Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Nâng cao hiệu quả xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số huyện nam đông, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 99 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn
đến quý thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị, cùng các thầy cô trong và
ngoài trường Đại học sư phạm. Đặc biệt, tôi gửi lời cảm ơn đến Cô giáo
Thạc sỹ Lê Thị Thu Hương người đã tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực
hiện đề tài này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn đến Phòng LĐ - TBXH, Phòng thống kê
huyện Nam Đông; Thư viện rường Đại học sư phạm đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong thời gian nghiên cứu và thu thập số liệu để hoàn thành
chuyên tốt nghiệp này.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến bà con các hộ gia đình mà tôi đã
trực tiếp điều tra phỏng vấn và cung cấp số liệu liên quan đến đề tài của tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân, bạn bè đã động viên
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành đề tài này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất. Song do thời gian ngắn, trình độ năng lực có hạn chế, kinh nghiệm
trong thực tiễn còn non trẻ nên đề tài không thể tránh khỏi sự sai sót. Rất
mong quý thầy cô giáo và bạn bè góp ý để chuyên đề của tôi được hoàn
thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

2

WB

:



Ngân hàng thế giới

NHCSXH

:

Ngân hàng chính sách xã hội

NHNg

:

Ngân hàng phục vụ người nghèo

BHYT

:

Bảo hiểm y tế

DS-KHHGĐ

:

Dân số-kế hoạch hóa gia đình

DTTS

:


Dân tộc thiểu số

LĐ-TBXH

:

Lao động - thương binh xã hội

SXKD

:

Sản xuất kinh doanh

KT-XH

:

Kinh tế-xã hội

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

HS-SV

:


Học sinh-Sinh viên

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

LLVT

:

Lực lượng vũ trang

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:


Trung học phổ thông

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

XĐGN

:

Xóa đói giảm nghèo


MỤC LỤC

3


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng

Biểu đồ

4


A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử xã hội loài người, đặc biệt từ khi có giai cấp đến nay,
vấn đề phân biệt giàu nghèo đã xuất hiện và đang tồn tại như một thách
thức lớn đối với phát triển bền vững của từng quốc gia, từng khu vực và
toàn bộ nền văn minh nhân loại.
Đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của tất cả các
nước trên thế giới, là vấn đề được các chính phủ, các tổ chức quốc tế quan tâm
để tìm giải pháp hạn chế và tiến tới xóa bỏ nạn đói nghèo trên phạm vi toàn thế
giới.
Xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và
tăng trưởng bền vững. Vì vậy, Việt Nam coi xóa đói giảm nghèo là mục tiêu
xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thực hiện xóa đói giảm nghèo
trong từng bước phát triển, đảm bảo công bằng xã hội thể hiện tính ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Qua 30 năm đổi mới, chính sách nhất quán cuả Đảng và Nhà nước là
giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp, chính đáng;
chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người
nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân
1,5-2%/ năm. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60% trước đổi mới xuống còn
9,5% năm 2011, năm 2013 còn 7,5% và phấn đấu đến năm 2015 còn dưới 5%.
Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và
đánh giá cao.
Mặc dù đạt được những thành tựu như vậy, nhưng vẫn còn một bộ
phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa... vẫn

5


đang chịu cảnh đói nghèo, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của

cuộc sống.
Nam Đông là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế cách
thành phố Huế khoảng 50 km về phía Tây Nam, tái lập vào tháng 10 năm
1990. Cuộc sống của người dân chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, đời
sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt do ảnh hưởng bất thường
của thời tiết khí hậu gây ra nhiều tác động tiêu cực đến sản xuất nông
nghiệp, mất mùa thường xuyên xảy ra dẫn đến đói nghèo. Xác định được
tầm quan trọng của vấn đề, nhiều năm qua cùng với sự quan tâm của các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã lập kế hoạch, đề ra chiến lược,
mục tiêu phù hợp, tổ chức triển khai chính sách xóa đói giảm nghèo và đã
đạt được một số kết quả tốt. Nhiều chương trình, dự án, mục tiêu giảm
nghèo đã tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Tuy nhiên số hộ nghèo của huyện trong những năm qua vẫn còn
cao(chiếm tỷ lệ 6%), chính sách xóa đói giảm nghèo thực hiện còn nhiều
hạn chế. Từ thực trạng này, là một người con của huyện Nam Đông, tôi
quyết định chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả xóa đói giảm nghèo cho đồng
bào dân tộc thiểu số huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế” nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghèo đói là một vấn đề không mới, song nó lại nhận được sự quan
tâm rất nhiều người. Đặc biệt ở thời điểm hiện tại khi đất nước đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nghèo đói lại một lần nữa tỏa ra sức
nóng, trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Ở nhiều khía cạnh
khác nhau đã có rất nhiều tác giả, công trình nghiên cứu về đói nghèo, tiêu
biểu như:
- Lê Thị Oanh: “ Công tác xóa đói giảm nghèo của huyện Nghi Xuân”.
Người nghiên cứu đã nêu được thực trạng về nghèo đói ở huyện Nghi
Xuân- Hà Tĩnh, trên cơ sở đó chỉ ra nguyên nhân, đề xuất giải pháp nhằm

6



khắc phục tình trạng đói nghèo. Kết quả của công trình này có thể trở
thành kim chỉ nam vạch ra hướng đi mới về việc xóa đói giảm nghèo ở
huyện Nghi Xuân. Như đã nói trên, do sự khác biệt về điều kiện kinh tế của
từng vùng miền, nên vấn đề còn mang tính cục bộ, chưa thể áp dụng cho
nhiều vùng.
- Nguyễn Thị Yến: “ Xóa đói giảm nghèo ở huyện K’Bang( Gia Lai ) Thực trạng và giải pháp”. Tác giả đã làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn
về công tác xóa đói giảm nghèo, đồng thời, phân tích được thực trạng, chỉ
rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói, nghèo và đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo ở huyện
K’bang trong những năm tiếp theo. Kết quả của người nghiên cứu là tài
liệu tham khảo cho những người làm công tác xóa đói giảm nghèo ở địa
phương và cán bộ quản lý các cấp. Kết quả nghiên cứu này thực tế chỉ áp
dụng được ở phạm vi hẹp, các giải pháp rất thiết thực,gắn với thực trạng
của huyện K’bang nhưng nếu áp dụng cho các vùng, các huyện khác sẽ
không khả thi, vì mỗi vùng miền có đặc điểm kinh tế, điều kiện khác nhau.
- Hoàng Thị Xuân Thủy: “ Thực trạng và một số giải pháp xóa đói
giảm nghèo ở huyện Vĩnh Bảo- Thành phố Hải Phòng” Hà Nội,2006. Tác
giả đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa đói giảm
nghèo. Đồng thời, đề tài còn phân tích đánh giá thực trạng đói nghèo và
xóa đói giảm nghèo ở huyện Vĩnh Bảo từ đó rút ra những mặt đã đạt
được, những tồn tại hạn chế và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
Dựa trên cơ sở đó, người nghiên cứu đưa ra những quan điểm, phương
hướng, mục tiêu và các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện xóa đói giảm
nghèo của huyện Vĩnh Bảo trong giai đoạn 2006- 2010.
- Nguyễn Sỹ Cường: “Thực trạng đói nghèo và những giải pháp xóa
đói, giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Mông ở huyện Yên Minh, tỉnh Hà
Giang” Hà Nội,3/2008. Trong đề tài này, tác giả tìm hiểu thực trạng đói

7



nghèo của người thiểu số ở miền núi, đặc biệt là đồng bào dân tộc Mông và
nhu cầu xóa đói giảm nghèo. Qua việc mô tả đời sống của người dân thông
qua các chỉ số, những số liệu, những thông tin thu được từ các cuộc khảo
sát xã hội học, người nghiên cứu đã đưa ra những kiến nghị, những giải
pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện chương
trình xóa đói giảm nghèo tại địa bàn, giúp người nghèo tự vươn lên trong
cuộc sống.
Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến vấn đề nghèo đói dưới
các góc độ khác nhau và khảo sát ở từng địa phương riêng biệt. Chính vì
vậy kết quả của các công trình nghiên cứu đó khó có thể thực hiện và áp
dụng đại trà ở nhiều địa phương. Ý thức được tầm quan trọng của vấn
đề này trên cơ sở tiếp thu và kế thừa có chọn lọc kết quả của những nhà
nghiên cứu đi trước, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả
xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Đông,
tỉnh Thừa Thiên Huế” dưới góc độ kinh tế chính trị. Đề tài nghiên cứu
này sẽ góp phần bổ sung hoàn chỉnh về công tác xóa đói giảm nghèo,
nâng cao hiệu quả ở các vùng nông thôn, vùng núi còn khó khăn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào dân tộc thiểu số huyện Nam Đông.
Từ đó, đề tài đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu qủa xóa đói giảm
nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên
Huế trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau:
-


Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xoá đói, giảm nghèo ở nước ta hiện
nay

8


-

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo của đồng bào dân tộc thiểu
số trên địa bàn huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế

-

Đánh giá thực trạng xóa đói giảm nghèo và làm rõ nguyên nhân đói nghèo
của đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế giai
đoạn 2010- 2015

-

Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xóa đói giảm nghèo cho
đồng bào dân tộc thiểu số huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu là thực trạng đói nghèo của đồng bào dân
tộc thiểu số huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
4.2.Phạm vi nghiên cứu: trên địa bàn huyện Nam Đông giai đoạn
2010- 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu là:

Phương pháp phân tích tổng hợp dựa vào cơ sở lý luận của vấn đề
xóa đói giảm nghèo: các khái niệm liên quan đến đói nghèo, chuẩn nghèo
qua từng giai đoạn, đặc điểm của nghèo đói, quan điểm của Đảng và Nhà
nước, kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số địa phương trong
nước…
Phương pháp nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, phân tích và
tổng hợp, sưu tầm và xử lý số liệu, so sánh thống kê, điều tra về vấn đề xóa
đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Đông, từ đó
tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xóa đói giảm nghèo cho đồng
bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện.
6. Kết cấu của đề tài

9


Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận chung về nghèo đói và xóa đói giảm nghèo
Chương 2. Thực trạng nghèo đói ở đồng bào dân tộc thiểu số huyện
Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
Chương 3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
B. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Cơ sở lý luận về nghèo đói
1.1.1. Khái niệm về nghèo đói
Quan niệm nghèo đói được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc
vào cách tiếp cận, thời gian nghiên cứu và sự phát triển kinh tế của một quốc
gia.

Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith cho rằng: “ Con người bị coi là
nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại,
rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi họ không có những gì
mà đa số trong cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng
mức”.
Abapia Sen, chuyên gia hàng đầu của tổ chức Lao động Quốc tế,
người được giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1998 cho rằng: “ Nghèo là
tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la (USD ) mỗi ngày cho
mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn
tại”.

10


Ngân hàng thế giới(WB) cho rằng: “ Nghèo là khái niệm đa chiều vượt
khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa
trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến dinh dưỡng, sức
khỏe, giáo dục, dễ bị tổn thương không có quyền phát ngôn và không có
quyền lực”.
Ở Việt Nam có nhiều luồng ý kiến, song cũng đều đồng nhất cho rằng:
“Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn
một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện”.
[19]
Các khái niệm liên quan đến nghèo đói:
Nghèo tuyệt đối: “ Là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu
cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và
phong tục tập quán của địa phương”[9;6]
Xã hội ngày càng phát triển đời sống con người ngày càng được cải

thiện, đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu cơ bản cao hơn, tất nhiên không phải
tất cả các nhóm dân cư đều có tốc độ cải thiện giống nhau thông thường thì
nhóm không nghèo có tốc độ tăng mức thu nhập, mức sống cao hơn nhóm
nghèo. Có thể khái quát qua bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1: Quy định về chuẩn nghèo đói (theo chuẩn quốc gia)
Chuẩn nghèo qua
các giai đoạn
Giai đoạn 1993 1995 (Mức chỉ
tiêu lương thực
quy gạo/ tháng)
Giai đoạn 1997 2000 (Mức thu
nhập quy ra gạo

Phân loại người
nghèo đói
Hộ đói ở nông thôn
Hộ đói ở thành thị
Hộ nghèo ở nông
thôn
Hộ nghèo ở thành thị
Hộ đói

11

Mức thu nhập bình
quân/người/tháng
Dưới 80kg/người/tháng
Dưới 13kg/người/tháng
Dưới 15kg/người/tháng
Dưới 20kg/người/tháng

Dưới 13kg
gạo/người/tháng tương
đương 45.000 đồng


tương đương với Hộ nghèo ở vùng
số tiền)
nông thôn, miền núi,
hải đảo
Hộ nghèo ở vùng
nông thôn, đồng
bằng trung du
Hộ nghèo ở vùng
thành thị
Giai đoạn 2001 2005 (Mức thu
nhập tính bằng
tiền)

Giai đoạn 2006 2010 (Mức thu
nhập tính bằng
tiền)
Giai đoạn 2011 2015
(Mức thu nhập
tính bằng tiền)
Giai đoạn 2016 2020.
Chuẩn nghèo đa
chiều. (Mức thu
nhập tính bằng
tiền)


Hộ đói
Hộ nghèo ở khu vực
nông thôn, miền núi
và hải đảo
Hộ nghèo ở nông
thôn, đồng bằng
Hộ nghèo ở khu vực
thành thị
Hộ nghèo ở khu vực
nông thôn
Hộ nghèo ở khu vực
thành thị
Hộ nghèo ở nông
thôn
Hộ nghèo ở thành thị

Hộ nghèo ở nông
thôn
Hộ nghèo ở thành thị

Dưới 15kg
gạo/người/tháng tương
đương 55.000 đồng
Dưới 20kg
gạo/người/tháng tương
đương 70.000 đồng
Dưới 25kg
gạo/người/tháng tương
đương 90.000 đồng
Dưới 50.000

đồng/người/tháng
Dưới 80.000
đồng/người/tháng
Dưới 100.000
đồng/người/tháng
Dưới 150.000
đồng/người/tháng
Dưới 200.000
đồng/người/tháng
Dưới 260.000
đồng/người/tháng
Dưới 400.000
đồng/người/tháng
(từ 4.800.000
đồng/người/năm)
Dưới 500.000
đồng/người/tháng
(từ 6.000.000
đồng/người/năm)
700.000 đồng/người/tháng
900.000 đồng/người/tháng

Chuẩn nghèo được áp dụng cho tất cả các địa phương và vùng lãnh
thổ. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội và kết quả

12


xóa đói giảm nghèo của từng địa phương, nếu có ba điều kiện sau thì có thể
đưa ra chuẩn đói nghèo cao hơn chuẩn đói nghèo tối thiểu:

- Thu nhập bình quân đầu người của địa phương cao hơn thu nhập
bình quân của cả nước.
- Có tỉ lệ nghèo thấp hơn bình quân cả nước.
- Có đủ nguồn lực cân đối cho các giải pháp xóa đói giảm nghèo
Nghèo tương đối: “ Là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương”[9;6]
Theo cách xác định này , nghèo tương đối xuất hiện bất chấp qui mô
của nghèo đói tuyệt đối hay nói cách khác có thể xóa bỏ nghèo đói tuyệt đối
chứ không thể xóa bỏ được nghèo đói tương đối.
Để đánh giá nghèo đói, người ta thường sử dụng khái niệm nghèo đói
tuyệt đối vì nó cho phép phân tích có tính so sánh, trong khi nghèo đói
tương đối được coi là tiêu chuẩn đánh giá sự công bằng của Chính phủ với
một bộ phận dân cư có thu nhập thấp.
Qua các định nghĩa trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo
đói: “ Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều
kiện về cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được
tham gia vào các quyết định của cộng đồng”.[19]
Tóm lại, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính đương đối. Tính
chất và đặc trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên,
nhân tố chính trị, văn hóa và trình độ phát triển kinh tế- xã hội của vùng,
miền, quốc gia, khu vực.
1.1.2. Khái niệm về xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo: Là tổng thể các quan điểm, tư tưởng các giải
pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế
xã hội nhằm giải quyết những vấn đề nghèo đói, thực hiện mục tiêu xóa đói
giảm nghèo từ đó xây dựng một đất nước giàu mạnh.[9;7]

13



Xóa đói giảm nghèo phải đặt trong chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội của từng vùng, từng địa phương. Phải tìm ra cho được lợi thế của mình
để bố trí chiến lược và sách lược phát triển kinh tế của mình. Đồng thời,
XĐGN cũng là một chiến lược của Chính phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn
đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Xóa đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của
tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là
nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát
triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và đảm bảo sự ổn định cho
giai đoạn “cất cánh”.
1.1.3. Tiêu chuẩn đánh giá đói nghèo
Để xác định chuẩn nghèo đói phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tếxã hội, phong tục tập quán của từng quốc gia, từng địa phương, song trong đó
có một phần của yếu tố chủ quan của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính
sách.
Chuẩn nghèo: “ Là tổng thể chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và
phi lương thực, thực phẩm bình quân cho một người gọi là chuẩn nghèo.
Những người có thu nhập thấp hơn chuẩn nghèo được xếp vào nhóm
người.
Chuẩn nghèo là khái niệm động theo không gian và thời gian, nó thay
đổi theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội theo từng vùng, về thời gian
chuẩn nghèo thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và nhu cầu
của con người trong từng giai đoạn lịch sử”[9;7]
Để đánh giá đói nghèo, ở Việt Nam cũng như thế giới đã đặt ra các
chuẩn nghèo cụ thể như sau:
* Chuẩn nghèo thế giới
Tư tưởng cốt lõi và căn bản nhất để một người bị coi là nghèo đói, đó
là “sự thiếu hụt”. Theo quan niệm của viện Ngân hàng Thế giới(WB), nghèo

14



đói là sự thiếu hụt so với mức sống nhất định mà sự thiếu hụt này được xác
định theo các chuẩn mực xã hội và phụ thuộc vào không gian và thời gian.
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) thì hiện nay trên thế giới
có khoảng 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn là phụ
nữ và trẻ em.
Tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do ESCAP tổ chức tại Băng
Cốc Thái Lan tháng 9.1993 đã đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: “ Đói
nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo
trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa
phương”.[9;8]
Thế giới có hai hướng đánh giá sự giàu, nghèo: quốc gia giàu, nghèo
và người giàu, nghèo.
Để đánh giá mức độ giàu, nghèo của các quốc gia, Ngân hàng thế
giới đưa ra chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người, theo tỷ giá hối
đoái và tính theo USD thì phân thành 6 loại giàu nghèo của các nước như
sau:
-

Trên 25000 USD / năm là nước cực giàu

-

Từ 20000 đến dưới 25000 USD/ năm là nước cực giàu

-

Từ 10000 đến dưới 20000 USD/ năm là nước khá giàu


-

Từ 2500 đến dưới 10000 USD/ năm là nước trung bình

-

Từ 500 đến dưới 2500 USD/ năm là nước nghèo

-

Dưới 500 USD/ năm là nước cực giàu
Ngoài ra dựa vào mức sống dân cư, Ngân hàng thế giới( WB ) đã đưa
ra 2 chuẩn nghèo:

-

Chuẩn nghèo lương thực: đó là số lương thực thực phẩm tiêu thụ phải đáp
ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng calo là 2.100 calo/người/ngày

15


-

Chuẩn nghèo chung: là chuẩn nghèo bao gồm cả chi tiêu cho sản phẩm phi
lương thực

-

Ngân hàng phát triển Châu Á dựa trên các thành phần khác nhau về mức

sống như lương thực, y tế, giáo dục, vải vóc, nhiên liệu... để xác định giới
hạn nghèo. Theo định nghĩa này một người được xem là nghèo nếu có mức
sống dưới mức tối thiểu đã được chấp nhận.
Tóm lại, những tiêu chí phân định đói nghèo do cách tiếp cận khác
nhau nên có những kiến giải khác nhau. Như vậy, có thể kết luận rằng quan
niệm đói nghèo các nước, các quốc gia, khu vực khác nhau, là không giống
nhau và đói nghèo chỉ là quan niệm có tính chất tương đối.
* Theo chuẩn nghèo Việt Nam
Nghèo đói ở Việt Nam là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế
của người dân chỉ giành toàn bộ cho chi ăn uống, thậm chí không đủ cho ăn
uống, nên phần tích lũy không có, vì vậy các nhu cầu tối thiểu ngoài ăn ra các
mặt khác như ở, văn hóa, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít
không đáng kể.
Theo báo cáo phát triển Việt Nam tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ
Việt Nam năm 2003 đã nêu rõ:
“ Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không đủ các điều kiện vật
chất và tinh thần để duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu trong điều kiện
chung của cộng đồng. Mức sống tối thiểu gồm: ăn, mặc, ở, học hành, đi lại,
chữa bệnh... Đói là bộ phận của những người nghèo, không những không
đủ các nhu cầu cơ bản tối thiểu mà không đủ lương thực để duy trì cuộc
sống hằng ngày. Hay nghèo đói là tình trạng thua kém về nhiều mặt, từ thu
nhập đến tính dễ bị tổn thương khi bị rủi ro và ít có khả năng tham gia vào
quá trình ra quyết định chung”.

16


Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo lường mức độ nghèo
của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn này khác với chuẩn nghèo bình quân
trên thế giới.

Ở Việt Nam việc đưa ra tiêu chí để xác định đói nghèo là một vấn đề
hết sức quan trọng vì nó liên quan đến các chính sách của Đảng và Nhà
nước và đặc biệt là các chương trình dự án cho công tác XĐGN trong từng
thời kỳ. Hiện nay ở Việt Nam một loạt các chỉ tiêu về nghèo đói và phát
triển đang được sử dụng. Theo Bộ LĐTB- XH dùng phương pháp dựa trên
thu nhập của hộ, còn Tổng cục thống kê thì dựa vào cả thu nhập và chi tiêu
theo đầu người để tính tỷ lệ nghèo; Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn
tính chỉ số phát triển con người HDI ở cấp tỉnh, nhưng có thể xác lập chỉ
tiêu đáng giá về nghèo đói theo theo các chỉ tiêu chính sau: Thu nhập và chi
tiêu của hộ; đồ dùng sinh hoạt; nhà ở và gía trị tài sản; chỉ tiêu về vốn để
dành.
1.1.4. Đặc điểm của đói nghèo
Nghèo đói thường tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng ven thành thị
và một số ít sống ở thành thị, ở mỗi môi trường sống người nghèo biểu hiện
đặc điểm khác nhau. Ở nông thôn thu nhập chủ yếu của người nghèo là từ
sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và trồng trọt; ở thành thị thu nhập của họ
chủ yếu thuộc vào việc làm thuê, làm mướn và bán sức lao động để kiếm
tiền
1.1.4.1. Xét về mặt đối tượng
Những hộ gia đình có thu nhập thấp hoặc thậm chí không có thu nhập
mà phụ thuộc vào các nguồn trợ cấp, nguồn thu nhập không ổn định, chủ yếu
từ nông nghiệp hoặc từ việc bán sức lao động, không có việc làm thường
xuyên, thường không có thu nhập phụ, nguồn thu nhập dành cho tích lũy mở
rộng sản xuất của các hộ nghèo là rất thấp hoặc không có vì phần lớn đều
dành cho chi tiêu, sinh hoạt hằng ngày của gia đình, có ít tài sản và tài sản có

17


giá trị thấp, nhà cửa chất lượng kém, một số hộ không có nhà mà phải ở thuê

hoặc ở nhờ nhà người khác.
Những hộ có số nhân khẩu trong gia đình cao hơn bình quân
chung.Hệ quả là quy mô gia đình càng lớn thì thu nhập bình quân đầu
người sẽ giảm và khả năng nghèo đói của hộ càng cao. Theo báo cáo quốc
gia giai đoạn 2011 - 2014 Việt Nam giữ vững tốc độ tăng GDP ổn định, cụ
thể: năm 2012 đạt 5,25%, 5,42% năm 2013, 5,98% năm 2014 và năm 2015
đạt 6,2%. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015, tỷ lệ nghèo cũng giảm
xuống đáng kể từ 14,2% năm 2010 còn 9,8% năm 2013. Mức sống của
người nghèo cũng được cải thiện. Những thay đổi tích cực đã đem lại diện
mạo mới cho khu vực nông thôn và miền núi. Chất lượng y tế tại các cơ sở
khám chữa bệnh, kiểm soát bệnh dịch đã được cải thiện rõ rệt.
1.1.4.2. Thu nhập bình quân trên đầu người
Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có
mức thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người
nghèo thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, thu
nhập chẳng được bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại thường rất
bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có tính
rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ
lụt, hạn hán, động đất…). Các nghề thuộc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp là ví dụ cho vấn đề này.
Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của những người
nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người
như cái ăn, cái mặc, cái ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thẩm chí
còn không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến
vấn đề đủ dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng calo cần thiết, tối thiểu cho con
người để có thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng
được, hoặc đáp ứng một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các

18



vấn đề khác như làm giảm sức khỏe của người nghèo, do đó làm giảm
năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập… cứ như thế, nó đã tạo nên vòng
luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra.
Phần lớn thu nhập của các hộ nghèo chỉ đáp ứng được nhu cầu thiết
yếu nhất trong cuộc sống. Các hộ nghèo thường có khuynh hướng chi vượt
khỏi thu.
Do nguồn thu nhập ít ỏi nên hầu như phần lớn thu nhập chủ yếu
được sử dụng để đáp ứng nhu cầu ăn uống hằng ngày của các hộ nghèo.
Nhìn chung, mức chi cho ăn uống chiếm tỉ trọng lớn trong tổng chi tiêu
thường xuyên của các hộ nghèo, trung bình khoảng 70% cơ cấu tiêu
dùng, còn lại để chi cho khám bệnh, đi lại…
Cuộc sống của các hộ nghèo thường phải phụ thuộc người khác như
phải vay vốn lãi suất cao chỉ để thỏa mãn nhu cầu thiết yếu, tối thiểu( ăn,
mặc,ở…); đối với những hộ nghèo mà nguồn thu nhập chủ yếu từ lao động
làm thuê thì còn phải phụ thuộc vào nhu cầu nhân công và từng thời điểm,
mùa vụ cần thuê lao động; hộ nghèo còn dễ bị ảnh hưởng trước những biến
động của thị trường, giá cả, sản phẩm làm được bán ra thì rẻ, trong khi
mua vào lại hết sức đắt đỏ. Năm 2011, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực
phẩm của thành thị là 6,7%, nông thôn là 22,9%.
Nhiều hộ gia đình mức thu nhập khá cao (600.00-650.000 đồng/
người/ tháng), nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói ( theo chuẩn
giai đoạn 2011-215 thu nhập từ 400.000đồng/người/tháng)
1.1.4.3. Trình độ phát triển văn hóa giáo dục
Cơ hội tiếp cận giáo dục và các dịch vụ xã hội của những người nghèo
rất khó khăn. Thu nhập của các hộ nghèo phần lớn sử dụng cho nhu cầu về
ăn uống và sinh hoạt, các chi phí giành cho giáo dục, y tế, văn hóa… rất eo
hẹp. Do đó ở những hộ nghèo, trình độ học vấn của chủ hộ và con em
thường rất thấp, trẻ em bỏ học giữa chừng chiếm tỷ lệ cao.


19


Hiện nay, môi trường giáo dục là nơi đào tạo ra con người có trình
độ tri thức cao nhằm đáp ứng cho nhu cầu lao động của xã hội. Giáo dục có
nhiệm vụ đi trước, đón đầu để đào tạo ra đội ngũ lao động chuyên nghiệp.
Dù ở bậc trung học hay phổ thông chương trình giáo dục đều giành một số
tiết để hướng nghiệp cho học sinh, giúp các em có nhiều sự lựa chọn khi
không đủ điều kiện học tập tiếp. Do đó, giáo dục là động lực thúc đẩy, nâng
cao đội ngũ lao động, không được giáo dục đồng nghĩa với việc không đủ
năng lực để đáp ứng nhu cầu về nhân lực của xã hội.
Trước đây khi chưa có chính sách phổ cập giáo dục, phần lớn con em
của những gia đình không có điều kiện, phải sớm lao vào cuộc sống xã hội
khi chưa đủ độ tuổi lao động hoặc chưa được trang bị những kiến thức cơ
bản về các ngành nghề. Bước vào cuộc sống lao động họ chủ yếu là lao động
bằng chân tay, một phần vì chưa đủ sức khỏe và không có năng lực, vì vậy,
những thành phần ấy sớm bị sa thải và trở thành người thất nghiệp.
Trong thời đại CNH- HĐH toàn cầu, với sự phát triển chóng mặt của
nền công nghệ hiện đại, đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ ngày càng cao.
Trong các cơ sở sản xuất họ thay sức lao động của con người bằng máy
móc, do đó người công nhân trong thời kỳ hiện đại đòi hỏi phải có trình độ
kỹ thuật cao, ít nhất là phải có hiểu biết cơ bản về cơ chế hoạt động của
thiết bị máy móc. Nếu không được đào tạo một cách đúng đắn và không có
kiến thức cơ bản thì rõ ràng họ không thể đáp ứng được yêu cầu của nhà
tuyển dụng, ngay cả khi là công nhân.
Chính vì những lí do đó, có thể thấy rằng trình độ văn hóa giữ vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển của nền kinh tế xã hội.
1.1.5. Nguyên nhân của đói nghèo ở Việt Nam
1.1.5.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, những người nghèo là những người có trình độ học vấn

thấp, thiếu hiểu biết, không có điều kiện để tiếp thu khoa học, kỹ thuật

20


vào sản xuất. Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm
trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc
mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. Mặt khác, do kiến thức hạn
chế họ không có khả năng phân tích thị trường để có định hướng sản
xuất kinh doanh những sản phẩm mang lại thu nhập cao.
Thứ hai, quy mô hộ gia đình lớn, bởi quy mô hộ gia đình ảnh hưởng
đến nhiều yếu tố KT- XH. Những hộ gia đình sinh nhiều con, đẻ dày một mặt
sẽ hạn chế sức lao động của người mẹ, mặt khác lại phải tốn thêm một khảo
chi phí để nuôi con nhỏ, chưa kể đến việc sức khỏe người mẹ bị ảnh hưởng
khi sinh nhiều, đẻ dày. Sinh đẻ không có kế hoạch làm quy mô gia đình tăng
và tỷ lệ người ăn theo cao là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói
của hộ
Thứ ba, đối với hộ gia đình thu nhập thấp, trong nền kinh tế ngày nay
càng phát triển thì thu nhập của họ chỉ đủ chi tiêu cho các khoản sinh hoạt
hằng ngày. Vì thế họ không đủ vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc
nếu có thì nguồn vốn quá eo hẹp, manh mún. Thiếu thốn sản xuất kinh
doanh cũng là nguyên nhân khiến cho các hộ nghèo rơi vào vòng luẩn quẩn
của nghèo đói và không có động lực để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó.
Thứ tư, chi tiêu không có kế hoạch, không tính toán cũng là nguyên
nhân chủ quan gây nên nghèo đói. Chi tiêu không có kế hoạch dẫn đến
thường thiếu ăn trong những tháng giáp hạt. Để đảm bảo nhu cầu sống và
sản xuất tiếp theo họ phải vay mượn có khi phải vay nặng lãi. Điều đó làm
cho khó khăn của họ ngày càng khó khăn hơn.
Thứ năm, một nguyên nhân về chủ quan của hộ nghèo đói là do trong
gia đình có người mắc tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, con cái quậy phá,

gia đình bất ổn. Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến
thu nhập và chi tiêu của hộ nghèo, một mặt họ phải chịu gánh nặng mất đi
thu nhập từ lao động, một mặt gánh chịu chi phí cao cho việc khám, chữa

21


bệnh, kể cả chi phí trực tiếp và gián tiếp làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn của
đói nghèo.
Thứ sáu, xã hội luôn quan tâm đến người nghèo, họ thường được hỗ
trợ về vật chất cũng như các dịch vụ khác để có thể thoát nghèo. Thế nhưng
một số người nghèo lại ỷ vào sự giúp đỡ đó, đã lười lao động, không chịu
khó, muốn bao cấp, từ đó họ không có ý thức vươn lên thoát nghèo gây nên
nghèo đói và hiện tượng “ tái nghèo”
1.1.5.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, những biến động về chính trị- xã hội, chiến tranh, thiên tai,
dịch bệnh, điều kiện sản xuất kinh doanh khó khăn là một trong những
nguyên nhân làm cho người dân rơi vào tình trạng nghèo đói. Do nguồn
thu nhập bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống
chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống như mất mùa, thiên tai, đau
ốm, tai nạn… Với khả năng kinh tế mỏng manh của các hộ gia đình nghèo
trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn
trong cuộc sống của họ. Những vùng dễ bị lũ lụt, bão hoặc hạn hán thường
có tỷ lệ hộ nghèo cao. Đối với những địa phương kinh tế- xã hội(KT- XH)
chậm phát triển nguy cơ nghèo cao hơn so với địa phương có kinh tế phát
triển
Thứ hai, rủi ro gặp phải trong cuộc sống như ốm đau, tai nạn lao
động, tai nạn giao thông, thất nghiệp… cũng là nguyên nhân làm cho
người dân trở nên nghèo đói. Những rủi ro trong cuộc sống hay gặp phải
trong khi không có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, khả năng đối phó

và khắc phục rủi ro còn hạn chế.
Thứ ba, sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể
hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền
đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy

22


kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như
thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến hơn 700% năm.
Thứ tư, việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập
thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong thời gian dài đã làm thui chột
động lực sản xuất.
Thứ năm, cơ sở hạ tầng còn quá thiếu thốn và lạc hậu, điển hình là
giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Đặc biệt là ở các vùng núi, vùng sâu
vùng xa đi lại khó khăn, người dân khó tiếp cận với thị trường, khoa học kỹ
thuật, mở rộng sản xuất.
1.2. Cơ sở thực tiễn về xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
1.2.1. Thực trạng đói nghèo và chương trình xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam
1.2.1.1. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam
Năm 1998 lần đầu tiên giảm nghèo đã trở thành một chính sách nằm
trong hệ thống chính trị xã hội của quốc gia. Từ đó đến nay, công tác xóa
đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như:
luôn đạt và vượt mức chỉ tiêu thiên niên kỉ về giảm nghèo trước 10 năm.Từ
năm 1992 đến năm 1998 với rất nhiều nỗ lực, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam
bình quân mỗi năm giảm từ 2-3%. Đến hết năm 2010 tỷ lệ nghèo của Việt
Nam là 9,45%, vượt mức mục tiêu đề ra là 10%.
Hội nghị trung ương lần thứ 5(khóa VII) đã đề ra chủ trương XĐGN
trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như

trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trợ thành một chủ
trương chiến lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ
Đại hội của Đảng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan
trọng đặc biệt của công tác XĐGN , xác định phải nhanh chóng đưa các hộ
nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm hòa hợp với phát triển

23


chung của đất nước; đề ra Chương trình quốc gia về XĐGN trong 5 năm
1996- 2000 cùng với 10 Chương trình kinh tế- xã hội khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính
thức phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN ( chương trình
133) cho chương trình 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ
tiếp tục bổ sung Chương trình 135-Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ
tầng thiết yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Mục tiêu chính của Chương trình này là hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng như:
hệ thốn đường giao thông, trường học, trạm y tế… tại 1715 xã nghèo nói
trên. Kết quả là đến năm 2000 tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10% theo chuẩn
cũ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy, không thể chỉ theo đuổi mục
tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững kết quả giảm nghèo đã
đạt được, tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác giảm nghèo,
đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quan điểm
giảm nghèo bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng là: “ Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xoa đói
giảm nghèo. Quan tâm xây dựng cơ sở hậ tầng cho các vùng nghèo, xã
nghèo với nơi khác, tạo điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó
khăn phát triển. Đi đôi với việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi

trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo
đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh thu nhập… nâng
dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng thoát nghèo”.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “ Trong điều kiện xây dựng nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu
nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người
nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách… Nhà nước tăng đầu tư từ
ngân sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất- kỹ thuật để nâng cao phúc lợi

24


chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản,
trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng
chính sách… Và dịch vụ công cộng lên quan trực tiếp đời sống nhân dân và
là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội”.[20]
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định:
“Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời
kỳ, đa dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền
vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn,
khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập bình
quân khá trở lên. Có các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế
phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành
thị”.[20]
Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục
tiêu cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011-2020: Giảm nghèo bền vững
là một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai
đoạn 2011-2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của
người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dan tộc thiểu số;
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng

cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và
các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5
lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã nghèo
4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn; Điều kiện sống của người
nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa,
nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các
dịch vụ xã hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội ở các huyện nghèo; xã
nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo
tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông, điện,
nước sinh hoạt.

25


×