Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận Cách mạng tháng Tám điểm khởi đầu của quá trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.44 KB, 17 trang )

Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học xã hội, t.XI, n2,
1995
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
ĐIỂM KHỞI ĐẦU CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
VŨ DƯƠNG NINH
Đại học KHXH và NV - ĐHQGHN
Đã 50 năm kể từ ngày cách mạng tháng Tám thành công. Hồi Êy,
năm 1945, chẳng mấy nước trên thế giới biết đến sự ra đời của một quốc
gia độc lập ở Đông Nam á: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chỉ có đại
biểu một vài nước lớn, trên danh nghĩa Đồng Minh, đã tận mắt chứng kiến
ở Hà Nội “dinh thự và nhà cửa dọc theo con đường đều phấp phới đầy rẫy
những cờ Việt Minh (…) Chẳng thấy một bóng cờ Pháp. Chỉ có cờ đỏ với
ngôi sao vàng năm cánh” [1]. Nhưng người ta không muốn công nhận sự
thật Êy, nếu không tiếp tay thì cũng thờ ơ trước nguy cơ một quốc gia trẻ
tuổi bị xâm lược trở lại.
Trong điều kiện nh vậy, Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến
30 năm vì ĐỘC LẬP và THỐNG NHẤT để bảo vệ quyền lợi của dân téc
mình, để tự khẳng định mình trong cộng đồng nhân loại.
Cho đến hôm nay, sau một khoảng thời gian cách xa nửa thế kỷ,
chúng ta nhìn lại cuộc Cách mạng tháng Tám để thấy tầm vóc của sự
nghiệp cách mạng mà Hồ CHí Minh, Đảng Cộng sản và toàn dân Việt Nam
đã giành được trong mùa thu sôi động năm Êy, và thấy rõ hơn một trong
những thành tựu lớn lao là mở ra con đường hội nhập bình đẳng với các
dân téc trên thế giới.
Vào thời điểm lịch sử của năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành
công, trước hết là một nước đi quyết định đã phá thế bao vây trên bàn cờ
quốc tế.
Đó chính là ý nghĩa trực tiếp đối với vận mệnh dân téc trong những
giê phót nguy nan. Thực vậy, khi ngọn lửa của cuộc thế chiến gần tàn, các
cường quốc Đồng Minh họp bàn về tổ chức thế giới thời hậu chiến thì Việt
Nam nói riêng và các nước Đông Nam á nói chung đều bị đặt trong tình


trạng giải pháp phục hồi chủ nghĩa thực dân, các nước đế quốc trở về thuộc
địa cũ của họ, và như vậy đế quốc Pháp lại trở lại Đông Dương. Ngày
8/12/1943, tướng Charles de Gaulle, thủ lĩnhphong trào kháng chiến Pháp,
đã nói thẳng ý địng đó trong “Tuyên bố về vấn đề Đông Dương” và đến
ngày 25/08/1945, với tư cách là người đứng đầu chính phủ lâm thời Pháp
sau ngày giải phóng Paris, ông lại tuyên bố tại Washington để khẳng địng
lại một lần nữa quyết tâm tái chiếm Đông Dương. Tại các hội nghị quốc tế
Teheran (11/1943) và Yalta (2/1945), nguời ta đã làm ngơ trước hành động
Pháp đổ quân vào Việt Nam dưới sự che chở của Anh. Người Mỹ nhận xét:
“Chế độ hành pháp Truman nhanh chóng xoá bỏ kế hoạch “uỷ thác quốc
tế” của Roosevelt để lại, và vào mùa hè năm 1945 đã đảm bảo một cách
chắc chắn với De Gaulle rằng nước Mỹ không ngăn cản sự phục hồi chủ
quyền của Pháp ở Đông Dương” [2]. Người đứng đầu nhà nước Xô Viết
Staline, đã từng lên tiếng tại Teheran buộc tội gay gắt nước Pháp câu kết
với phát xít Đức và cai trị tồi tệ xứ Đông Dương, không đáng được trở về
thuộc địa cũ [3]. Nhưng từ sau hiệp ước Pháp-Xô (12/1944), Liên Xô giữ
thái độ im lặng trước ý đồ của “người bạn đồng minh” là đế quốc Pháp.
Còn Tưởng Giới Thạch trong khi lớn tiếng tuyên bố Trung Hoa không có
tham vọng về lãnh thổ Đông Dương thì đã chuẩn bị một đội quân hàng
chục vạn người cùng bè Liên Xô tay sai người Việt Nam với âm mưu đặt
ách thống trị lâu dài.
Tưởng nh sè phận Việt Nam đã được an bài trên bàn cờ quốc tế của
ngò cường (Anh, Mỹ, Pháp, Trung Hoa và Liên Xô). Nhưng không, cuộc
Cách mạng tháng Tám đã phá tung sự câu kết đó, đã đập tan mọi âm mưu
thống trị Việt Nam, đã đem lại nền độc lập cho tổ quốc. Vào khoảng thời
gian ngắn ngủi và hiếm có trong lịch sử, từ 15/8 khi Nhật đầu hàng đến 5/9
khi quân đồng minh đổ bộ, nhân dân Việt Nam đã tiến hành tổng khởi
nghĩa trong cả nước, lật đổ nền thống trị ngoại bang và triều đình phong
kiến, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Nh vậy, khi quân Anh đến Nam Bộ, quân Tưởng vào Bắc Bộ, dù

không muốn, họ cũng không hề thừa nhận một thực tế là nước Việt Nam đã
có chủ, người Việt Nam đã làm chủ đất nước mình. Và dù không muốn, họ
vẫn phải nói chuyện với chính phủ Hồ Chí Minh, chính quyền do dân dựng
lên, người đại diện chân chính của nhân dân Việt Nam.
Thế là, Cách mạng tháng Tám, ngay từ phót đầu, đã ghi một điểm
son trong thành tích phá vỡ thế cờ bao vây, cô lập do các cường quốc sắp
đặt. Từ đây, quốc gia Việt Nam xuất hiện trên trường quốc tế, không phải
với thân phận của những kẻ nô lệ, mà trong tư thế của một quốc gia độc
lập, có chủ quyền. Với tư cách Êy, Việt Nam mong muốn hội nhập quốc tế
trong hoà bình và phát triển. Nhưng trên con đường đi tới, biết bao trở ngại
đang chờ ở phía trước.
Nhà nước Dân chủ cộng hoà trẻ tuổi, với thiện chí trung thực của
mình đã nhiều lần bầy tỏ cùng thế giới nguyện vọng thiết tha được công
nhận nền độc lập và xây dựng mối quan hệ bình đẳng, tương trợ cùng các
nước khác.
Bằng sách lược hết sức mềm dẻo nhưng kiên quyết, năm 1946, cách
mạng Việt Nam đã loại trừ dần những đối thủ đang lăm le cai trị nước ta để
đối đầu với kẻ thù chính là chủ nghĩa thực dân Pháp. Các nhà lãnh đạo Việt
Nam kiên trì đòi hỏi quyền độc lập và thống nhất quốc gia, đồng thời sẵn
sàng chấp nhận là một thành viên trong Liên hiệp Pháp. từ hội nghị Đà Lạt
đến hội nghị Fontainebleau, từ hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba đến tạm ước 14
tháng Chín, yêu cầu cơ bản và chính đáng đó không hề thay đổi. Và bằng
mọi cách, chính phủ Hồ Chí Minh cố sức ngăn chặn nguy cơ chiến tranh,
tận dụng các giải pháp hoà bình.
Nhưng người Pháp bảo thủ và hiếu chiến đã cố đẩy các sự kiện đi
vào ngõ cụt để gây nên cuộc chiến tranh tàn khốc, kéo dài từ 23/9/1945 đến
20/7/1954. Nhân dân Việt Nam đã chấp nhận cuộc đương đầu không cân
sức Êy để bảo vệ nền độc lập thiêng liêng của mình. Kết quả là sau 5 năm
“chiến đấu trong vòng vây”[4], hầu như bị tách biệt với thế giới bên ngoài,
từ năm 1950, Việt Nam bước đầu bước vào cộng đồng thế giới với những

chiến công vang dội, với ngọn ờ chính nghĩa của cuộc kháng chiến bảo vệ
độc lập dân téc. Thế giới Xã hội chủ nghĩa công nhận nước Việt Nam nh
mét tấm gương; loài người tiến bộ, kể cả nhân dân Pháp, đứng về phía nhân
dân Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ vang động địa cầu đã mở cánh
cửa đưa phái đoàn Việt Nam đến hội nghị Geneve trên tư thế chiến thắng.
Các cường quốc ký hiệp định thừa nhận nước Việt Nam độc lập, có chủ
quyền. Cái đích mà Việt Nam đi tới phải mất 9 năm khói lửa và xương
máu, nhưng mới có nửa đường, mới được nửa nước.
Còn về nước Pháp, nhưũgn năm sau vẫn lơ lửng trong tâm trí nhiều
người “Cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp có thể tránh được
không?”. và đây là một dấu hỏi.
Tướng Leclere, viên tướng lừng danh của nước Pháp đã rót ra kết
luận sau khi khảo sát tình hình Đông Dương thời đó: “Có quá nhiều người
ở đây tưởng tượng rằng bằng cách lấp một cái hố với những xác chết,
người ta sẽ lập lại được chiếc cầu giữa Việt Nam và Pháp” [5].
Nhà sử học P.H.Deviller, một chuyên gia về Việt Nam đã nhìn nhận:
“Sự lùi lại thời gian cho phép chúng tôi nói lên nước Pháp đã thất bại trong
chiến tranh Đông Dương. Nó đã tự gặp lại mình năm 1954 tại Việt Nam ở
cùng chỗ với táng 3-1946, cộng thêm những người chết, những người bị
thương, nhưng đỏ nát và hận thù. Cuối cùng nước Pháp đị bị ông bạn đồng
minh là nước Mỹ hất văng ra khỏi Việt Nam. Tóm lại, là một tai hoạ về
người và thiết bị với một kết quả thảm hại” [6].
Và tướng De Gaulle, người chủ mưu tái chiếm Đông Dương, vị tổng
thống nền Đệ ngò cộng hoà, đã bày tỏ sự nuối tiếc trong bức thư gửi chủ
tịch Hồ Chí Minh năm 1966 như sau: “Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn
giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau chiến tranh thế giới lần hai
thì đã có thể tránh được những sự biến tai hại đang giằng xé đất nước Ngài
hôm nay” [7].
Thế là đã rõ, nếu nh, vào những ngày tháng sôi động của thời Êy,
người ta chấp nhận một đề nghị đơn giản và cũng dứt khoát của chủ tịch

Hồ Chí Minh thì tình thế đã diễn biến theo chiều hướng khác. Đó là:
“Chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập và
thống nhất đất nước Việt Nam là chấm dứt được những tai biến này, nền
hoà bình và trật tự sẽ trở lại ngay tức khắc. Dân téc Việt Nam đang chờ đợi
cử chỉ đó” [8]. Nhưng chính phủ Pháp đã trả lời bằng súng đạn và những
đội lê dương để rồi 9 năm sau phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam và sau đó
trên toàn cõi Đông Dương.
Nước Việt Nam DCCH bước vào cộng đồng quốc tế phải vượt qua
những chặng đường đầy chông gai như vậy, nhưng luôn luôn với tư thế của
một dân téc quật cường, một khí phách bất khuất, ngày càng nhận được sự
đồng tình, ủng hộ và niềm khâm phục của bạn bè thế giới. Điểm khởi đầu
của cuộc hành trình gian khổ và vinh quang Êy bắt nguồn từ mùa thu tháng
Tám năm 1945.
Còng trong những năm tháng sôi động cuối cuộc thế chiến, Hồ Chí
Minh và những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã có mối quan hệ đồng
minh với Mỹ. Những đề nghị của Rooservelt được sự đồng tình của Staline
về chế độ uỷ thác quốc tế trong vấn đề Đông Dương đã thể hiện một thiện
chí. Nhưng trước sự thay đổi thái độ của chính quỳên Mỹ dưới thời
Truman, nhà nước Việt Nam trẻ tuổi Êy vẫn tranh thủ mọi khả năng phát
huy vai trò của nước Mỹ trong việc ngăn chặn nguy cơ chiến tranh.
Theo L.A.Patti, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hai lần nhờ ông ta chuyển
thư về Washington. Bức thư thứ nhất, ngày 24-9-1945, một ngày sau khi
tiếng súng nổ ở Nam Bộ, tố cáo những hành động tội ác của quân Anh:
“chính phủ lâm thời Cộng hoà Việt Nam phản đối mạnh mẽ và yêu cầu
Ngài can thiệp với các nhà chức trách Anh bãi bỏ biện pháp nói trên” [9].
Bức thư thứ hai, ngày 30-9-1945, theo lời kể của Patti thì: “Ông Hồ yêu
cầu tôi mag về Mỹ một bức thư đầy tình hữu nghị và ca tụng nồng nhiệt
nhân dân Mỹ. Ông mong rằng người Mỹ phải biết là nhân dân Việt Nam sẽ
không bao giê quên Mỹ là bạn và đồng minh” [10].
Trong 5 bức thư đã được công bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi

tổng thống Truman từ tháng 9 đến tháng 11-1945 [11], Người kêu gọi Mỹ
hãy ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, ngăn cản Pháp trở lại Đông Dương
và đề nghị gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ học các ngành kỹ thuật.
Nội dung các bức thư tuy chưa tìm đựơc đầy đủ nhưng cũng cho thấy là
ngay trước và sau Cách mạng tháng Tám, Việt Nam luôn mong muốn một
quan hệ hữu nghị với nước Mỹ, một sự giúp đỡ từ phía Mỹ. Nhưng những
tín hiệu ban đầu Êy không có hồi âm. Bởi vì giới cầm quyền Mỹ đã suy
nghĩ theo cách của họ, tuy tuyên bố ủng hộ các dân téc đấu tranh giành độc
lập (nh lịch sử Hợp chủng quốc đã từng) nhưng họ lại viện trợ tiếp tay cho
đế quốc đồng minh. Từ chỗ can thiệp bằng viện trợ đến chỗ trực tiếp đổ
quân vào tác chiến, các ông chủ Nhà trắng kế tiếp nhau đã đưa nước Mỹ
bước vào và sa lầy trên chiến trường Đông Dương trong khoảng thời gia
một phần tư thế kỷ (1950-1975). Cái kết cục không vẻ vang đối với nước
Mỹ năm 1975 đã gây nên “Hội chứng Việt Nam” trong lòng người dân Mỹ.
Vậy mà, lịch sử lại phải chứng kiến 20 năm tiếp theo đối đầu và căng thẳng
mới trở về được cái mốc ban đầu mà Hồ Chí Minh đã đề nghị: Sự công
nhận lẫn nhau và thiết lập quan hệ bang giao với nhau.
50 năm đã qua, nước Việt Nam độc lập vừa tròn 50 tuổi. Nhìn lại
chặng đường lịch sử đã qua, có thể phác lên một bức tranh toàn cảnh nh
sau:
Sau cách mạng tháng Tám không lâu, tháng 1-1946, CHủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư đến các vị nguyên thủ các cường quốc “thiết tha yêu
cầu các ngài công nhận nền độc lập và nhận chúng tôi vào Hội đồng Liên
Hiệp Quốc” [12]. Phải trải qua chặng đường 20 năm với cuộc chiến tranh
gian khổ, ngày 20/9/1977, quốc kỳ Việt Nam, ngọn cờ của Cách mạng
tháng Tám, mới phấp phới tung bay tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Việt Nam
bước vào vị trí xứng đáng của mình trong tổ chức quốc tế lớn nhất với tư
thế một Quốc gia Độc lập và Thống nhất.
Sau Cách mạng tháng Tám không lâu, tháng 5/1946, tại chính thủ đô
Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi chính phủ Pháp hãy công nhận Việt

Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất và có chủ quyền. Nhưng cũng
phải trải qua cuộc kháng chiến kết thúc bằng chiến thắng Điẹn Biên Phủ,
nước Pháp và các liệt cường mới chịu công nhận nền độc lập Êy trên văn
bản hội nghị Geneve. 20 năm sau, năm 1066, Tổng thống Pháp De Gaulle
đã tỏ ý tiếc về “Sự hiểu lầm giữa hai dân tộc” và đến năm 1993, Tổng
thống Pháp F.Mitterand đã nghiêng mình trước hương hồn các binh sĩ Việt
Nam và Pháp tại chiến trường năm xưa để xoá đi mối hận thù quá khứ. Việt
Nam bước vào thế giới Tây Âu trên quan hệ bình đẳng hữu nghị.
Sau Cách mạng tháng Tám không lâu, tháng 9/1945, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gắng sức bắc chiếc cầu hữu nghị với Washington. Nhưng lại phải
trỉa qua chặng đường một phần tư thế kỷ chiến tranh, tiếp theo là một phần
năm thế kỷ đối đầu, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ mới lập quan hệ ngoại giao
đày đủ với Việt Nam.
Còng sau Cách mạng tháng Tám không lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã bày tỏ quan điểm về một Đông Nam á độc lập, hoà bình và thịnh vương
[13]. Nhưng chặng đường nửa thế kỷ chông gai mới đưa các dân téc trong
khu vực đến với nhau, hoà thuận và hợp tác cùng nhau.
Trong suốt hặng đường gian khổ đó, không thể không nhắc đến
những người bạn đồng hành vì mục tiêu Độc lập, tự do trên khắp hành tinh,
không thể không nhớ tới sự đồng tình mạnh mẽ và sự ủng hộ to lớn của các
nước XHCN, của bầu bạn đầy thiện chí khắp năm châu.
Cho đến hôm nay, vào ngày kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng tháng
Tám, Việt Nam đang thu hái những thành tựu trong quan hệ quốc tế: Quan
hệ Mỹ-Việt được thiết lập đầy đủ, Việt Nam và Liên minh châu Âu ký kết
hiệp định khung về hợp tác và Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ bảy của tổ chức ASEAN. Đồng thời, mối quan hệ truyền thống với các
nước SNG, Đông Âu, Trung Quốc vẫn giữ được và phát huy trên tinh thần
mới.
Đó là kết quả trực tiếp của đường lối ngoại giao Việt Nam trong thời
kỳ ĐỔI MỚI. Trở về nguồn, đó là kết quả của một quá trình đấu tranh mà

Cách mạng tháng Tám là điểm khởi đầu, hkởi đầu cho sự hội nhập cùng thế
giới, khởi đầu cho sự hợp tác cùng cộng đồng các nước vì mục tiêu cao cả
HÒA BÌNH và PHÁT TRIỂN.
Chúng lại chủ trương “ủng hộ” nhằm lợi dụng lực lượng quần chúng
Philippin đánh bại Tây Ban Nha, thiết lập nền thống trị trên quần đảo. Luận
điệu tuyên truyền Mỹ là một nước lớn và giàu, không cần thuộc địa, gây
nên những ảo tưởng về sự “giúp đỡ” của chúng. Trên đường về nước A-
ghi-nan-ụ ó gp cỏc s quan hi quõn v lónh s M Xanh-ga-po l
Frat. Cuc hi m i n tho thun vi nhng iu kin sau õy:
1.A-ghi-na-ụ phi phỏt ng li cuc chin tranh chng Tõy ban nha.
2.M bo m nn c lp hon ton ca Philippin .
3. M c c quyờn buụn bỏn Philippin .
4. Nc cng ho Philippin s tr mt mún tin bi thng v s giỳp
ca M trong vũng 20 nm, ly tin thu lm m bo.
Trong iu kin ú gõy ra trong hng ngũ ngha quõn s phõn hoỏ ý
kin, nhiu ngi ó t ra nghi ng. Song A-ghi-nan-ụ v nhng ngi
cựng phỏi vn cũn trụng ch vo thin chớ ca M. Nhng thc ra, bn
chỳng ó ngh gỡ v lc lng cỏch mng õy? Viờn ụ c i-uõy lỏo
xc núi rng: Tụi khụng bao giờ t lũng ngng m quõn i A-ghi-nan-
ụ, khụng bao giờ tha nhn v cho cỏi gi l lỏ c Philippin Tụi khụng
bao giờ coi h nh mooth ngi ng minh. Tụi ch s dng h v ngi
Philippin vo vic giỳp tụi trong nhng cuc hnh quõn chng Tõy Ban
Nha
1
. Li núi ú chng ó bc lộ dó tõm ca quc m hay sao? Nú
chng ó vch trn thc cht ca mi quan h gia M vi cuc chin tranh
gianh c lp ca Philippin hay sao? Rừ rng l quc M ch cú mc
ớch li dng lc lng cỏch mng Philippin ỏnh bi Tõy Ban Nha v
t nn thng tr trờn qun o m thụi.
Cuc chin tranh chớnh thc n ra ngy 25-4-1898. n thỏng 6 A-

ghi-nan-ụ tuyờn b c lp, khai sinh nc Cng ho Philippin v thnh
lp chớnh ph cỏch mng do ụng ng u. Bc tin ln lao v mt chớnh
tr thỳc y nhanh chúng quỏ trỡnh hot ng quõn s. Cuc chin tranh
trờn qun o hu nh ch do ngi Philippin tin hnh v n mua hố nm
ú, lc lng cỏch mng ó ỏnh bi bn thc dõn trờn phn ln t nc.
Ma-ni-la b ngha quõn võy cht v vn gii phúng th ụ khụng cũn
1
Chính sách các nớc bản và phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam á tài liệu số 173, M. 1965.
Tiếng Nga, trang 345.
phi ch i bao lõu na. Chớnh õy, quc M li lộ b mt xo
quyt ca chỳng. Tng thng M Mc-kin-lõy gi bn thụng t c bit
cho T lnh hm i Thỏi Binh Dng, ch th quõn M cn phi chim
c Ma-ni-la v s chim úng ú phi to iu kin cho vic t c
nhng quyn li c bn sau ny Philippin. ngy 13-8, viờn tng M An-
dec-son gi in gp ti A-ghi-nan-ụ yờu cu quõn i ca ngi khụng
cn tn cụng vo thnh ph cho n khi chỳng tụi nhn c s u hng
hon ton. Sau ú, chỳng tụi s m phỏn vi ngi
2
. Khụng th chp nhn
c iu kin ú, A-ghi-nan-ụ tr li Nh ngi ó bit v khụng th ph
nhn c quõn i chỳng tụi ó c ha l h cú th vo chim Ma-ni-
la. Vỡ li ha ú v vỡ s tn tht ln v tin bc v sinh mnh ca chỳng
tụi, tụi khụng th coi l sỏng sut nu ban hnh mt mnh lnh trỏi ngc
li bi vỡ h s khụng tuõn theo, bt chp c uy tớn ca tụi
3
. Cui cựng tờn
tng An-dec-xon ra ti hu th n ngy th 5 (ngy 15) nu quõn i
ca Ngi khụng rỳt khi tuyn phũng ng thnh ph, Tụi s khụng th
khụng dựng hnh ng quõn s
4

, buc A-ghi-nan-ụ phi nhng b. Ch
quõn qun ca M c thit lp. Vic quõn M c chim ly Ma-ni-la,
tranh ot cụng lao ca ngha quõn v nhõn dõn Philippin l mt mu
cú tớnh cht chin lc. Nm c th ụ, bn chỳng t coi l ngi gii
phúng Philippin do ú cú th ép buc nhõn dõn Philippin chp nhn nhng
iu kin nng n ca chỳng. V i vi Tõy Ban Nha, chỳng s úng vai
trũ ngi chin thng trong cuc chin tranh, chim u th trong vic quyt
nh s phn i phng v vn mnh cỏc dõn tộc b ỏp bc. Sau ú M v
Tõy Ban Nha tin hnh cuc hi m Pa-ris v n ngy 13-12-1898 mt
hip ngh ho bỡnh c ký kt. Ni dung c bn ca hip ngh quy nh
Tõy Ban Nha phi t b ch quyn v quyn li Cu-ba, nhng li cho
2
Theo A.A.Gu-be Nớc Cộng hoà Philippin và chủ nghĩa đế quốc Mỹ M.1961. tr181
3
Theo A.A.Gu-be Nớc Cộng hoà Philippin và chủ nghĩa đế quốc Mỹ M.1961. tr181
4
Theo A.A. Gu-be. Sách đã dẫn, tr.185
M Pooc-to Ri-co v nhng o khỏc tõy ấn cũng nh o Gu-am
Ma-ri-an hay La-rụm. V vn Philippin thỡ quy nh:
iu 3: Tõy Ban Nha phi nhng cho M qun o nm trong
phm vi PhilippinM s tr cho Philippin mt s tin 20 triu ụ-la
5
.
Nh vy, thnh qu cỏch mng ca nhõn dõn Philippin ó b bn xõm lc
M cp ot. S phn ca Philippin b bn thc dõn mua bỏn vi nhau
Pa-ris, khụng k gỡ n ch quyn v nguyn vng ca nhõn dõn Philippin.
iu ú hon ton trỏi ngc vi li ca Tng thng M Mac-kin-lõy trong
bn thụng ip Gi nhõn dõn Philippin khi mi vo th ụ ha hn Bo
v i sng, vic lm, t do cỏ nhõn v tớn ngng ca nhõn dõn.
ng nhiờn thỏi trỏo tr ú gp phi sc phn khỏng mónh lit

ca nhõn dõn Philippin. Nhng ngi Philippin khụng tha nhn s sỏt
nhp cũng nh sự bo h ca nc M, h yờu cu c lp hon ton va
chun b khỏng c li. Bn tuyờn b ca Mac-kin-lay khụng gõy c mt
ấn tng no
6
. Cuc chin tranh ginh c lp Philippin bc sang một
giai on mi. Nu trc õy nhõn dõn Philippin chng k thu ch yu l
Tõy Ban Nha vi s giỳp ca M, thỡ t nay h s chng li k thự
ch yu l quc M. Nu trc ay M cũn mang chiờu bi vin tr,
gii phúng Philippin khi ỏch thng tr Tõy Ban Nha thi t nay, quc
M lộ nguyờn hỡnh la mt tờn xõm lc, l k t thự ca nhõn dõn Philippin
.
Tng thng M Maac-kin-lõy ó mn chúa che y dó tõm xõm
lc Philippin ca ch ngha quc M. Y núi: ờm no tụi cng thn
th suy ngh trong Nh Trng va khụng xu h thú nhn vi cỏc ngi rng
nhiu ln tụi ó qu xung cu Chúa xin Ngi ch bo. Ri mt ờn,
khụng hiu vỡ sao, nhng ý ngh vt n trong u úc tụi:
5
Dẫn theo L.O. Xlô-dơ-kin: Chiến tranh Tây Ban Nha Mỹ năm 1898, tiếng Nga. M.1956. tr.108
6
Chính sách của các nớc t bản và phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam á. Tài liệu số 220.
M.1965. Tiếng Nga. Tr.417
Mt l chỳng ta khụng th trao Philippin cho ngi Tõy Ban Nha-
nh vy l hốn nhỏt v nhc nhó.
Hai l chỳng ta khụng th trao Philippin cho ngi Phỏp hay c,
nhng con buụn cnh tranh ca chỳng ta phng ụng-nh vy l lm
hi v bt li i vi chớnh sỏch kinh t cu chỳng ta.
Ba l khụng th mc cho ngi Philippin vỡ h cha c chun
b t qun lý. V s t tr ca ngi Philippin s nhanh chúng dn ti
tỡnh trng vụ chớnh ph, hoc ri lon hn c thi k chin tranh Tõy Ban

Nha.
Cui cựng khụng cú cỏch no khỏc l chỳng ta phi chim ly ton
b Philippin giỏo dc, m mang v em li vn minh cho ngi
Philippin, truyn bỏ cho h giỏo lý ca o thiờn chúa, bi vi chúng ta
mun tp hp h li nh Giờ-su Crit ó cht vỡ loi ngi.
Sau ú tụi lờn ging nm v ng mt gic ngon lnh
7
.
ý xõm lc ca gic M ó rừ rng, li chúa õu cú th bo cha
c, nc Thỏnh õu cú th gt ra c?
ờm mựng 4 thỏng 2- 1899, hai ngy sau khi ngh vin M phờ
chun Hip c Pa-ris, quõn M m cuc tn cụng vo nc Cng ho
Philippin. Nhõn dõn Philippin ng lờn bo v ch quyờn v nn c lp
ca minh, on kt xung quanh chớnh ph A-ghi-nan-ụ. ú l mt cuc
chin tranh ton dõn, mang tớnh cht chớnh ngha. Mc du trang b kộm,
nhng vi tinh thn anh dng, nhõn dõn Philippin ó ginh c thng li
bc u. Song ng li tin hnh chin tranh chớnh quy hoan ton bt li
i vi mt i quõn kộm v iu kin vt cht. Cuc tng tin cụng ca
trờn 7 vn quõn M vo cui nm 1899 gõy cho quõn i cỏch mng nhiu
tn tht ln. T ú, ngha quõn v nhõn dõn tin hnh cuc chin tranh du
kớch trờn khp min ca qun o. Nhng A-ghi-nan-ụ cựng tp on
thng tr i biu li ích ca t sn mi bn v a ch khụng dỏm tip tc
7
Dẫn theo Văn tuyển lịch sử cận đại tập II. A.I.Mô-lốc và V.A.Ooc-lốp. M.1953. tiếng Nga. Trang 389
phát động cuộc chíên tranh bảo vệ tổ quốc. Họ có khuynh hướng muốn
thoả hiệp và gây nên sự phân hoá trong hàng ngò cách mạng. Họ tiến hành
đàm phán với phái đoàn Mỹ do Sec-man cầm đầu. Lập trường của Mỹ
được bộc lé rõ rệt trong bức điện ngày 5-5-1899 của chính phủ trả lời Sec-
man về chế độ chính trị sẽ thiết lập ở Philippin: “Các ông được uỷ nhiệm
đê nghị rằng theo quyền lực quân sự của Tổng thống cho đến khi có quyết

định của Quốc Hội (Mỹ), chính phủ Philippin sẽ được thành lập bởi viên
toàn quyền do Tổng thống chỉ định, nội các sẽ do toàn quyền chỉ định, hội
đồng tư vấn do dân cử ra mà tư cách cử tri phải được cân nhắc và quy định
cẩn then. Toàn quyền có quyền phủ quyết tuyệt đối. Toà án là cơ quan có
quyền lực và độc lập, Chánh án do Tổng thống chỉ định. Thành viên của
nội các và toà án sẽ tuyển cử dân địa phương hoặc Mỹ, hoặc người nào
khác đó đủ phẩm chất cần thiết”
8
. Vấn đề đã rõ ràng. Chế độ mà đế quốc
Mỹ muốn đặt lên đầu nhân dân Philippin không la cái gì khác ngoài ách
thống trị thực dân, tập trung mọi quyền hành trong tay viên toàn quyền Mỹ
và cái gọi là “chính phủ” cùng các cơ cấu của nó cũng phải do Mỹ bày đặt
ra. ở đây vai trò của Mỹ không phải là người giải phóng Philippin mà chỉ là
người thay thế chế độ thực dân Tây Ban Nha. Không còn gì có thể che dÊu
bé mặt xâm lược đó được nữa.
Cuộc đàm phán không đạt được kết quả vi bọn Mỹ không chịu chấp
nhận đề nghị của A-ghi-nan-đô đoi thừa nhận nền độc lập và các quyền tự
do dân chủ khác. Tháng 3-1900, cuộc đàm phán thứ 2 được tiến hành, phái
đoàn Mỹ do Tap-phơ cầm đầu. Nhiệm vụ của y là chuẩn bị cho việc thiết
lập chính quyền dân quản song song với sự tồn tại của chế độ quân quản.
Về thực tế, chính quyền dân quản chỉ được thực hiện trong 1 vùng rất nhỏ
hẹp đã đẩy lùi được nghĩa quân. Còn hầu hết là nơi có chiến sự, chính
quyền quân quản đóng vai trò chủ yếu. Đến tháng 3-1901, A-ghi-nan-đô bị
8
D.C.Worchester. DÉn theo A.A.Gu-be. S¸ch ®· dÉn tr.260
bọn Mỹ bắt và sau đó phản bội phong trào. Y ra tuyên bố kêu gọi ngừng
cuộc đấu tranh vò trang và thừa nhận chủ quyền của Mỹ ở Philippin. Phái
tư sản mại bản, địa chủ và tầng líp quan liêu cao cấp đầu hàng Mỹ, thực sự
trở thành tay sai cho quân xâm lược. Nhưng nhiều viên tướng cách mạng
vẫn tiếp tục đi với quần chúng nhân dân tiến hành chiến tranh du kích trên

khắp các đảo, các thành phố và các trung tâm lớn. Phong trào khởi nghĩa
của nông dân cũng lan tràn mạnh mẽ. Phải tới năm 1907, đế quốc Mỹ mới
trấn áp được phong trao cách mạng to lớn của nhân dân Philippin.
Năm 1902, nghị viện Mỹ thông qua “Đạo luật tạm thời về quyền cai
trị của chính phủ dân sự trên quần đảo Philippin”, thương gọi là “Đạo luật
tổ chức năm 1902”. Sau này, nó trở thành cơ sở của ban hiến pháp
Philippin. Mặc dầu ban bố những quyền tự do tư sản, tổ chức chế độ đại
nghị, song nó không thoát khỏi sự thống trị của đế quốc Mỹ. Bọn Mỹ đã
thiết lập sự kiểm soát về pháp lý và về thực tiễn trên quần đảo. Mỗi một sắc
luật do quốc hội Philippin ban hành đều phải được sự phê chuẩn của “Uỷ
ban Philippin” trong đó đại biểu Mỹ chiếm ưu thế và của toàn quyền Mỹ là
người có quyền phủ quyết bất cứ đạo luật nào. Nghị viện Mỹ được quyền
thủ tiêu, thay đổi hoặc bổ xung vào những sắc luật đó. Đối với một số đạo
luật thì bắt buộc phải có sự phê chuẩn của chính phủ Mỹ. Những điều
khoảng đó thức tế biến Philippin thành thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc
Mỹ.
Nh vậy, đến đầu thế kỷ XX, đế quốc Mỹ đã xây dựng được những
căn cứ đầu tiên trên Thái Bình Dương, Ha-Oai, Sa-moa, fi-ji và quần đảo
Philippin thực sự trở thành thuộc địa của đế quốc Mỹ. Cuộc chiến tranh
xâm lược đẫm máu và đầy tội ác ở Philippin đã kết thúc thế kỷ XIX, thế kỷ
xâm nhập và cướp bóc của Mỹ ở Đông Nam á nhưng mới là bước đầu của
một kế hoạch bành trướng lâu dài ở khu vực châu á mà thôi. V.I.Le-nin
vạch trần thực chất của nó: “Cu-ba, Philippin, ha-oai chỉ là những món
“khai vị” cho một bữa cơm sang trọng hơn”
9
. Và chủ nghĩa đế quốc Mỹ
cũng đang trông chờ bữa cơm sang trọng đó ở thị trương châu á, nơi mà
chúng sẽ dốc sức để chiếm đoạt trong thế kỷ XX.
Lịch sử xâm nhập của Mỹ vào các nước Đông Nam á hồi thế kỷ
XIX, nhìn về bề ngoài không ồn ào và ráo riot như những nước thực dân

châu Âu, nhất là so với Anh và Pháp. Trong khi Anh tiến hành những cuộc
chiến tranh xâm lược đẫm máu ở Ên Độ, Miến Điện; Pháp lăn vào cuộc
cướp đoạt đất đai ở Việt Nam, Campuchia và Lào; các nước tư bản phương
Tây nổ súng uy hiếp lãnh thổ Trung Quốc thì trong gần suốt thế kỷ XIX,
Mỹ về cơ bản, vẫn tiến hành xâm nhập một cách “êm ả” hơn. Tuy nhiên,
điều đó không cho phép kết luận vội vàng về vị trí của Mỹ. Là một nước tư
bản sinh sau đẻ muộn, đương nhiên, giai cấp tư sản Mỹ đòi hỏi thuộc địa,
nhất từ nửa sau thế kỷ XIX. Nhưng khi đó, trọng tâm hoạt động của Mỹ
vẫn là khu vực châu Mỹ-la tinh, mét khu vườn “thượng uyển” được bao
vây bởi hàng rào của chủ nghĩa Mơn-rô.
Còn ở châu á, ý đồ xâm lược của Mỹ cũng không thua kém gì các
nước khác. Thị trường Trung Quốc rộng lớn và giàu tài nguyên có sức hấp
dẫn mạnh mẽ làm cho giai cấp tư sản thèm muốn. Nhưng sự hạn chế về
tương quan lực lượng giữa Mỹ với các nước khác, sự thiếu thốn những căn
cứ vững chắc làm bàn đạp và phong trào chống xâm lược của các dân téc
không cho phép Mỹ nhảy ngay vào châu á. Vì vậy hoạt động chủ yếu của
Mỹ trong thế kỷ XIX mới chỉ là những bước chuẩn bị đàu tiên cho việc
thực hiện kế hoạch thôn tính sau này. Những đoàn thương nhân, ngoại
giao, giáo sĩ, dưới sự chỉ đạo của chính phủ và dưới áp lực của vũ khí được
tung vào châu á ngày càng nhiều, làm cơ sở cho những hoạt động xâm lược
của chủ nghĩa thực dân Mỹ. Đến cuối thế kỷ, khi mà Mỹ đã vươn lên hàng
đầu trong thế giới tư bản chủ nghĩa thì không ngần ngại gì, chính chúng là
kẻ gây ra cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử. Cuộc
9
V.I.Le-nin. “Bót ký vÒ chñ nghÜa ®Õ quèc”
xâm lược vũ trang Philippin là biểu hiện của yêu cầu thuộc địa ngày càng
cấp thiết của Mỹ, là kết quả của hơn 1 thế kỷ chuẩn bị và là bước mở đầu
cho những hoạt động bành trướng trong thế kỷ XX. Thưcj tế của cuộc
chiến tranh đó vạch trần bản chất xâm lược và bộ mặt tàn ác của chủ nghĩa
đế quốc Mỹ. Đến ngày nay, đế quốc Mỹ vẫn tự coi là kẻ không có chút

thuộc địa nào ở thế giới nói chung va Đông Nam á nói riêng. Nhưng lịch sử
của Mỹ ở đây trong hơn nửa đầu thế kỷ XX, nhất là từ sau chiến tranh thế
giới lần thứ 2 không là gì khác ngoài việc đẩy mạnh sự nô dịch các dân téc.
Mặc dầu còn có bề ngoài độc lập, đế quốc Mỹ đã biến nhiều nước thành
những thuộc địa kiểu mới nh Philippin, Thái Lan và can thiệp sâu vào nội
bộ nhiều nước khác. Cái ô bảo hộ Đông Nam á cùng với các hiệp nghị
“viện trợ” chính là hình thức và thủ đoạn chính trị của chủ nghĩa đế quốc
Mỹ hiện nay.
ở Việt Nam, bọn thực dân Mỹ đã sớm dòm ngó và đặt chân tới. Sự
thất bại trong các chuyến đi ngoại giao đã hạn chế bước tiến của chúng.
Tình trạng thiếu then tài liệu chưa cho phép ta thấy được toàn bộ quá trình
tiếp tục xâm nhập của Mỹ vào Việt Nam trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX. Tuy nhiên, Việt Nam chiếm một vị trí quan trọng ở Đông Nam á nên
trước sau vẫn nằm trong kế hoạch xâm lược của chúng. Từ sau đại chiến
thứ 2, Mỹ dần dân nhúng tay vào nước ta và nhất là sau năm 1954, Mỹ
đóng vai trò của một tên thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam. Nh
những hoạt động cách đây một thế kỷ, Mỹ cũng ra sức tung vào những
đoàn ngoại giao, đoàn truyền giáo và nhiều “cố vấn”. Nhưng lực lượng
được đưa vào đông đảo nhất là quân đội viễn chinh. Tới nay gần nửa triệu
quân Mỹ đang đày xéo lên nửa nước yêu thương của chúng ta. Nhưng nếu
trong thế kỷ XIX, bọn xâm lược Mỹ ỷ vào vũ khí và sự lừa lọc để cướp
đoạt Philippin và các đất đai khác thì ngày nay, thời đại đó đã qua rồi.
Những giọng lưỡi xảo trá không che dấu nổi bộ mặt tàn ác của chúng. Binh
linh và vũ khí hiện đại không khuất phục được ý chí quyết chiến, quyết
thắng của dân téc ta. Bằng hành động cụ thể, bằng cuộc kháng chiến kiên
cường, nhân dân ta hàng ngày hàng giê vạch trân bản chất hung bạo của
chủ nghĩa đế quốc Mỹ, giáng cho chúng những đòn quyết liệt chưa từng
thấy, dìm đầu bọn chúng xuống tận bùn đen. Lịch sử đấu tranh chống đế
quốc Mỹ của nhân dân Đông Nam á từ hơn một thế kỷ rưỡi qua đang được
dân téc Việt Nam chóng ta viết lên những trang huy hoàng hơn bao giê hết.

Thế kỷ XIX được chấm dứt bằng sự thắng lợi của Mỹ trong cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Nam á thì ngày nay, dân téc ta và nhân dân các nước
Đông Nam á sẽ làm cho thế kỷ của mình thành thế kỷ thất bị nhục nhã của
chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thiêng liêng
của nhân dân ta và phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Đông
Nam á và toàn thế giới đang hoàn thành sứ mệnh vĩ đại đó trong lịch sử
Tháng 6-1967 .Cuối cùng

×