Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.73 KB, 26 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU

Với tư cách là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình Công
nghiệp hóa, vấn đề Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì Công
nghiệp hoá luôn được các nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm sâu sắc. Các
công trình nghiên cứu về kinh tế học phát triển, về những bài học kinh
nghiệm Công nghiệp hoá của các nước “đi trước”, các phân tích chính sách
Công nghiệp hoá khuyến nghị cho những nước đang phát triển “đi sau”
hiện nay…đều coi vấn đề Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một trong
những điểm trọng tâm của thời kì Công nghiệp hoá.
Ở Việt Nam, vấn đề Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì
Công nghiệp hóa đã được quan tâm từ rất lâu. Chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế là vấn đề mang ý nghĩa chiến lược, tầm vóc lớn lao cả về phương
diện lí luận lẫn thực tiễn đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi mà chúng ta
đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, em đã chọn đề tài này nhằm tìm
hiểu những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và
kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Phần I: Lí luận về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành
2


kinh tế
1. Cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể
kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng


và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình
thành trong những điều kiện kinh tế-xã hội nhất định, luôn luôn vận động
và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Như vậy, cần phải hiểu cơ cấu ngành kinh tế theo những nội dung sau:
Trước hết, đó là số lượng các ngành kinh tế được hình thành. Số
lượng ngành kinh tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát
triển của phân công lao động xã hội. Từ đầu thế kỉ 19, nhà kinh tế học
Colin Clark căn cứ vào tính chất chuyên môn hoá của sản xuất đã chia
thành ba nhóm ngành: khai thác tài nguyên thiên nhiên( gồm nông nghiệp
và khai thác khoáng sản); công nghiệp chế biến; sản xuất sản phẩm vô
hình. Liên hợp quốc (UN) sau này, căn cứ vào tính chất hoạt động sản xuất
đã chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và gọi
sản xuất sản phẩm vô hình là dịch vụ.
Nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động
xã hội, biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các
ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Các ngành kinh
tế được phân thành ba khu vực hay gọi là ba ngành gộp: Khu vực I bao
gôm các ngành nông-lâm-ngư nghiệp; khu vực II là các ngành công nghiệp
và xây dựng; khu vực III gồm các ngành dịch vụ.
Thứ đến, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ
giữa các ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và
chất lượng. Mặt số lượng thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động,
vốn…) của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh
chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng của từng ngành và tính chất của
sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại giữa các
ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác
động cùng chiều và ngược chiều, còn mối quan hệ gián tiếp được thể hiện
theo các cấp 1,2,3…Quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp là mối quan
hệ truyền thống, xuyên suốt mọi giai đoạn phát triển xã hội. Nông nghiệp
yêu cầu cần có sự tác động của công nghiệp đối với tất cả các yếu tố đầu

vào, cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Công nghiệp cung cấp cho nông
nghiệp phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, các công cụ sản xuất, máy móc
thiết bị phục vụ cho việc cơ giới hoá sản xuất. Sản phẩm nông nghiệp qua
3


chế biến sẽ được nâng cao chất lượng và hiệu quả: làm cho sản phẩm trở
nên đa dạng về mẫu mã, phong phú về khẩu vị, vận chuyển và dự trữ được
thuận lợi. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến, thực phẩm cho công nhân lao động, cho mở rộng hoạt động sản
xuất công nghiệp và nó còn là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm công
nghiệp. Công nghiệp và nông nghiệp được gọi là các ngành sản xuất vật
chất, thực hiện chức năng sản xuất trong quá trình tái sản xuất. Để những
sản phẩm của hai ngành này đi vào tiêu dùng cho sản xuất hoặc tiêu dùng
cho đời sống phải qua phân phối và trao đổi. Những chức năng này do hoạt
động dịch vụ đảm nhận. Các hoạt động dịch vụ như thương mại, vận tải,
thông tin, ngân hàng, bảo hiểm…đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được
liên tục. Không có sản phẩm hàng hoá thì không có cơ sởcho các hoạt động
dịch vụ tồn tại. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, đời sống nhân dân càng
nâng cao thì nhu cầu dịch vụ càng lớn. Nói chung, mối quan hệ của các
ngành cả số và chất lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên
phức tạp hơn theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao
động xã hội trong nước và quốc tế.
Xét trên khía cạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế thì dạng cơ cấu
ngành được xem là quan trọng nhất, được quan tâm, nghiên cứu nhiều nhất.
Vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất,
phân công lao động chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất. Trạng thái cơ cấu
ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Khái niệm:

Quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái
khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát
triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn luôn thay đổi
theo từng thời kì phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định
(như: sự phát triển của sản xuất; sự phát triển, thay đổi của các yếu tố
nguồn lực; thay đổi của cung cầu trong nền kinh tế…)
Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là thay đổi về số lượng các
ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí, tính
chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu
ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển
dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu
mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ xung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành
cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế :
4


Khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỉ trọng nông nghiệp trong tổng
sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng
lên. Khi nền kinh tế bước sang những giai đoạn phát triển cao thì tốc độ
tăng của ngành dịch vụ sẽ ngày càng cao hơn so với tốc độ tăng của ngành
công nghiệp. Trong ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành sản xuất sản
phẩm có dung lượng vốn cao ngày càng lớn và gia tăng với tốc độ nhanh,
tỷ trọng các ngành sản phẩm có dung lượng lao động cao sẽ giảm dần. Đối
với ngành dịch vụ, theo sự phát triển kinh tế, các ngành dịch vụ chất lượng
cao như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, luật, giáo dục, y tế, du lịch sẽ có
tốc độ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao.Nền kinh tế chuyển dịch từ cơ cấu
đóng sang cơ cấu mở, nghĩa là phát triển các ngành có dấu hiệu lợi thế ( lợi
thế tuyệt đối, lợi thế so sánh, lợi thế nguồn lực).

Tuy tất cả các nước có xu hướng chuyển dịch cơ cấu như nhau
nhưng tốc độ chuyển dịch lại không giống nhau vì bị chi phối bởi nhiều
yếu tố khác nhau về tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, kĩ thuật và văn
hoá của mỗi nước.
Ý nghĩa
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục và
gắn liền với sự phát triển kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát triển, tính chất
bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch
cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài
và các lợi thế tương đối của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội.Và trong thời kì công
nghiệp hoá, nó phản ánh mức độ đạt được của quá trình công nghiệp hoá.
Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành với sự phát triển chung của
nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả một động thái
về phân bố các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời điểm
nhất định vào những hoạt động sản xuất riêng. Sự chuyển dịch cơ cấu
ngành thể hiện tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Trong nền kinh tế
hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn và
chuyển dịch hợp lí cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả
năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho
sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập thắng lợi.

5


2. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.1. Khái niệm
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận trong hệ
thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Nó xác định các mục tiêu cần đạt
tới về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì kế hoạch và đưa ra

các chính sách, giải pháp cần thiết để thực hiện mục tiêu đó một cách có
hiệu quả nhất.
2.2. Nhiệm vụ
Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là mang tính quy luật,
nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả
các nước. Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như
cần ưu tiên cho nông nghiệp đến mức độ nào so với công nghiệp trong thời
kì đầu phát triển, các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua từng
thời kì. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế là :
- Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề về kinh tế - xã hội, khoa học, công
nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước.
- Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng các quan
hệ tỉ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung
và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể.
- Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ
cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo được cơ cấu đầu ra theo
hướng đã xác định.
- Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội cần thiết để hướng
dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.3. Vai trò trong hệ thống kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận trong hệ
thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế. Nó là bộ phận kế hoạch mục tiêu,
phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (ở góc độ kinh tế).Nó gắn liền
với kế hoạch tăng trưởng và kế hoạch các yếu tố nguồn lực.
2.4. Nội dung kế hoạch
a. Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch thời kì trước và các nhân tố

tác động đến kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì kế
hoạch
Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch ở thời kì trước về các mặt: tỷ
trọng đóng góp của từng ngành trong GDP, cơ cấu lao động làm việc trong
6


các ngành kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành… để thấy được cơ cấu
ngành kinh tế đang chuyển dịch theo hướng nào, sự chuyển dịch trong nội
bộ ngành ra sao, những thành tựu đạt được và những hạn chế còn tồn tại,
rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, biết được hiện tại chúng ta đang
ở đâu, có những thuận lợi và khó khăn gì khi bước vào thời kì kế hoạch. Từ
đó để có thể đề ra được một kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành hợp lý cho
thời kì tiếp theo và thực hiện thắng lợi kế hoạch đó.
Nhìn chung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một nước
thường chịu tác động của các nhân tố sau:
* Ở trong nước đó là:
- Các lợi thế về tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát triển ngành
sản xuất nào một cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình độ
nguồn nhân lực; những điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước.
- Ngoài ra, nhu cầu của từng xã hội, thị trường ở mỗi giai đoạn lại là cơ
sở để sản xuất phát triển đáp ứng nhu cầu không chỉ về số lượng mà cả chất
lượng hàng hóa, từ đó dẫn đến những thay đổi về vị trí, tỷ trọng của các
ngành nghề trong nền kinh tế.
- Mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế của từng quốc gia
có tác động quan trọng đến sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vì mặc dù cơ
cấu kinh tế mang tính khách quan, tính lịch sử xã hội nhưng lại chịu tác
động, chi phối rất lớn bởi mục tiêu của Nhà nước. Nhà nước có thể tác
động gián tiếp lên tỷ lệ của cơ cấu ngành kinh tế bằng các định hướng phát
triển, đầu tư, những chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển các

ngành nghề nhằm bảo đảm sự cân đối của nền kinh tế theo mục đích đề ra
trong từng giai đoạn nhất định.
- Cuối cùng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước cho
phép sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm, hiệu quả đến mức
nào...
* Bên cạnh những nhân tố tác động từ bên trong, những nhân tố tác
động từ bên ngoài gồm có:
- Xu hướng chính trị, kinh tế, xã hội của khu vực và thế giới. Sự biến
động của chính trị, kinh tế, xã hội của một nước, hay một số nước, nhất là
các nước lớn sẽ tác động mạnh mẽ đến dòng hàng hóa trao đổi, từ đó ảnh
hưởng đến nguồn thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ... buộc các
quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế của
mình nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và sự phát triển trong động thái chung
của thị trường thế giới.
- Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay có tác động rất mạnh mẽ
đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng nước, vì chính sự phân công
7


lao động diễn ra trên phạm vi quốc tế ngày càng sâu sắc và cơ hội thị
trường rộng lớn được mở ra trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế,
cho phép các nước có khả năng khai thác những thế mạnh của nhau để trao
đổi các nguồn lực, vốn, kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả...
Quá trình đó vừa bắt buộc, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phân công lao động trên
quy mô toàn thế giới.
- Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng
nổ của công nghệ thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh
vực sản xuất góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
các nước vì thông tin nhanh chóng làm cho sản xuất, kinh doanh được điều

chỉnh nhanh nhạy, hợp lý hơn, dẫn đến cơ cấu sản xuất được thay đổi phù
hợp hơn với thị trường và lợi ích của từng nước.
Dưới tác động tổng hợp của các nhân tố trên, các ngành kinh tế (thông
thường bao gồm 3 ngành chính: nông, lâm nghiệp, thủy sản - còn gọi là
nông nghiệp; công nghiệp, xây dựng - còn gọi là công nghiệp; và dịch vụ)
phát triển một cách không đồng đều, tạo nên những tỷ lệ khác nhau trong
cơ cấu ngành kinh tế của các nước. Song điểm đáng lưu ý là trong thời đại
ngày nay, bất cứ nhà nước nào cũng đều quan tâm xác định cho nền kinh tế
của nước mình phát triển theo hướng có lợi nhất và phấn đấu đạt được cơ
cấu kinh tế đem lại hiệu quả cao. Vì vậy, và qua những thực tiễn, hầu hết
các nước hiện nay đều lựa chọn mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
nước mình theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu nhằm phát huy mọi lợi thế của
đất nước, tham gia được vào sự phân công lao động trên quy mô toàn thế
giới, tận dụng mọi cơ hội đem lại của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang
diễn ra ngày càng sâu rộng.
b. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì kế
hoạch.
Mục tiêu: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ trong GDP, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Định hướng: phát triển các ngành kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so
sánh của từng ngành, chú trọng đối với các lĩnh vực quan trọng nhằm tạo ra
sự chuyển dịch trong nội bộ ngành.
Tuỳ từng giai đoạn phát triển cụ thể, mục tiêu và định hướng được điều
chỉnh cụ thể hơn cho phù hợp với giai đoạn đó.
Các mục tiêu và định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có vai trò
làm cơ sở để định hướng sự phát triển, xác định các chỉ tiêu cụ thể cần đạt
được trong thời kì kế hoạch. Từ đó đề ra các giải pháp, phương án thực
hiện.
8



c. Xác định các chỉ tiêu kế hoạch

Các chỉ tiêu
Vì cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỉ lệ
giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên khi đánh giá quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần chú ý cả những quan hệ tỉ lệ về mặt lượng
cũng như phân tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi)
của các mối tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá,
không thể không chú ý tới những đặc điểm riêng cuả mỗi loại cơ cấu kinh
tế. Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế những tiêu chí cơ
bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô bao gồm: cơ cấu GDP,
cơ cấu lao động, cơ cấu vốn
• Các phương pháp tiếp cận.
Phương pháp tiếp cận theo mô hình I/O
Mô hình này nghiên cứu những mối quan hệ tỷ lệ cân đối đặc trưng cho
việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ giữa khối lượng
sản phẩm và chi phí để sản xuất ra những sản phẩm này.
Nguyên lí của mô hình: đứng trên góc độ phân tích sự giao lưu của sản
phẩm hàng hoá từ khi ra đời, chuyển từ ngành này sang ngành khác và đi
vào tiêu dùng cuối cùng.
Ngành
sử dụng
1

1

2

Ngành sản xuất

3

N

Sử dụng cuối
cùng

TSP sử dụng

1j

Y1

X1

2j

Y2

X2

3j

Y3

X3






Yn

Yn

Tổng cộng
n

x11

x12

x13



x1n

∑x
j =1
n

2

x21

x22

x23




x2n

∑x
j =1
n

3

x31

x32

x33



x3n














∑x
j =1


n

n

xn1

xn2

xn3



xnn

∑x
j =1

nj

nn

Tổng
cộng


∑xj1

∑xj2

∑xj3



∑xjn

∑x
ij==11

ij

=
nn

Giá trị
gia tăng

VA1

VA2

VA3



VAn


Y
∑∑VA
j =i1=1

=

9

ij


n

Tổng
chi phí

X1

X2

X3



Xn

n

∑x =∑x

j =1

j

i =1

Việc phân phối sản phẩm trong nền kinh tế được đặc trưng bằng quan
hệ tỷ lệ:
Xi = xi1+ xi2+xi3+…+xin+yi (i = 1,2,…, n)
(1)
Trong đó:
Xi : Tổng sản phẩm của ngành i
xij : Khối lượng sản phẩm ngành i tiêu dùng cho sản phẩm ngành j với
tư cách là chi phí trung gian.
Yi : Khối lượng sản phẩm cuối cùng của ngành i
Tổng số xij phản ánh khối lượng sản phẩm ngành i sẽ tiếp tục chế biến
trong các ngành sản xuất, lượng sản phẩm này được gọi là sản phẩm trung
gian. Sản phẩm cuối cùng (Yi) là những sản phẩm được đưa ra khỏi sản
xuất hàng năm được dùng để bù đắp hào mòn, sử dụng cho tiêu dùng, tích
luỹ và khối lượng chênh lệch xuất-nhập khẩu.
Khi xây dựng mô hình I/O người ta thường giả thiết rằng khối lượng sản
phẩm của ngành i tiêu dùng cho ngành j tỷ lệ thuận với khối lượng sản
phẩm của ngành j:
xij = aij Xj ( i,j = 1,2,…,n) (2)
Trong đó:
aij là hao phí trực tiếp sản phẩm ngành i để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm ngành j – được gọi là hệ số hao phí trực tiếp. Hợp nhất phương trình
(1) và (2) sẽ có:
Xi = aij Xj + Yi (i = 1,2,…,n)
Dưới dạng ma trận có thể viết: X = AX + Y

Và lời giải sẽ là: X = (E – A)-1. Y
Trong đó:
E: ma trận đơn vị
A: ma trận hệ số chi phí trực tiếp
Y: véc tơ sản phẩm cuối cùng
Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa
vào kế hoạch về sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực
tiếp phù hợp với trình độ kĩ thuật của từng ngành.
Phương pháp ngoại suy (thống kê thực nghiệm)
Xác định xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành qua các năm : dựa vào sự
thay đổi tỉ trọng từng ngành (TLi)
Xác đinh xu thế tăng trưởng kinh tế của từng ngành qua các năm : dựa
vào sự thay đổi trong tăng trưởng kinh tế của từng ngành (g)
Phương pháp được sử dụng: OLS.
Trên cơ sở tính toán cho 2 nhóm ngành ta xác định được nhóm ngành

10

i


thứ 3 dựa vào kết quả của 2 nhóm ngành trên.
d.Các giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Thứ nhất, đối với nhóm ngành có năng lực cạnh tranh. Đây là các ngành có
lợi thế so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguồn lao đông,
chủ yếu là ngành nông nghiệp-thuỷ sản như gạo, cà phê, điều, chè , cao su
tự nhiên, thuỷ sản và các ngành công nghiệp dệt may, da dầy. Tuy nhiên lợi
thế cuả những ngành này về giá rẻ đang bị thu hẹp dần sau khủng hoảng tài
chính khu vực với sự mất giá các đồng bản tệ ở nhiều nước. Cũng có nguy
cơ những lợi thế so sánh này tiếp tục bị giảm sút trong những năm tới khi

các nước trong khu vực phục hồi được nền kinh tế.
Đây là nhóm ngành ít bị ảnh hưởng của việc hội nhập quốc tế, mà
ngược lại còn có cơ hội tốt để mở rộng thị trường quốc tế với nhu cầu tiêu
dùng tương đối ổn định (đa số các mặt hàng là tiêu dùng hàng ngay). Tuy
nhiên, giá trị gia tăng được tạo ra trong nhóm ngành hàng này không cao,
do đó cần chú ý giảm giá thành sản phẩm.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường đối với những
mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, việc chuyển dịch cơ cấu của từng ngành
hàng trong nhóm này cần tập trung vào những công việc sau:
- Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường, đảm
bảo thị trường lâu dài có quy mô thích hợp. Xây dựng hệ thống thông tin,
dự báo sự biến động của thị trường. Thành lập trung tâm xúc tiến thương
mại đối với từng mặt hàng.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách thương mại và cơ chế điều hành xuất
nhập khẩu theo hướng hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính đơn
thuần; đơn giản hoá và rút ngắn thời gian làm các thủ tục liên quan đến
hoạt động xuất nhập khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp.
- Nâng cấp hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hệ thống dịch vụ chuyên môn có
liên quan như ngân hàng, tư vấn quản lí và tư vấn pháp luật.
- Nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, vận
chuyển, dịch vụ. Chú trọng tính chất đồng bộ trong đầu tư giữa các khâu
sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu. Việc cắt giảm thuế quan có thể
tiến hành với tốc độ nhanh, trong thời gian ngắn với nguyên tắc hàng sơ
chế chịu thuế quan thấp hơn hàng chế biến; Nguyên liệu chịu thuế thấp hơn
thành phẩm; nhưng mức chênh lệch thuế này là thấp.
Thứ hai, đối với nhóm ngành hàng có khả năng cạnh tranh trong
tương lai với điều kiện được hỗ trợ có thời gian và tích cực nâng cao năng
lực cạnh tranh. Đây là nhóm ngành hàng trước mắt còn gặp nhiều khó khăn
trong việc cạnh tranh với hàng nhập khẩu, nhưng có khả năng nâng cao

11


được cạnh tranh nếu hiện tại được hưởng những hỗ trợ nhất định. Đa số
trong nhóm này là các ngành công nghiệp chế biến như rau quả-thực phẩm
chế biến, điện-điện tử, cơ khí, hoá chất, xi măng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nhóm mặt hàng này, giữ vững
và mở rộng thị phần trong nước so với mặt hàng nhập khẩu, cần xác định
đúng hướng phát triển và áp dụng các biện pháp hỗ trợ thích hợp, kịp thời
cùng với mức độ bảo hộ hợp lí, các giải pháp cần thực hiện là:
- Xây dựng chiến lược phát triển dựa trên cơ sở phân tích các thế mạnh
cũng như điểm yếu hiện có so với sản phẩm nhập khẩu.
- Hỗ trợ đổi mới công nghệ, chú trọng đầu tư chiều sâu. Thành lập trung
tâm công nghệ ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Hỗ trợ hoạt động
nghiên cứu và phát triển đối với sản phẩm mới thông qua các trung tâm
công nghệ, các tổng công ty và doanh nghiệp.
- Thực hiện chế độ bảo hộ ở mức trung bình đối với các ngành như hoá
chất, xi măng…và bảo hộ cao với điện-điện tử, cơ khí.
- Cải thiện môi trường đầu tư để mở rộng khả năng thu hút vốn từ nhiều
nguồn, cả nguồn trong nước và nước ngoài như miễn thuế đối với máy
móc, thiết bị xây dựng cơ bản hình thành dự án, miễn thuế nhập khẩu
nguyên liệu thô cho các dự án thuộc khu vực khuyến khích.
- Thực hiện yêu cầu nội địa hoá thông qua biện pháp thuế quan, đơn giản
hoá thủ tục hải quan, rút ngắn thời hạn cấp giấy phép đầu tư, cải tiến thủ
tục cấp giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài.
- Khu vực dịch vụ nói chung cũng có thể xếp vào nhóm ngành có khả
năng cạnh tranh có điều kiện. Mặc dù có những điểm chung như chú trọng
công tác đào tạo, nâng cao kĩ năng quản lí và lao động, áp dụng những tiêu
chuẩn vào thông lệ quốc tế…Nhưng việc chuyển dịch cơ cấu có những đặc
thù riêng. Một số lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi nhiều vốn, công nghệ hiện đại;

một số mang tính độc quyền cao; một số lại nhạy cảm với các vấn đề chủ
quyền quốc gia và bản sắc dân tộc…Do vậy. cần có những nghiên cứu cụ
thể, trước hết là những lĩnh vực dịch vụ đã cam kết hợp tác trong ASEAN :
hàng không, kinh doanh dịch vụ, tài chính, vận tải biển, viễn thông và du
lịch.
Thứ ba, đối với những nhóm ngành hàng hiện đại, khả năng cạnh tranh
thấp, đây chủ yếu là những ngành hàng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ
hiện đại là ít phụ thuộc vào lao động và điều kiện tự nhiên. Hiện tại với
nguốn vốn hạn chế, công nghệ lạc hậu là những khó khăn trong việc nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm như công nghiệp giấy, đường, luyện
kim, hoá chất. Do đó, những ngành thuộc nhóm này cần có những biện
pháp thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu. Trước mắt tập trung vào:
- Đầu tư đồng bộ các ngành sản xuất cụ thể để có thể sản xuất được các
thiết bị chính xác. Đào tạo đội ngũ cán bộ kĩ thuật có trình độ cao và công
nhân lành nghề.
- Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ tiên
12


tiến.
- Duy trì bảo hộ ở mức thấp.
Phần II : Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010
I.Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010
1. Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch thời kì 2000-2005
Trong 5 năm qua đã có sự chuyển dịch quan trọng về cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành. Cụ
thể :

Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu

Cơ cấu ngành kinh tế (GDP)
Trong đó:
Nông, lâm, thuỷ sản
Công nghiệp, xây dựng
Dịch vụ

1995
100

2000
100

2005
100

27.2
28.8
44.0

24.5
36.7
38.8

20.89
41.04
38.07

Đến năm 2005, tỷ trọng trong GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm
xuống còn 20.89%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng lên 41.04%; khu vực dịch
vụ 38.07%. Sự tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ

đã tạo nên sự thay đổi đáng kể cơ cấu kinh tế. Bước đầu đã hình thành được một số
ngành, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, sản
xuất thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ôtô xe máy…
Trong từng ngành đã có chuyển dịch cơ cấu, gắn sản xuất với thị trường, nâng cao
hiệu quả; chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đạt được nhiều
kết quả. Tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đã tăng
lên trong cơ cấu lao động xã hội.
Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể theo hướng công
nghiệp hoá, từng bước hiện đại hoá, phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm,
gắn sản xuất với thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm
công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp chế biến
trong giá trị tăng thêm. Ngành công nghiệp chế biến đã bước đầu khai thác được các lợi
thế về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu.
Cụ thể, tỷ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị gia tăng của công nghiệp và xây
dựng đã tăng từ 50.5% năm 2000 lên 51% năm 2005; tỷ trọng các ngành công nghiệp
khai thác giảm từ 26.3% xuống còn 25%; tỷ trọng các ngành sản xuất và phân phối
điện, khí đốt và nước giảm từ 8.6% xuống 8.4%; tỷ trọng ngành xây dựng tăng từ
14.6% lên 15.8%.
Cơ cấu khu vực dịch vụ có những chuyển hướng tích cực. Các ngành dịch vụ tryền
thống như thương nghiệp, vận tải,bưu chính-viễn thông, khách sạn, nhà hàng phát triển
khá. Đặc biệt, một số ngành dịch vụ có tỷ lệ chi phí trung gian thấp như ngân hàng, bảo
hiểm… đã phát triển khá nhanh, góp phần làm cho giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ
tăng cao nhất là 2005.

13


Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn một số tồn tại. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành chưa thật gắn kết chặt chẽ với các quy hoạch, chiến lược tổng
thể có tầm nhìn xa, với lộ trình hợp lí, chưa phát huy tốt thế mạnh trong từng ngành.

Nhìn chung, chuyển dịch cơ cấu trong 5 năm qua còn chậm, một phần vẫn được định
hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ của riêng các ngành và địa phương. Vì thế,
quy hoạch tổng thể thường bị phá vỡ, cơ cấu chuyển dịch chưa đáp ứng được các yêu
cầu phát triển bền vững. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ chú trọng nhiều đến việc
tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, chưa quan tâm đúng mức tới yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hoá, phát triển mạnh công nghiệp và kĩ thuật
tiên tiến trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Nhiều cơ sở công nghiệp có công nghệ lạc
hậu, chi phí lớn, hiệu quả kinh tế thấp và đòi hỏi bảo hộ cao. Trong một số lĩnh vực vẫn
tồn tại xu hướng phát triển hướng nội, nhằm vào một số ngành được bảo hộ. Điều này
có nguy cơ làm hạn chế khả năng cạnh tranh trong tương lai của nền kinh tế trong quá
trình hội nhập quốc tế. Số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại còn ít.
Trong công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp chiếm tỉ trọng khá
lớn; tốc độ đổi mới công nghệ trong hầu hết các ngành công nghiệp còn chậm và đang ở
mức trung bình là phổ biến. Cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn
chưa có chuyển biến rõ rệt. Chưa tạo được nhiều việc làm cho lao đông ở nông thôn. Hệ
thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa yếu, vừa thiếu và kém hiệu quả, nhất là
thiếu các ngành công nghiệp bổ trợ. Tỷ trọng dịch vụ trong tổng sản phẩm trong nước
vẫn còn thấp và chậm được cải thiện. Cơ cấu nội bộ các ngành trong lĩnh vực dịch vụ ít
thay đổi, đặc biệt là các ngành dịch vụ có tỉ lệ chi phí trung gian thấp phát triển vẫn
chậm, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Dịch vụ chất lượng cao phát triển
chậm.
2. Các nhân tố tác động đến kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 20062010
Bước vào kế hoạch 5 năm 2006-2010 trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu và toàn diện hơn, tình hình quốc tế và trong nước sẽ có những tác động rất
mạnh đến sự phát triển kinh tế, xã hội nước ta. Theo dự báo những yếu tố thuận lợi mới
sẽ xuất hiện, tạo ra nhiều cơ hội lớn để phát triển; đồng thời cũng đan xen nhiều khó
khăn, thử thách lớn cần phải vượt qua.
a. Những thuận lợi và cơ hội
Ở trong nước, thành tựu của 5 năm qua (2000-2005) và 20 năm đổi mới (19862005) làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên rất nhiều; sự ổn định chính trị, kinh
tế và xã hội tiếp tục được giữ vững, tạo niềm tin cho toàn dân, các doanh nghiệp và các

nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với hội nhập kinh tế
quốc tế đã bước đầu hình thành và vận động có hiệu quả. Những thể chế, cơ chế chính
sách đã ban hành từng bước đi vào cuộc sống, phát huy tính tích cực, thu hút mạnh hơn
các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội; nguồn nội lực đã được khai thác cao; do đó đã có
điều kiện chủ động đầu tư hướng vào các mục tiêu then chốt, nhất là đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tư duy kinh tế tiếp tục được đổi mới, thể hiện ở nhiều Nghị quyết Hội nghị Trung
ương Đảng khoá IX và ở các văn kiện đại hội X của Đảng, tạo điều kiện thuận lợi để
hoạch định các cơ chế, chính sách thông thoáng hơn trong việc thu hút các nguồn lực và
cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
14


Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng CNH-HĐH; phát huy thế
mạnh của từng ngành bước đầu đã được phát huy; chất lượng tăng trưởng trong nhiều
ngành đã có những cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đang thích nghi ngày
càng tốt hơn với thị trường quốc tế. Đặc biệt, lĩnh vực dịch vụ còn dư địa rất lớn để phát
triển vượt trội, tạo điều kiện tăng nhanh hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm và
toàn nền kinh tế.
Quan hệ kinh tế quốc tế được củng cố và phát triển, một số mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam đã đứng vững trên nhiều thị trường và có triển vọng sẽ được mở rộng. Việc
tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các hiệp định thương mại song
phương và đa phương, trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO…sẽ
tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh, tạo ra thế phát triển mới cho đất nước.
Bên cạnh đó, những kết quả đạt được trong tiến trình cải cách hành chính thời
gian qua nhất là cải cách thể chế kinh tế, đổi mới bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ… sẽ có những tác động tích cực trong việc chỉ đạo điều hành điều hành thực
hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và nâng cao chất lượng chuyển dịch.
Ở ngoài nước, tình hình thế giới và khu vực có thể có những diễn biến phức tạp

nhưng dự báo chiều hướng chung về cơ bản sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế
nước ta
Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo của thế giới và khu vực. Kinh
tế thế giới có khả năng duy trì được tốc độ phát triển như thời gian qua, trong đó Châu
Á- Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động nhất.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến việc cơ cấu lại
nền kinh tế thế giới theo khă năng tiếp thu trình độ công nghệ cuả mỗi nền kinh tế và
theo đó là sự phân công lao động toàn cầu. Phát triển nền kinh tế tri thức sẽ tiếp tục là
ưu tiên trong chính sách của nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển, tạo cơ
hội cho nước ta tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do thương mại sẽ được đẩy
nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, lao động và vốn ngày được mở rộng.
Điều đó sẽ tạo cơ hội cho nước ta mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế toàn diện, khai thác
lợi thế so sánh, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát huy tốt hơn nội lực, tạo thành sức
mạnh tổng hợp phát triển đất nước.
b. Những khó khăn, thử thách
Ở trong nước, khó khăn lớn nhất hiện nay là sức cạnh tranh và khả năng hội nhập
kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế còn yếu so với yêu cầu và so
với thế giới, trong khi đó lộ trình thực hiện đầy đủ các cam kết APTA, WTO và các
hiệp định quốc tế khác đang và sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh rất lớn.
Quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, thu nhập thấp hạn chế sức bật đối với sản xuất và
phát triển thị trường. Nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới còn rất
lớn.
Cơ cấu sản xuất trong từng ngành chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động
nhanh của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn
yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu, năng lực tiếp
nhận chuyển giao công nghệ còn hạn chế. Hệ thống tài chính, tiền tệ chưa hoàn thiện và
còn nhiều rủi ro.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

15


Đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn;
công tác cải cách hành chính được tiến hành chậm; tình trạnh quan liêu, tham nhũng,
lãng phí vẫn chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lí cuả nhà nước còn hạn chế; những
yếu kém này nếu chậm được giải quyết sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện kế
hoạch 5 năm tới.
Ở ngoài nước, tình hình thế giới còn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường.
Xung đột cục bộ, khủng bố và những bất ổn vẫn có thể xảy ra đối với một số khu
vực, ảnh hưởng đến an ninh toàn cầu. Các nước phát triển cạnh tranh quyết liệt về lợi
ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào cản thương mại với các nước nghèo và các nước
đang phát triển. Đây là một thách thức lớn cho các nước chậm phát triển và đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Toàn cầu hoá sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, nhất là sức ép đối với những nước có
trình độ phát triển còn thấp như nước ta. Sự cạnh tranh kinh tế, thương mại, thu hút vốn
đầu tư và công nghệ càng trở nên gay gắt. Các thị trường tài chính, tiền tệ sẽ có nhiều
diễn biến phức tạp. Giá cả của một số mặt hàng chủ yếu trên thị trường thế giới như
năng lượng, nguyên liệu…có tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu sẽ có những đột biến
và phản ánh dây chuyền bất lợi đối với các nước có nền kinh tế nhỏ, kém phát triển.
Chính sách tỉ giá, lãi xuất của các nước lớn đều có những tác động rất mạnh đến kinh tế
nước ta.
Ngoài ra, các vấn đề mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan
hiếm các nguồn nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo…sẽ trở nên gay gắt hơn, tác
động không thuận đến sự phát triển kinh tế, xã hội nước ta.
3. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010
Mục tiêu: Tạo bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển

dịch theo hướng CNH-HĐH, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Định hướng:
1- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn
Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh
và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; phấn đấu giá trị tăng
thêm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3 - 3,2%/năm. Thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các
loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện các giải pháp đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là: đưa nhanh khoa học và
công nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động
ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng
lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm
cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu vực nông
thôn, kể cả ở nước ngoài.
2- Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng,
sức cạnh tranh và hiện đại hoá

16


Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu
và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề phù hợp với
nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương. Nâng cao sức cạnh tranh,
hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản
phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển
dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng
thêm trong công nghiệp và xây dựng 10 - 10,2%/năm.
Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp
có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Chú trọng
phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng;
công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các
chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.
3- Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ
Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng
còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ
hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc
độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP, phấn đấu đạt 7,7 - 8,2%/năm.
Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp
tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, như vận tải,
thương mại, du lịch, ngân hàng, bưu chính - viễn thông. Phát triển mạnh các dịch vụ
phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Mở rộng các
dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ
hỗ trợ kinh doanh.

4. Hệ thống các chỉ tiêu
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến: Nông-lâm nghiệp và
thuỷ sản khoảng 15-16%, công nghiệp và xây dựng khoảng 43-44%, các ngành dịch vụ
khoảng 40-41%.
5. Giải pháp cơ bản
Khai thác mọi nguồn lực trong nước để đầu tư, huy động mạnh mẽ các nguồn lực từ
bên ngoài.Tập trung nguồn lực để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
theo hướng hiệu quả.
Phát huy, khai thác lợi thế tự nhiên, kinh tế của từng ngành, nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trong nước. Thực hiện các biện pháp nâng cao năng suất lao động,
giảm chi phí sản xuất, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản lý.
Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào
trong sản xuất. Ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất.

Tạo môi trường kinh tế, xã hội, môi trường pháp lí bình đẳng và thông thoáng cho
phát triển doanh nghiệp. Mở của đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình cam

17


kết với WTO.
Phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn để tạo việc làm, tăng thu nhập
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển các ngành công nghiệp
và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Phát triển thị trường tiêu thụ nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản, làm cơ sơ cho việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông
thôn có hiệu quả. Xây dựng chương trình phát triển công nghiệp phục vụ cho quá trình
chuyển dịch này.
Nhà nước hỗ trợ đầu tư phát triển những sản phẩm quan trọng mà các thành phần
kinh tế khác không có khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư, đồng thời lựa chọn
đầu tư hoặc có chính sách thu hút nước ngoài đầu tư một số dự án công nghiệp quan
trọng như khai thác quặng sắt và luyện thép, khai thác bôxit và sản xuất alumin, lọc hoá
dầu, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản…,các lĩnh vực công nghệ có tiềm năng như điện tử,
viễn thông, tin học, để từng bước chuyển dịch cơ cấu công nghiệp sang các sản phẩm có
công nghệ và hàm lượng tri thức cao, giá trị gia tăng cao.
Thiết lập mạng lưới vận tải đa phương thức, chuyển dịch cơ cấu vận tải theo hướng
tăng khối lượng luân chuyển bằng đường biển, đường sông, đường sắt, giảm tỷ lệ vận
tải đường bộ, tăng khối lượng vận tải bằng container.
II. Đánh giá sơ bộ tình hình thực hiện kế hoạch qua 2 năm 2006,2007
1. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
năm 2006,2007
1.1. Năm 2006
a. Kế hoạch
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng nhanh tỉ trọng dịch vụ và công
nghiệp, giảm tỉ trong nông nghiệp trong GDP.


Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8% so với năm 2005. GDP theo
giá thực tế khoảng 970 nghìn tỷ đồng. Giá trị tăng thêm của ngành nông,
lâm, ngư nghiệp tăng khoảng 3,8%; giá trị tăng thêm của ngành công
nghiệp và xây dựng tăng trên 10,2%; giá trị tăng thêm của các ngành dịch
vụ tăng trên 8%.
b. Đánh giá tình hình thực hiện

• Cơ cấu GDP:
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp
và thuỷ sản. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40.97% năm
2005 lên 41.52% trong năm 2006; khu vực dịch vụ tăng từ 38.01% lên
38.08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21.02% xuống còn
20.40%.
Trong khu vực nông-lâm-thuỷ sản, tỷ trọng giá trị tăng cuả hai nhóm
ngành lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP, xét theo cả giá so sánh và giá
hiện hành giữ ở mức tương đối ổn định và tương ứng 1.1-1.2% và 3.73.9%. Việc giảm tỷ trọng của khu vực nông-lâm-thuỷ sản trong GDP chủ
18


yếu là do mức độ đóng góp của ngành nông nghiệp giảm; giá trị tăng thêm
của ngành nông nghiệp trong GDP giảm từ 18.26% năm 2001 xuống
15.37% năm 2006. Nhìn chung, chuyển dịch cơ cấu trong khu vực nônglâm-thuỷ sản diễn ra chậm. Bản thân chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành
nông nghiệp cũng chậm: tỷ trọng ngành trồng trọt vẫn chiếm tới 78.04%
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2006 so với 80.08% năm 2001 (theo
giá 94). Kết quả lớn nhất trong chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là
chuyển dịch trong nội bộ ngành trồng trọt theo hướng giảm diện tích các
loại cây cho năng xuất thấp, sang trồng các loại cây khác có năng suất và
giá trị kinh tế cao hơn. Ở một số địa phương đã xuất hiện phong trào trồng

cỏ để chăn nuôi.
Trong khu vực công nghiệp, xét theo giá hiện hành, tỷ trọng giá trị tăng
thêm của ngành công nghiệp chế biến trong GDP tăng không đáng kể, từ
19.78% năm 2001 lên 21.29% năm 2006, tương ứng 1.5 điểm phần trăm.
Tuy nhiên, xét theo giá năm 1994, tỷ trọng này tăng tới 4.06 điểm phần
trăm, từ 19.60% năm 2001 lên đến 23.66% năm 2006. Điều này cho thấy
trong những năm qua đã có sự biến đổi lớn về gía giữa các nhóm hàng
khác nhau trong nội bộ ngành công nghiệp. Giá của nhóm hàng công
nghiệp chế biến có xu hướng giảm nhiều, trong khi đó giá của ngành công
nghiệp khai thác, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện ga và
nước tăng lên đáng kể. Trong tổng giá trị tăng thêm của nhòm ngành công
nghiệp, tỷ trọng của công nghiệp khai thác mỏ đã giảm từ 30,8% năm 2000
xuống 30,3% năm 2005 và 29,2% năm 2006 phù hợp với chủ trương tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Trong công nghiệp chế biến,
một số ngành chủ yếu giữ được tốc độ tăng cao ổn định quyết định tốc độ
tăng cao của toàn ngành công nghiệp so với năm 2005 như: sản xuất thực
phẩm và đồ uống tăng trên 17%, sản xuất các sản phẩm từ da, giả da tăng
18,5%; sản xuất các sản phẩm từ gỗ tăng trên 23%..Tuy nhiên, một số sản
phẩm quan trọng khác của công nghiệp chế biến tăng thấp hơn ở mức trên,
dưới 10% như quấn áo may sẵn, xi măng.Tỷ trọng ngành xây dựng trong
GDP đã tăng từ 5,35% năm 2000 lên 6,35% năm 2005 và 6,62% năm
2006. Xây dựng là ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế,
nên việc tăng của ngành này sẽ tạo ra nhiều công trình làm thay đổi bộ mặt
đất nước, làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu trong khu vực dịch vụ vẫn diễn ra rất chậm. Hầu
hết các ngành dịch vụ quan trọng, có khả năng tạo nhiều giá trị tăng thêm,
đều có tỷ trọng nhỏ trong GDP ( ví dụ, ngành tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm chiếm chưa tới 2.0% GDP năm 2006). Xu hướng này đang hạn chế

19



nhiều việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam và gây bất lợi cho
tăng trưởng trong dài hạn, nhất là trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
• Cơ cấu lao động
Bảng số lượng và cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế
1.Tổng số lao động
(nghìn người)
Nông,lâm,thuỷ sản
Công nghiệp-xây dựng
Dịch vàụ
2. Cơ cácấu (%)
Nông, lâm, thuỷ sản
Công nghiệp-xây dựng
Dịch vàụ

2005

2006

42542.7

43436.1

24351.5
7785.3
10405.9
100.00
57.2

18.3
24.5

24172.3
8296.9
10966.9
100.00
55.7
19.1
25.2

Cơ cấu lao động có việc làm của cả nước tiếp tục chuyển dịch theo
hướng CNH tuy tốc độ còn chậm. Tỉ trọng lao động trong ngành nông
nghiệp còn cao, lao động có kĩ thuật được đào tạo còn thấp.
• Cơ cấu vốn
Sự dịch chuyển cơ cấu vốn không thể hiện rõ, ít biến động, gần như các
ngành vẫn giữ một tỉ lệ nhất định trong cơ cấu vốn. Vốn đầu tư vào khu
vực Công nghiệp-xây dựng vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất.
Như vậy, có thể thấy mặc dù đã có những bước đi tích cực, song xét cho
cả nền kinh tế cũng như trong nội bộ từng ngành, sự chuyển dịch vẫn chưa
thật sự mạnh mẽ.
1.2. Năm 2007
a. Kế hoạch
Cơ cấu ngành trong GDP : Khu vực nông nghiệp khoảng 19.5%, công nghiệp và
xây dựng khoảng 42% và khu vực dịch vụ khoảng 38.5%
b. Đánh giá tình hình thực hiện

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Theo dự
kiến, tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 20,4% năm 2006
xuống 20% năm 2007, công nghiệp và xây dựng tăng từ 41,52% lên 41,8%,

dịch vụ tăng từ 38.08% lên 38.2%. Như vậy, mặc dù đã có sự chuyển dịch
theo hướng tích cực, nhưng theo dự kiến năm 2007 sẽ không hoàn thành kế
hoạch đề ra. Tuy nhiên , sự phát triển và chuyển dịch trong nội bộ từng
ngành cũng mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ.
Nông nghiệp phát triển ổn định. Giá trị sản xuất toàn ngành trong 9
tháng năm 2007 tăng 4,2% so với cùng kỳ (trong đó nông nghiệp tăng
20


2,6%; lâm nghiệp tăng 1,1%; thuỷ sản tăng 9,6%). Giá trị gia tăng toàn
ngành nông lâm ngư nghiệp 9 tháng tăng khoảng 3,02% so với cùng kỳ
( cùng kỳ tăng 3,41%) tuy chưa đạt mức kế hoạch và thấp hơn cùng kỳ
nhưng với những thiệt hại do dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và cây trồng
trong những tháng đầu năm, thì đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là
một cố gắng của ngành nông nghiệp. Ngành nông nghiệp tuy gặp nhiều
khó khăn do thiên tai, dịch bệnh nhưng dự kiến năm 2007 vẫn vươn lên đạt
được kế hoạch.
Trong năm 2007, công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và tăng
thêm tỷ trọng công nghiệp chế biến, khu vực ngoài nhà nước tăng cao nhất,
nên tỷ trọng toàn ngành đã cao hơn năm trước và cao hơn nhiều tỷ trọng
của khu vực nhà nước. Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tuy vượt
mức kế hoạch, nhưng giá trị sản xuất của nhiều ngành công nghiệp chủ
yếu, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế lại đạt tốc độ tăng trưởng
thấp. Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp xây dựng mới đạt thấp hơn
mức kế hoạch.
Lần đầu tiên trong nhiều năm qua, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch
vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP. Ở khâu sản xuất, nhóm
ngành công nghiệp - xây dựng và nhóm ngành dịch vụ tăng trưởng cao hơn
cùng kỳ và cao hơn tốc độ chung để bù cho sự sút giảm tốc độ tăng trưởng
của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản. GDP do nhóm ngành công

nghiệp-xây dựng tạo ra tiếp tục tăng hai chữ số và đóng góp lớn nhất vào
tốc độ tăng trưởng chung. Giá trị gia tăng của ngành dịch vụ tăng cao hơn
mức tăng GDP đã góp phần nâng mức tăng trưởng chung của nền kinh
tế.Các ngành dịch vụ có giá trị cao (ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn
thông, du lịch...) được khai thác và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và
đời sống nhân dân.Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Công nghiệp gia
công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chưa có tiến bộ rõ nét.
2. Phân tích nguyên nhân
Qua 2 năm đầu thực hiện kế hoạch, ta thấy rằng:
- Ưu điểm : Quá trình chuyển dịch của nền kinh tế cũng như trong nội
bộ từng ngành đã đi theo hướng tích cực. Tỷ trọng các ngành có năng
suất lao động cao, chứa đựng hàm lượng công nghệ cao, chất xám cao
ngày càng lớn và tỷ trọng các ngành có năng suất thấp giảm đi trong
toàn bộ lao động xã hội, đánh dấu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế bắt
đầu đi vào chiều sâu. Tỷ trọng ngành sản xuất vật chất tăng lên, năm
sau cao hơn năm trước. Tỷ trọng sản xuất hàng hoá tăng lên làm cho
độ mở của nền kinh tế lớn hơn, hội nhập sâu hơn với nền kinh tế nước
21


ngoài. Đây là một xu hướng tích cực khi nước ta đã trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO). Cơ cấu kinh tế đã
chuyển dịch từ đơn giản đến phức tạp đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu
phát triển.. Số lượng công ăn việc làm đã được tạo ta nhiều hơn; thu
nhập trung bình của người dân tăng lên; mức độ đô thị hoá nhanh hơn
đã góp phần giải quyết tôt hơn tình trạng nghèo đói và các vấn đề xã
hội khác.
- Hạn chế: tính bền vững về mặt môi trường của quá trình chuyển dịch
vẫn chưa được bảo đảm. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa
thực sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; tốc độ tăng

trưởng kinh tế tuy đạt mức khá cao nhưng vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng của từng ngành. Mối tương quan giữa sản xuất vật chất và
khu vực dịch vụ chưa hợp lý; mức độ gia tăng của ngành dịch vụ còn
thấp hơn so với yêu cầu. Tốc độc chuyển dịch còn chậm, chất lượng
chuyển dịch còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền
vững.
Nguyên nhân của những tồn tại đó là do:
- Việc chuyển dịch chưa phát huy được lợi thế so sánh cuả từng ngành,
chưa tương xứng với tiềm năng.
- Chậm đổi mới công nghệ, chưa mạnh dạn đi vào phát triển các công
nghệ cao.
- Hành lang pháp lý chưa thông thoáng, thủ tục còn rườm rà, gây nhiều
trở ngai cho các nhà đầu tư.
- Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.
- Việc thực hiện các chính sách phát triển ngành còn nhiều hạn chế, một
số chính sách chưa được tổ chức thực hiện có hiệu quả. Còn nhiều tiêu cực
trong quá trình thực hiện.
3. Dự kiến khả năng thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 20062010
Căn cứ vào những kết quả đạt được của hai năm đầu thực hiện kế hoạch có thể thấy,
mặc dù có sự chuyển dịch theo hướng tích cực song tốc độ chuyển dịch còn chậm. Để
có thể hoàn thành kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 đòi hỏi
chúng ta phải nỗ lực rất nhiều. Khả năng hoàn thành kế hoạch không phải là không có,
vì trước mắt chúng ta cũng có nhiều thuận lợi trong những năm tới, vì hiện tại chúng ta
đã là thành viên của WTO. Quá trình mở của hội nhập tạo cho chúng ta nhiều cơ hội
phát triển và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Do vậy, cần có sự lãnh đạo
đúng đắn của nhà nước, để có được những giải pháp, chính sách phát triển hợp lí cho
các năm còn lại của thời kì kế hoạch.

22



Phần III : Các giải pháp và đề xuất chính sách để thực hiện
mục tiêu kế hoạch thời kì 2006-2010
I.Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành cho 3 năm còn lại thời kì 20062010
Trong 3 năm còn lại của thời kì kế hoạch 2006-2010, tiếp tục chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nhằm phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu chuyển dịch của cả thời
kì.
Kế hoạch năm 2008: Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong GDP giảm từ
20% năm 2007 xuống còn 19,3% năm 2008; công nghiệp và xây dựng tăng
từ 41,8% lên 42,2%; dịch vụ tăng từ 38,2% lên 38,5%. Giá trị tăng thêm
của ngành nông lâm ngư nghiệp tăng khoảng 3,5 - 4%; ngành công nghiệp
và xây dựng tăng 10,6 - 11%; ngành dịch vụ tăng khoảng 8,7 - 9,2%.
II.Các giải pháp và đề xuất chính sách
Tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách tích
cực. Phải xác định rõ ngành, lĩnh vực quan trọng, có thế mạnh cần được
đầu tư mở rộng, nhất là những ngành, lĩnh vực có lợi thế về tăng năng suất
lao động, ít rủi ro, tạo ra nhanh và nhiều giá trị mới, tạo ra nhiều tích luỹ
cho xã hội. Cần phân tích, lựa chọn cơ cấu công nghệ và sản phẩm, cơ cấu
lao động, cơ cấu đầu tư phù hợp để tập trung cao các giải pháp kinh tế, huy
động mọi nguồn lực trong xã hội cùng tham gia.
Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả, chúng ta phải tôn
trọng quy luật của kinh tế thị trường, phải trao quyền định đoạt cho các chủ
thể đầu tư, kinh doanh trực tiếp, Nhà nước không can thiệp bằng biện pháp
hành chính vào hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế, mà phải điều tiết
và quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, bằng các công cụ kinh tế vĩ mô,
bằng các chính sách và giải pháp đồng bộ. Cụ thể, Nhà nước cần tập trung
làm nhiệm vụ quản lý và định hướng, tạo môi trường pháp lý đầy đủ, thông
thoáng, đồng bộ cho các chủ thể yên tâm đầu tư, sản xuất - kinh doanh, giải
toả tâm lý mặc cảm, e ngại của các chủ thể đầu tư, kích thích mạnh mẽ các

thành phần kinh tế phát triển, tạo tiền đề cho việc hình thành các tập đoàn
kinh tế có đủ sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong xu hướng Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, phải xác định rõ ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần và có khả năng phát
triển mạnh, không phát triển tràn lan. Vì vậy, Nhà nước cần xác định
hướng đi phù hợp, dựa trên lợi thế cạnh tranh, nguồn lực nội tại của nền
kinh tế, thị trường, tài nguyên. Cần phân tích và lựa chọn phát triển mạnh
một số ngành dịch vụ như bưu chính -viễn thông, du lịch, tài chính, y tế...
Nâng cao chất lượng và hiệu quả của đào tạo nhân lực, làm cho nguồn
23


nhân lực trở thành một yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư và là một lợi thế
cạnh tranh của nền kinh tế nước ta.
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất, nâng
cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh của hàng hoá.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường các biện pháp chống quan
liêu, tham nhũng…làm trong sạch bộ máy nhà nước, tạo nền tảng cho phát
triển kinh tế.

24


KẾT LUẬN
Để đi theo chiến lược mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế có hiệu quả, vấn
đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở trong nước có ý nghĩa rất lớn. Bởi,
sản xuất trong nước cần phải được dịch chuyển sao cho vừa khai thác được
những tiềm năng, lợi thế của đất nước, vừa sản xuất được những sản phẩm
phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới. Trong bối cảnh chung là phân
công lao động quốc tế ngày một sâu sắc, sự cạnh tranh giữa các nước xuất

khẩu cũng vô cùng gay gắt, lại muốn phát triển được sản xuất của đất nước
theo một chiến lược chung, việc lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý, đem lại
hiệu quả cao là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, ngày nay các nước thực hiện
công nghiệp hóa đi sau không thể sử dụng nguyên mẫu của các mô hình
sẵn có bởi dưới tác động của những nhân tố mới, những lợi thế so sánh
truyền thống không còn được đánh giá cao như trước đây, nên việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của các nước đi sau cũng cần phải được nhận thức lại
nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hiện đại, cân đối, năng động và tăng trưởng
nhanh một cách bền vững hơn

25


×