Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Luận văn thực trạng và giải pháp xoá đói giảm nghèo ở huyện vĩnh lộc tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.12 KB, 64 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo đói là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Những năm gần đây,
nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có
những bước chuyển mình rất quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2006 nước ta đã
chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO.
Những nhân tố đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, đại bộ
phận đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Song, một bộ phận
không nhỏ dân cư đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... đang chịu
cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống như
ăn, ở, mặc, đi lại...Chính vì vậy, sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta ngày càng diễn
ra mạnh mẽ. Nó không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của những nước có nền kinh
tế phát triển trên thế giới, mà đối với nước ta khi nền kinh tế đang có sự chuyển
mình thì vấn đề phân hoá giàu nghèo càng được chú trọng hàng đầu. Để có thể
hoàn thành mục tiêu quốc gia là Xoá đói giảm nghèo thì trước tiên phải rút ngắn
sự phân hoá giàu nghèo.
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng
vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá
trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều
kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi nghèo
đói. Vĩnh Lộc Thanh Hóa là một trong những huyện sớm triển khai thực hiện
chương trình xoá đói giảm nghèo. Uỷ ban nhân dân huyện đã quyết định thành lập
Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ các huyện đến các xã, dành nhiều ngân sách
đầu tư cơ sở hạ tầng xã nghèo, lập quỹ cho vay Xoá đói giảm nghèo , xây dựng
các mô hình xoá đói giảm nghèo...
Với lí do trên và qua tìm hiểu thực tế về các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác Xoá đói giảm nghèo ở huyện Vĩnh Lộc - Thanh
Hoá. Kết hợp với việc nghiên cứu các số liệu về thu nhập, việc làm, đời sống vật

Sinh Viên: Lê Xuân Tư



Lớp: KTPT 47_BQN


2
chất, tinh thần của hộ nghèo nói riêng và của nhân dân trong huyện nói chung.Với
tư cách là một sinh viên thực tập tại huyện em nhận thấy vấn đề nghèo đói của
huyện là rất phổ biến, cần phải có những bước đi thật chính xác mới có thể khắc
phục được. Chính vì vậy em đã chọn đề tài chuyên đề thực tập là: Thực trạng và
giải pháp Xoá đói giảm nghèo ở huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá.
Do phạm vi nghiên cứu và thời gian tìm hiểu có hạn nên chuyên đề thực tập
không thể tránh được những thiếu sót, hạn chế. Em rất mong sự đóng góp ý kiến
của giáo viên hướng dẫn thực tập tốt nghiệp và các chú các anh công tác tại phòng
Lao động - Thương Binh và Xã hội để chuyên đề của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn thực tập tốt
nghiệp: ThS. Nguyễn Quỳnh Hoa, các chú, các anh đang công tác tại phòng Lao
động - Thương Binh và Xã hội huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá đã hướng dẫn em
trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Sinh viên thực hiện
Lê Xuân Tư

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


3

CHƯƠNG 1: ĐÓI NGHÈO VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN ĐÓI NGHÈO

I. Các khái niện liên quan đến đói nghèo

1. Khái niệm
1.1 Khái niệm về nghèo, đói
1.1.1. Theo quan niệm của Quốc tế
Theo Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP):
Nghèo đói là trạng thái môt bộ phận dân cư không được hưởng và thõa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa
phương.
Khái niệm nghèo đói có thể chia theo hai cách khác nhau: Nghèo tuyệt đối
và nghèo tương đối.
- Nghèo tương đối là sự thõa mãn chưa đầy đủ nhu cầu cuộc sống của con
người như: cơm ăn chưa ngon, quần áo chưa mặc đẹp, nhà ở chưa khang trang...
hay nói cách khác là có sự so sánh về thoã mãn các nhu cầu cuộc sống giữa người
này với người khác, vùng này với vùng khác.
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa
vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc
cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người
thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc
vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ
quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác
định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu
thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về
văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một
phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.

Sinh Viên: Lê Xuân Tư


Lớp: KTPT 47_BQN


4
- Nghèo tuyệt đối là sự không thoã mãn những nhu cầu tối thiểu của con
người để duy trì cuộc sống như: Cơm ăn không đủ no, áo không đủ mặc, nhà cửa
không bảo đảm chống được mưa nắng, thiên tai bão lũ...không so sánh với ai khác
nhưng bản thân họ không đủ lượng calo cần thiết để duy trì cuộc sống.
Hộ nghèo tuyệt đối là đối tượng chủ yếu của chương trình, mục tiêu xoá đói
giảm nghèo phải tác động. Để xem xét mức độ nghèo đói chúng ta cần thước đo
gọi là chuẩn nghèo.
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển,
Ngân hàng thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Định nghĩa khái niệm
nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối...là sống ở ranh giới ngoài
cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để
sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách
vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức
chúng ta."
Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác
nhau cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong
chính trị và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm
2001 trong các nước thành viên của Liên minh Châu Âu những người được coi là
nghèo khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận
của những người phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về chuẩn
mực cuộc sống của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung
bình thì cũng vẫn có ít hơn 50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng
gấp 10 lần. Vì thế những người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những
người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế
làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ
tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những

người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới
nghèo trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


5
ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ
nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối.
Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới
nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một
cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia vào
cuộc sống xã hội.
Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác
định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số
phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng
đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng
được quyết định qua những quá trình chính trị.

1.1.2. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam.
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thõa mãn một
phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống
tối thiểu của cộng động xét trên mọi phương diện.
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
- Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của Chính Phủ Việt Nam nhằm
giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Đói nghèo là vấn
đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã hội nhạy cảm

nhất. Không thể lãng quên nhóm cộng đồng yếu thế, ít cơ hội theo kịp tiến trình
phát triển mà Chính phủ với việc cải cách, sửa đổi những khiếm khuyết của thể
chế kinh tế để nhóm nghèo đói tự vươn lên xoá đói giảm nghèo.
Như vậy đã có hai quan niệm về nghèo đói nhưng nhìn chung chúng đều đề
cập đến sự thõa mãn nhu cầu của con người. Trong bài viết này chúng ta sẽ sử
dụng qua niệm nghèo đói của việt nam để đánh giá thực trạng nghèo đói trên địa
bàn.

1.2 cách xác định chuẩn nghèo

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


6
1.2.1 Cách xác định chuẩn nghèo quốc tế
- Ngân hàng thế giới WB đưa ra cách xác định mức chuẩn nghèo đói như sau
+ Nghèo lương thực thực phẩm: tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần
lương thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho một
người là 2100 kcal/ngày đêm;
+ Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, được
xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho lương thực thực
phẩm, 30% cho các khoản còn lại.
- Chuẩn nghèo của thế giới hiện nay là thu nhập bình quân 1,25USD/người/ngày
(tương đương với 600.000 đồng/người/tháng); chuẩn nghèo của châu Á là 1,35
USD/người/ngày (650.000 đồng/ người/tháng). Theo tính toán của Ngân hàng Thế
giới (WB), với chuẩn thu nhập 1,25 USD/người/ngày, trên thế giới hiện có đến 1,4
tỉ người (hơn 20% dân số thế giới) sống ở mức nghèo khổ.


1.2.2. Cách xác định chuẩn nghèo đói của việt nam
Có 3 căn cứ quan trọng để xác định chuẩn nghèo đói:
- Căn cứ vào nhu cầu tối thiểu, nhu cầu này được lượng hoá bằng mức chi
tiêu về lương thực,thực phẩm thiết yếu để duy trì cuộc sống với nhiệt lượng tiêu
dùng từ 2.100-2.300 Kcal/người/ngày.
- Căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người/tháng. Trong đó đặc biệt
quan tâm đến thu nhập bình quân đầu người/tháng của nhóm có thu nhập thấp(20
% số hộ).
- Căn cứ vào nguồn lực thực tế của quốc gia, của từng địa phương đã được
cụ thể hoá bằng mục tiêu chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo và chương
trình của từng địa phương để thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo.
Từ 3 căn cứ trên có thể cho thấy:
+ Xác định chuẩn nghèo đói phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế xã
hội, phong tục tập quán của từng quốc gia, từng địa phương, song trong đó có một
phần yếu tố chủ quan của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách.
+ Chuẩn nghèo phụ thuộc vào yếu tố khách quan trong đó có một phần yếu

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


7
tố chủ quan.
* Chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010:
- Giai đoạn 2001-2005
Nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân 80.000 đ/người/tháng,
hay 960.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Nông thôn đồng bằng: Thu nhập bình quân 100.000đồng/người/tháng, hay
1.200.000đồng/người/năm được coi là nghèo.

Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 150.000đồng/người/tháng, hay
1.800.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
- Giai đoạn 2006-2010:
Chuẩn nghèo chỉ áp dụng cho 2 khu vực là:
Khu vực Nông thôn: Thu nhập bình quân 200.000đồng/người/tháng, được
coi là nghèo.
Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 260.000đồng/người/tháng, được coi
là nghèo.
- chuẩn nghèo năm 2009
Hộ nông dân có thu nhập bình quân đầu người từ 300.000 đồng một tháng
trở xuống, hộ thành thị từ 390.000 đồng trở xuống sẽ được xếp vào diện hộ nghèo,
được hưởng các chính sách hỗ trợ của nhà nước

1.3. Một số khái niệm liên quan.
- Hộ nghèo: Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới
ngưỡng đói nghèo.
Theo quyết định số 1143/2005/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2005 của Bộ
trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn 2005-2010
được quy định cho mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như
sau:
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 200.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị: 260.000 đồng/người/tháng.

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


8
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu

trên được xác nhận là hộ nghèo.
Chuẩn nghèo thay đổii theo thời gian chứ không cố định. Căn cứ vào tình
hình phát triển kinh tế- xã hội, địa phương nào có đủ điều kiện sau đây có thể nâng
chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế của địa phương đó:
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân của cả nước.
+ Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước.
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói
nghèo theo chuẩn nâng lên.
- Xã nghèo: Theo Quyết định số 587/2005/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002
của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về việc ban hành tiêu chí xã
nghèo giai đoạn 2005-2010. Quy định xã nghèo là xã có:
+ Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên
+ Chua đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (Bao gồm đường
giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ). Cụ thể là:
• Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch.
• Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt.
• Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được
cả năm.
• Số phòng học( Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) chỉ
đáp ứng được dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học
tạm bợ bằng tranh tre, nứa, lá.
• Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm.
• Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ.
- Hộ vượt nghèo hay hộ thoát nghèo: Là những hộ mà sau một qúa trình
thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo cuộc sống đã khá lên và mức thu nhập
đã ở trên chuẩn mực nghèo đói. Hiện nay, ở một số địa phương có sử dụng khái
niệm hộ thoát(hoặc vượt) đói và họ thoát nghèo. Hộ thoát nghèo đương nhiên

Sinh Viên: Lê Xuân Tư


Lớp: KTPT 47_BQN


9
không còn là hộ đói nghèo nữa. Trong khi đó, hộ thoát nghèo đói có thể đồng thời
thoát hẳn nghèo(ở trên chuẩn nghèo), nhưng đa số trường hợp thoát đói(rất nghèo)
nhưng vẫn ở trong tình trạng nghèo.
- Số hộ nghèo giảm hay tăng trong một khoảng thời gian: Là hiệu số giữa
tổng số hộ nghèo ở thời điểm đầu và cuối. Như vậy, giảm số hộ đói nghèo khác
với khái niệm số hộ vượt nghèo và thoát nghèo. Số hộ thoát nghèo là số hộ ở đầu
kỳ nhưng đến cuối kỳ vượt ra khỏi ngưỡng nghèo. Trong khi đó, số hộ nghèo giảm
đi trong kỳ chỉ phản ánh đơn thuần chênh lệch về mặt số lượng hộ nghèo, chưa
phản ánh thật chính xác kết quả của việc thực hiện chương trình.
- Hộ tái nghèo: Là hộ vốn dĩ trước đây thuộc hộ nghèo và đã vượt nghèo
nhưng do nguyên nhân nào đó lại rơi vào cảnh đói nghèo. Ý nghĩa của khái niệm
này là phản ánh tính vững chắc hay tính bền vững của các giải pháp xoá đói giảm
nghèo. Thực tế cho thấy, hầu hết các hộ tái nghèo chính là do gặp thiên tai bất khả
kháng.
- Hộ nghèo mới hay là hộ mới vào danh sách nghèo: Là những hộ ở đầu kì
không thuộc danh sách đói nghèo nhưng đến cuối kỳ lại là hộ nghèo. Như vậy, hộ
mới bước vào danh sách nghèo bao gồm những hôn như sau: Hộ nghèo chuyển
tiếp từ nơi khác đến; hộ nghèo tách hộ; hộ trung bình khá vì một lý do nào đó lại
trở thành hộ nghèo hoặc tái nghèo.
- Quan niệm về xoá đói giảm nghèo
Các chương trình xoá đói giảm nghèo, xét về mặt lý luận là một hệ thống các giải
pháp xác định rõ vai trò của các tổ chức trong xã hội, trong việc phân phối hợp lý các
hành động của mình để nâng cao mức sống cho người nghèo, tạo cho họ những cơ hội
trong đời sống bằng chính sức lao động của bản thân.

II. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo

Đói nghèo do nguyên rất nhiều nguyên nhân gây ra, vì vạy cũng có rất
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo. Trong đó phải kể đến một số yếu tố cơ bản
có ảnh hưởng đến đói nghèo của huyện như sau:

1.Yếu tố khách quan.
Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


10
• Yếu tố tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp thuần
tuý của huyện. Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp luôn bị rơi vào
tình cảnh mất mùa, có năm mất trắng ở một số xã đối với diện tích lúa nước (năm
2005). Đây không chỉ là do thiên nhiên ngày càng biến đổi phức tạp khó lường mà
nó còn do một phần bàn tay con người gây ra. Việc thiếu ý thức trong bảo vệ rừng
là một nguyên nhân điển hình gây ra nhiều lũ quét và lốc xoáy. Do tàn pha rừng và
môi trường thiên nhiên nên tự nhiên không còn tuân theo quy luật vốn có của nó
nữa. Chính việc này gây ra hiệu quả sản xuất nông nghiệp tụt giảm đáng kể.
Không ai khác gánh chịu hậu quả này đó chính là người nông dân. Khi rơi vào
cảnh mất mùa thì người nghèo lại càng nghèo hơn. Bên cạnh đó, ngoài sản xuất
nông nghiệp họ rất khó chuyển đổi canh tác. Một phần là vì địa hình phức tạp, và
một phần là do khí hậu hạn chế khả năng canh tác của họ. Chính vì vậy nghèo đói
vẫn còn tồn tại và một phần là điều kiện tự nhiên gây nên.

• Yếu tố kinh tế- xã hội.
Nền kinh tế non trẻ do việc huyện mới được thành lập không lâu, sự ổn
định cần thiết của nó cũng chỉ mới là bước đầu. Để có thể tạo cơ hội cho người
dân có nhiều việc làm hơn, có thu nhập cao hơn là từ nông nghiệp thuần tuý vẫn

phải có thời gian. Chính vì vậy khó có thể tránh khỏi sự chênh lệch về kinh tế
cũng như là thu nhập của ngưòi dân so với các địa phương khác. Thực tế cho thấy,
khi kinh tế chưa thực sự ổn đinh, tác động của nó đến đời sống người dân là rất
lơn. Nó không chỉ gây ra tình trạng thiếu việc, thiếu cơ sở vật chất… mà còn kìm
hãm chính sự phát triển của con người. Như vậy, người dân rơi vào cảnh nghèo
đói là một điều khó thể tránh khỏi. Hiện tượng này không chỉ xảy ra với huyện
Như Thanh - Thanh Hoá mà còn xảy ra trên phạm vi tỉnh, cả nước và trên toàn thế
giới. Dẫu sao đây cũng chỉ là tác động của nền kinh tế-xã hội đối với tình hình đói
nghèo. Tương lai thì cũng chính nền kinh tế sẽ đặt bút xoá cho tình hình đói
nghèo.

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


11
• Yếu tố chính trị.
Thực tế công tác Xoá đói giảm nghèo ở huyện càn rất nhiều sự ủng hộ từ
nhân dân trong huyện và của các địa phương khác. Tức là có sự thống nhất về mọi
mặt giữa trong và ngoài. Tuy nhiên, huyện lại có thành phần dân cư đa dạng, việc
thống nhất được quan điểm của họ không thể trong thời gian ngắn. Nhất là nền
chính trị của huyện đang non trẻ, bộ máy lãnh đạo chưa thể trơn tru. Cũng chính
thực tế đó mà công tác Xoá đói giảm nghèo tại huyện vãn còn rất nhiều khó khăn,
làm cho đói nghèo vẫn còn tồn tại

2. Yếu tố chủ quan
• Do cơ chế, chính sách các cấp.
Việc hoạch định ra những chính sách trên cơ sở chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh để áp dụng vào giải quyết thực tế đói nghèo của

huyện là không đơn giản. Đối với bất cứ một chính sách nào cũng có 2 mặt của nó.
Vì vậy, trong qua trình thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo, bản thân
những chính sách của huyện có tác động ngược lại. Tức là gây ra tình trạng nghèo
đói hơn, gây ra hoang mang cho người dân. Tuy nhiên đây cũng là thực tế hiếm
hoi và thời gian tác động tiêu cực là không dài. Nhiều năm qua huyện luôn nỗ lực
trong chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo và đã đạt được rất nhiều thành
tích điển hình. Nhìn nhận từ thực tế cho ta thấy thực trạng đói nghèo ngày một
giảm và đi tới kiểm soát được.
• Do bản thân người nghèo.
Đã có những dự án lớn, có những chương trình lớn nhằm đẩy lùi nạn nghèo
đói, tuy nhiên không phải chỉ có vậy là sẽ hết nghèo, hết đói. Bản thân người
nghèo đều có thể quyết định cuộc sống của họ. Tuy nhiên, trong thực tế do có tâm
lý chủ quan, trông chờ vào cấp trên từ đó nảy sinh tâm lý ỷ lại. Họ thiếu quyết tâm
thoát nghèo nên đói nghèo vẫn tồn tại trong cuộc sống của họ. Đói nghèo chỉ có
thể xoá được khi có sự nỗ lực từ chính bản thân người nghèo.
Trên đây chỉ là một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến vấn đề nghèo đói.

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


12
Thực tế cho thấy nạn nghèo đói không thể giải quyết trong thời gian ngắn, chính vì
vạy mà những yếu tố ảnh hưởng đến nó cũng sẽ thay đổi theo thực trạng nghèo đói
của từng nơi.

III.Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo
1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo
- Tăng trưởng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia.

Nó là điều kiện cần thiết đầu tiên để khác phục tình trạng nghèo đói, lạc hậu, để
cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư.
- Xoá đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế. Bất cứ quốc gia nào
cũng phải lấy nền tảng quan trọng nhất của nó là phát triển tăng trưởng kinh tế để
xoá đói giảm nghèo, chỉ có tăng trưởng kinh tế mới cho phép các quốc gia tích luỹ
để đầu tư cho xoá đói giảm nghèo vì xoá đói giảm nghèo cần rất nhiều nguồn lực
và trong nhiều năm. Mặt khác tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng trong
xã hội có nghĩa là phải gắn tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo để từ đó
thu hẹp khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp và giữa các vùng miền. Nếu
tăng trưởng kinh tế không vì người nghèo thì chính nó lại làm cho khoảng cách
giầu nghèo tăng thêm và điều này không phù hợp với định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên trong phân bố ngân sách chúng ta không được thiên lệch về một
hướng nào. Nếu tăng trưởng kinh tế quá nhanh thì nguồn ngân sách cho xoá đói
giảm nghèo sẽ ít và người nghèo không theo kịp tiến trình phát triển kinh tế và
ngược lại nếu chú trọng vào công tác xoá đói giảm nghèo mà không quan tâm đến
tăng trưởng kinh tế thì càng làm cho người nghèo càng nghèo thêm. Điều đó có
nghĩa là chúng ta phải biết kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công tác
xóa đói giảm nghèo.
Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng và tăng
trưởng bền vững và tăng trưởng kinh tế trên diện rộng được coi là một bộ phận
quan trọng của chiến lược và là nhiệm vụ chung của xã hội và chính người nghèo.
2. Ảnh hưởng của đói nghèo nghèo đến phát triển kinh tế - xã hội
2.1. Ảnh hưởng của đói nghèo đến phát triển kinh tế

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


13

Báo cáo tổng kết chương trình giảm nghèo ở Châu Á - Thái Bình dương đã đánh
giá rằng: "Sống một cuộc sống nghèo khổ hiển nhiên sẽ gây ra những thất vọng, mà thất
vọng này lại thường là nguồn gốc của những hành động phá phách, gây phiền hà cho
cuộc sống và trật tự xã hội. Hoàn cảnh nghèo buộc người ta phải khai thác bừa bãi môi
trường và làm giảm khả năng sản xuất của nó, ấp ủ các xung đột về chính trị xã hội, phá
hoại những giá trị cơ bản của con người và làm xói mòn hạnh phúc gia đình. Những
hành động kiểu này đang là bi kịch cho nhiều gia đình và xã hội".
Nghèo đói là nguyên nhân của hàng loạt những tác động tiêu cực tới sự phát triển
xã hội và phát triển con người mà biểu hiện cụ thể của nó là:
Thu nhập thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới mức sống của con người. Mức sống
không đảm bảo dẫn tới hậu quả tất yếu, đó là suy dinh dưỡng ở trẻ em và giảm tuổi thọ ở
người lớn. Nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại là nhu cầu bản năng, nhu cầu đầu tiên của mỗi
con người. Trong điều kiện thu nhập thấp, thì chi tiêu cho giáo dục, cho y tế và cho các
sinh hoạt khác sẽ bị cắt giảm để nhường chỗ cho các chi tiêu về lương thực, về quần áo...
Thiếu sự chăm sóc về y tế, giáo dục, thiếu các kiến thức về sức khoẻ sinh sản, phòng
tránh thai cũng như chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em sẽ dẫn tới tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tử
vong cao ở trẻ sơ sinh, thậm chí cả ở các bà mẹ.
Tỷ lệ phát triển dân số cao dẫn tới áp lực về việc làm. Mặt khác, chính lực lượng
lao động được bổ sung một cách "hào phóng" này hàng năm lại thiếu các kiến thức, kỹ
năng do được "hưởng" sự chăm sóc kém về giáo dục, đào tạo, dẫn tới thất nghiệp tràn
lan, năng suất lao động thấp. Điều này cũng có nghĩa là thu nhập thấp và cái vòng luẩn
quẩn của sự đói nghèo hoàn tất chu kỳ của mình.
Trong báo cáo Phát triển thế giới (World Development Report 1992) nêu rõ:
"Hơn 1 tỷ người ngày nay đang sống trong tình trạng nghèo đói, đa số những người này
sẽ sinh ra những gia đình nghèo...". Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng lại ở mức độ
"nghèo đói duy trì sự nghèo đói" mà nó còn làm cho tình trạng này ngày một trầm trọng
hơn và lây lan sang những lĩnh vực tưởng như không có liên quan, đó là môi trường và
đạo đức xã hội. Mức sống thấp cộng với lối sống du canh du cư đã tồn tại từ lâu đời của
đồng bào miền núi làm cho rừng bị tàn phá ngày một nặng nề hơn. Còn ở những nơi


Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


14
không có rừng để tàn phá thì nghèo đói, thiếu việc làm sẽ nảy sinh tự phát dòng di dân ra
thành phố, khu công nghiệp, cửa khẩu biên giới để kiếm sống. Mức độ di chuyển này
ngày càng tăng là nguồn gốc gây mất an ninh trật tự và lây lan các tệ nạn xã hội, kể cả tội
phạm (điều tra qua hai thành phố lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 70%
tệ nạn ma tuý và gái mại dâm xuất cư từ nông thôn và 79,2% do không có việc làm hoặc
việc làm không ổn định).
Nghèo khổ không chỉ gây nhức nhối cho người nghèo ở khía cạnh vật chất mà
còn phải kể đến nghèo khổ cả về mặt tinh thần, làm thui chột cả hệ thống giá trị của con
người trong cuộc sống. Nó làm giảm khả năng tham gia vào các hoạt động của cộng
đồng, thiếu niềm tin và hoài bão trong cuộc sống và dễ bị những ảnh hưởng tiêu cực chi
phối.
"Vì vậy, trách nhiệm của thế giới là phải làm giảm nạn nghèo khổ. Điều đó vừa
là mệnh lệnh của đạo lý, vừa là cái tất yếu để có được sự bền vững của môi trường"
(World Development Report 1992).
2.2. Ảnh hưởng của đói nghèo đến đời sống xã hội.
Vấn đề nghèo đói không chỉ gây ra những hậu quả cho bản thân người
nghèo mà còn gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển chung của toàn xã
hội. Ta có thể thấy được tác động của nghéo đói đến bản thân người nghèo và ảnh
hưởng đến toàn xã hội thông qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.1: Ảnh hưởng của nghèo đói đến đời sống xã hôi.
Nghèo đói dẫn đến
Bệnh tật


Gia tăng dân số

Môi trường sống

Suy dinh dưỡng

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


15
Tệ nạn xã hội
Thất học

Nghèo đói
Cản trở sự tăng trưởng kinh tế

Kìm hãm sự phát triển con

người
Bất bình đẳng xã hội

Phá huỷ môi trường

( Nguồn:Tài liệu tập huấn Cán bộ Xoá đói giảm nghèo cấp huyện và xã2006)
Như vậy, muốn kinh tế phát triển được thì phải giải quyết được vấn đề
nghèo đói.
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng
vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá

trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều
kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi nghèo
đói.
3. Ý nghĩa của vấn đề xoá đói giảm nghèo
Có thể nói rằng đói nghèo gây nên những ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến việc
phát triển kinh tế xã hội và phát triển con người, vì vậy Xoá đói giảm nghèo rất cần
thiết và đòi hỏi phải duy trì trong suốt thời gian dài, không thể ngày một ngày hai,
Làm tốt công tác xoá đói giảm nghèo, tạo cơ hội cho người nghèo nâng cao thu nhập
bằng chính sức lao động của mình chính là góp phần giải quyết những tiêu cực trong xã
hội và bảo vệ môi trường. Thu nhập tăng, người nghèo có điều kiện quan tâm tới sức
khoẻ, đời sống văn hoá cũng như việc học hành của con cái.
Dân có giàu thì nước mới mạnh, điều này đã trở thành một chân lý từ bao đời

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


16
nay. Nâng cao đời sống của mọi tầng lớp nhân dân, tạo sự công bằng, từng bước xoá bỏ
khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Tất cả những điều đó sẽ tạo ra gương mặt mới
cho đất nước chúng ta và cũng là thực hiện được mong muốn "Mong muốn duy nhất,
mong muốn tột bậc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già kính yêu của dân tộc, đó là
"dân tộc ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

IV. Quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề xoá
đói giảm nghèo
1. Đường lối chính sách
Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu xoá đói giảm nghèo là mục tiêu phấn
đấu của toàn dân, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX

đã xác định mục tiêu đến năm 2005 giảm số hộ nghèo theo tiêu chuẩn nước ta còn
khoảng 10%. Thường xuyên củng cố thành quả xoá đói, giảm nghèo, không để trở lại đói
nghèo. Vận dụng tiêu chuẩn quốc tế để quy định hợp lý chuẩn xác định hộ nghèo và mục
tiêu giảm nghèo của nước ta.
Đường lối hoạt động: "Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng
nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng
nghèo, xã nghèo với các trung tâm của những vùng khác, nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn để phát triển. Đi đôi với việc xây dựng
kết cấu hạ tầng, phải coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng
nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng thu nhập. Phấn
đấu đến năm 2015 cơ bản không còn hộ đói và chỉ còn khoảng 10% số hộ thuộc
diện nghèo. Các tỉnh đồng bằng bắc bộ về cơ bản không còn hộ nghèo. Nâng dần
mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo" (Văn kiện Đại
hội Đảng X - Tr. 299).
Chủ động di dời một bộ phận nhân dân không có đất canh tác và điều kiện sản
xuất đến lập nghiệp ở những vùng còn tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi
khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ những người
nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt không thể tự
lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng.

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


17
Xóa đói, giảm nghèo về kinh tế là nội dung nổi bật, quan trọng nhất. Bên
cạnh đó, xoá đói nghèo văn hoá, thông tin cũng là một trong những nội dung được
nhấn mạnh trong định hướng phát triển, điều đó được xác định: "Quan điểm giáo
dục là quốc sách hàng đầu... củng cố và duy trì thành quả phổ cập giáo dục tiểu

học và xoá mù chữ, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa; thực hiện phổ
cập giáo dục trung học cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc; phát
động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình, làng,
bản văn hoá...".
Cùng với chương trình xoá đói giảm nghèo của Chính phủ Việt Nam, các tổ chức
quốc tế, tổ chức phi chính phủ, tổ chức từ thiện như: Liên hợp quốc, tổ chức quốc tế vì sự
phát triển... đã hỗ trợ các dự án nhằm nghiên cứu triển khai thực hiện xoá đói giảm nghèo
trên phạm vi cả nước, những ưu tiên cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số.

2. M ột số chương trình xoá đói giảm nghèo triển khai ở nước ta
- Phát triển nông nghiệp nông thôn
- Phát triển các dịch vụ xã hội và mạng lưới bảo trợ xã hội cho người nghèo.
- Chương trình kế hoạch hoá gia đình và giảm tốc độ gia tăng dân số.
- Chương trình hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn (135)...

V. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của các nước trên thế giới và của
các địa phương trong nước.
1. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới
Kinh nghiệm tổng quát bao trùm mà nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực
đã thực hiện có hiệu quả trong công tác xoá đói giảm nghèo, đó là những can thiệp vĩ mô
thuộc về vai trò quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước để xoá đói, giảm nghèo từng bước
có hiệu quả. Điểm mấu chốt là Nhà nước kịp thời có những giải pháp và chính sách đúng
đắn, đồng bộ, đồng thời bảo đảm được những điều kiện để thực thi.
Cùng với Nhà nước là sự phối hợp tác động của các đoàn thể, tổ chức, hiệp hội
các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Đây là lực lượng tham gia trực tiếp vào

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN



18
quá trình xã hội hoá chương trình xoá đói giảm nghèo.
Thành công của Trung Quốc trong công cuộc xoá đói giảm nghèo cho thấy tầm
quan trọng của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế gắn với những biện pháp giải quyết việc
làm ở nông thôn, mở rộng hệ thống dạy nghề, tăng kỹ thuật mới, giảm nhẹ điều kiện làm
việc, cải thiện điều kiện sống. Phát triển công nghiệp nông thôn nhằm thay đổi cơ cấu
kinh tế, cải tạo nền kinh tế thuần nông với phương châm "Ly nông bất ly hương". Chính
vì vậy, tuy là một nước đông dân nhất thế giới nhưng Trung Quốc lại là nước có tỷ lệ số
người sống ở mức nghèo khổ thấp nhất (năm 1991 còn 87 triệu người sống dưới mức
nghèo khổ, 27 triệu người sống ở mức bần cùng).
Inđônêxia, Malaysia và Thái Lan áp dụng việc loại trừ đói nghèo ở từng vùng
trọng điểm thông qua chính sách phát triển. Từ những năm 70, Chính phủ Inđônêxia đã
dùng phần lớn số tiền từ khai thác dầu để phát triển kinh tế và tập trung xoá đói giảm
nghèo ở vùng Java. Hiện nay đất nước này tiếp tục hướng về giải quyết đói nghèo ở các
vùng khác. Kết quả thu được là khả quan: giảm 70 triệu người nghèo khổ (60% dân số)
trong thập niên 70 xuống còn 27 triệu người nghèo đói (15% dân số) vào đầu thập niên
90.
Thái Lan áp dụng mô hình gắn liền chính sách phát triển quốc gia với chính sách
phát triển nông thôn thông qua hình thành phát triển xí nghiệp ở làng quê nghèo, phát
triển doanh nghiệp nhỏ, mở rộng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để giảm bớt nghèo
khổ. Nhờ hoạt động của Ban phát triển nông thôn (IBIRD) và tổ chức hiệp hội dân số và
phát triển cộng đồng (PDA) theo mô hình trên. Tỷ lệ người nghèo ở Thái Lan từ 30%
trong thập niêm 80 đã giảm xuống 23% năm 1990 (13 triệu người).
Mỗi quốc gia có chiến lược xoá đói giảm nghèo riêng. Điều quan trọng để thực
hiện thành công nhiệm vụ này là xác định đúng những thuận lợi, khó khăn của đất nước,
địa phương mình, xác định được đâu là nguyên nhân chính. Từ đó, làm cơ sở để đưa ra
các giải pháp phù hợp.


2. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của một số địa phương trong
nước
- Kinh nghiệm góp phần xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Đồng Nai : Đưa "những

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


19
cái thiếu" về nông thôn, đến tận tay người nghèo.

Đồng Nai được xem là một trong những địa phương thành công nhất trong
việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Bài h ọc kinh nghi ệm của
tỉnh thì nhiều, nhưng dưới góc nhìn của Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo
Chính phủ, thì các chính sách "đem cái chữ đến cho người nghèo", "gắn
chế biến nông sản với vùng nguyên liệu" và "đưa ngân hàng về cơ sở" của
Đồng Nai là những nét nổi bật.
+)Dạy chữ, dạy nghề cho người nghèo
Trước khi triển khai thực hiện giải pháp nâng cao dân trí cho người nghèo, tỉnh đã
có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng trường lớp ở nông thôn, các vùng khó
khăn và tiến đến kiên cố hóa. Có cái nền vững chắc như vậy cùng với phong trào
xã hội hóa giáo dục của tỉnh diễn ra mạnh mẽ đã tác động đến ý thức của người
dân, đặc biệt là nông dân trong việc chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Nhờ vậy, đến nay hầu hết các em tuổi từ 18 trở xuống đều có trình độ tốt nghiệp
trung học cơ sở.
Tỉnh cũng chủ trương bên cạnh với công tác dạy chữ cần quan tâm đến dạy
nghề để giúp người dân có việc làm, thu nhập ổn định, thoát nghèo bền vững. Sở
Lao động, thương binh và xã hội cùng ngành giáo dục - đào tạo đã tổ chức được
nhiều trường, khóa, lớp đào tạo nghề ngay tại các doanh nghiệp, tại các xã vùng

sâu, vùng xa để người dân nghèo, trình độ văn hóa chưa cao được học những
ngành nghề phù hợp. Hiện nay, ngoài các trung tâm học tập cộng đồng có dạy
nghề thì ở tất cả các huyện, thị xã trong tỉnh đều có nhiều trường, lớp dạy nghề
trên các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Tỉnh cũng tiến hành nhiều chương
trình tài trợ, hỗ trợ dạy nghề và giới thiệu việc làm cho con em đồng bào dân tộc,
gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ. Ước tính, bình quân mỗi năm có trên 1.000
học viên của tỉnh được đào tạo nghề miễn phí và giới thiệu việc làm có thu nhập
ổn định.
+) Đưa ngân hàng, nhà máy về với nông thôn
Chương trình cung ứng vốn cho người nghèo của Đồng Nai đã triển khai
thực hiện từ năm 1994. Đặc biệt, năm 2003, ngân hàng chính sách xã hội ra đời thì

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


20
mạng lưới của nó không chỉ dừng lại ở tỉnh, huyện mà còn mở nhiều điểm giao
dịch tại các xã để tiếp cận dân. Một cách tiếp cận và mở rộng cho vay khác của
ngân hàng chính sách hội là liên kết với các tổ chức đoàn thể, như: Hội liên hiệp
phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh để mở ra những kênh
chuyển tải vốn đến người vay nhanh chóng, kịp thời. Với cách làm này, Ngân
hàng chính sách xã hội tỉnh đã giải đáp được một phần bài toán "ngân hàng thừa
tiền, nông dân thiếu vốn".
Những bài học kinh nghiệm trên đây về công tác xóa đói giảm nghèo ở
Đồng Nai chưa phải là tất cả nhưng cũng rất quan trọng đóng góp vào công cuộc
xóa đói giảm nghèo trong tỉnh đạt kết quả tốt đẹp.
- Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của huyện Nông Cống- Thanh hoá.
Từ khi thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về Xoá đói giảm nghèo,

mỗi năm huyện đã giải quyết cho trên 15.000 lượt hộ nghèo được vay vốn sản xuất
với tổng số tiền trên 60 tỷ đồng, quan tâm tổ chức thực hiện có hiệu quả các dự án
vốn vay giải quyết việc làm, vốn tương trợ, hỗ trợ lẫn nhau của các tổ chức hội.
Việc sử dụng vốn có hiệu qủa, đến nay hầu hết các hộ đã trả được nợ vay, số hộ
nợ quá hạn không nhiều.
Những hộ nghèo thiếu đất sản xuất được tập trung giải quyết để hộ nghèo
có đất và tư liệu sản xuất.Tập huấn kiến thức sản xuất các loại cây trồng, con nuôi
cho hơn 20.000 lượt người nghèo bằng nhiều hình thức như đi tham quan các mô
hình tiên tiến, hội nghị hội thảo đầu bừo, chuyển giao khoa học kỹ thuật. Đã có
hơn 10.000 hộ nghèo sử dụng giống mới, kỹ thuật canh tác mới trong chăn nuôi
trồng trọt. Thực hiện chính sách trợ giá một số loại giống mới cho hộ nghèo như:
Lúa vụ mùa là 5.000đ/kg, lúa vụ chiêm là 3.000đ/kg, Ngô vụ đông là 3.000đ/kg...
Trợ giá, trợ cước cho các sản phẩm thếit yếu như : muối, dầu hoả, phân bón, giấy
vở học sinh, than đá trong 5 năm là 3 tỷ đồng.
Đã cấp 30.000 thẻ KCB cho người nghèo theo Quyết định 139 của Chính
phủ. Hàng năm có trên 15.000 lượt người nghèo được KCB miễn giảm phí tại cơ
sơ y tế cấp huyện và gần 1000 lượt người được KCB miễn giảm phí ở các tuyến y

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


21
tế cấp trên. Số trẻ em được đúng độ tuổi là 8.479 em = 95,4%. Trong thời gian qua
huyện đã tiếp nhận hỗ trợ cho 535 hôộổn định dân cư thuộc diện di dân từ các
huyện và tỉnh khác.Huyện đã tổ chức được 12 lớp tập huấn nâng cao năng lực Xoá
đói giảm nghèo cho trưởng thôn với 450 học viên, hàng năm tập huấn cho cán bộ
làm công tác Xoá đói giảm nghèo của 34 xã, thị trấn.
Thực hiện cuộc vận động toàn dân hỗ trợ giúp đỡ hộ nghèo về nhà ở, trong

2 năm 2004-2005 đã hỗ trợ xây dựng được 1290 ngôi nhà cho hộ nghèo. Kết quả
sau thời gian thực hiện mục tiêu giảm nghèo đã giảm được 18.08% hộ = 2.775 hộ
thoát nghèo, nhưng cũng có 156 hộ thoát nghèo. Đến cuối năm 2005 còn 15% hộ
nghèo = 2.630 hộ đạt 100% kế hoạch
Có được kết quả trên là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ ĐảngHĐND-UBND-MTTQ và các đoàn thể, sự nổ lực cố gắng của các ban chỉ đạo, tập
thể, các nhân, các phòng, ban ngành, cơ quan đơn vị đã góp phần không nhỏ giảm
tỷ lệ hộ nghèo theo đúng chỉ tiêu hàng năm đã đặt ra như: Xã Minh thọ, thị trấn
Chuối, Xã Vạn Hoà, Xã Thăng long...Trong đó, những đơn vị tiêu biểu xuất sắc là
Hội nông dân, Phòng nông nghiệp, Phong Nội vụ-LĐTB&XH và mốt số cơ quan
đoàn thể khác.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO Ở HUYỆN
VĨNH LỘC -THANH HÓA
I. Đặc điểm chung của huyện vĩnh lộc Thanh Hóa
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


22
Vĩnh Lộc nằm trong vùng đồng bằng sông Mã, trung tâm huyện lỵ cách thành
phố Thanh Hoá 45 km về phía Tây - Bắc theo Quốc lộ 45; cách thị xã công nghiệp Bỉm
Sơn 40 km về phía Tây theo quốc lộ 217.
Có toạ độ địa lý :
19057’ - 20008’ vĩ độ Bắc.
105033’ - 105046’ kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp các huyện Thạch Thành.
- Phía Nam giáp các huyện Yên Định.

- Phía Tây giáp huyện Cẩm Thuỷ.
- Phía Đông là các huyện Hà Trung và Hậu Lộc.
Được sông Mã bao bọc ở phía Nam, phía Tây - Bắc và phía Bắc là dải đất bán
sơn địa, phần chuyển tiếp giữa phần đồng bằng của huyện với vùng trung du - miền núi.

1.2. Địa hình
Là huyện nằm trong vùng đồng bằng Thanh Hoá, nhưng tiếp giáp với các huyện
miền núi ( Thạch Thành, Cẩm Thuỷ ) do vậy bề mặt lãnh thổ có địa hình không bằng
phẳng, vùng phía Tây - Bắc và phía Bắc của huyện thoáng hiện địa hình đồi trung du.
Vùng đất trung tâm và vùng phía Nam của huyện là đồng bằng. Độ cao trung bình toàn
huyện là 15 mét ( so với trung bình mặt nước biển); cá biệt có một số vùng trũng ( thuộc
các xã phía Đông - Nam: Vĩnh Minh, Vĩnh An và Vĩnh Thịnh ... ) thấp hơn độ cao trung
bình toàn huyện từ 3m - 5m.
Diện tích đất phân loại theo độ dốc như sau :
- Loại địa hình có độ dốc < 30 , diện tích là: 8.066 ha chiếm 51,24% diện tích tự
nhiên toàn huyện.
- Loại địa hình có độ dốc từ 30 - 80, diện tích là :1.979 ha chiếm 12,57%.
- Loại địa hình có độ dốc từ 80 - 150, diện tích là :2.054 ha chiếm 13,05%.
- Loại địa hình có độ dốc từ 150 - 200, diện tích là :1.162 ha chiếm 7,38%.
- Loại địa hình có độ dốc > 200, diện tích là : 2.479 ha chiếm 115,75%.
Nhìn chung đất đai của huyện Vĩnh Lộc là khá đa dạng, tiềm ẩn nhiều khả
năng cho phát triển các loại hình kinh tế, phát triển các tiểu vùng sinh thái, các

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


23
vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá phục vụ cho phát triển kinh tế của huyện và

của tỉnh.

1.3. Khí hậu thời tiết
Vĩnh Lộc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nền nhiệt cao vói hai
mùa chính: Mùa Hạ, khí hậu nóng ẩm có chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng,
Mùa Đông, khô hanh có sương giá, sương muối. Xen kẻ giữa hai mùa chính là khí
hậu chuyển tiếp : giữa Hạ sang Đông là mùa Thu ngắn thường có bão lụt. Giữa
Đông sang Hạ là mùa Xuân không rõ rệt, có mưa phùn.
- Nhiệt độ cả năm từ: 8.50000C - 8.6000C , nhiệt độ không khí trung bình
năm là 23,40C; bức xạ nhiệt tổng cộng hàng năm theo lý thuyết đạt tới:225 - 230
kcal/cm2; cả năm có 1,667 giờ nắng, số ngày không có nắng trung bình năm là
83,2 ngày; lượng mưa trung bình năm từ 1.600 - 1.700 mm.
- Độ ẩm không khí trung bình năm là 86% lượng bốc hơi trung bình hàng
năm khoảng 850 mm; vận tốc gió trung bình trong năm là 1,9 m/s.
Khí hậu vùng Vĩnh Lộc là thuận lợi cho phát triển cây trồng, vật nuôi.
Nhưng có một số thời điểm do biến động thời tiết không thuận: đầu vụ Xuân có rét
đậm, sương giá và cuối vụ có gió Tây sớm, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng ;
hạn hán do ảnh hưởng của gió Tây thường xảy ra vào đầu vụ mùa, bão, lụt vào
cuối vụ gây thiệt hại, thất bát cho cây trồng vụ mùa.
Thay đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ để tránh những biến động bất thuận của
thời tiết là những biện pháp canh tác tốt nhất hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra,
tăng sản lượng sản phẩm cây trồng nông nghiệp.

1.4. Sông ngòi
Vĩnh Lộc được hưởng nguồn nước từ sông Mã và sông Bưởi; tổng nguồn
nước sông Mã (sông chính) trung bình nhiều năm là 11,6 tỷ m 3, khi lớn nhất 17,1
tỷ m3; lượng dòng chảy mùa lũ: 8,8 tỷ m3 và mùa kiệt: 2,8 tỷ m3. Đoạn sông chảy
trên đất Vĩnh Lộc là 41,5 km theo ranh giới phía Nam huyện, thuận lợi cho việc tổ
chức khai thác nguồn nước phục vụ phát triển dân sinh, kinh tế.
Sông Bưởi là một nhánh của sông Mã, bắt nguồn từ Hoà Bình có tổng chiều


Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


24
dài sông 130 km, diện tích lưu vực 1.794 km 2, đoạn chảy qua Vĩnh Lộc là 11,9 km
theo hướng Bắc - Nam chia Vĩnh Lộc thành hai vùng : vùng phía Tây sông Bưởi
và vùng phía Đông sông Bưởi có tổng lượng nước trung bình nhiều năm là 1,65 tỷ
m3. Đáng chú ý là sông Bưởi lòng sông hẹp và sâu, độ uốn khúc lớn, rất dể gây lụt
cho hai vùng đất hai bên bờ khi mùa lũ đến, nhưng là nguồn cung cấp bổ sung
nước thuỷ lợi quan trọng cho các xã vùng trung tâm của huyện.

1.5. Tài nguyên khoáng sản
Vĩnh Lộc có các khoáng sản làm nguyên liệu cho sản xuất VLXD gồm: đá
vôi xi măng và đá ốp lát, sét làm xi măng và gạch ngói thông thường. Ngoài các
mỏ trên, huyện còn có mỏ cát thạch anh Bản Thuỷ - Vĩnh Tân.... Nhìn chung,
khoáng sản của Vĩnh Lộc phù hợp với phát triển công nghiệp địa phương, sản
phẩm tiêu thụ ngay trên địa bàn huyện như: gạch ngói, tham gia xuất khẩu như đá
ốp lát.

2.Tình hình điều kiện sản xuất chung của huyện
2.1. Tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở hạ tầng của Vĩnh Lộc đã được nâng cấp nhiều trong những năm qua,
nhìn chung tiến độ vẵn chưa cao và ngày đang từng bước được hoàn thiện dần.
Tình hình này được thể hiện qua bảng sau

Bảng1 : Cơ sở hạ tầng của huyện Vĩnh Lộc
Chỉ tiêu

I. Công trình thuỷ lợi
- Tổng số trạm bơm
- Diện tích thực tưới b.q
- Công suất b.q
- Diện tích ngập úng b.q
- Đập tưới

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Đơnvị
Trạm
Ha
M3/h
Ha
Cái

Số lượng
1
2.800
24.400
45
8

Ghi chú
Yên Tôn - V.Yên

Lớp: KTPT 47_BQN


25

- Tổng năng lực tưới
II. Giao thông vận tải
- Đường bộ
- Đường quốc lộ
- Đường huyện, xã
- Đường thôn, xóm
- Bến ô tô
III. Công trình phúc lợi
- Nhà trẻ + mẫu giáo
- Trường học
- Bệnh viện
- Trạm ytế
IV. Công trình điện
- Số trạm biến áp trung gian
- Số trạm biến áp hạ thế
- Tổng công suất

Ha

8.420

Km
Km
Km
Km
Cái

985
33
23

924
1

Nhà
Trường
B. viện
Trạm

16
37
1
16

Trạm
Trạm
KVA

1
63
10.700

(QL45+QL217)

Núi Đún

(Nguồn: Phòng Thống kê huyện Vĩnh Lộc)
Hiện tại, toàn huyện có 16/16 xã, thị trấn sử dụng điện lưới quốc gia.
Giao thông : Toàn huyện đang cố gắng kịp thời khắc phục những ách tắc
trong giao thông do thiên tai gây ra trong mùa lũ lụt năm 2007. Đến năm 2008
toàn huyện đã có 935 km đường quốc lộ, trong đó 25,5 km đường được rải nhựa,

220 km đường cấp phối còn lại là đường đất. Có 33 km đường quốc lộ với Quốc lộ
217 (21 km) và Quốc lộ 45 ( 12 km).
Trong công tác thuỷ lợi, diện tích đảm bảo tưới bằng công trình thuỷ lợi
năm 2008 là 6.890 ha đạt gần 90% diện tích cần tưới, diện tích còn lại bị hạn là
600 ha. Hệ thống kênh dẫn chính, cống dẫn và kênh mương nội đồng cũng được
đầu tư nâng cấp và kiên cố hoá, đã có trên 100 km kênh, 230 cống các loại được
kiên cố hoá.
Thông tin liên lạc : Toàn huyện đã phấn đấu đảm bảo thông tin liên lạc,
100% số xã đã có máy điện thoại với trên 1.000 máy, 15/16 xã, thị trấn có điểm
Bưu điện văn hoá ( thị trấn không có điểm Bưu điên văn hoá là do nằm ở trung
tâm).
2.2

Tình hình sử dụng đất đai

Đất đai đóng vai trò là một loại tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Đất đai và khả năng tiếp cận đất đai có tác động đến
đời sống của những người sử dụng nó. Đối với sản xuất nông nghiệp thì đất đai là yếu tố đầu tiên và là yếu tố quan trọng nhất, cùng
với lao động là hai yếu tố không thay đổi dù trong điều kiện sản xuất thủ công hay cơ khí hoá, điện khí hoá.

Sinh Viên: Lê Xuân Tư

Lớp: KTPT 47_BQN


×