Chú ý
Trong lứa tuổi học sinh Tiểu học, chú ý không chủ định được phát
triển. Những gì mang tính mới mẻ, bất ngờ, rực rỡ dễ dàng lôi cuốn sự chú ý
của các em. Chú ý càng trở nên mạnh mẽ khi giao viên sử dụng đồ dùng dạy
học đẹp, mới lạ, ít gặp, gợi cho các em những cảm xúc tích cực. Vì vậy, việc
vận dụng đồ dùng dạy học như tranh ảnh, hình vẽ, biểu đồ, vật thật,… là điều
kiện quan trọng để lôi cuốn sự tập trung, chú ý của học sinh trong giờ học hơn
c. Trí nhớ
Ở lứa tuổi đầu cấp, các em dễ ghi nhớ những gì mang tính trực quan –
hình tượng. Các em sẽ ghi nhớ tư liệu, thông tin nhanh hơn, lâu hơn nếu được
giải thích, mô tả một cách hấp dẫn, thú vị. Trong quá trình dạy học, nếu giáo
viên biết cách tác động đến mặt cảm xúc bằng cách cho học sinh nghe một bài
hát hay, kể một câu chuyện cảm động hay xem một bức tranh đẹp sẽ tạo tâm
thế tốt, giúp học sinh tập trung, dễ ghi nhớ bài học hơn.
d. Tưởng tượng
Tưởng tượng là quá trình nhận thức quan trọng bởi vì nhờ có tưởng
tượng học sinh được thực hiện hoạt động học thuận tiện hơn.
Tưởng tượng của học sinh Tiểu học đã phát triển và phong phú hơn so
với trẻ mầm non. Học sinh tưởng tượng thường gắn liền với những hình
tượng mà các em đã tri giác qua tranh ảnh, hình vẽ,… Do đó, trong dạy học
giáo viên nên sử dụng những đồ dùng dạy học sinh động, hấp dẫn.


17


e. Tư duy
Tư duy trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức.
Qua quá trình học tập, các em dần chuyển từ nhận thức bên ngoài đến các
thuộc tính, bản chất bên trong. Những thao tác tư duy như khái quát, so sánh,
phân tích, tổng hợp… được hình thành, dần ổn định và phát triển. Do đó, quá
trình đổi mới phương pháp và nội dung dạy học có ý nghĩa quan trọng trong
việc tác động đến nhận thức, tư duy của học sinh.
Tóm lại, ở lứa tuổi này các em ham học hỏi, khát vọng nhận thức tất cả
những cái mới chưa biết, chưa cảm nhận vào bất cứ lúc nào và ở đâu. Yêu cầu
quan trọng là giáo viên phải nắm bắt được những nhu cầu cũng như đặc điểm
tâm lí của người học để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
1.1.3.2. Về mặt sinh lí
Cơ thể của trẻ là nền tảng vật chất trí tuệ và tâm hồn. Nền tảng có vững
thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt. “ Thân thể khỏe mạnh
thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại “Tinh thần sáng suốt thì cơ
thể mới có điều kiện để phát triền”.
Khi trở thành học sinh, học tập là bổn phận hàng đầu và quan trọng
nhất. Nó không chỉ đòi hỏi sự căng thẳng về trí tuệ mà còn đòi hòi trẻ sức
chịu đựng về mặt thể lực. So với lứa tuổi mẫu giáo, các em học sinh lớp 1 có
những điểm nổi bật về thể chất như: Chiều cao, trọng lượng cơ thể. Ở lứa tuổi
này, tay và cơ thể các em trở nên mềm dẻo và linh hoạt hơn. Điều này rất
thuận lợi cho việc ca hát, luyện tập nhạc cụ, múa, vận động theo nhạc,… Tuy
nhiên, nếu không được quan tâm giáo dục đầy đủ cũng có thể sẽ dẫn đến
những hậu quả đáng tiếc. Vì thế, trong ca hát giáo viên cần yêu cầu chú trọng
giáo dục học sinh về tư thế khi đứng hoặc ngồi hát, khẩu hình, động tác hít
thở vận động… Về mặt thể chất, lứa tuổi các em có đôi tai phát triển khá

thính. Nhờ vậy, các em có thể nghe hát rõ, phân biệt được âm thanh cao thấp,
độ vang mạnh nhẹ…

18


Đối với bộ máy hô hấp, phát thanh, ở lứa tuổi này phát triển còn chậm.
Dây thanh (thanh đới) các em nói chung còn non nớt, mảnh, nhỏ. Dung lượng và
không khí chứa trong phổi các em không lớn. Sự điều tiết hơi thở mà trong ca
hát vẫn thường gọi là khống chế ghìm hơi, các em không thể dễ dàng làm được.
Cơ bắp hô hấp của các em còn chưa linh hoạt. Việc điều khiển để cơ
bắp ở vùng thắt lưng và hoành cách mô dãn ra nhanh chóng để nhận hơi vào,
sau đó nén hơi giữ lại, phân bố đúng mất khi hát là một yêu cầu khó khắn. Ở
lứa tuổi này, thanh đới chỉ rung ở rìa bên ngoài, đến lớp 4,5 các em có giọng
hát trầm thì thấy có thêm sự rung ở chiều dài thanh đới. Với đặc điểm này, ca
hát đúng sẽ có tác dụng tích cực cho sự biến đổi cơ quan này. Không ca hát và
hát không đồng đều là có hại.
Sự phát triển cơ tim, các động mạch có đường kính lớn hơn trước đã làm
cho tim có khả năng chịu đựng khá, não nhận được đầy máu, năng lượng hoạt
động của não cùng với trọng lượng của nó tăng lên rõ rệt sau 7 tuổi, cho phép
các em học sinh Tiểu học có sự chú ý, trí nhớ, trí tưởng tượng và tư duy tốt hơn.
Quá trình ức chế so với trẻ mẫu giáo trở nên rõ rệt. Tuy nhiên, tính
hưng phấn vẫn còn rất lớn. Đó là cơ sở nảy sinh tính hiếu động mà ca hát và
việc tổ chức một cách chặt chẽ và hợp lí quá trình giáo dục âm nhạc của
người giáo viên là điều kiện để hình thành mối quan hệ qua lại bình thường
của quá trình hưng phấn và ức chế.
Quả thật, việc dạy học âm nhạc trong nhà trường đã góp phần giáo
dục toàn diện, giúp trẻ phát triển đồng đều từ thể chất, trí tuệ cho đến nhân
cách. Điều này là phù hợp với mục tiêu dạy học hiện đại, lấy học sinh làm
trung tâm.

1.1.4. Nội dung chương trình dạy học môn Âm nhạc ở lớp 1
Chương trình Âm nhạc lớp 1 quy định dạy học những nội dung sau đây:
a. Tập hát
Tập hát đúng tư thế khi đứng cũng như khi ngồi
- Tập phát âm đúng từ ngữ, tiếng hát được tự nhiên, nhẹ nhàng.

19


- Biết vỗ tay (hoặc gõ) để đệm theo phách hoặc đệm theo nhịp khi hát.
- Tập hát đồng đều, giọng hát của cá nhân hòa hợp với giọng hát tập thể.
Số lượng các tác phẩm được sử dụng để dạy cho học sinh lớp 1 (bao
gồm các bài hát chính thức và bài hát bổ sung, thay thế) là 16 bài:




Danh mục các bài hát chính khóa:
- Quê hương tươi đẹp – Dân ca Nùng – Đặc lời: Anh Hoàng
- Mời bạn vui múa ca – Nhạc và lời: Phạm Tuyên
- Tìm bạn thân – Nhạc và lời: Việt Anh
- Lí cây xanh – Dân ca Nam Bộ.
- Đàn gà con – Nhạc: Phi-lip-pen-co – Lời: Việt Anh
- Sắp đến tết rồi – Nhạc và lời: Hoàng Vân
- Bầu trời xanh – Nhạc và lời: Nguyễn văn Quỳ
- Tập tầm vông – Nhạc: Lê Hữu Lộc – Lời: Theo Đồng dao
- Quả - Nhạc và lời: Xanh Xanh
- Hòa bình cho bé – Nhạc và lời: Huy Trân
- Đi tới trường – Nhạc: Đức Bằng – lời: Theo học vần lớp 1(cũ)
- Năm ngón tay ngoan – Nhạc và lời: Trần Văn Thụ

Danh mục các bài hát dùng để bổ sung, thay thế hoặc dùng cho ngoại khóa:
- Nắng sớm – Nhạc và lời: Hàn Ngọc Bích
- Quả thị - Nhạc và lời: Lê Minh Châu
- Đường và chân – Nhạc: Hoàng Long – Lời: Thơ Xuân Tửu
- Cái bống – Nhạc: Phan Trần Bảng – Lời: Ca dao cổ
- Tiếng chào theo em – Nhạc và lời: Hà Hải
- Con ếch ộp – Nhạc: Hoàng Lân – Lời: theo học vần lớp 1 (cũ)
b. Phát triển khả năng âm nhạc
- Nghe một số bài hát ( Quốc ca Việt Nam, 2-3 bài dân ca và bài hát

thiếu nhi chọn lọc)
- Tập phân biệt âm thanh cao thấp, dài ngắn với tốc độ khác nhau. Tập
nhận ra hướng đi của chuỗi âm thanh: Đi lên, đi xuống, đi ngang.
- Tập một vài nhạc cụ gõ với các tiết tấu đơn giản. Dùng nhạc cụ gõ
đệm theo bài hát
- Nghe kể chuyện về âm nhạc với đời sống
1.1.5. Đặc điểm nội dung của các bài hát trong môn Âm nhạc lớp 1
Bài hát thiếu nhi trong nhà trường tiểu học là một phương tiện giáo dục
đặc biệt. Nó không chỉ đơn thuần là những bản nhạc học thuộc mà cốt lõi, ẩn
chứa trong đó chính là cái hay, cái đẹp về nội dung mà các em cần cảm thụ,

20


lĩnh hội. Vì vậy, bài hát phải cung cấp nội dung giáo dục có hiệu quả, đa dạng
và phong phú. Các bài hát được lựa chọn trong chương trình dĩ nhiên là
những bài hát hay, có giá trị giáo dục nhiều mặt. Ngoài ra, nó phải vừa đáp
ứng được mục đích, nội dung giáo dục của môn học vừa phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lí của lứa tuổi học sinh
Chương trình âm nhạc lớp 1 bao gồm 16 bài kể cả các bài hát chính

thức và bài hát bổ sung, thay thế. Các bài tập hát cho học sinh lớp 1 dều mang
những đề tài gần gũi, trong sáng, đầy nhân văn, phù hợp với nhận thức của
các em. Với nhiều thể loại từ dân ca đến nhạc mới trong và ngoài nước tất cả
đều chứa đựng nội dung giáo dục sâu sắc. Đó là tình yêu thiên nhiên, quê
hương, đất nước như trong lời bài hát “ Quê hương tươi đẹp”: “Ngàn lời ca
vui mừng chào đón. Thiết tha tình quê hương” hay trong bài hát “Bầu trời
xanh”: “Em yêu bầu trời xanh xanh, yêu đám mây hồng…”. Bên cạnh đó, tình
yêu thương đoàn kết, than ái bè bạn cũng được thực hiện trong các bài hát
như “Tìm bạn thân”, “Tập tầm vông”, tình yêu quý con vật (Đàn gà con, cái
bống…). Ngoài ra bài hát còn gắn liền với những truyền thuyết quen thuộc
với tuổi thơ các em như Tấm Cám,..
Để có được một bản nhạc hay, trước hết cần phải tác động đến tình
cảm, cảm xúc làm cho người nghe cảm thấy thích thú. Các bài hất trong
chương trình âm nhạc lớp 1 là những bài hát hay mang nhiều ý nghĩa và được
các em nhỏ rấ yêu thích. Nhờ đó, mục tiêu giáo dục được thực hiện dễ dàng
khi các em được tiếp nhận một cách nhẹ nhàng thông qua con đường âm nhạc
1.1.6. Hứng thú
1.1.6.1. Khái niệm
Những nghiên cứu về hứng thú xuất hiện tương đối sớm, từ những năm
nửa đầu thế kỷ XX, khái niệm hứng thú đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu.
* Quan điểm hứng thú của tâm lý học Phương Tây

21


Nhà tâm lý học I.PH. Shecbac cho rằng: “Hứng thú là thuộc tính bẩm
sinh vốn có của con người, nó được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm của
con người vào một đối tượng nào đó trong thế giới khách quan”
Annoi, nhà tâm lý học người Mỹ lại cho rằng: “Hứng thú là một sự

sáng tạo của tinh thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào”
Còn Harlette Buhler thì: “Hứng thú là một hiện tượng phức hợp cho đến
nay vẫn chưa được xác định, hứng thú là một từ, không những chỉ toàn bộ những
hành động khác nhau mà hứng thú còn thể hiện cấu trúc bao gồm các nhu cầu”
Tác giả K.Strong và W.James cho rằng: “Hứng thú là một trường hợp
riêng của thiên hướng biểu hiện trong xu thế hoạt động của con người như là
một nét tính cách”
Tác giả E.Super lại cho hứng thú không phải là thiên hướng không phải
là nét tính cách của cá nhân nó là một cái gì khác, riêng rẽ với thiên hướng,
riêng rẽ với tính cách, riêng rẽ với cảm xúc. Tuy nhiên ông lại không đưa ra
một quan niệm rõ ràng về hứng thú. Tác giả Klapalet nghiên cứu thực nghiệm
và đi đến kết luận “hứng thú là dấu hiệu của nhu cầu bản năng khát vọng đòi
hỏi cần được thỏa mãn của cá nhân”
Nhìn chung, các nhà tâm lý học đề cập ở trên lại phủ nhận vai trò của
giáo dục và tính tích cực của cá nhân trong sự hình thành hứng thú.
* Quan điểm hứng thú của Tâm lý học Macxit
Tâm lý học Macxit xem xét hứng thú là kết quả của sự hình thành và
phát triển nhân cách cá nhân, nó phản ánh một cách khách quan thái độ đang
tồn tại ở con người. Khái niệm hứng thú được xét dưới nhiều góc độ khác
nhau. Hứng thú xét theo khía cạnh nhận thức: Trong đó có V.N Miasixep,
V.G.Ivanôp, A.GAckhipop coi “Hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của cá
nhân với những đối tượng trong hiện thực khách quan”. Tác giả A.A
Liublinxcaia lại khẳng định “Hứng thú là thái độ nhận thức của con người đối

22


với xung quanh, đối với một mặt nào đó của nó, đối với một lĩnh vực nhất
định mà trong đó con người muốn đi sâu hơn”
Còn P.A.Rudich cho rằng “Hứng thú là sự hiểu biết của xu hướng đặc

biệt trong sự nhận thức thế giới khách quan, là thiên hướng tương đối ổn định
với một loại hoạt động nhất định”
* Hứng thú xét theo khía cạnh gắn với nhu cầu
Tác giả Sbinle cho rằng “Hứng thú là kết cấu bao gồm nhiều nhu cầu”.
Quan niệm này đồng nhất hứng thú với nhu cầu. Thực chất hứng thú có quan
hệ mật thiết với nhu cầu của từng cá nhân, nhưng nó không phải là chính bản
thân nhu cầu. Bởi nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu cần được thỏa mãn, là cái
con người ta cần, nhưng không phải mọi cái cần thiết đều đem lại sự hứng
thú. Quan điểm này đã bó hẹp khái niệm hứng thú chỉ trong phạm vi với nhu
cầu. Các nhà tâm lý học Macxit đã chỉ ra tính chất phức tạp của hứng thú,
xem xét hứng thú trong mối tương quan với các thuộc tính khác của nhân
cách (nhu cầu, xúc cảm, ý chí, trí tuệ …).
*Quan điểm hứng thú của các nhà tâm lý học trong nước Phạm Minh
Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy cho rằng: Khi ta có hứng thú về một cái
gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với
cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối với nó, do
đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó, tạo ra tâm lý
khát khao tiếp cận, đi sâu vào nó.
Trong khi đó, Nguyễn Quang Uẩn đã đưa ra một khái niệm tương đối
thống nhất “Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào
đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm
cho cá nhân trong quá trình hoạt động” .Khái niệm này vừa nêu được bản chất
của hứng thú, vừa gắn hứng thú với hoạt động của cá nhân.
Từ những quan niệm hứng thú của các tác giả, có thể phát biểu khái
niệm hứng thú như sau: “Hứng thú là thái độ nhận thức đặc biệt đối với đối

23


tượng nào đó vừa có giá trị vừa có sức hấp dẫn kích thích con người hành

động” Như vậy, hứng thú của cá nhân được hình thành trong hoạt động và sau
khi đã được hình thành chính nó quay trở lại thúc đẩy cá nhân hoạt động. Vì
lý do trên, hứng thú tạo nên ở cá nhân khát vọng tiếp cận và đi sâu vào đối
tượng gây ra nó. Khát vọng này được biểu hiện ở chỗ cá nhân tập trung chú ý
cao độ vào cái làm cho mình hứng thú, hướng dẫn và điều chỉnh các quá trình
tâm lý theo một hướng xác định. Do đó, tích cực hóa hoạt động của con người
theo hướng phù hợp với hứng thú nên dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn
người ta vẫn thấy thoải mái và thu được hiệu quả cao.
1.1.6.2. Các loại hứng thú
Có nhiều cách phân loại hứng thú:
Căn cứ vào hiệu quả của hứng thú: Chia ra làm 2 loại:
- Hứng thú thụ động: Là loại hứng thú tĩnh quan dừng lại ở hứng thú
ngắm nhìn, chiêm ngưỡng đối tượng gây nên hứng thú, không thể hiện mặt
tích cực để nhận thức sâu hơn đối tượng, làm chủ đối tượng và hoạt động
sáng tạo trong lĩnh vực mình hấp thụ.
- Hứng thú tích cực: Không chỉ chiêm ngưỡng đối tượng gây nên hứng
thú, mà lao vào hoạt động với mục đích chiếm lĩnh được đối tượng. Nó là một
trong những nguồn kích thích sự phát triển nhân cách, hình thành kỹ năng kỹ
xảo, nguồn gốc của sự sáng tạo.
Căn cứ vào nội dung đối tượng, nội dung hoạt động: Chia ra làm 5 loại:
- Hứng thú vật chất: Là loại hứng thú biểu hiện thành nguyện vọng
như muốn có chỗ ở đầy đủ, tiện nghi, ăn ngon, mặc đẹp...
- Hứng thú nhận thức: Ta có thể hiểu hứng thú dưới hình thức học tập
như: Hứng thú vật lý học, hứng thú triết học, hứng thú tâm lý học...
- Hứng thú lao động nghề nghiệp: Hứng thú một ngành nghề cụ thể:
Hứng thú nghề sư phạm, nghề bác sĩ ...
- Hứng thú xã hội – chính trị: Hứng thú một lĩnh vực hoạt động chính trị.

24



- Hứng thú nghê thuật: Hứng thú về cái hay, cái đẹp... như: văn học,
phim ảnh, âm nhạc...
Căn cứ vào khối lượng của hứng thú: Chia ra 2 loại:
- Hứng thú rộng: Bao quát nhiều lĩnh vực, nhiều mặt và thường không sâu.
- Hứng thú hẹp: Hứng thú với từng mặt, từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể...
Trong cuộc sống cá nhân đòi hỏi có hứng thú rộng - hẹp, vì chỉ có hứng
thú hẹp mà không có hứng thú rộng thì nhân cách của họ sẽ không toàn diện,
song chỉ có hứng thú rộng thì sự phát triển nhân cách cá nhân sẽ hời hợt thiếu
sự sâu sắc.
1.1.6.3. Sự hình thành hứng thú học tập và các yếu tố ảnh hưởng đến hứng
thú học tập của học sinh lớp 1
a. Khái niệm
Học tập là một trong những nhiệm vụ quan trọng của học sinh và trong
quá trình học tập, hứng thú học tập giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả của các quá trình học tập. Nhờ hứng thú mà trong quá
trình học tập, scác em học sinh có thể giảm mệt mỏi, căng thẳng, tăng sự chú
ý, thúc đẩy tính tích cực tìm tòi, sáng tạo.
Hứng thú tạo nên ở học sinh sự tích cực học tập, tích cực tham gia học
tập, tìm tòi, khám phá cái mới. Đối với học sinh lớp 1, đây là thời gian chuyển
tiếp từ bậc Mầm non sang Tiểu học nên các em có những thay đổi về môi
trường học tập.
Do đó, bàn về hứng thú học tập, người nghiên cứu cho rằng: Hứng thú học tập
là thái độ nhận thức đặc biệt của người học đối với hoạt động học tập do có ý
nghĩa thiết thực và có ý nghĩa trong cuộc sống, trong quá trình học tập làm
việc của mỗi người.
b. Sự hình thành hứng thú học tập
Khi vào nhà trường Tiểu học, học sinh đã chuyển sang một giai đoạn
mới, các em như lớn hơn, kinh nghiệm cũng phong phú hơn so với lứa tuổi


25


×