Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận ngành mây tre đan VN trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.83 KB, 32 trang )

MỤC LỤC

LỜI GIỚI THIỆU
Trong cuộc sống xã hội hiện đại, nét truyền thống văn hoá, tinh hoa, đậm đà bản sắc
dân tộc kết hợp với hiện đại luôn là ý tưởng cho nhiều lĩnh vực kinh doanh. Những ý
tưởng ấy tạo ra nhiều sản phẩm tiêu dùng khác nhau, trong đó phải kể tới ngành thủ công
mỹ nghệ với các sản phẩm: mây tre đan, gốm sứ, thêu ren, đồ gỗ… Từ trong rừng sâu,
những sợi mây, sợi song được xử lí qua nhiều công đoạn làm thành các sản phẩm thủ
công khác nhau, tạo nên nét đẹp đặc trưng của Việt Nam. Cuộc sống của người Việt đã
gắn liền với đồ mây tre đan từ rất lâu, nó có vai trò quan trọng. Các vật dụng cần thiết
như rổ, rá, chiếc gối, chiếc vali mây… đến vật dụng lớn hơn để làm nhà, bàn ghế, tủ đều
có sự đóng góp của loại vật liệu này.
Hiện nay ngành mây tre đan của Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều cơ hội, thách
thức khi gia nhập WTO. Muốn tồn tại và phát triển trong “sân chơi” đó đòi hỏi các doanh
nghiệp chúng ta phải có đủ tiềm lực và vị thế trên thương trường.
Mặc dù đã có khá nhiều ý kiến xung quanh vấn đề phát triển ngành mây tre đan Việt
Nam nhưng cho đến nay vẫn còn khá nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp thuyết phục, như
tiềm năng phát triển của ngành mây tre đan là như thế nào, khả năng cạnh tranh của ngành
mây tre đan trong nước lớn đến đâu, những rào cản phát triển của ngành là gì và ngành
mây tre đan Việt Nam nên phát triển như thế nào.
Nhằm góp phần tìm hiểu về ngành mây tre đan trong bối cảnh Việt Nam vừa chính
thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã thực hiện đề
tài nghiên cứu: “Ngành mây tre đan Việt Nam trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc
tế”.

1


NỘI DUNG
a. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHÊN CỨU
Vấn đề nghiên cứu: Tổng quan về ngành mây tre đan, điều kiện thuận lợi, khó khăn,


cơ hội thách thức, tiềm năng ngành

Phạm vi nghiên cứu: Toàn ngành mây tre đan Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu:
- Ngành mây tre đan Việt Nam có điều kiện thuận lợi gì để phát triển?
- Ngành mây tre đan Việt Nam hiện đang gặp phải những khó khăn gì hạn chế
sự phát triển?
- Kinh nghiệm phát triển ngành mây tre đan của một số nước trong khu vực và
bài học cho phát triển ngành mây tre đan Việt Nam?
2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính với hai kỹ thuật bao gồm:
- Phân tích dữ liệu thứ cấp về ngành mây tre đan Việt Nam và ở một số nước
trong khu vực Đông Nam Á.
- Nghiên cứu tình huống về một số cơ sở sản xuất trong ngành mây tre đan
Việt nam.
2.2. Dữ liệu và phương pháp thu thập dữ liệu
Dữ liệu thứ cấp về ngành mây tre đan Việt Nam do nhóm nghiên cứu thu thập
bao gồm dữ liệu về kim ngạch xuất khẩu, số lượng lao động trong ngành, nguồn
nguyên liệu, thị trường đầu ra, chính sách chính phủ, doanh nghiệp… Dữ liệu thứ
cấp về kinh nghiệm phát triển ngành mây tre đan được tập trung vào các nước
Indonesia, Philipine, Trung Quốc. Nhóm nghiên cứu thu thập dữ liệu được công
bố công khai trên các trang thông tin điện tử của các tổ chức: Cục kinh tế bộ quốc
phòng, Bộ công nghiệp, báo công nghiệp, website Hà Nam, báo ảnh Việt Nam,
báo điện tử Thời báo kinh tế Việt Nam... Dữ liệu thứ cấp thu thập được sử dụng để
phân tích về lịch sử phát triển của ngành mây tre đan Việt Nam, thực trạng hiện
2


nay và kinh nghiệm của một số nước trong phát triển ngành sản xuất này.

. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện nghiên cứu cụ thể về bốn cơ sở sản xuất trong
ngành mây tre đan Việt Nam, bao gồm:
1. Cơ sở sản xuất mây tre đan hiện đại Nguyễn Viết Hồng_Hà Nội.
Chủ cơ sở sản xuất: Nguyễn Viết Hồng.
2. Công ty mây tre đan Ngọc Động_Duy Tiên_Hà Nam.
Giám đốc: Nguyễn Xuân Mai.
3.Cơ sở sản xuất mây tre đan Du Dương_Thượng Hiền_Thái Bình .
Chủ cơ sở sản xuất: Phạm Văn Du.
4.Cơ sở trồng mây Thượng Hiền_Thái Bình.
Chủ cơ sở: Phạm Bá Vang, Phạm Bá Vinh.
Dữ liệu thu thập được từ các nghiên cứu tình huống trên đây bao gồm đánh
giá của các chủ cơ sở sản xuất về thực trạng ngành mây tre đan của cơ sở sản xuất
cũng như trong toàn ngành mây tre đan hiện nay, đánh giá chủ quan của các chủ
cơ sở về xu hướng phát triển của ngành mây tre đan Việt Nam, đồng thời đưa ra
một số kiến nghị. Dữ liệu này được sử dụng kết hợp với dữ liệu thứ cấp trên đây
nhằm làm rõ hơn các kết luận rút ra từ phân tích dữ liệu thứ cấp.
3. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Lịch sử phát triển ngành mây tre đan Việt Nam
Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam có truyền thống hàng trăm ngàn năm, gắn
liền với tên nhiều làng nghề, phố nghề được biểu hiện qua nhiều sản phẩm độc đáo
tinh xảo và hoàn mỹ. Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng được thực hiện
từ rất sớm. Khi đó các sản phẩm chỉ bao gồm: gốm, đồ gỗ, mây tre, tơ lụa... Qua
nhiều thế kỉ các phường thợ làng nghề truyền thống đã trải qua nhiều bước thăng
trầm, một số làng nghề bị suy vong (giấy sắc,dệt quai thao...), nhưng bên cạnh đó
cũng có mốt số làng nghề mới xuất hiện và phát triển. Hiện nay cả nước có 52
nhóm nghề với 1451 làng nghề trên 100 năm với những sản phẩm từ lâu đã có
tiếng tăm như thổ cẩm (dân tộc Mông - Lào Cai), chạm khắc gỗ (Bắc Ninh), đúc
đồng (Quảng Ngãi)...[11].
Nghề mây tre đan được hình thành vào cuối thế kỉ 19. Trải qua hơn 100 năm
tồn tại và phát triển với bao biến cố thăng trầm nghề mây tre đan đang ngày càng

khởi sắc, đời sống của người dân làng nghề từng bước được cải thiện bằng chính
nghề truyền thống của mình. Mây tre đan là một trong những mặt hàng thủ công
3


m ngh ang c khụi phc v phỏt trin mnh vit Nam, c ng v nh
nc khuyn khớch phỏt trin [3]. Nú l mt trong 3 mt hng t giỏ tr xut khu
ln gm: mõy tre an, cúi, gm s.
C cu cỏc mt hng th cụng m ngh xut khu T1/2006
(T trng tớnh theo kim ngch)
Cơ cấu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
T1/2006
(Tỷ trọng tính theo kim ngạch)

24.1%

0.2%

21.1%
2.1%
2.4%
0.6%

40.6%

Mõy tre

Gm s k thut

Loi khỏc


Gm s m ngh v gia dng

Thm

Sn mi

Hng trang sc
Theo t chc Jica ca Nht Bn thỡ Vit Nam cú khong 2000 lng ngh
truyn thng, trong s ú 80% tp trung min bc, trong ú lng ngh mõy tre cú s
lng ln nht vi 713 lng ngh chim 24,0% ln nht trong s cỏc ngh th cụng
ca c nc [2, 39]. Cú th k n nh: Thng Hin (Thỏi Bỡnh), Ngc ng (H
Nam), Phỳ Vinh, Hin Lng (H Tõy), Xuõn Lai (Bc Ninh).
3.2. Nhng iu kin phỏt trin ca ngnh mõy tre an Vit Nam
3.2.1. Ngun nguyờn liu
to ra cỏc sn phm mõy tre an c ỏo nh th thỡ mt yu t khụng th
thiu ú l ngun nguyờn liu. Nguyờn liu ch yu cung cp cho cỏc lng ngh l
cõy mõy v cõy giang, phõn b ri rỏc trờn c nc, song tr lng ch yu l
Yờn Bỏi, Phỳ Th, Vnh Phỳc, Thỏi Nguyờn... Nguyờn liu v cụng c sn xut
hng mõy tre an rt n gin r tin d kim vỡ cú rt nhiu Vit Nam ú l tre,
na, mõy, song, gut v giang. Nguyờn vt liu ph l bt diờm sinh bo qun
sn phm. Mt s c s sn xut nh thỡ ngi dõn s dng cỏc húa cht, cht ty
4


rửa, bột diêm sinh để tẩy rửa và bảo quản sản phẩm không có quy trình kĩ thuật sử
dụng nên gây ô nhiễm môi trường và gây độc hại cho người trong nghề. Người
dân mới chỉ quan tâm tới các biện pháp sao cho sản phẩm được tốt nhất chứ chưa
quan tâm tới sức khỏe của chính mình. Công cụ để sản xuất cũng rất đơn giản, rẻ
tiền như cưa để cắt nứa tre, dao để chẻ vót nan. Nguồn nguyên liệu chính được

khai thác tại địa phương và một số vùng trong nước. Tuy nhiên lượng nguyên liệu
này vẫn chưa đủ để cung cấp cho ngành nên các cơ sở đôi khi phải nhập cả nguyên
liệu từ nước ngoài như Lào, Philipin. Hầu hết các cơ sở sản xuất đều sử dụng
nguồn nguyên liệu tự nhiên nhưng việc tổ chức khai thác cung ứng nguyên liệu
sản xuất chưa tốt nên các hộ các cơ sở đều phải mua lại nguyên liệu từ các nguồn
cung ứng không rõ nguồn gốc, giá cao làm tăng chi phí sản xuất, giá thành sản
phẩm và chất lượng sản phẩm không đều nhau. Thực tế cho thấy nhiều sản phẩm
khi xuất khẩu sang nước ngoài đã bị trả lại do không đủ tiêu chuẩn. Hiện nay
nguồn nguyên liệu đang rất khan hiếm. Các doanh nghiệp cơ sở sản xuất phải đi
thu gom các nguyên liệu của tất cả các nơi nhiều khi phải nhập khẩu từ bên Lào.
Nguồn nguyên liệu đang cạn kiệt. Bác Mai cho biết: theo chương trình 135 thì tại
Thanh Hóa đã có kế hoạch trồng rừng, đã được đầu tư nhưng vẫn chưa có kết quả.
Nhà cung ứng nguyên liệu có thể gây áp lực lớn đối với ngành. Khi nguồn nguyên
liệu khan hiếm thì các nhà cung cấp nguyên liệu lại tăng giá nguyên liệu gây khó
khăn cho các doanh nghiệp trong việc nhập nguyên liệu. Chính vì nguyên liệu thu
gom từ rất nhiều nơi nên khó khăn trong việc xác định giá và chất lượng nguyên
liệu. Nhiều khi chất lượng không đảm bảo nhưng vì thiếu nên các doanh nghiệp
vẫn phải sử dụng dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm sút theo. Trước đây việc sơ
chế nguyên liệu phải sử dụng hoàn toàn bằng thủ công như dùng dao chẻ mây tre
bằng tay nhưng khi khoa học kĩ thuật phát triển nên đã được thay thế bằng các
công cụ hiện đại hơn đó là dùng máy chẻ và uốn. Đối với việc nhân tạo giống cây
con: Do thời gian từ khi bắt đầu gieo giống đến khi được thu hoạch là khá lâu
(khoảng 3 năm )nên đòi hỏi phải trồng gối vụ thì mới có thể cung cấp nguyên liệu
để sản xuất trong cả năm. Việc nhân giống ở các địa phương hiện nay chủ yếu là
vẫn làm theo kinh nghiệm chưa được học cũng như chưa được các cán bộ kĩ thuật
hướng dẫn kĩ thuật cụ thể. Các làng nghề cũng đã biết khoanh vùng lại để nhân
giống cây trồng nhưng quy mô chưa được lớn mới chỉ dừng lại ở các hộ gia đình
hoặc một nhóm gia đình tập hợp lại để cung cấp cho ngành. Như ở xã Thượng
Hiền - Kiến Xương - Thái Bình đã có rất nhiều các gia đình như gia đình anh
Vinh, anh Dũng, bác Vang...đã khoanh vùng khoảng 1000m2 để nhân giống cung

cấp cho ngành. Việc sơ chế nguyên liệu thường do các cơ sở và các hộ tự làm với
kĩ thuật thủ công hoặc thiết bị máy móc tự chế, cũ, lạc hậu. Do vậy chất lượng
nguyên liệu thường không đồng đều và chưa chủ động được chất lượng. Xen kẽ
5


với các sản phẩm được đan bằng mây tre thì người dân cũng dã biết tận dụng được
các nguyên liệu khác như bèo, lá để tạo ra các sản phẩm độc đáo.
3.2.2. Các nhóm sản phẩm

6


Các sản phẩm của ngành là những vật dụng dùng trong hộ gia đình như cột, bàn
ghế mây tủ bày, vali, và một số vật dụng trang trí khác. Các mặt hàng xuất khẩu nhiều
hơn phong phú hơn như rèm cửa mỹ nghệ, các loại đĩa, giỏ bày hoa quả, các hình tượng
con giống dân gian, tranh tre ghép... Các mặt hàng này không chỉ đẹp, bền, mà còn rất
độc đáo do bàn tay của các nghệ nhân và người lao động tạo nên. Theo bác Du thì để sản
xuất ra nững mặt hàng đẹp thì cần phải “tâm đắc với nghề, yêu nghề”. Các sản phẩm vừa
kết hợp truyền thống dân dã lại vừa có nét duyên dáng hiện đại phù hợp với mọi đối
tượng người tiêu dùng. Các sản phẩm rất đa dạng cả về chủng loại và mẫu mã có những
lọ độc bình cao đến 1,8m, giá xuất xưởng xấp xi 500.000đồng [8]. Các sản phẩm hiện
nay đang phải cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài. Trong khi các sản phẩm của
nước ngoài mẫu mã thiết kế thường xuyên được đổi mới hấp dẫn nhìn chung là sáng tạo

7


thì ta phần lớn đang sản xuất theo mẫu mã của nước ngoài theo đơn đặt hàng hoặc nhái
lại. Cũng không thể phủ nhận có một phần nhỏ mẫu mã là do các nghệ nhân của chúng ta

thiết kế ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Các doanh nghiệp đang đứng được trong
lĩnh vực mây tre đan chủ yếu là gia công cho tập đoàn nước ngoài theo mẫu mã của họ
nên bị ép giá. Đó là chưa kể các làng nghề chủ yếu hàng được xuất qua quá nhiều các
doanh nghiệp trung gian nên lợi nhuận thu được cũng không được nhiều. Tuy các sản
phẩm của Việt Nam chưa sánh được với các sản phẩm của Trung Quốc và Indonexia
nhưng giá của sản phẩm lại vừa phải do giá nhân công và nguyên liệu rẻ nên có thể cạnh
tranh được. Hàng mây tre đan không thể làm bản quyền do mẫu mã thay đổi thường
xuyên vì vậy việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cũng là vấn đề rất quan trọng. Nếu
chúng ta xây dựng được một thương hiệu lớn mạnh trên thị trường thế giới thì chắc chắn
các sản phẩm của chúng ta cũng được nâng lên rất nhiều. Giá sản phẩm của chúng ta
cũng thấp hơn giá của các sản phẩm nước ngoài do chúng ta có nguồn nguyên liệu tự
nhiên rẻ cộng với giá nhân công rẻ. Các cơ sở sản xuất nhỏ chủ yếu là sản xuất đến một
giai đoạn giai đoạn nhất định rồi chuyển đến nơi khác để hoàn thiện sản phẩm. Như ở các
cơ sở sản xuất tại xã Thượng Hiền thì sản phẩm mới chỉ tương đối hoàn thiện sau đó
được đưa đến các cơ sở lớn như Ngọc Động để hoàn thiện các giai đoạn cuối cùng trước
khi xuất khẩu. Quá trình tạo ra một sản phẩm cũng trải qua rất nhiều công đoạn từ thu
nhập nguyên liệu đến đan các sản phẩm và qua khâu xử lí sản phẩm như chống ẩm mốc,
sơn dầu, tăng độ cưng của sản phẩm. Các cơ sở sản xuất ngành nghề hầu như chưa quan
tâm đến khía cạnh pháp lí kinh doanh. Có rất ít các cơ sở quan tâm đăng kí nhãn hiệu cho
sản phẩm của mình. Điều này làm giảm khá nhiều khả năng cạnh tranh của các sản phẩm
trên thị trường quốc tế. Mà trong tương lai ngay cả thị trường trong nước khi nước ta hội
nhập WTO.

3.2.3. Nguồn nhân lực

Ngành mây tre đan chủ yếu được làm ở các làng nghề truyền thống. Do đó đã
tận dụng được nguồn lao động nhàn rỗi khá lớn từ lao động nông nghiệp ở trong
làng. Từ những người già đến các trẻ em trong làng đều có thể làm được. Thời
gian làm việc của người lao động không bó hẹp. Họ có thể làm trong tất cả thời
gian nhàn rỗi. Ngoài thời gian làm ở các cơ sở sản xuất họ có thể nhận hàng về

nhà tranh thủ tối làm để tăng thu nhập cho gia đình đồng thời cũng làm tăng lượng
sản phẩm cho doanh nghiệp. Đây cũng là thế mạnh của ngành trong việc cạnh
tranh với thị trường nước ngoài. Nghề mây tre đan sản xuất theo hộ gia đình cũng
khá lớn. Thị trường mở rộng, sản xuất phát triển thì vấn đề nhân lực là sự sống còn
của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực nằm rải rác khắp các làng nghề trên nhiều tỉnh
như Hà Tây,Bắc Ninh,Thái Bình...Quá trình khảo sát thực tế cho thấy chỉ có
8


khoảng 10% nguồn nhân lực là tập trung còn lại 90% nằm rải rác. Các doanh
nghiệp đã vượt qua khỏi hình thức sản xuất của một làng nghề để tạo ra những vệ
tinh cho mình ở những huyện những tỉnh khác. Nguồn nhân lực thường xuyên có
sự biến động lớn do ra làm ở các khu công nghiệp. Các doanh nghiệp đã có các
chính sách đào tạo, nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân. Đây là việc mang
tầm chiến lược cao từ việc dạy nghề bán nguyên liệu đến mua sản phẩm. Đối với
những người dân làng nghề thì họ có thể làm mọi nghề tuy không giỏi. Bất cứ
công việc nào mang lại thu nhập cao là họ làm. Họ chưa thực sự tư duy được tầm
quan trọng của việc chuyển nghề. Ngày nay những người dân làng nghề rất muốn
truyền lại nghề cho con cháu nhưng dường như điều này là rất khó bởi thế hệ trẻ
ngày nay không muốn theo ngành này nên việc bảo tồn nghề gặp nhiều khó khăn.
Ngành mây tre đan có nhiều ưu điểm đó là vốn ít (chỉ cần 300.000 - 500.000
đồng là tạm đủ cho một hộ 4 người sản xuất) [8]. Tận dụng được lao động phụ đặc
biệt là trẻ em và người già,thu nhập cao. Nghề truyền thống mang lại những lợi ích
kinh tế rõ rệt không thể phủ nhận. ngoài những lợi ích khác về xã hội mà làng
nghề đem lại cũng không thể tính đếm hết như đẩy lùi các tệ nạn xã hội, trẻ em
ngoài việc học hành còn tham gia giúp gia đình làm thêm việc đan lát. Hiện nay
nhà nước và địa phương đã có những chính sách giúp phát triển ngành nghề tuy
nhiên mới chỉ dừng lại ở việc khuyến khích làm nghề mà chưa có chính sách hỗ
trợ về vốn, đất đai, tìm kiếm thị trường... Nhiều doanh nghiệp muốn mở rộng sản
xuất nhưng nhà nước cũng như địa phương chưa cấp vốn cũng như đất đai. Theo

bác Du xã Thượng Hiền thì cơ sở sản xuất của bác muốn mở rộng quy mô sản xuất
nhưng địa phương chưa tạo điều kiện về đất đai và vốn.
3.2.4. Thị trường tiêu thụ
Hàng mây tre đan thủ công mỹ nghệ truyền thống được tạo ra bởi những bàn
tay tài hoa. Đây là những đặc điểm nhưng cũng là điều kiện không thể thiếu của
mặt hàng này. Trong các làng nghề truyền thống đều có mặt của các nghệ nhân
hoặc những tay thợ lành nghề. Hàng trăm năm đã đi qua nhưng bao giờ cũng có sự
kế tiếp đó. Trước đây các sản phẩm được sản xuất bằng tay và các công cụ đơn
giản như dùng dao để chẻ mây tre, rút sợi nhưng giờ đây đã có sự đóng góp của
các máy chẻ mây tre, các máy cơ khí, máy rút sợi. Với sự thay thế này sức lao
động được giảm nhẹ, số lượng sản phẩm được sản xuất ra nhiều hơn, hiệu quả
kinh tế lớn hơn. Thị trường ngày càng được mở rộng. Kim ngạch xuất khẩu các
mặt hàng mây tre lá của Việt Nam trong 10 ngày đầu tháng 5/2006 đạt 6,2 triệu
USD, tăng 19% so với cùng kỳ tháng 4. Ước tính, trong tháng 5, kim ngạch xuất
khẩu các sản phẩm mây tre lá của cả nước đạt 17,5 triệu USD, tăng nhẹ so với
tháng 4, góp phần đưa tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này trong 5 tháng
9


đầu năm đạt 73 triệu USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2005. 10 ngày đầu
tháng 5, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 40 mẫu mã sản phẩm được làm bằng tre,
với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,2 triệu USD, tăng 9,1% so với 10 ngày đầu tháng 4.
Ước tính, trong tháng 5, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng tre đan của cả nước
đạt 4 triệu USD, tăng nhẹ so với tháng 4, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt
hàng tre đan của cả nước trong 5 tháng đầu năm đạt 16,1 triệu USD, tăng 19,5%
so với cùng kỳ năm 2005. Các sản phẩm tre xuất khẩu chủ yếu là: Đĩa, Bát, Bình,
Khay, Rổ, Sọt….Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng khay tre chiếm tỷ trọng cao nhất,
với kim ngạch xuất khẩu đạt 121 nghìn USD, nhưng giảm mạnh so với cùng kỳ
tháng 4. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu mặt hàng này là Đức, Bỉ, Anh, Pháp,
Thuỵ Điển, Hàn Quốc …Tiếp đến là mặt hàng bình bằng tre, với kim ngạch xuất

khẩu đạt 104 nghìn USD, tăng 11% so với cùng kỳ tháng trước. Đơn giá xuất khẩu
trung bình trong kỳ chỉ đạt 4,42 USD/cái, giảm 0,06 USD/cái so với tháng trước.
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng bát tre trong kỳ đạt 96 nghìn USD, tăng 21% so
với cùng kỳ tháng 4. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu là Mỹ, Italia, Mêhicô, Đài
Loan…
Mặt hàng mây đan: Trong 10 ngày đầu tháng 5, kim ngạch xuất khẩu các
sản phẩm mây đan đạt 1,1 triệu USD, giảm nhẹ so với cùng kỳ tháng trước, ước
tính kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm mây đan của Việt Nam trong tháng 5 đạt
4,1 triệu USD, sắp sỉ bằng với kim ngạch xuất khẩu của tháng 4, nhưng vẫn tăng
18,5% so với cùng kỳ năm 2005.Trong cơ cấu các mặt hàng mây đan xuất khẩu
trong 10 ngày đầu tháng 5, thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng bàn, ghế chiếm tỷ
trọng cao nhất với kim ngạch đạt 473 nghìn USD, tăng 15% so với cùng kỳ tháng
trước.Trước đây, sản phẩm bàn ghế mây của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu
vào 3 thị trường chính là Hồng Kông, Mỹ và Tây Ban Nha, trong đó riêng thị
trường Hồng Kông đã chiếm tới trên 80% thị trường, nhưng trong 10 ngày đầu
tháng 5, các sản phẩm bàn ghế mây của Việt Nam đã được đẩy mạnh xuất khẩu
một số thị trường EU như: Đức, Anh, Italia, Pháp, Cộng Hoà Séc, Thuỵ Điển, Bỉ,
Hà Lan…Tiếp đến là các mặt hàng giỏ mây, với kim ngạch xuất khẩu đạt 207
nghìn USD, tăng 38% so với cùng kỳ tháng 4. Tuy nhiên, các sản phẩm trong 10
ngày đầu tháng 5 chủ yếu là các mặt hàng có phẩm cấp thấp, do đó đơn giá xuất
khẩu trung bình trong kỳ giảm mạnh so với cùng kỳ tháng 4. Kim ngạch xuất khẩu
khay mây đạt 59 nghìn USD, tăng nhẹ so với cùng kỳ tháng 4, đáng chú ý là đơn
giá trung bình của mặt hàng khay mây trong kỳ đạt 1,74 USD/cái, tăng 0,47
USD/cái so với tháng 4. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản, Đan Mạch, Bỉ,
Tây Ban Nha…
Trước đây trong cơ chế bao cấp do thị trường không lớn nên nghề mây tre
10


đan hoạt động theo kiểu tự sản tự tiêu chủ yếu lấy công làm lãi. Hàng hóa có chấ t

lượng thấp mẫu mã đơn giản đa phần tiêu thụ ở các xã quanh vùng chỉ xuất khẩu
được số lượng rất ít sang Liên Xô (trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu. Nhiều người dân của làng nghề không sống được bằng nghề này phải bỏ
ra các thành phố lớn tìm kế mưu sinh, làng nghề có nguy cơ bị mai một. Bước
sang thời kì đổi mới cùng với sự thay đổi của đất nước các làng nghề truyền thống
cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ. Các làng nghề cũng nhận được nhiều hợp
đồng xuất khẩu các mặt hàng như: rổ rá, lãng hoa, bàn ghế...cung cấp cho các thị
trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc với số lượng lớn mang
lại giá trị lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp Nghề mây tre đan đã thực sự hồi
sinh và phát triển nhờ xuất khẩu được đi nhiều nước. Hiện đang tìm kiếm thị
trường ở Tây Âu và các nước Đông Nam Á.[18 ]
Sản phẩm mây, tre Việt Nam đã có mặt ở 94 nước trên thế giới [11]. Theo số
liệu thu thập được từ Tổng cục thống kê và hiệp hội làng nghề Việt Nam thì tổng
kim ngạch xuất khẩu của ngành mây tre đan Việt Nam trong những năm gần đây
tăng lên một cách đáng kể.Cụ thể:

Năm 2000

78,6 triệu USD

Năm 2001

93.8 triệu USD

Năm 2002

107.9 triệu USD

Năm 2003


115 triệu USD

Năm 2005

180.2 triệu USD

Năm 2006

195 triệu USD

11


Hình 1. Kim ngạch xuất khẩu ngành mây tre đan Việt Nam
giai đoạn 2000-2006.
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Hiệp hội làng nghề Việt Nam
(dẫn lại từ trang thông tin điện tử của Báo điện tử thời báo
kinh tế Việt Nam.)
Với thị trường nước ngoài các sản phẩm mây tre đan được xuất khẩu thông
qua các công ty xuất khẩu thủ công mỹ nghệ: Ngọc Động, Havimex.. Mới đây đã
nhen nhóm sang thị trường Mỹ với doanh số năm 2004 đạt trên 30 tỷ đồng. Hiện
nay Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn về các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam với mức tăng trưởng từ 30 - 35%/năm kể từ 1996 đến nay năm 2002 đạt mức
22,4 triệu USD ngoài ra còn rất nhiều các nước khác đặc biệt là thị trường Mỹ
đang là thị trường hứa hẹn rất nhiều cơ hội [12]. Tuy vậy để hàng mây tre đan đến
được với người tiêu dùng nước ngoài cũng đòi hỏi phải trải qua rất nhiều tiêu chẩn
kiểm định như tiêu chuẩn JIS hay JAS (quy định về chất liệu công nghiệp). Giờ
đây khách nước ngoài muốn tìm đến nguồn gốc Á Đông với những sản phẩm do
chính bàn tay lao động thủ công của những người thợ tạo nên từ các nguyên liệu
thiên nhiên. Trong thời gian gần đây thị trường ngoài nước đã được mở rộng và

tiềm năng vẫn còn rất lớn. Nó không những đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và sử dụng
rộng rãi trong nước mà còn góp phần đáng kể vào việc xuất khẩu sang các nước
châu Âu, châu Úc, châu Mỹ. Do có vai trò thiết thực đối với xã hội và nền kinh tế
quốc dân, nghề mây tre đan nứa nội địa và xuất khẩu đang được nhà nước chú ý
phát triển. Nghề sản xuất mây tre đan trước đây chỉ có ở một số làng nghề truyền
thống trong nước giờ đây đã được nhân rộng ra một số địa phương xung quanh
nhưng vẫn còn mang tính chất manh mún, nhỏ lẻ. Các sản phẩm sử dụng trong
12


nước rất ít do trong nước chưa có sức mua lớn. Chủ yếu là xuất khẩu tuy nhiên
việc xuất khẩu sang thị trường nước ngoài còn một số hạn chế đó là: khi xuất khẩu
thì chỉ quan tâm tới lượng hàng mà mình xuất đi chứ chưa thực sự quan tâm đến
chất lượng cũng như sản phẩm khi sang nước ngoài thì nó sẽ như thế nào. Còn giữ
được thương hiệu hay xuất xứ của mình không. Chưa để lại ấn tượng cho người
tiêu dùng nước ngoài về sản phẩm của mình. Muốn ngành nghề phát triển được thì
phải giữ được chữ tín trên thương trường. Thị trường cung ứng nguyên vật liệu
còn hết sức nhỏ hẹp, phương thức phục vụ theo kiểu cung cầu tại chỗ, hoàn toàn
dựa trên thỏa thuận ngầm, cũng như có những dịch vụ cung cấp theo hợp đồng lớn
cho các hộ gia đình và cơ sở sản xuất.
3.2.5. Những thuận lợi của ngành mây tre đan Việt Nam.
Trong xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam tham gia ngày càng nhiều vào các tổ
chức quốc tế, các làng nghề mây tre đan cũng đã có những bước chuyển mình
mạnh mẽ và gặt hái đuợc nhiều thành công. Để có được những thành công đó
không thể không nói tới những thuận lợi làm tiền đề cho sự phát triển. Thứ nhất:
Việt Nam với đặc điểm là một nước nhiệt đới gió mùa, thảm thực vật phong phú
nên có nguồn nguyên liệu và phụ liệu dồi dào. Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều là điều
kiện lí tưởng cho cây giang mây tre sinh trưởng mạnh mẽ. Nhiều nơi trên đất nước
ta như Đồng Nai, Bình Thuận, Lâm Đồng, Bình Phước... Có những rừng nguyên
vật liệu tự nhiên với trữ lượng lớn. Thứ hai Việt Nam có những làng nghề truyền

thống hàng trăm năm với nguồn nhân lực có tay nghề khéo léo, lực lượng lao động
làm nghề rất dồi dào, giá nhân công thấp hơn so với nước ngoài vì có thể tận dụng
những lao động nông thôn những lao động phụ đặc biệt là trẻ em và người già.
Chính vì vậy nên có điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Ngòai ra còn có những yếu
tố khách quan từ phía thị trường. Ví dụ như ngày nay khi đã có một cơ sở tương
đối ổn định, tiêu dùng của con người lại hướng về các sản phẩm mang tính tự
nhiên hơn các sản phẩm công nghiệp hiện đại và xu hướng này còn mạnh mẽ hơn
ở thị trường thị trường nước ngoài. Chính sách của chính phủ cũng ngày càng trở
nên thiết thực hơn, huy động ngày càng triệt để và có hiệu quả hơn các tiềm năng
sản xuất cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống. Vận dụng chính sạch
của chính phủ, từng địa phương đã có nhiều giải pháp tích cực cho sản xuất như
Hà Tây, Hà Nam, Bắc Ninh... Chủ trương khôi phục và phát triển các làng nghề
truyền thống, quy hoạch các vùng sản xuất tập trung, cho vay vốn sản xuất. xét
duyệt và chỉ đạo thực hiện các phương án sản xuất ngành nghề của các địa
phương. Thường xuyên xét tặng danh hiệu nghệ nhân... đã tạo điều kiện rất thuận
lợi cho phát triển các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống.
Mây tre đan là một trong những mặt hàng thủ công mỹ nghệ đang được nhà
13


nước quan tâm và phát triển. Chính sách của chính phủ ngày càng trở nên thiết
thực hơn, huy động ngày càng triệt để và có hiệu quả hơn các tiềm năng cho sản
xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống. Thời gian vừa qua nhà nước đã
xác định mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc nhóm hàng được hưởng ưu đãi đặc
biệt. Chính phủ đã giành nhiêu chính sách ưu đãi cho ngành thủ công mỹ nghệ
như khuyến khích phát triển các ngành nghề nông thôn, phát triển và khai thác
nguyên liệu phục vụ sản xuất, chính sách về đầu tư tín dụng thuế và lệ phí, chính
sách thông tin, thị trường, xúc tiến thương mại và đào tạo lao động… QD022001/Ttg cũng quy định các dự án sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu đều được
vay vốn tín dụng đầu tư từ quỹ đầu tư với lãi suất ưu đãi 5,4%/năm hay được các
quỹ bảo lãnh đến 100 % khoản vay từ các tổ chức tín dụng. Nghị định 57/CP của

chính phủ về chính sách mới cho xuất khẩu khuyến khích các doanh nghiệp xuất
khẩu trực tiếp sản phẩm cho họ.Trên đây là những yếu tố quan trọng giúp các
doanh nghiệp mây tre đan của nước ta nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường
quốc tế.
3.2.6. Những khó khăn của ngành mây tre đan Việt Nam.
Tuy nhiên, khi bước vào hội nhập WTO, doanh nghiệp mây tre đan đang đứng
trước những khó khăn thách thức lớn bởi các doanh nghiệp nước ta còn non kém
về nhiều mặt. Cơ sở vật chất cho sản xuất của các doanh nghiệp còn hạn chế. Thực
tế sản phẩm mây tre đan là đồ thủ công cần phải được bảo quản tốt trong khi nhà
xưởng cơ sở vật chất của nhiều doanh nghiệp còn nghèo nàn mưa một chút là có
thể mốc làm ảnh hưởng đến chẩt lượng sản phẩm trong khi cơ sở vật chất của các
doanh nghiệp sản xuất mây tre đan ở nước ngoài rất tốt. Như các hộ sản xuất ở xã
Thượng Hiền không có các cơ sở vật chất nhà xưởng để bảo quản các sản phẩm
làm ra và nguyên vật liệu. Chính vì vốn ít nên họ không có đủ điều kiện để xây
dựng những cơ sỏ chuyên dụng cho việc sản xuất của mình. Hơn nữa, họ rất thiếu
mặt bằng sản xuất nên nhà xưởng vẫn còn mang tính chất tận dụng chứ chưa thành
một hệ thống sản xuất. Các cơ sở sản xuất đều gặp khó khăn về mặt bằng sản xuất,
bãi tập kết nguyên liệu và các cửa hàng giao bán sản phẩm...đường giao thông
xấu, xuống cấp, hệ thống công cụ còn quá lạc hậu, khả năng thay thế kèm giá điện
cao... Nhiều doanh nghiệp ở làng nghề thì bức xúc vì thiếu mặt bằng sản xuất và
vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhiều hộ sản xuất đã tận dụng được vài trăm m2
đất ở làm nơi giao dịch nhưng xưởng sản xuất đặt rải rác ở các hộ dân trong làng
nên không tạo thành một dây chuyền sản xuất khép kín, khó hạ giá thành sản
phẩm để cạnh tranh trên thị trường. Những yếu tố đó đã làm cho năng suất lao
động thấp chi phí sản xuất lớn và nhiều khâu trong sản xuất tiêu thụ không được
tiến hành kịp thời. Ở nhiều nơi việc thiếu mặt bằng phục vụ sản xuất và mở rộng
14


sản xuất khiến hàng làm ra chất thành từng đống, không có chỗ tập kết, không có

kho xưởng, phải để ở nhiều nơi gây khó khăn cho khâu vận chuyển. Không mở
rộng được quy mô sản xuất, phải duy trì việc sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, manh mún
lại thêm vốn ít, các doanh nghiệp mây tre thực sự gặp khó khăn trong việc thực
hiện các đơn đặt hàng lớn. Không chỉ vậy việc xúc tiến thương mại của ta cũng có
nhiều khó khăn. Hiện nay thị trường mây giang đan Trung Quốc và Indonesia
đang được nhà nước bảo trợ về nguồn nguyên liệu xúc tiến thương mại và được
miễn tiền thuê đất...Trong khi ở nước ta chưa có điều kiện này. Đặc biệt điều sống
còn của doanh nghiệp tại thị trường mây tre đan nước ngoài là mẫu mã sản phẩm
phải thường xuyên mới và hấp dẫn nhưng nhìn chung việc sáng tạo cải tiến mẫu
mã của ta còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Hiện nay đa phần các doanh nghiệp
của ta đều sản xuất theo mẫu mã của nước ngoài hoặc nhái lại, các doanh nghiệp
đang đứng được trong lĩnh vực mây tre đan chủ yếu là gia công xuất khẩu cho tập
đoàn nước ngoài theo mẫu mã của họ nên bị ép giá đó là chưa kể những doanh
nghiệp, làng nghề chủ yếu xuất hàng qua các doanh nghiệp trung gian trong nước.
Vì vậy lợi nhuận từ sản xuất mây giang đan của các doanh nghiệp không cao thu
nhập của người lao động còn thấp. Theo cục xúc tiến thương mại (Bộ Thương
mại) khách hàng nước ngoài đánh giá hàng của Việt Nam yếu nhất là khâu thiết
kế. Các công ty xuất khẩu của Việt Nam ít quan tâm đến cải tiến chẩt lượng sản
phẩm, chỉ cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá. Các doanh nghiệp thi nhau hạ giá
nên cho đến nay chưa vẫn chưa có hiệp hội mây tre đan để bảo hộ cho ngành. Do
đó mẫu mã của công ty gần như giống nhau và chất lượng sản phẩm ngày càng
giảm sút. Trong khi muốn bán được nhiều hàng thì tỉ lệ chế tác thủ công và mẫu
mã sản phẩm phải chiếm phần nhiều. Hầu hết các công ty kinh doanh về mặt hàng
mây tre đan đều gặp khó khăn về thíết kế do những hạn chế như quy mô nhỏ thiếu
chuyên gia giỏi và nhận thức hạn chế. Ngoài ra, nạn ăn cắp mẫu mã cũng đang
ngày một trầm trọng. Trên thị trường thì xuất hiện nhiều hàng nhái kém phẩm chất
làm ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích của các cơ sở sản xuất.
Tình trạng thiếu chủ động về nguyên liệu cũng là một vấn đề nan giải. Nguồn
nguyên liệu đang có nguy cơ cạn kiệt. Trước kia việc tìm nguồn cung ứng nguyên
liệu tương đối dễ dàng. Thế nhưng vài năm gần đây, việc này đã trở nên nan giải

vì những vùng rừng cung cấp nguyên vât liệu ở Đồng Nai, Bình Thuận đã bị người
dân chặt phá làm rẫy gần hết. Giá mua nguyên vật liệu ngày càng tăng, chi phí vận
chuyển cao, nguồn nguyên liệu cung cấp thiếu chủ động...đã ảnh hưởng rất lớn
đến giá thành, giá bán và khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam đối với các
nước khác. Chưa có một vùng quy hoạch nguyên liệu nào được đầu tư đúng mức.
Có thể thấy như làng mây tre đan xã Nghi Phong (huyện Nghi Lộc Nghệ An) bình

15


quân mỗi tháng tiêu thị 20 tấn. Với mức tiêu thụ này vùng nguyên liệu mây tre đan
hiện có ở các huyện miền núi không đáp ứng đủ về số lượng, buộc các doanh
nghiệp sản xuất mây tre đan phải thu mua thêm nguyên liệu từ các tỉnh như Thanh
Hóa, Quảng Bình. Theo ông Phạm Văn Du chủ cơ sỏ sản xuất Du Dương (xã
Thượng Hiền Thái Bình), hiện nay nguyên vật liệu phải nhập khẩu từ nhiều nguồn
khác nhau. Nguyên liệu mây trắng thì có thể nhập ở miền Bắc nhưng nguyên liệu
mây mầu thì phải nhập từ các tỉnh miền trong như Đà Nẵng...dẫn tới việc đội chi
phí lên khá cao. Việc thu mua nguyên vật liệu cũng ngày càng trỏ nên khó khăn
chứ không còn dễ dàng như trước kia. Được biết một số các doanh nghiệp ở
Quảng Châu thu mua các nguyên liệu mây tre ở miền Trung, điều đó càng làm cho
nguyên liệu mây tre càng trở nên khan hiếm.
Một yếu tố cần thiết nữa chính là vốn. Nhưng hiện nay khả năng cung ứng về
vốn yếu. Các sơ sở sản xuất chưa đủ khả năng dựa vào kết quả sản xuất kinh
doanh của mình để tiếp cận tốt thuyết phục được các ngân hàng cho vay vốn.
Muốn vay vốn lớn các ngân hàng yêu cầu phải có thế chấp tài sản, nhưng họ yêu
cầu tài sản thể hiện ngay được mặt giá trị mà chưa đánh giá tài sản qua thực tế,
tiềm năng kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp. Đặc biệt các doanh
nghiệp nhỏ rất khó khăn trong thế chấp tài sản. Các ngân hàng cũng chưa tìm ra cơ
chế thích hợp để cho các đơn vị sản xuất vay vốn nhiều hơn và tăng thời hạn vay
dài hơn. Mặt khác tình trạng tồn đọng vốn vẫn dây dưa nhằng nhịt ở mọi khâu

trong sản xuất và tiêu thụ giữa các hộ với công ty và giữa công ty với các hộ. Điều
đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị
sản xuất. Khi gia nhập WTO, doanh nghiệp lại càng phải đối mặt với nhiều vấn đề
hơn. Chẳng hạn như xây dựng thương hiệu, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư mới
trang thiết bị, cải tiến công nghệ hiện đại… Vấn đề nào cũng cần đến vốn mà
nguồn vốn thì hạn chế gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp,”cái khó bó cái
khôn”.Lượng vốn nhỏ đã hạn chế khả năng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm
và mở rộng sản xuất nên tình trạng nhiểu cơ sở sản xuất phải đóng cửa và một số
làng nghề đang tồn tại một cách leo lắt là điều khó tránh khỏi.
Khả năng tiếp cận thị trường yếu. Chúng ta quen với phương châm sản xuất
nhanh, nhiều, tốt, rẻ nhưng làm thế nào để bán được hàng nhanh và bán được
nhiều hàng thì đó còn là một vấn đề mới mẻ. Hệ thống thị trường trong nước chưa
ổn định, nhiều người chưa biết bán sản phẩm cho ai, hàng hóa bị tồn đọng, luân
chuyển chậm … Ở các vùng nông thôn người dân ít có cơ hội tiếp cận với những
mặt hàng mới, hiểu biết tiêu dùng mới… Trong khi đó thị trường ngoài nước đang
trong quá trình tìm kiếm. Việc giới thiệu sản phẩm ở các hội chợ quốc tế rất tồn
kém, các doanh nghiệp ít có kinh nghiệm tìm hiểu thị trường ngoài nước và còn
16


gặp rất nhiều khó khăn trong việc thông thạo các công ước quốc tế, hiểu biết nhu
cầu thị trường, cách tiếp cận với các đối tác nước ngoài, nghệ thuật buôn bán và
kinh nghiệm tạo nên cơ chế ràng buộc các đối tác về thanh toán trả tiên mua đúng
hạn, hàng của ta không bị ép giá. Các doanh nghiệp trong nước chưa được gắn kết
thành một khối mạnh mẽ trong quan hệ với đối tác nước ngoài, mọi quan hệ đều ở
mức riêng rẽ, mạnh ai nấy được nên không có sức mạnh lớn trong cạnh tranh.Rất
nhiều cơ sỏ sản xuất ở cấc làng nghề Việt Nam đã gặp phải không ít lao đao vì
không tìm ra được thị trường tiêu thụ, đầu ra sản phẩm bị lệ thuộc hoàn toàn vào
các công ty trung gian. Cũng do có quá nhiều trung gian từ các cơ sở sản xuất đến
các công ty xuất khẩu nên người lao động không được hưởng thu nhập cao dẫn

đến việc nhiều làng nghề đã bỏ nghề để chuyển sang sản xuất những mặt hàng
khác có thu nhập cao hơn. Hiện nay, ở Thượng Hiền nhiều hộ gia đình không còn
chuyên sản xuất mây tre nữa mà sản xuất thêm nhiều mặt hàng khác và sản phẩm
mây tre giờ chỉ còn mang tính chất duy trì và “giữ nghề”.
Số thợ giỏi có trình độ cao ngày một ít đi, nhiều làng nghề đang dần thất
truyền. Thanh niên ngày càng có xu hướng tham gia nhiều vào các lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, ít theo học
nghề thủ công truyền thống vì thu nhập còn thấp và bấp bênh. Trong điều kiện hội
nhập chúng ta gặp những đối thủ cạnh tranh có những điều kiện thuận lợi về tài
nguyên, lao động văn hóa dân tộc gần như ta: Trung Quốc,Thái Lan… Nếu chúng
ta không chú ý phát triển một nền kinh tế tri thức với trình độ tay nghề cao thì sẽ
sớm bị loại trên thương trường. Theo bác Nguyễn Viết Hồng, một nghệ nhân đã
làm 40 năm trong nghề thì để trở thành một người biết đan không khó, chỉ cần một
tháng dưới sự dẫn dắt chỉ bảo của nghệ nhân thì từ một người chưa biết chút nào
về kĩ thuật trong ngành mây tre đan sẽ có thể trở thành người đan mây tre. Nhưng
cái khó là ở chỗ hiện nay các sơ sở sản xuất mây tre đan đang thiếu cả những lao
động biết làm nghề và những lao động có trình độ có khả năng sáng tạo tự thiết kế
ra các mẫu mã chủng loại sản phẩm chứ không đơn thuần là chỉ làm theo các mẫu
có sẵn.
Sức mua của dân ta còn thấp, hàng làm ra được tiêu thụ rất ít ở trong nước nên
thị trường trong nước chưa được mở rộng, đặc biệt ở các vùng đông dân xa các
trung tâm thương mại lớn. Trước cơn lốc các sản phẩm Plastic người dân có xu
hướng tiêu dùng các sản phẩm nhựa nhiều hơn vì chúng không những bền mà giá
cả cũng phù hợp với thu nhập. Còn những sản phẩm mây tre mang tính thẩm mỹ
cao thường dùng để trang trí nội thất thì chỉ có một bộ phận nhỏ người dân mới có
khả năng chi trả sử dụng.
Thêm vào đó ngành mây tre đan chưa có chiến lược trong việc phát triển các
17



làng nghề truyền thống, vùng nguyên liệu, đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp
cho sản xuất. Đa số các hoạt động sản xuất thủ công mỹ nghệ đều là tự phát chủ
yếu bao gồm các hộ kinh doanh cá thể, khả năng bán hàng cho du khách nước
ngoài đã hấp dẫn các hộ gia đình trong làng nghề, họ bung ra mở các cơ sở sản
xuất riêng biệt dẫn đến cạnh tranh bằng mọi giá để có được khách hàng làm giảm
đi lợi thế về giá, chưa kể đến yếu tố có sự trùng lắp của các mẫu mã thiết kế… làm
giảm tính sáng tạo của người lao động. Cũng do chưa có một chiến lược trong việc
phát triển làng nghề truyền thống nên dẫn tới không chỉ cạnh tranh với sản phẩm
cùng ngành của các tỉnh khác mà ngay trên “sân nhà” các sơ sở sản xuất cũng phải
cạnh tranh quyết liệt để tồn tại.
Tuy nhiên khó khăn nhất là việc quản lí sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp còn có những hạn chế. Đa số các cơ sở sản xuất hay các doanh nghiệp đều
đi lên từ các làng nghề truyền thống nên những kiến thức về hội nhập kinh tế quốc
tế hay những kiến thức về quản lý và phát triển doanh nghiệp một cách có hiệu
quả còn hạn chế, hầu hết những kiến thức mà họ thu được là kinh nghiệm thực tế,
nó rất quan trọng nhưng nếu chỉ đơn thuần là kinh nghiệm thực tế họ sẽ vấp phải
khó khăn trên thương trường. Bác Phạm Bá Vang một người chuyên trồng và lưu
giữ những giống mây truyền thống ở Tây Phú _ Thuợng Hiền _ Thái bình cho
biết: bác chỉ sản xuất trong diện tích đất thổ cư của gia đình, và chưa có ý định mở
rộng thành vùng chuyên canh mặc dù cơ sở ươm giống mây của bác rất phát triển
và có uy tín cung cấp giống mây cho rất nhiều tỉnh trên cả nuớc từ Lào Cai, Sơn
La, Hà Giang đến Thanh Hóa, Khánh Hòa, Phước Long…
Hơn nữa, hàng mây tre đan khó làm bản quyền do mẫu mã thay đổi thường
xuyên, vì vậy việc xây dựng thương hiệu sản phẩm cũng có nhiều khó khăn. Trong
khi thương hiệu là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp sau hội nhập. Xây dựng
phát triển và bảo vệ thương hiệu là vấn đề đặc biệt quan trọng trong chiến lược mở
rộng thị trường, tạo chỗ đứng vững chắc của các doanh nghiệp khi tham gia vào
thị trường quốc tế rộng lớn cạnh tranh gay gắt. Đến thời đỉểm hiện nay các doanh
nghiệp mây tre vẫn chưa có một thương hiệu trên thị trường thế giới và ăn sâu vào
tiềm thức người tiêu dùng. Các cơ sở sản xuất chỉ làm đến một công đoạn tương

đối hoàn chỉnh sau đó người đặt hàng mang đến nơi khác để xuất đi hay đóng
nhãn, họ không biết sản phẩm sẽ được dùng để làm gì hay đưa về đâu. Sau khi
giao hàng và thanh toán tiền công với chủ cơ sở kinh doanh, họ coi như xong việc.
Mọi công sức, trí tuệ của họ lại gắn với một cái tên xa lạ nào đó, thậm chí đem lại
nguồn thu nhập lớn cho cơ sở tiêu thụ mà đáng ra họ sẽ được hưởng với tỉ lệ cao
hơn so với số tiền công được trả hiện nay. Điều quan trọng là sẽ không tạo được vị
trí và hình ảnh sản phẩm của mình trong tâm trí khách hàng. Thực tế sản phẩm này
18


đến những thị trường cao cấp là nhờ những công ty lớn thu mua sản phẩm ở các
làng nghề rồi xuất sang các nước. Các làng nghề chỉ đóng vai trò là người sản xuất
theo các hợp đồng, đơn đặt hàng... nên nhãn mác của sản phẩm được chuyển tên
cho những công ty lớn này. Chính vì vây, ngừoi tiêu dùng cuối cùng ở nứoc ngoài
không biết sản phẩm đó là sản phẩm của Việt Nam bởi vì sản phẩm đã được đóng
nhãn của một trung gian nứoc ngoài. Khaỏ sát thực tế Ngọc Động cho thấy rằng:
nếu sản phẩm bán trên thị trừơng nước ngoài gắn nhãn mác của doanh nghiệp sản
xuất Việt Nam, các trung gian sẽ không hợp tác, như vậy có thể chúng ta sẽ mất
tới 70% lượng hàng bán ra do kênh phân phối của chúng ta qua quá nhiều trung
gian, mặt tài chính còn hạn chế. Đa số các doanh nghiệp mây tre đan Việt Nam là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với
nguồn vốn ngân hàng. Vậy nên các doanh nghiệp rất ngại tốn kém về chi phí tài
chính, thời gian khi thực hiện bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài. Ngoài ra còn hạn
chế về kinh nghiệm và kiến thức kinh doanh hiện đại. Một số giám đốc, chủ cơ sở
sản xuất vẫn còn giữ quan điểm: cứ sản xuất hàng có chất lượng cao là được người
tiêu dùng biết đến và lúc đó sẽ có thương hiệu. Tư duy như vậy thực sự không phù
hợp với thực lực tài chính và kinh tế hội nhập, bởi chúng ta vẫn còn hạn chế về
vốn, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, trình độ chuyên môn để tạo ra được
những sản phẩm có chất lượng cao ngay từ khi mới thành lập doanh nghiệp. Vì
vậy, hơn bao giờ hết, doanh nghiệp phải hiểu được rằng đi đôi với việc quan tâm

nâng cao chất lượng sản phẩm là xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm.
Ngoài ra là những khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm do thiếu thông tin thị trường,
khả năng quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu còn kém trong khi mẫu mã
sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh. Doanh nghiệp ở làng nghề hầu như đi lên từ
người thợ nên việc tiếp cận với công nghệ thông tin còn hạn chế...
Trong hàng loạt khó khăn ấy, định hướng xây dựng thương hiệu bắt đầu từ đâu là
mối băn khoăn rất lớn đối với các doanh nghiệp làng nghề. Hầu hết số hộ kinh
doanh không biết, hoặc biết rất ít về Luật Doanh nghiệp.
Thủ tục hành chính, vay vốn và việc thực thi quyết định ưu đãi của chính phủ
còn nhiều bất cập thiếu đồng bộ. Đa số các doanh nghiệp kinh doanh trong mặt
hàng này là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn
vốn tín dụng theo chính sách ưu đãi của nhà nước. Thực tế chứng minh: ông Phạm
Văn Du ( chủ cơ sở sản xuất mây tre đan Du Dương ) Muốn vay tiền ngân hàng để
mở rộng sản xuất nhưng không được vay vốn vì không có giấy phép kinh doanh.
Phần lớn quy mô sản xuất của các hộ gia đình trong làng nghề còn rất nhỏ, sản
xuất theo nghiệp “cha truyền con nối” nên thường không có giấy phép kinh doanh
nhưng chính họ mới là những người gìn giữ và phát triển nghề truyền thống.

19


3.2.7. Cơ hội của ngành mây tre đan.
Khó khăn là vậy nhưng khi Việt Nam gia nhập WTO cũng mở ra không ít cơ
hội cho các ngành kinh tế nói chung và ngành sản xuất mây tre đan nói riêng. Vấn
đề là ở chỗ chúng ta có biết tận dụng những cơ hội này để phát triền ngành hay
không. Thị trường của những sản phẩm này ngày càng được mở rộng, đặc biệt là
thị trường ngoài nước. Khách nước ngoài muốn tìm đến nguồn gốc Á Đông với
những sản phẩm do chính bàn tay lao động thủ công của người thợ tạo nên từ
những nguyên liệu tự nhiên. Thị trường lớn, giá cả hợp lí, khả năng luân chuyển
vốn nhanh hơn là những thuận lợi rất lớn cho sản xuất. Đó là một tương lai triển

vọng về phát triển hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống nước ta. Thị trường trong
nước cũng khá phát triển khi cuộc sống của người dân ngày một nâng cao, cơ sở
hạ tầng ngày một phát triển. Khi cuộc sống người dân được nâng cao,sức mua
được cải thiện, điều mà con người hướng tới là sự quay lại với tự nhiên gắn bó với
truyền thống. Đó là một quy luật phố biến không chỉ đối với tầng lớp quý tộc mà
với mọi tầng lớp dân cư. Thị trường trong nước tiêu thụ một phần rất lớn sản phẩm
sản xuất ra từ trong nước nếu sản phẩm đó đủ sức cạnh tranh với sản phẩm nước
ngoài, hơn thế nữa đây là sản phẩm quen biết mang tính truyền thống.
Mặc dù hàng thủ công mỹ nghệ không phải là nhu yếu phẩm trong đời sống
hàng ngày của cư dân nhưng lại đáp ứng được nhu cầu sử dụng nào đó trong đời
sống xã hội, nhu cầu trang trí và thưởng thức những nét độc đáo của các nền văn
hóa. Đó là tiềm năng thuận lợi của thị trường cần được quan tâm để khai thác.
3.2.8. Thách thức của ngành mây tre đan.
Tham gia vào WTO, ngành kinh tế ở Việt Nam có rất nhiều cơ hội, thách thức
yêu cầu đặt ra. Để có thể đứng vững trên thị trường cần đưa ra một chiến lược phù
hợp. Các đối thủ cạnh tranh trong khu vực ngày càng lớn mạnh trong việc xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ về số lượng, đa dạng về chủng loại, giá cả cạnh tranh
hơn. Chẳng hạn chất lượng sản phẩm mây tre đan của Việt Nam không đẹp bằng
của Trung Quốc và Indonesia. Hơn nữa quy chế quản lý kiểm định chất lượng
hàng hóa nhập khẩu của nhiều nước khá khắt khe ( Mỹ, Nhật, EU là thị trường
khó tính đòi hỏi phải theo đúng tiêu chuẩn về nguyên liệu, kiểu dáng, độ bóng,
kích thước, an toàn, không độc hại).
Mức thuế nhập khẩu đánh vào hàng Việt Nam còn khá cao so với các nước
xuất khẩu khác làm mất tính cạnh tranh. Trước đây, khi chúng ta chưa gia nhập
WTO, sản phẩm thì bị phân biệt đối xử các thị trường chính như Hoa Kì, EU đặt
ra nhiều hạn ngạch hạn chế lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam.

20



3.2.9. Kết luận
Từ những điều kiện cho phát triển ngành mây tre đan Việt Nam ở trên ta thấy:
Tiềm năng để phát triển ngành mây tre đan Việt Nam hiện nay là rất lớn.Việt Nam
có rất nhiều các điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển ngành. Đó như là :Có
nguồn nguyên liệu tự nhiên dồi dào, nguồn nhân lực lớn, giá nhân công thấp hơn
so với nước ngoài, được Đảng và nhà nước khuyến khích phát triển, thị trường
ngày càng mở rộng.Đặc biệt hơn nữa, Việt Nam đang gia nhập WTO thì khả năng
để các sản phẩm mây tre đan của chúng ta được nhiều nước biết đến và có khả
năng cạnh tranh được với các sản phẩm của nước ngoài là rất lớn. Do đó ngành
mây tre đan Việt Nam ngày càng được chú trọng phát triển hơn.Tuy nhiên, bên
cạnh những thuận lợi và tiềm năng để phát triển ngành thì ngành mây tre đan Việt
Nam cũng gặp phải không ít những khó khăn và hạn chế. Đó là những vấn đề về
vốn, cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ lao động, nguồn nguyên liệu cạn kiệt do nạn
chặt phá rừng bừa bãi,...Nguy cơ làng nghề ngày bị mai một. Do những người
trong nghề hiện nay rất muốn truyền lại nghề này cho con cháu nhưng dường như
việc này là rất khó bởi vì thế hệ thanh niên ngày nay ít quan tâm tới các nghề
truyền thống.Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể bảo tồn, mở rộng sản xuất
và phát triển được nghề mây tre đan.
3.3. Kinh nghiệm về phát triển ngành mây tre đan nước ngoài
Ngày nay, các sản phẩm của doanh nghiệp khi xuất khẩu ra nước ngoài chủ
yếu cạnh tranh cùng các sản phẩm của các nước xung quanh trong khu vực như
Inđônêxia, Philipin, Trung Quốc… Muốn cạnh tranh được với những sản phẩm
của những nước này thì chúng ta cần biết những mặt mạnh, mặt yếu của họ so với
chúng ta. Tiếp thu kinh nghiệm và cách quản lý, bổ sung những chỗ yếu kém của
các doanh nghiệp.
Ở đây, chúng ta sẽ tiếp cận đến các nước Inđônêxia, Philipin, Trung Quốc
là những nước không chỉ gần chúng ta về mặt địa lý, phong tục tập quán mà còn
gần gũi cả về mặt điều kiện tự nhiên.Đi sâu vào tìm hiểu, chúng ta có thể nhận
thấy ngành công nghiệp mây tre của các nước này rất phát triển, thậm chí có thể
nói hơn chúng ta rất nhiều. Ở đây, chúng ta chưa xét đến mặt kĩ thuật, công nghệ,

chỉ bàn đến việc tuyển chọn nguyên liệu đầu vào hay hệ thống luật pháp, hỗ trợ
của chính phủ đối với ngành mây tre của các nước sở tại.
3.3.1. So sánh điều kiện tự nhiên cho phát triển ngành mây tre đan giữa Việt Nam
và một số nước trong khu vực Đông Nam Á
- Điều kiện tự nhiên:

21


Cùng có điều kiện khí hậu tự nhiên khá tương đồng thuộc dải khí hậu
nhiệt đới gió mùa ẩm nên rất được thiên nhiên ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi trong
việc trồng tre và mây. Đây chính là điều kiện lý tưởng để mây tre phát triển. Thực
tế chứng minh cho thấy chỉ có trong điều kiện này cây tre, cây mây mới có thể
phát triển một cách toàn diện, có thể trồng được nhiều giống mây tre khác nhau.
Đó là cơ sở là nền tảng mà người dân có thể trồng được nhiều giống mây tre trên
thế giới trong khi nhiều nơi khác không trồng được. Đó cũng chính là điều kiện
đảm bảo nguồn nguyên liệu luôn luôn dồi dào, sẵn sàng cung cấp cho ngành mây
tre các nước.
Diện tích rừng, đất nông nghiệp vẫn còn khá nhiều, có điều kiện tạo thuận
lợi cho việc trồng và quy hoạch các vùng nguyên liệu.
- Điều kiện xã hội:
Hơn thế nữa, trước đây xuất phát điểm của các nước này là các nước nông
nghiệp, nông dân chiếm phần lớn trong dân số cả nước, trong những ngày nông
nhàn thì đây chính là lực lượng lao động chủ yếu. Chính vì thế cho đến nay, họ đã
có 1 bề dày kinh nghiệm được đúc kết truyền lại từ nhiều đời, đây la một thế mạnh
rất lớn của các nước này so với cá nước khác trên thế giới
Cùng có những điều kiện thuận lợi như vậy nhưng thực chất ngành mây
tre đan của ta so với các nước này còn kém rất xa về nhiều mặt, nguyên nhân là ở
đâu?
3.3.2. Kinh nghiệm phát triển ngành trong việc quy hoạch, quản lý việc khai thác

mây tre của Indonesia, Philipine và Trung Quốc:
Trước hết, ta bàn đến việc quản lý, khai thác nguyên liệu đầu vào. Trước
đây, ta chỉ biết mây tre là sản phẩm dùng làm nguyên liệu cho các ngành thủ công
mỹ nghệ. Thực chất chúng có rất nhiều loại với đặc điểm, phẩm chất khác nhau.
Do đó, nếu tận dụng tốt những đặc điểm phẩm chất của từng loại thì sẽ tạo ra
những sản phẩm có chất lượng, mẫu mã đặc biệt riêng. Hiện ở Indonesia có 7
trong 16 dòng gen của cây mây đang tồn tại trên thế giới được trồng, đó là:
Calamus, Daemonoropos, Klortalsia… Thêm vào đó, 306/516 loài mây sinh
trưởng tại rừng nhiệt đới có mặt tại Inđônêxia. Nhờ đó mà các doanh nghiệp có sự
lựa chọn nguyên liệu một cách phong phú cho các mặt hàng sản phẩm của mình. [14]
Ở Inđônêxia, Philipin, Trung Quốc… các vùng nguyên liệu tre được quy
hoạch thành những vùng tập trung, cụ thể rộng hàng triệu ha, giúp cho dễ quản lý
và khai thác. Ngòai ra, chúng cũng được trồng ở nhiều rừng dân sinh, thậm chí
chúng còn được trồng canh tác ở sân sau nhà và vườn, điển hình nhiều làng ở
Inđônêxia: chủ yếu ở Java, Bah, Sumatra, Kalimanta…[14]
Bên cạnh đấy, song song với việc quy hoạch, chính phủ các nước sở tại cũng quy
22


định về việc khai thác mây tre một cách khá chặt chẽ:
;
Ở Philipin, muốn khai thác tre thì doanh nghiệp phải được cấp phép và lượng
tre được phép chặt hàng năm của một đối tượng được cấp phép được xác định
theo công thức sau (có sự giám sát của cơ quan nhà nước DENR): [13]
;
AAC = Ap x Ar x 4
AAC: lượng được phép chặt
Ap: diện tích được phép khai thác
Ar: Số lượng bụi tre / ha
Mặt khác, tre được qui hoạch từ đất rừng thì khi khai thác phải đóng một khỏan phí

theo quy định DAO 40 ngày 8/11/1994.
Còn đối với nguyên liệu mây thì một doanh nghiệp muốn sử dụng tài nguyên mây thì
doanh nghiệp phải có trước tiên đó là quyền được khai thác mây, quyền được khai thác
hàng năm và một giấy phép khai thác hàng năm. Giấy phép khai thác mây quy định cụ
thể những vùng nào mây đựoc phép khai thác Tuy nhiên, quyền khai thác có thể được
nhượng lại và tất cả những người đựoc nhượng quyền khai thác mây phải trình kế hoạch
cho khia thác của mình cho văn phòng DEMP tại địa phương để hạn chế mức độ khai
thác ở trong giới hạn cho phép quy định trong giấy phép. Và họ cũng phải đóng tiền cho một quỹ
đặc biệt để trồng cây gây rừng.[13]
- Ở Inđônêxia thì song song với việc cho phép thu hoạch, chính phủ mở các khóa đào
tạo mở rộng để nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của mây tre. Nông
dân phải có kinh nghiệm trong việc thu hoạch: cây nào lớn, trung bình thì thu hoạch, cây
nào nhỏ để vụ sau. Khả năng sản xuất mây là 12,391,477 tấn/năm. Khi thu hoạch xong thì họ
chế biến qua các bước sau: rửa, làm khô, phân lọai, bó.[14]
- Còn ở Trung Quốc, thì khi thu hoạch, họ phân loại nguyên liệu tre làm 3 loại
nguyên liệu:
+ Nguyên liệu quản lý chặt chẽ ( chiếm 15% tổng lượng nguyên liệu).
+ Nguyên liệu được quản lý vừa phải ( chiếm 25% tổng lượng nguyên liệu ).
+ Nguyên liệu được quản lý thoáng ( chiếm 60% tổng lượng nguyên liệu ).
Như vậy các doanh nghiệp sản xuất luôn được đảm bảo về lượng nguyên liệu cũng
như được đảm bảo không chỉ về chất lượng mà còn cả về kiểu dáng, kích thước, số
lượng… Do đó doanh nghiệp có thể chủ động sắp xếp lựa chọn nguyên liệu đầu vào, sẵn
sàng đáp ứng những đơn hàng cũng như các thị trường khó tính trên trường quốc tế.[15]

3.3.3. Kinh nghiệm phát triển ngành mây tre đan thông qua 1 số chính sách luật
pháp của indonesia:[14]
Bên cạnh đấy, chính phủ các nước cũng ban hành một hệ thống luật pháp về
kinh doanh sản xuất mây tre khá chặt chẽ, tạo những thuận lợi để phát triển ngành
mây tre trong nước. Cụ thể, chúng ta có thể tìm hiểu qua 1 chút về chính sách luật
pháp củaIndonesia để thấy rõ điều này ( Luật được ban hành từ năm 1979 đến năm

1989, đặc biệt là nửa cuối những năm 80). Chính sách được chia ra làm hai mục:
Chính sách quản lý mây:
Phát triển giá trị xuất khẩu mây bằng cách thay vì xuất khẩu sản phẩm thô và

23


bán thành phẩm mây thì chỉ xuất khẩu thành phẩm mây.
Phát triển giá trị gia tăng bằng việc phát triển chất lượng sản phẩm xuất khẩu mây.
Phát triển giá xuất khẩu với sản phẩm mây bằng cách lợi dụng thị trường Indonesia.
Phát triển công nghiệp chế biến thành phẩm mây, đặc biệt là sản xuất đồ dùng
trong nhà và công nghiệp mây đan.
Tạo việc làm trong việc phát triển khu chế biến thành phẩm
Duy trì nguồn nguyên liệu mây
Chống thu hoạch quá mức.
Bảo đảm giá cao cho nhà sản xuất đầu tiên.
Khuyến khích trồng mây.
 Công cụ chính sách Quốc gia:
Cấm xuất khẩu bán thành phẩm 1 cách có hiệu quả.
Đóng góp thêm giá trị bằng cách gia tăng thêm chất lượng xuất khẩu mây.
Hạn chế đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp chế biến và sản xuất đồ mây.
Trợ cấp bảo hộ cho những nhà sản xuất đồ đạc bằng mây trong nước.
Ban hành giấy phép khai thác kinh doanh nội địa:
0* Thu hoạch.
1* Trồng trọt.
2* Vận chuyển.

Chính sách quản lý tre:
Làm cho người nông dân thân quen với việc qunả lý tre để phát triển thu nhập
cho họ.

Giảm chặt phá rừng trái phép.
Phát triển nỗ lực bảo tồn đất, nước và chống đất hoang hóa.
Tăng cường nghiên cứu tre cùng với sự phát triển của nó để hỗ trợ sự sử dụng tre.
Tăng cường đầu tư công nghiệp tre và kinh doanh tre.
 Chính sách quản lý giống tre:
Bảo tồn giống tre ở mỗi tỉnh:

24


Vườn tre khoảng 10 héc ta gồm trên dưới 3000 dòng hay 60 loài thu thập từ
tất cả các vùng của Indonesia và quản lý bởi công ty rừng Quốc gia. Công viên sẽ
được mở rộng tới 25 héc ta để thu thập thêm các giống từ các quốc gia khác.
Phát triển trồng tre tư nhân và sản xuất hộ gia đình:
Trồng tre tư nhân cần thiết được phát triển qua những kỹ thuật trồng thích
hợp, bảo quản nuôi dưỡng và khai thác để có chất lượng cao được ản xuất. Sản
xuất gia đình cũng cần thiết được phát triển cùng với định hướng thị trường cả nội
địa và quốc tế.
3* Cung cấp tín dụng hoặc vay mềm cho hoạt động trồng trọt.
4* Khuếch trương trồng tre ở những vùng có hoạt động sản xuất hộ gia đình.
5* Phát triển tư vấn hỗ trợ cho đất tư nhân hoặc rừng với sự tham gia của xã hội.
6* Thực hiện kiểm kê và thiết kế kế hoạch phát triển tre ở 12 tỉnh thành, ưu tiên

các tỉnh: phái bắc Sumatra, Bengkulu, Lampung, West Java, Bali, NTB and
South Sulawesi…
Phát triển rừng tre Quốc gia và rừng tre tư nhân để cung cấp cho ngành công
nghiệp tre quy mô lớn.
Với một chính sách chặt chẽ thừ việc quản lý nguyên liệu cho đến việc tạo
điều kiện, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước như vậy, Indonesia đã tạo ra một
bước đệm khá tốt cho các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh với các đối

thủ trong khu vực khác, tạo được tiếng tăm cho ngành mây tre của Indonesia trên
trường thế giới.
Bài học về phát triển ngành mây tre đan cho Việt Nam
Tiếp thu các kinh nghiệm của họ trong việc quản lý nguồn nguyên liệu
cũng như tiến hành kết hợp giữa doanh nghiệp cùng với nhà nước tiến hành xây
dựng các vùng quy hoạch nguyên liệu mây tre đan để đảm bảo nguồn nguyên liệu
chất lượng cho các doanh nghiệp, đây chính là bước đầu để đảm bảo chất lượng
hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, Chính Phủ cần quan tâm
và coi trọng ngành mây tre đan, coi đây là một ngành xuất khẩu mũi nhọn của đất
nước, đồng thời phải xây dựng một hệ thống luật pháp cụ thể về ngành mây tre
một cách chặt chẽ. Có như vậy các doanh nghiệp Việt Nam mới có thể rút ngắn
khoảng cách với các nước trong khu vực
Như vậy, doanh nghiệp Việt Nam muốn có thể cạnh tranh, đứng vững trên thị
trường quốc tế thì cần phải nắm bắt được những mặt mạnh yếu của các đối thủ
cạnh tranh, nhờ đó có thể áp dụng, học hỏi những ưu điểm của các đối thủ, phát
25


×