MỤC LỤC
Trang
A- Đặt vấn đề
B- Nội dung
I- Cơ sở lí luận
II- Thực trạng
III- Một số biện pháp
1- Biện pháp : Xây dựng bộ hồ sơ dạy Tự nhiên xã hội
2- Biện pháp: Sự chuẩn bị bài của giáo viên và học sinh.
3- Biện pháp: Sử dụng linh hoạt các hình thức dạy trên lớp.
4- Biện pháp: Khai thác bà sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả.
5- Biện pháp:Tạo không khí sôi nổi thi đua bằng một số trò chơi học tập.
6- Biện pháp: Tổ chức các tiết học ngoài trời.
7- Biện pháp;: Tăng cường các hoạt động ngoại khoá.
8- Biện pháp: Phát huy vai trò giáo dục trong gia đình .
C- Phần kết luận
I- Kết quả
II- Bài học kinh nghiệm
1
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
"Trẻ em hôm nay" là "thế giới ngày mai"
Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ sẽ tiếp bước
con đường khám phá bí mật của thế giới tự nhiên mà chúng ta đang đi. Do đó
ngoài việc cung cấp cho các em những kiến thức về khoa học tự nhiên- khoa học
xã hội, xây dựng cho các em những hành vi và quan niệm đúng đắn về đạo lý thì
việc cung cấp cho các em những hiểu biết về thế giới tự nhiên là rất cần thiết.
Đối với các em, thế giới tự nhiên là một cái gì đó đầy bí ẩn có sức hấp dẫn kì lạ
khiến các em luôn khao khát tìm hiểu và khám phá. Chính vì vậy ngay từ những
ngày đầu tiên bước chân tới trường tiểu học, đồng thời với các môn học khác,
các em đã được làm quen với môn tự nhiên xã hội.
Môn tự nhiên xã hội có một vị trí rất quan trọng trong việc giáo dục toàn
diện ở bậc tiểu học. Môn tự nhiên xã hội có liên quan mật thiết với các môn học
khác. Giáo dục tự nhiên xã hội góp phần tạo ra môi trường tốt cho hoạt động dạy
học cho học sinh hoặc của thầy và trò. Bởi lẽ có khám phá được những bí ẩn của
thế giới tự nhiên, học sinh mới hăng hái say học tập hăng hái lao động và rèn
luyện cũng như tích cực tham gia vào các hoạt động ở nhà và ở trường. Đó cũng
chính là điều kiện để nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục.
Xuất phát từ những quan điểm trên, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã chủ trương
nghiên cứu, biên soạn và đưa bộ môn tự nhiên xã hội vào chương trình. Giáo
dục phổ thông ngay từ lớp 1 đến lớp 3 thành một học chính khoá nhằm mục tiêu
"Đào tạo con người phát triển toàn diện có tri thức khoa học, năng động tự chủ,
sáng tạo và có sáng kiến tốt để đảm đương sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ". Để đáp ứng mục tiêu nội dung trên, chương trình môn tự nhiên xã hội ở
trường tiểu học nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu về cơ thể
người, về môi trường, mối quan hệ giữa cơ thể người với môi trường, cách vệ
sinh phòng bệnh Đồng thời rèn luyện cho học sinh nếp sống khoa học, phong
cách và ăn mặc sinh hoạt văn minh lịch sự, có trách nhiệm với bản thân và cộng
2
đồng. Ngoài ra có còn tác dụng học sinh cách lao động tự phục vụ để chăm sóc
sức khoẻ bản thân và cho tập thể.
Để nâng cao chất lượng giáo dục và sức khoẻ cho học sinh tiểu học, những
năm gần đây, Bộ giáo dục - đào tạo không ngừng đưa ra các chủ trương và biện
pháp yêu cầu đổi mới về nội dung giáo dục tự nhiên xã hội, đồng thời đặt ra
nhiệm vụ với đội ngũ giáo dục tiểu học là phải tích cực đổi mới về phương pháp
cũng như hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy khả năng độc lập, sáng tạo
của học sinh. Song thực tế dạy học hiện nay chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra.
Một số nơi chưa thực sự coi trọng môn tự nhiên xã hội, còn nhiều bỡ ngỡ với
môn học này. Do phương pháp giảng dạy còn nghèo nàn, hình thức tổ chức dạy
học còn đơn điệu nên chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh. Điều đó
dẫn đến hiện tượng là một số em ngại học môn tự nhiên xã hội, vì vậy kết quả
học tập chưa cao. Bản thân tôi những năm trước đây cũng rất lúng túng với môn
học này. Đứng trước thực trạng trên, là một giáo viên trẻ có tâm huyết với nghề
nghiệp, tôi luôn suy nghĩ, trăn trở làm thế nào đưa được môn tự nhiên xã hội lên
ngang tầm với môn học khác, số lượng học tập và sự hiểu biết về thiên nhiên,
con người cao hơn nữa, đồng thời gây được hứng thú học tập cho học sinh. Với
kinh nghiệm của nhiều năm công tác, tôi đã nghiên cứu và viết đề tài: "Một số
biện pháp tạo hứng thú để học tốt môn tự nhiên xã hội lớp 2". Đề tài này đã
được tôi thử nghiệm trong 2 năm học 2005-2006 - 2006-2007 và đã thu được kết
quả khá khả quan. Đây là đề tài mà tôi tâm huyết nhất.
3
B- NỘI DUNG
I- CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Mục tiêu của giáo dục - đào tạo những con người mới tự chủ, năng động,
linh hoạt, sáng tạo phù hợp với sự đổi mới của nền kinh tế xã hội hiện nay. Để
thực hiện được mục tiêu đó thì giáo dục phải đổi mới, phương pháp giảng dạy
vào việc khơi dậy và phát triển khả năng tư duy, nghĩ và làm một cách tự chủ,
năng động và sáng tạo ngay trong việc học tập và lao động ở nhà trường.
Phương pháp dạy học nói trên trong khoa học giáo dục - đào tạo về hệ thống các
phương pháp tích cực là phương pháp lấy người học làm tâm.
Như vậy dạy Tự nhiên xã hội cũng như dạy các môn học khác, giáo viên
cũng cần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá các hoạt động
của học sinh. Lấy cơ sở của mỗi hoạt động là việc làm của học sinh dưới sự
hướng dẫn gợi mở của thầy giáo, cô giáo. Nghĩa là trong giờ Tự nhiên xã hội,
giáo viên cần lưu ý đến các hình thức tổ chức dạy hấp dẫn phù hợp với nội dung
bài và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh nhằm phát huy tính
độc lập, tự giác của học sinh giúp các em lĩnh hội hình thức một cách vui vẻ,
nhẹ nhàng và hiệu quả.
II- THỰC TRẠNG:
Hoà chung với phong trào đổi mới phương pháp dạy học, trong những năm
học qua, trường tôi đã thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học theo sự chỉ
đạo của Sở và Phòng giáo dục. Việc đổi mới phương pháp dạy học được tiến
hành ở tất cả các môn học, đặc biệt là môn Toán, Tiếng Việt và Tự nhiên xã hội.
Nhà trường đã tổ chức chuyên đề đạy tự nhiên xã hội theo tinh thần đổi mới.
Như vậy, đa số giáo viên trong trường đều đã nắm được phương pháp dạy
tự nhiên xã hội mới. Tuy nhiên, điều đó mới chỉ được thể hiện trên giáo án,
trong các tiết dạy hội giảng hay dự giờ. Thực tế việc dạy Tự nhiên xã hội vẫn
còn những tồn tại:
- Phương pháp dạy học của giáo viên chưa thu hút học sinh.
- Một số giáo viên còn xem nhẹ tiết dạy tự nhiên xã hội đã dành ít thời gian
cho tiết học này.
- Các em học sinh ở vùng nông thôn có hoàn cảnh khó khăn, một số em
chưa có đủ đồ dùng học tập cho môn học (3/34 em thiếu SGK), nhiều em có khả
năng ghi nhớ kém.
Tóm lại: Việc dạy và học tự nhiên xã hội hiện nay chưa trú trọng và quan
tâm đúng mức. Cần phải có những biện pháp, những hình thức tổ chức phương
4
pháp, đa dạng để tạo hứng thú học tập cho học sinh, động viên đông đảo học
sinh tham gia rèn luyện để giữ gìn bảo vệ sức khoẻ của mình.
Trước những thực trạng trên, tôi cũng đã nghiên cứu và áp dụng một số
hình thức tổ chức có hiệu quả. Tôi xin trình bày " Một số biện pháp tạo hứng
thú học tốt môn Tự nhiên xã hội lớp 2" để các bạn đồng nghiệp tham khảo và
đóng góp ý kiến.
III- MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ ĐỂ HỌC TỐT MÔN TỰ NHIÊN
XÃ HỘI LỚP 2.
Để đạt được những mục tiêu giáo dục đề ra, tôi đã sử dụng một số biện
pháp sau:
1- Biện pháp: Xây dựng bộ "hồ sơ dạy Tự nhiên xã hội".
Việc dạy tự nhiên xã hội cho học sinh tiểu học thực sự trở nên khó khăn
nếu giáo viên chỉ căn cứ vào sách giáo khoa và sách giáo viên. Bởi sau mỗi tiết
sức khoẻ, học sinh phải nắm được một số kiến thức, kĩ năng nhất định, biết liên
hệ áp dụng kiến thức đó vào cuộc sống. Chính vì vậy tôi tiến hành xây dựng cho
mình một bộ "hồ sơ dạy Tự nhiên xã hội" như sau:
- Sưu tầm các giáo án hàng năm, các phiếu học tập đã sử dụng và sẽ sử
dụng.
- Với các tranh ảnh và các thiết bị dạy học do nhà trường trang bị tôi đã sắp
xếp lại theo thứ tự bài dạy rồi đóng đinh treo ở "góc đồ dùng học tập" phía cuối
lớp dành cho môn Tự nhiên xã hội. Đồng thời khuyến khích học sinh sưu tầm
tranh ảnh, mô hình, vật thật… phục vụ cho các bài học tự nhiên xã hội, hướng
dẫn học sinh làm một số đồ dùng đơn giản như: cắt các bông hoa bằng bìa cứng
để dán vào các bài tập trắc nghiệm hoặc vẽ tranh về chủ đề "Con người và sức
khoẻ", chủ đề "xã hội".
Ngoài các tài liệu đã có như sách giáo khoa, sách giáo viên tôi còn thường
xuyên bổ sung các tài liệu bằng cách mua thêm các sách báo, tranh ảnh. Hoặc tự
tạo ra đồ dùng như tranh vẽ, tranh sưu tầm các đồ dùng, các bài báo có nội dung
đề cập đến vấn đề bài học như "con người và sức khoẻ", "môi trường thiên
nhiên với sức khoẻ". "Tháp dinh dưỡng", "một số đồ dùng trong gia đình"…
để lồng ghép, bổ sung vào bài giảng nhằm liên hệ giáo dục bằng những kiến
thức cập nhật thực tế.
Song song với những việc làm trên, để có thêm tài bổ trợ, tôi còn thường
xuyên nghe đài, đọc báo, xem thời sự để biết thêm các tin tức quan trọng phục
vụ cho bài dạy đạt kết quả cao. Song khi nghe, xem hoặc đọc, tôi thường ghi
chép lại các tin tức quan trọng, các số liệu chính xác, cập nhật để phục vụ cho
bài dạy. Đồng thời, tôi còn thường xuyên gặp gỡ cán bộ y tế, cán bộ bảo vệ môi
5
trường để hỏi thêm một số điều mà mình còn bỡ ngỡ trong quá trình dạy học.
Với những việc làm trên, tôi đã xây dựng được cho mình một "bộ hồ sơ dạy tự
nhiên xã hội" tương đối phong phú. Với bộ hồ sơ này, tôi rất yên tâm và tự tin
trong giảng dạy.
2- Biện pháp: Sự chuẩn bị bài của giáo viên và học sinh
a- Chuẩn bị của giáo viên
Với mỗi tiết học nói chung và tiết học tự nhiên xã hội nói riêng, để có được
sự thành công trong giảng dạy thì sự chuẩn bị là yêu cầu bắt buộc, tối cần thiết
đối với mỗi giáo viên. Nhận thức được vấn đề đó, tôi luôn soạn bài trước từ 4-5
ngày. Trước khi soạn bài, tôi thường đọc kĩ sách giáo khoa, sách giáo viên và
các tài liệu tham khảo khác để soạn bài chu đáo. Bao giờ cũng vậy, tôi thường
xác định thật cụ thể mục tiêu cần đạt được của từng bài dạy như: kiến thức cần
truyền thụ những vấn đề gì? Kĩ năng cần đạt được của học sinh ở mức độ nào?
Nội dung giáo dục ra sao? Cần chuẩn bị những đồ dùng gì cho tiết học? Chính
vì vậy trong các tiết dạy. Khi giảng bài tôi lồng ghép các tư liệu trên vào bài dạy
cho giờ học thêm sinh động, hấp dẫn khiến cho học sinh thật hào hứng, tích cực
học tập, hiệu quả của giờ học thật đáng khích lệ. Cho đến nay, hầu hết các em
học sinh lớp tôi đều háo hức chờ đón giờ học Tự nhiên xã hội. Sau khi đã có
giáo án hoàn chỉnh, tôi bắt tay vào việc thiết kế phiếu học tập, sưu tầm tranh
ảnh… bố trí thời gian gặp gỡ cán bộ y tế, cán bộ môi trường để hỏi thêm về các
tin tức có liên quan đến bài dạy.
Ví dụ : Khi dạy bài 13: "Giữ sạch môi trường xung quanh nhà ở". Bên
cạnh việc soạn giáo án trước 5 ngày, tôi còn chuẩn bị các đồ dùng sau:
+ Tranh vẽ cảnh vệ sinh thôn xóm, khu vực quanh nhà ở.
+ Tranh vẽ về các khu vực nước thải hợp vệ sinh.
+ Tranh vẽ về các khu vực nước không hợp vệ sinh
+ Tranh vẽ sách giáo khoa phóng to.
Điều quan trọng ở đây là các giáo viên cần thao tác đồ dùng trước ở nhà
nhiều lần, tập đi tập lại cho thành thạo rồi mới đưa ra tiết dạy. Đồng thời dự kiến
sẵn các tình huống có thể xảy ra để có biện pháp xử lí kịp thời.
Chẳng hạn ở bài "Giữ sạch môi trường xung quanh nhà ở", nếu học sinh
đưa ra ý kiến để xử lí rác và phân hợp vệ sinh: "… đào hồ đựng rác trong
vườn, hàng ngày thu gom tất cả các rác thải trong sinh hoạt loại đổ vào đó
khi nào đầy hố thì lấp đất lại và đào hố khác". Giáo viên cần giải thích: "Đối
với những loại rác dễ bị tiêu huỷ trong đất như; giấy, vỏ quả, củ, rau thừa thì có
thể làm theo cách trên, còn lại các loại túi nilông, bỏ hộp bằng nhựa, bằng
nhôm Có thể thu gom lại đem đi tái chế, làm như vậy vừa tiết kiệm được
6
nguyên liệu vừa không ảnh hưởng đến môi trường đất. Điều quan trọng nhất là
đảm bảo sức khoẻ cho con người (vì những thứ đó chôn xuống đất rất khó tiêu
huỷ)
=> Lúc này, giáo viên có thể dùng một mẫu đất có lẫn các giấy bóng, mảnh
nhựa để minh hoạ.
b- Chuẩn bị của học sinh
Đây thực sự là việc làm không thể thiếu được đối với mỗi học sinh, bởi các
kiến thức, kĩ năng được mở rộng và nâng cao ở tất cả các môn học trong đó có
môn Tự nhiên xã hội. Nếu không được chuẩn bị trước bài ở nhà, khi đến lớp các
em sẽ khó khăn trong việc tiếp thu tri thức mới. Nắm được điều đó, cuối mỗi tiết
học, tôi thường dành 3-5 phút để hướng dẫn các em củng cố lại kiến thức và
chuẩn bị bài sau. Do đặc thù của lớp tôi là trình độ tiếp thu học sinh không đồng
đều, nên một số em chưa hứng thú với môn học này. Để lôi cuốn tất cả các em
tham gia vào hoạt dộng chuẩn bị bài, tôi đã phân công các em học ở nhà theo
nhóm (mỗi nhóm từ 5-7 em ở cạnh nhà nhau, trong đó có một em khá làm nhóm
trưởng). Em này có nhiệm vụ kèm cặp, đôn đốc kiểm tra việc học và làm bài của
các bạn trongnhóm.
Ví dụ: Trước mỗi tiết học, tôi yêu cầu các em phải đọc kĩ sách giáo khoa,
tập trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa, đọc thêm các tài liệu tham khảo từ nhà
(như sách giáo khoa môn tự nhiên xã hội , các tạp chí về sức khoẻ, môi
trường…), hỏi thêm ông, bà , bố, mẹ về những vấn đề mà mình sắp học. Đồng
thời các em còn phải sưu tầm tranh ảnh, vật thật phục vụ cho bài học.
Với những tranh ảnh, bài viết các em cần dán vào bìa cứng (các tờ lịch cũ)
theo nội dung của bài học mang đến lớp trước giờ học.
Bên cạnh đó, dựa vào nội dung bài học, tôi còn soạn ra một hệ thống câu
hỏi và phân đều cho các nhóm, yêu cầu các em thảo luận nhóm để tìm câu trả lời
phục vụ tốt cho bài học tới.
Ví dụg: Trước khi dạy bài 18: "Thực hành giữ trường học xanh, sạch, đẹp'
ngoài việc yêu cầu các em đọc kĩ sách giáo khoa và tài liệu các câu hỏi trong
sách, sưu tầm tranh ảnh, bài viết … nói về cách làm vệ sinh trường học, tôi còn
giao nhiệm vụ cho 6 nhóm như sau:
+ Nhóm 1,2: Điều tra xem ở trường có bao nhiêu thùng rác?
+ Nhóm 3,4: Ghi tên các bạn hay tiểu tiện không đúng nơi qui định.
+Nhóm 5,6: Ở trường, các lớp đã xử lý rác thải, chăm sóc công trình măng
non hợp vệ sinh chưa? Tại sao?
7
Để trả lời các câu hỏi trên, học sinh phải điều tra, thâm nhập thực tế. Chính
quá trình đó, các kiến thức về môi trường và sức khoẻ đã dần dần được hình
thành trong các em, giúp các em không những học tập tốt bài của ngày hôm sau
mà còn có cái nhìn chính xác về môi trường và sức khoẻ mà hiện tại các em
đang sống. Việc học nhóm của học sinh ở nhà tuy đã được "Màng lưới nhóm
trưởng" bao quát, chỉ đạo và thường xuyên báo cáo kết quả hoạt động của nhóm
mình cho cô giáo nghe. Song cô giáo chủ nhiệm cũng cần có sự quan tâm, đánh
giá đúng mức, kịp thời động viên những nhóm hoạt động có hiệu quả, có như
vậy mới kích thích được tính hăng hái tích cực của các em, luôn đặt các em
trong tâm thế phấn đấu đi lên.
3- Biện pháp: Sử dụng linh hoạt các hình thức dạy trên lớp
Việc lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học trên lớp là vô cùng quan trọng
có ý nghĩa quyết định kết quả của giờ học. Vì vậy, đứng trước mỗi bài dạy,tôi
luôn nghiên cứu kĩ bài dạy để tìm ra một số kiến thức tổ chức dạy học phù hợp
nhất đối với học sinh của mình. Tôi thường xem trong bài có thể sử dụng những
tổ chức dạy học nào? Cách sử dụng ra sao?
Thông thường trong giờ dạy, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh lĩnh hội
tri thức dưới hai hình thức: Làm việc với từng cá nhân học sinh hay làm việc với
nhóm học sinh. Với tôi cả hai hình thức này đều được vận dụng trong tất cả các
giờ dạy Tự nhiên xã hội. Trong bài học, những nội dung nào chỉ cần dựa vào
thực tế là học sinh có thể giải quyết được hoặc khi cần củng cố và hoàn thiện kĩ
năng giữ vệ sinh thì tôi tổ chức cho các em hoạt động độc lập. Với những nội
dung vượt qua kĩ năng giải quyết của cá nhân học sinh, đòi hỏi có sự tham gia
đóng góp ý kiến của nhiều người, thì tôi yêu cầu các em hoạt động theo nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài 7 "Ăn uống đầy đủ"
* Ở hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh quan sát tranh thảo luận
- Giáo viên yều cầu học sinh hoạt động độc lập khi quan sát tranh.
- Hàng ngày các bạn ăn mấy bữa chính?
- Mỗi bữa ăn những gì? Ăn bao nhiều? Nhiều hay ít?
- Ngoài ra các bạn còn ăn uống thêm gì không?
Với 3 câu hỏi trên, tôi yêu cầu từng học sinh phải suy nghĩ, dựa vào thực tế
để trả lời, những em khác theo dõi, nêu nhận xét, bổ xung.
* Ở hoạt động 2: Thảo luận nhóm về ích lợi của việc ăn uống đầy đủ:
Đối với nội dung này, tôi gọi đại diện các nhóm lên bốc thăm để chọn nội
dung thảo luận. Nội dung thảo luận được ghi trong 4 phiếu như sau:
- Thức ăn được biến đổi như thế nào dạ dày và ruột non?
8
- Những chất bổ thu được từ thức ăn đưa đi đâu? làm gì?
- Tại sao chúng ta lại ăn đủ no, uống đủ nước?
- Nếu chúng ta thường xuyên đói khát thì điều gì sẽ xảy ra?
Tất cả học sinh sẽ hoạt động theo nhóm để thảo luận nội dung mà mình vừa
bốc thăm được. Trong quá trình học sinh thảo luận nhóm, tôi luôn động viên các
em tìm ra câu trả lời nhanh nhất, chính xác nhất, và hay nhất. Lúc này các em ra
câu trả lời trước có nhiệm vụ trình bày, giải thích để các bạn trong nhóm hiểu và
cùng nhau thống nhất ý kiến. Sau một thời gian (5-7 phút), tôi gọi đại diện các
nhóm lên trình bày kết quả, các bạn thuộc nhóm khác sẽ nghe và nêu ý kiến bổ
sung hoặc có thể nêu câu hỏi phỏng vấn về nội dung mà bạn vừa trình bày.
Việc gọi đại diện các nhóm , tôi tiến hành luân phiên để các em cùng được
trả lời và nêu ý kiến của mình. Tôi luôn đặc biệt chú ý tới các em học yếu, nhút
nhát, bẽn lẽn để rèn cho các em tính mạnh dạn, tự tin, tích cực vận động hơn.
Sau mỗi câu trả lời, tôi đều gọi một em thuộc nhóm khác nêu nhận xét (cả về
nội dung và tác phong của bạn khi trình bày). Đồng thời bổ xung những kiến
thức còn thiếu. Với việc tổ chức các kiến thức học tập đan xen nhau như vậy, tôi
nhận thấy học sinh không bị mệt mỏi, nhàm chán mà ngược lại các em rất sôi
nổi, hào hứng. Tất cả các em đều được lôi cuốn tham gia vào hoạt động tìm hiểu
kiến thức của bài và giáo viên chỉ là người đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn,
khẳng định lại kiến thức cho các em và mở rộng thêm. Từ đó giúp các em áp
dụng tốt các kiến thức vào thực tế cuộc sống.
4- Biện pháp: Khai thác và sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả
Đồ dùng dạy học là phương tiện trực quan đăc lực giúp cho tiết học Tự
nhiên xã hội đạt kết quả cao, bởi các kiến thức Tự nhiên xã hội mang tính trừu
tượng, kết quả cao, đòi hỏi học sinh phải thực hành nhiều. Mặt khác đặc điểm
nhận thức của học sinh tiểu học thường đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng. Do đó giáo viên dù có truyền thụ tri thức hay đến mấy mà không có
đồ dùng minh hoạ, học sinh cũng không thể nắm chắc kiến thức.
Song có đồ dùng cũng chưa thể khẳng định được hiệu quả của giờ dạy. Đồ
dùng dạy học chỉ thực sự đem lại hiệu quả cao khi nó được sử dụng đúng lúc,
đúng chỗ (dạy đến nội dung nào thì đưa đồ dùng ra minh hoạ cho nội dung đó,
không đưa ôm đồm gây cho học sinh tâm lý mệt mỏi, nhàm chán). Mặt khác, đồ
dùng dạy học cũng có thể là một phương tiện giúp học sinh khám phá, phát hiện
kiến thức nếu có được sử dụng kết hợp hài hoà, hợp lí với các phương pháp dạy
học khác như: trực quan với đàm thoại gợi mở, luyện tập với thực hành Bởi
vậy, giáo viên phải biết cách khắc hoạ sử dụng và khai thác sao cho đạt kết quả
cao nhất.
9
Ví dụ: Khi daỵ bài 8 "Ăn, uống sạch sẽ", giáo viên có thể khắc hoạ các
phương pháp dạy học: trực quan với đàm thoại, gợi mở, thuyết trình như sau:
* Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh quan sát tranh, trả lời câu hỏi
Bước 1: Giáo viên treo lần lượt:
+ Tranh 1: Bạn gái đang rửa tay bằng xà phòng.
+ Tranh 2: Bạn gái đang rửa hoa quả.
+ Tranh 3: Bạn gái đang gọt vỏ hoa quả trước khi ăn.
+ Tranh 4: Mâm cơm đã được đậy bằng lồng bàn.
+ Tranh 5: Úp bát đĩa vào chạn bát.
Bước 2: Giáo viên đưa câu hỏi để các nhóm 2 thảo luận:
- Để ăn uống sạch sẽ, chúng ta cần phải làm những việc gì?
- Rửa tay như thế nào là sạch và hợp vệ sinh?
- Rửa quả như thế nào là đúng?
- Bạn gái trong hình đang làm gì? Việc đó có lợi gì?
.v.v
* Hoạt động 2: Làm việc với sách giáo khoa.
- Giáo viên cho cả lớp quan sát hình 6, 7 trong sách giáo khoa, nhận xét bạn
nào uống nước hợp vệ sinh, bạn nào uống chưa hợp vệ sinh và giải thích vì sao?
Hay khi tìm hiểu về biện pháp giữ cho bầu không khí trong sạch, đảm bảo sức
khoẻ cho con người, với bài "Giữ sạch môi trường xung quanh nhà ở" tôi có
thể treo các tranh:
+ Tranh giữ sạch nhà ở.
+ Tranh "cây xanh với sức khoẻ".
Giáo viên đưa ra một số câu hỏi cho học sinh suy nghĩ trả lời:
- Các bức tranh trên vẽ gì?
- Nếu em hít thở không khí ở nơi có nhiều khói bụi, khí độc thì sức khoẻ con
người sẽ ra sao?
- Tại sao cần phải vệ sinh chuồng trại chăn nuôi, nhà cửa cho sạch sẽ?
- Không khí trong lành có lợi ích gì cho sức khoẻ?
Sau đó, tôi yêu cầu thảo luận nhóm các biện pháp bảo vệ và giữ cho bầu
không khí trong sạch. Sau khi đại diện các nhóm đã phát biểu, tôi có thể sử dụng
phương pháp thuyết trình để tiểu kết hoặc giải thích lý do chọn các biện pháp
đó.
10
Trong quá trình dạy học, đồ dùng dạy học phải được sử dụng thường
xuyên, linh hoạt ở mọi khâu: từ khâu kiểm tra bài cũ, dạy bài mới đến khâu
luyện tập củng cố. Do đó giáo viên có thể treo đồ dùng trong cả tiết học mà
không cần cất đi. Song điều quan trọng là ở đây, giáo viên cần lựa chọn cách
thức khai thác đồ dùng cho hợp lý, lúc nào nên sử dụng đồ dùng với vai trò minh
hoạ, khi nào nên sử dụng với vai trò khai thác tri thức. Đồng thời cũng cần xác
định rõ đối tượng làm việc trực tiếp với đồ dùng là giáo viên hay học sinh, học
sinh làm việc nhóm hay cá nhân với đồ dùng.
5- Biện pháp: Tạo không khí sôi nổi thi đua bằng một số trò chơi học
tập.
Học sinh tiểu học thường có tâm lý chung là thích "Học mà vui - vui mà
học". Các em tiếp nhận tri thức nhanh nhưng cũng hay quên, chóng chán. Để
giúp các em thực hiện phương châm "Học đi đôi với hành" tạo không khí hào
hứng, tích cực học tập, tự đánh giá và có ý thức trân trọng thành quả lao động do
mình tạo ra. Đồng thời tạo cho các em có cảm giác vui khi tự mình chủ động
lĩnh hội kiến thức một cách chính xác và sâu sắc, cuối mỗi giờ học tôi thường
thường xuyên cho các em chơi một số trò chơi sau:
a- Trò chơi: "Đóng vai"
* Cách chơi: Giáo viên nêu tình huống trò chơi, học sinh tham gia đóng vai
diễn lại tình huống trên.
Lưu ý: Các tình huống giáo viên nêu ra có thể là "tình huống đóng" (có sẵn
cách giải quyết, học sinh chỉ cần đóng vai diễn lại) hoặc có thể là "tình huống
mở" (chưa nêu cách giải quyết), yêu cầu học sinh thông qua vai diễn của mình
tự đưa ra cách giải quyết tình huống. Tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh mà giáo
viên có thể lựa chọn kịch bản cho phù hợp.
Ví dụ: Khi dạy bài 18: "Thực hành giữ trường học sạch đẹp", tôi đã tổ
chức cho các em chơi trò chơi đóng vai. Tình huống của trò chơi như sau: Một
hồi trống vang lên. Các em ùa ra sân trường để vệ sinh trường lớp và chăm sóc
công trình măng non. Sau vài phút, các nhóm thu gom rác đổ vào thùng rác của
nhà trường cho sạch sẽ. Bỗng có một lớp học sinh nhặt xong giấy rác liền chạy
đi đổ ngay ra đầu dãy nhà hai tầng. Nếu là em phát hiện ra hiện tượng đó, em sẽ
xử sự như thế nào?
- Cách chơi: 7 học sinh sẽ tham gia đóng vai để diễn lại tình huống trên.
Trò chơi này vừa giúp học sinh giải trí, vừa giúp học sinh biết xử lý các
tình huống hay xảy ra trong thực tế.
b- Trò chơi: "Tuyên truyền viên xuất sắc. "
Ví dụ: Khi dạy bài "Phòng tránh ngộ độ khi ở nhà".
11
Đầu tiên, tôi nêu ra vấn đề: Ở địa phương con hiện nay do sự hiểu biết của
người dân còn hạn chế nên dẫn đến những trường hợp bị ngộ độc thức ăn. Nếu
là tuyên truyền viên, con sẽ nói gì với mọi người?
Các nhóm sẽ thảo luận nhóm 4 từ 5-7 phút sau đó cử đại diện lên báo cáo.
Ở trò chơi này, nhóm nào thắng cuộc sẽ được phong danh hiệu: "Nhóm tuyên
truyền viên xuất sắc". Khi đánh giá trò chơi tôi không chỉ căn cứ vào nội dung
bài nói mà còn căn cứ vào cả tác phong, tư thế của người nói. Vì vậy, muốn là
nhóm thắng cuộc, các em phải bám chắc vào bài học để có nội dung thuyết
minh, tuyên truyền hay đồng thời phải bình tĩnh, tự tin khi thuyết trình.
6- Biện pháp: Tổ chức các tiết học ngoài trời.
Bên cạnh việc sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học trên lớp
cùng với sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học thì việc dạy học ở ngoài hiện trường
cùng với các vật thực, hiện tượng thực cũng đem lại kết quả khá khả quan. Bởi
việc học sinh được quan sát, được trực tiếp chứng kiến các sự vật hiện tượng mà
nó vốn tồn tại sẽ có tác dụng tốt hơn bất cứ một loại đồ dùng dạy học hay một
lời mô tả nào của giáo viên. Hơn thế nữa, học ở ngoài trời còn giúp cho học sinh
được thay đổi không khí học tập, được hít thở bầu không khí trong lành, các em
sẽ cảm thấy thoả mái và thích thú vô cùng. Trong điều kiện này, học sinh vẫn
được tự do trao đổi để cùng tìm tòi, khám phá tri thức. Do vậy với bài Tự nhiên
xã hội nào có thể tiến hành dạy học ngoài trời, tôi đều mạnh dạn đề xuất với Ban
giám hiệu tạo điều kiện cho lớp tôi được học tiết đó ở ngoài trời. (Nơi có hiện
tượng xảy ra gần gũi với bài học).
Ví dụ: Khi dạy bài 31 "Mặt trời".
Tôi đã tổ chức cho các em học bài này ở sân trường. Chọn gốc cây to, có
nhiều bóng mát, tôi cho các em ngồi và quan sát bức tranh về ông mặt trời (hoặc
yêu cầu các em chuẩn bị kính ở nhà mang đến đeo, sau đó quan sát mặt trời) để
trả lời câu hỏi:
- Theo con, ông mặt trời có hình gì?
- Tại sao, khi đi nắng con phải đội mũ hay che ô?
- Tại sao chúng ta không bao giờ được quan sát mặt trời trực tiếp bằng
mắt.
- Hãy nói về vai trò của mặt trời đối với mọi sự sống trên trái đất?
Sau khi nghe học sinh trả lời, tôi tổng kết lại các ý thảo luận của học sinh.
Sau đó tôi gọi 2, 3 học sinh nhắc lại các ý chính của bài.
Sau mỗi tiết học ngoài trời, điều mà tôi cảm nhận được là cả giáo viên và
học sinh đều tiết kiệm được nhiều thời gian chuẩn bị đồ dùng mà tiết học vẫn
12
diễn ra sinh động, hấp dẫn và có hiệu quả. Thông qua việc phân tích các vật
thực, hiện tượng thực, học sinh được rèn luyện nhiều giác quan cùng một lúc.
7- Biện pháp: Tăng cường các hoạt động ngoại khoá:
Hoạt động ngoại khoá có tác dụng hỗ trợ cho việc dạy - học trên lớp. Thông
qua hoạt động ngoại khoá, học sinh có điều kiện hình dung, tái hiệu các kiến
thức đã và sẽ học. Trên cơ sở đó gióup các em tiếp thu tri thức một cách nhẹ
nhàng, thoải mái, gây được hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy, nhằm
nâng cao chất lượng dạu - học môn Tự nhiên xã hội lớp 2, tôi đã chú trọng tổ
chức tốt các hoạt động sau:
a- Tổ chức các buổi nói chuyện theo chuyên đề:
Trường tôi có thuận lợi nằm giáp với trạm xá của xã, hơn thế nữa, trường
còn có một bác là cán bộ y tế học đường, phụ huynh học sinh của lớp có một
bác là cán bộ bảo vệ môi trường nên trước khi dạy một chủ đề của môn Tự
nhiên xã hội, tôi lại mời các bác đến nói chuyện, giao lưu.
Ví dụ: Đầu năm học, tôi đã mời hai bác là cán bộ y tế đến nói chuyện với
học sinh về chủ đề " Con người và sức khoẻ". Hay trước khi dạy chủ đề " xã
hội", tôi đã mời bác phụ huynh là cán bộ bảo vệ môi trường đến giao lưu với đề
tài " Biện pháp bảo vệ môi trường sống", " phòng tránh ngộ độc khi ở nhà".
Để buổi nói chuyện đạt kết quả cao, tôi đã thông báo cho học sinh biết
trước thời gian nói chuyện, nội dung nói chuyện. Đồng thời yêu cầu các em soạn
thảo câu hỏi, ghi lại những vấn đề còn thắc mắc để trực tiếp trao đổi với các bác
đến nói chuyện. Trong các buổi nói chuyện đó, học sinh rất chăm chú lắng nghe,
sôi nổi nêu câu hỏi để các bác giải đáp. Tất cả các em đều đem theo giấy bút để
ghi chép những chi tiết quan trọng phục vụ cho bài học. Cũng thôgn qua buổi
giao lưu đó, tôi thấy các tiết học sức khoẻ trên lớp diễn ra sôi nổi hơn, các em
hăng hái phát biểu ý kiến đồng thời nắm chắc bài và nhớ lâu kiến thức, vệ sinh
cá nhân, sệ sinh lớp học cũng có bước chuyển biến rõ rệt.
Tổ chức diễn đàn: " sức khoẻ tuổi học đường"
Để giúp học sinh học tốt môn tự nhiên xã hội , có hứng thú học tập môn
này, ngoài việc tổ chức các buổi nói chuyện theo chuyên đề tôi còn tổ chức
cho các em tham gia diễn đàn mang tên " Sức khỏe tuổi học đường " Diễn đàn
này được được tổ chức vào các tiết sinh hoạt tập thể , sau khi đã học song mọt
chủ đề của môn tự nhiên xã hội . Trong diễn đàn này, học sinh được trình bày lại
các kiến thức đã học. ( Có mở rộng ) dưới dạng thuyết trình sử dụng tranh ảnh,
minh hoạ
13
Để làm tốt được điều này, tôi yêu cầu các em học sinh nắm chắc kiến thức
có kỹ năng sử dụng các thiết bị dạy học.
* Phần 1: Chia làm 2 bước:
+ Bước 1: Chia lớp làm 4 nhóm, mỗi nhóm 8-9 em, các em gắn các tư liệu,
tranh ảnh đã sưu tầm được vào các tờ lịch cũ theo nội dung đã học trong chủ
đề. ( Bước này học sinh làm ở nhà ) .
Bước 2: Đại diện các nhóm lên thuyết minh cho sản phẩm của nhóm mình.
Các nhóm khác có thể phỏng vấn người thuyết minh về một số vấn đề có liên
quan đế chủ đề thuyết trình.
Phần 2: Tổ chức hình thức: " Hái hoa dân chủ "
ở phần này giáo viên cần chuẩn bị sẵn một số câu hỏi được ghi ở phía
trong các bông hoa gài vào cây cảnh. Các câu hỏi ở đây thường xoáy sâu vào
nội dung ôn tập ( bao gồm cả câu hỏi về kiến thức, kỹ năng, thái độ ).
Ví dụ: Sau khi học xong chủ đề " con người và sức khoẻ ", vào tiết sinh
hoạt tập thể ngày thức 3, tôi đã tổ chức cho học sinh tham gia diễn đàn này như
sau:
Phần 1:
- Bước 1: Học sinh sưu tầm các tranh ảnh, bài viết về nội dung:
+ Một số thức ăn, nước uống thường dùng hàng ngày .
+ Các con vật trung gia truyền bệnh cho người ( ruồi, muỗi ).
+ Đường đi của thức ăn trong ống tiêu hoá .
Học sinh hoạt động nhóm để hoàn thiện việc gắn tranh ảnh, tư liệu theo các
nội dung trên và thống nhất lời thuyết minh, cử người lên báo cáo thành quả lao
động của nhóm mình ( phần này học sinh làm ở nhà ).
- Bước 2: Học sinh lên trình bày trước lớp sản phẩm của nhóm mình.
Phần 2:
Học sinh lên hái hoa dân chủ.
Phần này học sinh được tự do tham gia, tôi luôn khuyến khích các em bằng
những tràng pháo tay hoặc nhận xét. Với các em yếu kém càng lên khích lệ
động viên nhiều hơn để các em tự tin và tham gia tích cực vào diễn đàn. Đây là
một số câu hỏi tôi đã sử dụng trong diễn đàn này.
1- Chỉ và nói tên mọt số xương và kh[ps của cơ thể.
2- Bạn nên làm gì để cột sống không bị cong vẹo?
3- Tại sao chúng ta không nên chạy nhảy, nô đùa sau khi ăn no?
4- Chúng ta nên ăn, uống như thế nào để cơ thể khoẻ mạnh?
14
5- Tại sao chúng ta phải ăn, uống sạch sẽ?
6- Làm thế nào để đề phòng bệnh giun?
7- Bệnh giun gây ra những tác hại gì cho cơ thể?
c- Tham quan thực tế địa phương:
Môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và sự phát triển trí
tuệ của con người. Trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà con người đang hàng
ngày, hàng giờ phải đối diện với nguy cơ ô nhiễm môi trường ( do sự tăng dân
số, do sự phát triển của các ngành công nghiệp ) thì sự hiểu biết của học sinh
về môi trường sống, đặc biệt là môi trường ở đọa phương là điều kiện rất cần
thiết, không thể thiếu được. Bởi nó không chí có tác dụng to lớn trong việc tiếp
nhận kiến thức trong giờ dạy Tự nhiên xã hội trên lớp và việc thực hành của học
sinh ở nhà mà còn tác động mạnh mẽ đến ý thức bảo vệ môi trường của các em.
Nắm bắt được điều này, tôi đã cùng các đồng nghiệp trong khối 2 toạ đàm trao
đổi để tìm ra một sóo nơi điển hình về giữ vệ sinh môi trường đất, môi trường
nước, môi trường không khí ( bao gồm cả những điển hình về moi trường trong
sạch, lẫn môi trường ô nhiễm ) ở ngay địa phương để đưa các em đến tham
quan.
Ví dụ: Tôi đưa các em học sinh đi tham quan một số ao hồ bị ô nhiễm gần
khu dân cư ( do nhiều rác thải sinh hoạt đổ ra), thăm nơi họp chợ, hệ thống cống
rãnh để xử lý nước thải ở địa phương. Đồng thời đưa các em đến thamư một số
gia đình có hệ thống xử lý rác thải và phân hợp vệ sinh, không hợp vệ sinh.
Hoặc tôi đưa các em tham quan hệ thống chăn nuôi của gia đình người dân.
Trong quá trình thăm quan, các em có thể trao đổi trực tiếp với các gia đình đến
tham quan hoặc những người sống gần nơi tham quan về ảnh hưởng của môi
trường đến sức khoẻ của họ.
Qua hoạt động tham quan đã giúp cho học sinh lớp tôi hiểu rõ hơn về thế
giới bên ngoài, ảnh hưởng của môi trường sống đến sức khoẻ con người. Từ đó
các em có ý thức tham gia vào việc bảo vệ môi trường để nanag cao hiểu biết
của mình cuả gia đình và của cả cộng đồng.
Tóm lại: Việc tổ chức cho học sinh học tập môn Tự nhiên xã hội thông
qua các hoạt động ngoại khoá đã giúp cho học sinh lớp tôi học tập tốt hơn, các
em yêu thích môn học hơn.
8- Biện pháp: Phát huy vai trò giáo dục trong gia đình.
Gia đình có vai trò vô cùng quan trọng trong việc cung cấp kiến thức cho
học sinh. Bởi yêu cầu của môn Tự nhiên xã hội là sau mỗi bài, học sinh không
chỉ nắm được tri thức mà phải biết vận dụng tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống.
15
Trong khi đó với các phương tiện trên lớp, trong khoảng thời gian 35 phút,
không phải bài nào giáo viên cũng kiểm tra được hết kĩ năng vận dụng thực
hành của học sinh. Vì vậy gia đình là môi trường tốt nhất để các em kiểm
nghiệm tri thức đã học và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo. Ý thức của mỗi thành viên
trong gia đình đối với việc thực hành vận dụng kiến thức đó là những tấm gương
thiết thực để các em noi theo.
Nắm bắt được điều này, nên ngay từ buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm,
học, tôi đã phổ biến rõ nội dung và yêu cầu học tập môn Tự nhiên xã hội và đề
nghị các bậc phụ huynh tạo điều kiện cho con em mình học tập bằng cách:
+ Nhắc nhở gia đình tạo điều kiện về cơ sở vật chất để các em có thể thực
hành vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống.
+ Tăng cường kiểm tra việc học tập của con em mình, mỗi khi giáo viên ra
bài tập thực hành, các bậc phụ huynh cần tạo điều kiện cho các em làm, đồng
thời quan sát và có nhận xét thực vào phiếu thực hành của các em dưới phần
nhận xét của cha mẹ. Thông qua việc quan sát kĩ năng của học sinh ở trên lớp
kết hợp với nhận xét của cha mẹ các em đã giúp tôi nắm chắc thực hành các nội
dung giáo dục môn Tự nhiên xã hội cho học sinh. Do đó, những phụ huynh
thường xuyên không phê vào phiếu thực hành của con mình hoặc phê không sát
thực tôi đều mời ra lớp để nhắc nhở.
16
C- PHẦN KẾT LUẬN
I- KẾT QUẢ:
Nhờ mạnh dạn áp dụng các kinh nghiệm của bản thân cộng với quyết tâm
thực hiện các biện pháp trên một cách hài hoà, thường xuyên, liên tục nên trong
năm học 2006 - 2007, tôi không còn lúng túng trong việc dạy học Tự nhiên xã
hội nữa, việc học tập của học sinh lớp tôi cũng có bước chuyển mình rõ rệt:
- Đa số học sinh tích cực, tự giác trong học tập.
- Các em mạnh dạn, tự tin trong việc bày tỏ ý kiến của mình không bị mặc
cảm như trước kia.
Chính việc sử dụng linh hoạt các phương pháp cũng như hình thức tổ chức
dạy học của giáo viên đã gây được hứng thú say mê học tập cho các em. Từ đó
không khí lớp học sôi nổi hẳn lên, không có em nào sợ phải học môn học này
nữa, các em đều nắm chắc kiến thức của bài và biết vận dụng chúng trong thực
tiễn cuộc sống. Do đó chất lượng đã được nâng lên đáng kể so với năm học
trước.
Cụ thể:
Năm học Sĩ số
Hoàn thành tốt
(A+)
Hoàn thành
(A)
Chưa hoàn
thành (B)
2005-2006 34HS 18HS = 52% 16HS = 48% 0HS = 0%
2006-2007 34HS 21HS=61% 13HS=39% 0HS
II- BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua thực tế áp dụng các biện pháp trên, để nâng cao chất lượng dạy học
môn Tự nhiên xã hội, theo tôi mỗi giáo viên cần làm tốt các việc sau:
- Giáo viên cần phải chuẩn bị tốt bài dạy (có đủ giáo án và đồ dùng dạy
học).
- Giáo viên phải linh hoạt trong việc sử dụng đồ dùng dạy học, phải nghiên
cứu tìm tòi các hình thức tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn học sinh khám phá tri thức
17
một cách khoa học và sáng tạo nhằm phát huy trí lực của học sinh tạo điều kiện
cho các em có cơ hội thể hiện mình.
- Phát hiện và phân loại kịp thời đối tượng học sinh qua từng quá trình học
để có biện pháp giảng dạy thích hợp.
- Tích cực tổ chức các diễn đàn, các buổi tham quan ngoại khoá mở rộng
kiến thức và rèn kĩ năng thực hành.
- Xây dựng và sử dụng có hiệu quả "Bộ hồ sơ dạy học".
- Chú trọng tổ chức hình thức "Học vui - vui học" cho học sinh để nhằm
gây hứng thú học tập.
Trên đây là một số biện pháp tạo hứng thú để dạy tốt môn Tự nhiên xã hội
lớp 2 mà tôi đã áp dụng trong hai năm học 2005 - 2006, 2006 - 2007 có hiệu
quả. Với kinh nghiệm còn ít nên bài viết chắc chắn sẽ có nhiều khiếm khuyết mà
bản thân tôi chưa nhận ra. Rất mong được sự quan tâm góp ý của các cấp lãnh
đạo và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tiên Dương, ngày 10 tháng 4 năm 2007
Người viết
Đào Thị Bích Thuỳ
18
19
PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN ĐÔNG ANH
TRƯỜNG TIỂU HỌC TIÊN DƯƠNG
Đề tài:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ
ĐỂ HỌC TỐT HƠN MÔN TỰ NHIÊN XÃ HỘI
LỚP 2
Người thực hiện: Đào Thị Bích Thuỳ
Năm học 2006 - 2007