Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận tìm hiểu du lịch văn hoá làng quê vùng đồng bằng bắc bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.97 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
Trang
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ******************************

2

PHẦN I . GIỚI THIỆU ĐĂC TRƯNG VĂN HOÁ VÙNG
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ *******************************

4

I . phong tục tập quán , tin ngưỡng tôn giáo **************

4

1 . tập quàn cư trú theo làng mạc ***********************

4

2 . Tín ngưỡng , tôn giáo ******************************

5

3 . phong tục ****************************************

5

II . Nông nghiệp , làng nghề đặc trưng văn hoá vùng
đồng bằng bắc bộ *********************************

6



1 . sản xuất nông nghiệp và sự ảnh hưởng của nông
nghiệp đến văn hóa ẩm thực vùng đông băng bắc bộ******

6

2. các làng nghề truyền thống tiêu biểu******************

7

III . văn hoá tinh thần ********************************

15

1 . Dân ca và nghệ thuật biểu diễn dân gian **************

15

2 . Hội làng nét văn hóa đặc trưng của vùng
đồng bằng bắc bộ*********************************

28

PHẦN II . THỰC TRẠNG DU LỊCH VĂN HÓA VÙNG
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ******************************

29

PHẦN III . ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG MỘT LÀNG DU LỊCH
VĂN HOÁ ĐẶC TRƯNG CỦA VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC

BỘ TẠI BẮC NINH *********************************

30

TÌM HIỂU DU LỊCH VĂN HOÁ LÀNG QUÊ VÙNG ĐỒNG
BẰNG BẮC BỘ

1


GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Hội đồng Lữ Hành và Du lịch quốc tế ( world Travel and Tuorism
council - WTTC ) đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế
giới , vượt qua cả ngành sản xuất ô tô , thép , điện tử . Đối với một số quốc
gia , du lịch là một nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương .
Tại một số quốc gia khác du lịch la ngành kinh tế hàng đầu .Theo tổ chức du
lịch thế giới (WTO)thì năm 2000 số lượng khách du lịch toàn thế giới là 698
triệu lượt người , thu nhập là 467 tỷ USD ; năm 2002 lượng khách là 716,6
triệu lượt người , thu nhập là 474 tỷ USD ; dự tính đến năm 2010 lượng khác
là 1006 triệu lượt và thu nhập là 900 tỷ USD .Có thể nói du lịch là một hiện
tượng kinh tế xã hội phổ biến .
Tại Việt Nam những năm qua sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thanh
tựu quan trọng . Đó là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế , sự ổn định về chính
trị , văn hoá xã hội có những tiến bộ quan trọng . Đây chính là điều kiện , và
là nền tảng vững chắc cho du lịch Việt Nam phát triển trong tương lai gần
.Đảng và nhà nước đã xác định ' Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp quan
trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành liên vùng và có tính
xã hội hoá cao ; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan , giải
trí , nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế , góp phần nâng cao
dân trí , tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước " (trích pháp

lệnh du lịch , 2/1999 ) và "phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn…" (trích văn kiện Đại hội Đảng khoá IX ).
Trong điều kiện hiện nay với sự phát triển vượt bậc về kinh tế và sự bùng
nổ về thông tin liên lạc đã làm cho quá trình toàn cầu hoá diễn ra hết sức
mạnh mẽ . Nhu cầu về nghỉ ngơi , giải trí , giao lưu học hỏi , tìm hiểu về văn
hoá giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng một cách rất nhanh chóng
2


đây là điều kiện rất tốt cho việc phát triển du lịch và du lịch văn hoá là một
bộ phận không thể thiếu Như chúng ta đã biết Việt Nam có một điều kiện tự
nhiên tương đối phù hợp với phát triển du lịch . Nhưng ngay lúc này chúng
ta khó có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực và quốc thế về các loại
hình du lịch nghỉ dưỡng , vui chơi , giải trí do các nước đó đã có một quá
trình phát triển lâu dài và có một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật rất phát
triển như Thái Lan , Singapore , Malaixia ... phát triển du lịch văn hoá sẽ
mở ra cho chúng ta một hương đi mới để có thể cạnh tranh với nước ngoài .
Việt Nam có ít những công trình vĩ đại do con người xây dựng lên , nhưng
thay vào đó chúng ta lại có một nền văn hoá lâu đời mà không phải nước nào
cũng có . Trải dài suốt từ bắc xuống nam ở đâu cũng xuất hiện những làng
nghề thủ công nổi tiếng , những đặc sản quê hương của từng vùng và những
hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian đặc sắc . Như là Chèo , Ca trù ,
Quan họ , Cải lương , Tuồng từ lâu đã trở lên nổi tiêng không chỉ ở trong
nước mà còn được rất nhiều bạn bè quốc tế mến mộ . Đặc biẹt là Nhã Nhạc
Cung Đình Huế và không gian văn hoá cồng chiêng tây nguyên đã được tổ
chức UNESSCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới .
Vùng đồng bằng bắc bộ là vùng có nhiều điều kiện để phát triển du lich
văn hoá . Thứ nhất vị trí địa lý gồm các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và
saông Thái Bình , tại đây có trung tâm văn hoá chính trị là Hà nội . thứ hai là
vùng đồng bằng bắc bộ có một lịch sử phát triển lâu đời và mang đậm nét

văn hoá Việt . Đặc biệt ở đây có nhiều loại hình nghệ thuật dân gian từ lâu
đã trở lên nổi tiếng không những ở trong nước mà còn được nhiều bạn bè
quốc tế hết sức mến mộ như : Dân ca Quan họ , Hát Chèo , Múa rối nước ,
Ca trù … đây là điều kiện thuận lợi cho vùng đồng bằng bắc bộ phát triển
loại hình du lịch văn hóa . Chính vì vậy em quyết định chịn đề tài “du lịch
văn hóa làng quê vùng đồng bằng bắc bộ ” làm đề án môn học Kinh Tế Du
3


Lịch của mình .
PHẦN I . GIỚI THIỆU ĐĂC TRƯNG VĂN HOÁ VÙNG ĐỒNG
BẰNG BẮC BỘ
Việt Nam là đất nước có lịch sử lâu đời , văn hoá Việt rất đa dạng và
phông phù theo từng miền vùng khac nhau có sự khác nhau về văn hoá . Mỗi
vùng có những đặc trưng riêng , vùng đồng băng bắc bộ là vùng co truyền
thống văn hoá đăc sắc lâu đời và mang đậm nét của văn hoá Việt . Sau đây
ta điểm qua một số nét đặc trưng của văn hoá vùng đồng bằng bắc bộ .
I . phong tục tập quán , tin ngưỡng tôn giáo
1 . tập quàn cư trú theo làng mạc
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một thuộc vùng văn minh lúa nước
Đông Nam Á . Sản xuất nông nghiệp là chủ yếu và vùng đồng bằng bắc bộ
cũng mang đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp .
Do cuộc sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên làm cho mọi người phải đoàn
kết lại , cùng nhau chia sẻ , cùng giup đỡ nhau chống chọi lại thiên nhiên .
Chính vì vậy tập quán cư trú theo làng mạc được hình thành , đây là nguồn
gốc hình thành lên tính cach của người Việt nói chung và người vùng bắc bộ
nói riêng . Làng ở vùng bắc bộ được hình thành từ nhiều cách tổ chức khác
nhau dựa trên cơ sở quan hệ gia đình , thị tộc , địa bàn cư trú , theo nghề
nghiệp . Chính do đặc điểm hình thành như vậy nên làng vùng bắc bộ có tính
tự trị rất cao . Khi đến một làng vùng bắc bộ điều đầu tiên mà chúng ta

thường bắt gặp đó là những luỹ tre bao quanh làng . Nó thể hiện sự tách bạch
giữa các làng với nhau . Mỗi làng đều có hương ước luật lệ riêng . Dân gian
ta có câu : “ phép vua thua lệ làng ’’ . Nhưng tính tự trị đó lại được xuất phát
từ tính cộng đồng , đặc trưng văn hoá nổi bật của người Việt . Trong một
làng mọi người sống hoà đồng , yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở dân
chủ , bình đẳng . Các hoạt động cộng đồng diễn ra thường xuyên đặc biệt hội
4


làng , đây là nét tiêu biểu của làng quê Việt Nam . Biểu tượng cho tính cộng
đồng là cây đa , bến nước , sân đình . Nhưng trung tâm văn hoá của một làng
quê .
2 . Tín ngưỡng , tôn giáo
Đời sống tín ngưỡng , tôn giáo ccủa vùng đồng băng bắc bộ rất đa dạng
và phong phú . Ngoài những tín ngưỡng truyền thống ra nó còn có sự giao
lưu ảnh hưởng của tìn ngưỡng , tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào như
nho , phật , đạo , kito giáo nhưng gây được sự ảnh hưởng nhiều nhất lên đời
sống văn hoá tinh thầnccủa người dân vùng đồng bằng bắc bộ đó chính là
phật giáo và nho giáo . Trung tâm tín ngưỡng ở mỗi làng đó chính là ngôi
chùa làng . “ Trước thờ phật sau thờ thần ” , Ở chùa không chỉ thờ phật mà
do sự đa dạng của tín ngưỡng người ta còn thờ các vị thần có ảnh hưởng lớn
đến đời sống thường ngày , những người có công lao lớn với làng , với đất
nước.
3 . phong tục
Gắn liền với tín ngưỡng tôn giáo đó là những phong tục . Đó là những
thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời , được đại đa só mọi người
thừa nhận và làm theo . Vùng đồng bắc bộ có những phong tục hết sức đặc
biệt và đa dạng , đặc biệt là hệ thống những lễ hội và lễ tết .
Do cuộc sống sản xuât nông nghiệp rất vả và có tính thời vụ cao cho nên
vào những lúc nông nhàn người dân tự thưởng cho mình những ngày vui

chơi , vì thế các ngày lễ tết , lễ hội diễn ra tương đối nhiều trong một năm .
Trong một năm có nhiều ngày lễ tết gồm những ngày lễ cúng tổ tiên và
những khoảng trống theo lịch thời vụ như : tết nguyên tiêu (rằm tháng
riêng ) , tết hàn thực ( 3/3 âm lịch ) , tết đoan ngọ ( 5/5 âm lịch ) , tết ông
công , ông táo ( 23 tháng chạp ) ... nhưng quan trọng nhất là tết Nguyên
Đán . Nó có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của người Việt . Ngày
5


này có sự sum họp của gia đình , gia tiên , gia thần . Con cháu dù đi làm ăn ở
đâu ngày têt cũng cố gắng về ăn tết cùng gia đình . Hương hồn ông bà tổ tiên
các thế hệ cũng về gặp mặt , các thần chăm lo đến gia đình cũng được chăm
lo cúng bái .
Ngoài lễ tết ra thì một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần là
lễ hội . Vùng đồng bằng bắc bộ là vùng có nhiều ngày hội đặc sắc giầu
truyền thống nhất cả nước . Làng nào mỗi năm cũng tổ chức hội làng trước
tiên là tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình , sau đó là
phần hội hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú . Nhiều lễ hội đã
trở lên nổi trên cả nước như hội Lim ( Bắc Ninh ) , Hội Gióng ( Hà Nội )
Hội chùa Hương ( Hà Tây ) …
II . Nông nghiệp , làng nghề đặc trưng văn hoá vùng đồng bằng bắc
bộ
1 . sản xuất nông nghiệp và sự ảnh hưởng của nông nghiệp đến văn
hóa ẩm thực vùng đông băng bắc bộ
Người xưa có câu : “ con trâu là đầu cơ nghiệp ” điều này cho ta thấy
được nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân Việt
nam nói chung và vùng bắc bộ nói riêng . Cũng như các vùng khác nông dân
vùng bắc bộ chủ yếu trồng lúa , nhưng khác với miền nam , sau khi làm đất
thì gieo xạ và trồng mỗi năm ba vụ . Nông dân vùng bắc bộ cấy lúa rất vất
vả trải qua nhiều công đoạn hết sức mệt nhọc . Mỗi năm chỉ trồng từ một

đến hai vụ lua tuỳ . Ngoài trồng lúa ra do có mùa đông lạnh nên còn trồng
thêm hoa mầu vụ đông . Mùa nào thức ấy sản xuất theo mô hình tự cung tự
cấp . Đây là nền kinh tế đặc trưng của vùng làng quê vùng đồng bằng bắc
bộ.
Chính vì gốc nông nghiệp nên văn hóa ẩm thực của dân cư đồng bằng
bắc bộ cũng mang đậm nét nông nghiệp , Các món ăn chủ yếu được chế biến
6


từ thực vật , củ yếu là từ gạo . Từ hạt gạo người nông dân vùng bắc bộ đã
làm gia nhiều món đặc sản rất ngon và được du khách nước ngoài rất ưa
chuộng như là : phở , bún , mì , miến đặc biệt là các loại bánh là bánh phu
thê , bánh cốm ,bánh đa , bánh cuốn …
Ngoài trồng trọt ra thì chăn nuôi cũng là một phần quan trọng của người
nông dân vùng đồng bằng bắc bộ . Được thiên nhiên ưu đãi nông dân vùng
đồng bằng bắc bộ chăn nuôi nhiều loại gia súc , gia cầm và các loại thủy
sane nước ngọt như là : Trâu , Bò , Lợn , Gà , các loại cá nước ngọt …
Những yếu tố của sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng lớn đến văn hóa
ẩm thực của vùng đồng bằng bắc bộ . Các món ăn thường là sự kết hợp của
nhiều sản phẩn từ nông nghiệp , các gia vị rất đậm đà tạo hương vị rất đặc
biệt mang hồn đất Việt . Quảng bá văn hóa ẩm thực là một phần quan trọng
trong việc giới thiệu với bạn bè quốc tế về hình ảnh đất nước con người Việt
Nam .
2. các làng nghề truyền thống tiêu biểu
a . làng gốm BÁT TRÀNG (Hà Nội )
Việt Nam là nước có nghề làm gốm từ rất sớm , theo các tư liệu lịch sử
thì gốm đã xuất hiện ở nước ta cách đây khoảng một vạn năm . Trên toàn
quốc có rất nhiều làng sản xuât gốm truyền thống , mỗi làng có kỹ thuật làm
gốm khác nhau tạo ra nhiều dòng sản phẩm gốm hết sức đa dạng và phong
phú . Và nhắc đến gốm Việt thì không thể không nhắc đến Bát Tràng.

Bát Tràng là một xã gồm hai thôn là Bát Tràng và Giang Cao . Hiện nay Bát
Tràng thuộc huyện Gia Lâm , Hà Nội . Nằm trên tả ngạn sông Hồng , cách
trung tâm thủ đô khoảng 13km về phía đông nam . Bát Tràng rất thuận tiên
cho việc thông thương với các vùng miền khác .
Bát Tràng có một lịch sử hình thành từ rất lâu đời . Theo các tài liệu lịch
sử còn giữ lại thì Bát tràng đượcc hình thành vào khoảng thế kỷ XIV - XV .
7


Còn theo tư liệu thu thập được từ Bát Tràng thì làng nghề được hình thành
từ sớm hơn . Nhưng theo tư liệu dân gian thì Bát Tràng được hình thành từ
thời Lý , vào khoảng đầu thế kỷ thứ XII .
Cuối thời Trần ( XIV ) , đầu thời Lê (TK XV) Bát Tràng từ một làng gốm
bình thường trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng ở nước ta . Sản phẩm
gốm của Bát Tràng được triều đình chọn làm đồ cúng phẩm cho nhà Minh
( Trung Quốc) .
Từ TK XV - XVII do việc thông thương với nước ngoài phát triển , gốm
Bát Tràng được buôn bán với số lượng lớn không chỉ ở các nước Đông Nam
Á mà cả thị trường Châu Âu như là : Bồ Đào Nha , Tây Ban Nha , Pháp , Hà
Lan . Đặc biệt Nhật Bản là nước rất ưa chuộng đồ gốm Bát Tràng . Nhiều
nghệ nhân gốm Nhật Bản đã bắt trước phong cách tạo hinh , nét vẽ phóng
khoáng , mầu men đa dạng , mộc mạc , giản di mà sâu lắng của gốm Bát
Tràng .
Cuối thế kỷ XVII , sang thế kỷ XVIII việc buôn bán gốm ra nước ngoài
có phần bị giảm sút do đồ gốm của Trung Quốc tràn sang các nước Đông
Nam Á . Nhưng gốm Bát Tràng vẫn giữ được sức sống bền bỉ của mình do
thị trường trong nước được mở rộng . TK XVII - XIX tuy xuất khẩu có giảm
sút nhưng Bát Tràng vẫn là một trung tâm gốm lớn ở trong nước .
Sau khi chiến tranh kết thúc Bát Tràng lại bắt tay vào xây dựng lại những
xưởng sản xuất gốm , kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới toàn

diện . Do tình hình kinh tế thay đổi các xí nghiệp gốm lần lượt giải thể , thay
vào đó là sự xuất hiện của các công ty TNHN . Nhưng cũng như biết bao
làng nghề truyền thống của nước ta , trải qua nhiều sự thăng trầm của làng
nghề , đặc biệt là hai cuộc kháng chiến trường kỳ đã làm cho một số kỹ thuật
làm gốm cổ truyền bị mai một . Một số mầu men quy đến nay đã thất
truyền . Điều này đòi hỏi các nghệ nhân nơi đây phải có những nghiên cứu ,
tìm tòi nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống mà cha ông ta
8


để lại .
Điều làm cho gốm Bát Tràng trở lên nổi tiếng và có sức sống bền bỉ
cho đến ngày nay chính là do nghệ thuật làm gốm đặc sắc và có giá trị nghệ
thuật cao của Bất Tràng .

( sản phẩm gốm Bát
Tràng )

(Trang trí hoạ tiết một trong những khâu sản
xuất gốm quan trọng )

( Ngày càng có
đông

đảo

du

khách quốc tế
đến với Bát Trang )

Nghệ thuật trang trí của gốm Bát Tràng rất độc đáo không mô phỏng lại
gốm sứ Trung Hoa hoặc bất cứ nước nào khác . Đặc biêt người Bát Tràng đã
chế ra các loại men rất được bạn bè quốc tế ưa chuộng như là : men xanh ,
xanh lục , xanh lá ma , nâu , nâu sáng , xanh nước biển . Nhiều nghệ nhân
Nhật Bản đã học cách làm gốm theo phong cách của gốm Bát Tràng .
Vấn đề đặt ra cho nhân dân Bát Tràng là làm thế nào để giữ gìn và phát

9


huy những gia tri truyền thống của cha ông sao cho xứng đáng với tầm vóc
là một trung tâm gốm sứ của Việt Nam và và vuơn tới tầm thế giới . Và kết
hợp sản xuất với du lịch làng nghề là một giải pháp rát hữu hiệu trong điều
kiện hiện nay .

b . Làng tranh ĐÔNG HỒ ( Bắc Ninh )
Trong những làng nghề truyền thống nổi tiếng của vùng đồng bằng bắc
bộ nói riêng ,và cả nước nói chung thì không thể không nhắc đến làng tranh
Đông Hồ .Đông Hồ tên một ngôi làng quen thuộc , xinh xắn ,nằm bên bờ
sông Đuống từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam
bằng những bức tranh dân gian đậm đà bản sắc dân tộc .
Ngày xưa ,Làng Mái là tên gọi của làng tranh Đông Hồ (Thuận Thành _
Bắc Ninh ) bây giờ . Vào thế kỷ XVI tranh Đông Hồ xuất hiện nhưng không
ai biết được có bao nhiêu mẫu tranh mà chỉ biết có năm loại tranh là : tranh
thờ , tranh lịch sử , tranh chúc tụng , tranh sinh hoạt và chuyện tranh . Từ
cuối thế kỷ XIX đến năm 1944 là thời kỳ hưng thịnh của làng tranh . Lúc ấy
làng có 17 dòng họ thì cả thảy đều làm tranh . Đến hẹn lại lên cứ vào
khoảng tháng 7 tháng 8 âm lịch hàng năm thì cả làng lại tất bật chuẩn bị cho
mùa tranh tết .Khắp làng rực rỡ sắc giấy điệp , không một mảnh đất trống
nào là không được người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy , từ sân nhà ,

sân đình , đường làng , triền đê , mái nhà , nóc bếp . Cả làng nhộn nhịp suốt
mấy tháng liền .
Mỗi năm chợ tranh chỉ nhộn nhịp tấp nập nhất vào tháng trạp , họp 5
phiên vào các ngày 6 , 11 , 16 , 21 và 26 . Bà con , du khách đổ về mua tranh
tấp nập . Hàng nghìn , hàng triệu bức tranh được mang ra bày bán cho lái
buôn , cho khách mua lẻ , mọi người mua tranh về treo ngày tết cầu mong
10


vinh hoa phú quý về cho nhà mình .Sau phiên chợ cuối ( 26/12 âm lịch) nhà
nào còn tranh đều xếp lại cất đi chờ mùa tranh năm sau lại đem ra bán . Đến
chợ tranh không chỉ có khách buôn tranh và mua tranh mà còn rất nhiều du
khách do yêu thích nghệ thuật tranh dân gian đến để được thăm thú làng
tranh và đi chảy hội xuân . Đây là thời kỳ hưng thịnh nhất của làng tranh .
Trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ đầy ác liệt làng
tranh cũng phải hứng chịu cảnh bom dơi đạn lạc . Nhiều bản in đã bị thất lạc.
Sau khi đất nước hoàn toàn độc lập cả nước bắt tay vào xây dựng lại đất
nước theo con đường XHCN . Nhiều nhà bắt đầu sản xuất tranh , nhưng sau
thời gian đổi mơi toàn diện về kinh tế và do thị hiếu thưởng thức nghệ thuật
thay đổi tranh Đông Hồ không còn được ưa chuông như xưa nữa . Nhiều gia
đình đã thôi không sản xuất tranh nưa . Kể từ đó lang tranh ngày bị mai một
dần , nhiều hộ đã chuyển sang lam nghề hàng mã . Nghề tranh tồn tại yếu
ớt , chỉ còn lại một số gia đình còn bám trụ lại với nghề . Đến nay bằng lòng
yêu nghề , ý thức giữ gìn các giá trị truyền thống cha ông đã để lại một số
nghệ nhân làng tranh đã không ngừng tìm tòi , nghiên cứu phục hưng lại
làng nghề . Có nghệ nhân vẫn còn giữ được bản in đã được truyền đến đời
thứ tám . Với sự giữ gìn và có nhiều sáng tạo mới tranh dân gian Đông Hồ
đã và đang chiếm được sựquan tâm và yêu mến của đông đảo bạn bè , du
khách trong và ngoài nước .
Khác với các dòng tranh khác . Bằng cảm hứng của mình kết hợp với

cây bút vẽ người hoạ sỹ sẽ tạo lên những bức tranh theo ý mình . Tranh
Đông Hồ dùng ván để in , thoạt nghe thì có người đã nghĩ rằng tranh đông
hồ sẽ cứng nhắc và rất sơ sài . Nhưng bằng kỹ thuật điêu khắc tinh sảo , với
lòng yêu nghề , các nghệ nhân làng tranh đã tạo lên những bản khắc man
tính thẩm mỹ cao và mang đậm chất văn hoá Việt .
Sau khi in thành tranh , kể cả khi tranh khô ,người xem vẫn cảm nhận
11


được vẻ tươi tắn của tranh như lúc vẫn còn ướt . . . Do những nguyên liệu
làm tranh thường được lấy từ tự nhiên : Mầu đen được lấy bằng cách đốt lá
tre rồi lấy thàn của nó ,mầu xanh lấy từ vỏ và lá tram , mầu vàng lấy từ hoa
hoè ,mầu đỏ thắm lấy từ thân và lá của cây vang , mầu sơn lấy từ sỏi núi ,
mầu trắng lấy từ điệp …Ngoài ra nghệ thuật khắc tranh cũng hết sức đặc biệt
. Những nghệ sỹ sáng tác tranh dân gian mang nhiều tính bố cục ước lệ trong
cách miêu tả cũng như trong phối mầu . Tất cả đều theo lối vẽ đơn tuyến
bình đồ để thể hiện do đó khi xem tranh người xem cảm nhận được những
nét ngây ngô nhưng rất hài hoà . Khi đã có bản khắc và mầu người thợ còn
phải rất công phu tiến hành các khâu như là : Phết hồ len giấy rồi phơi cho
kho hồ , sau đó tiếp tục phết diệp rồi lại phơi khô . Khi in mầu cũng phải rất
cẩn thận in từng mầu một , nếu bức tranh có 5 mầu thì phải lần lượt in và
phơi 5 lần . Cứ như thế dưới ánh sáng mặt trời từng hình ảnh , đường nét
cảnh sắc thiên nhiên , cảnh sinh hoạt đời thường của nhân dân được miêu tả
một cách sinh động trên giấy điệp .
Hứng Dừa
Đánh Ghen
Thi sĩ Hoàng
Cầm đã từng viết :
"
Tranh Đông Hồ gà

lợn nét tươi trong
Mầu dân tộc sáng
bừng trên giấy điệp "
Ngoài nghệ thuật làm tranh đặc sắc ra , điều mà làm cho tranh Đông Hồ trở
12


lên gần gũi với bao thế hệ người Việt và bạn bè quốc tế chính là nội dung
của những bức tranh . Tranh Đông Hồ phản ánh đậm nét đời sống mộc mạc ,
dản dị , gần gũi gắn liền với đời sống văn hoá tinh thần người Việt như là : "
Hứng Dừa , Đánh Ghen , Gà Trống , Lợn Độc … Qua bức tranh người xem
còn có thể biết về nghệ thuật sử dụng mầu sắc của truyền thống trong đời
sống văn hoá của cha ông ta . Theo nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế giải thích
về việc dùng các mầu sắc cho hài hoà , phù hợp với những đề tài khác nhau :
Mầu đỏ trong bức Đánh Ghen để lột tả cái nóng giận , bực giọng cuẩ không
khí lúc đó ,mầu vàng dùng cho việc mô tả cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân
trong bức tranh ngày tết ,nền mầu hồng nhạt cho tranh tả cảnh bình yên làng
quê .Đôi khi các nghệ nhân còn dùng thêm các những chỉ dẫn hoặc các tứ
thơ tình tứ , lãng mạng để trang trí các bức tranh thêm phần sinh động và ý
nghĩa như bức Hứng Dừa là :
"Trong như ngọc trắng như ngà
Đây chèo đấy hái cho vừa lòng nhau "
Bức Đánh Ghen là : " Thôi thôi một giận làm lành
Chị dừng tức giận cho nhục lòng ta "
Điều này cho ta thấy ngoài sự dản dị , mộc mạc các cụ ta còn hết sức
tinh tế . Đây chính là một đặc trưng văn hoá Việt . Điều này đã và đang thu
hút đực sự quan tâm rất lớn của bạn bè bốn phương . Trong những năm gần
đây có một lưọng tương đói lớn du khách quốc tế đã tìm đến làng tranh để
được thưởng thức tranh và tìm hiểu về văn hoá Việt . Có nhiều người đã
muốn mua lại những bản khắc cổ , điều này đặt gia cho nhân dân , chính

quyền địa phương cũng như lãnh đạo ngành du lịch phải có những chính
sách hợp lý nhằm một mặt thu hút khách du lịch , mặt khác phải giữ gìn ,
bảo tồn và phát huy những giá trị cổ của làng tranh . Làm cho làng tranh
13


ngày càng phát triển rực rỡ hơn nữa . góp phần vào việc thu hút , quảng bá
mạnh mẽ hình ảnh , văn hoa Việt trên thế giới .
c . làng lụa VẠN PHÚC ( Hà Tây )
" Nắng Sài Gòn em đi mà chợt mát , bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông ".
Nghề dệt lụa đã có ở Việt Nam từ lâu đời , nhưng nhắc đến lụa Việt
Nam thì không thể không nhắc đến làng lụa Vạn Phúc ( thị xã Hà Đông ,
tỉnh Hà Tây ) . Nằm liền kề với thủ đô Hà Nội làng Vạn Phúc có nghề làm
lụa từ lâu đời . Tương truyền rằng tổ nghề làng Vạn Phúc là một người con
gái họ Lã , Người có công đem nghề dệt từ Trung Quốc về dậy cho dân
làng . Sau đó bà được phong làm thàn hoàng làng . Mới đầu lụa làng Vạn
Phúc là loại lụa thô sơ , mộc mạc , bình dân . Đến thế kỷ thứ XVI khi xuất
hiện go võng nghề dệt lụa Vạn Phúc được cải tiến , phát triển mạnh mẽ cho
gia đời những sản phẩm độc đáo , chất lượng cao như là : gấm , lụa , the ,
lĩnh …với nhiều hoạ tiết hoa văn tinh tế .
Để tạo ra sản phẩm tơ lụa hoàn hảo người thợ làng Vạn Phúc phải trải
qua một quy trình phức tạp gồm nhiều công đoạn như khâu tơ , khâu hồ sợi ,
khâu dệt . Mỗi khâu đều phải tuân theo quy trinh khá nghiêm ngặt .Nhờ vào
bàn tay khéo léo , điêu luyên , tinh đời người thợ làng Vạn Phúc đã làm nên
những sản phẩm lụa bền , đẹp , mịn màng và đường nét hết sức độc đáo .
Ngày nay , lụa Vạn Phúc qua các thế hệ nghệ nhân , thợ dệt không
ngừng cải tiến và phát huy những kỹ thuật truyền thống bởi thế lụa Vạn
Phúc dù ở loại nào cũng đạt tới mức hoàn mỹ , mền mại , mịn óng với những
mấu sắc óng ánh , hoa văn trang trí đối xứng , đường nét không rườm rà ,
phức tạp mà luôn dứt khoát , phóng khoáng tạo ra vể hấp dẫn riêng của sản

phẩm lụa của làng . Sản phẩm lụa không chỉ là sản vật quý của làng Vạn
Phúc mà còn là mặt hàng truyền thống của người Việt Nam . Chính vì lẽ đó
mà lụa Vạn Phúc đã có mặt rộng rãi trên thị trường toàn quốc và còn vươn ra
14


thị trường các quốc gia châu âu , châu á . Đặc biệt là thị trường Mỹ , Nhật ,
Hàn Quốc và nhiêu quốc gia khác .
Thương hiệu lụa Vạn Phúc đã được bạn bè gần xa mến mộ , đặc biệt
là bạn bè quốc tế đến và mua sắm hàng hoá , góp phần tiêu thụ một lượng
lớn sản phẩm địa phương . Góp phần rất lớn vào việc giải quyết đáng kể
công ăn việc làm và thu nhâp cho các hộ kinh doanh dịch vụ . Hàng năm sản
lượng của làng đạt hơn 2 triệu mét/ năm cho thu nhập trung bình khoảng 1,5
triệu/một người/ tháng .
Với những điều kiện thuận tiện về giao thông đi lại rất phù hợp cho việc
phát triển du lịch gắn liền với du lịch làng nghề . Góp phần đáng kể vào việc
phát triển kinh tế của địa phương .
IV . văn hoá tinh thần
1 . Dân ca và nghệ thuật biểu diễn dân gian
Mỗi con người Việt Nam dù có đi đâu , làm gì có lẽ không bao giờ
quên được những làn điệu dân ca đằm thắm của quê hương , những câu hát
du thắm đượm tình người của mẹ , của bà mỗi khi du ta ngủ . Có lẽ điều đó
đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người con đất Việt . Ở mỗi vùng miền
đều có những làn điệu dân ca mang đậm nét văn hoá của mỗi vùng . Vùng
đồng bằng bắc bộ là một trong những vùng có nền văn hoá lâu đời . Nơi đây
đã sản sinh ra biết bao làn điệu dân ca truyền thống , có giá trị nghệ thuật rât
cao và từ lâu đã trở lên nổi tiếng trên mọi miền tổ quốc .
a . Dân ca Quan Họ
Nói đến dân ca đồng bằng bắc bộ không thể khong nhắc đến dân ca
Quan Họ Bắc Ninh . Ngược dòng lịch sử quê hương Quan Họ có nhiều tên

gọi khác nhau , rộng , hẹp khác nhau qua các triều đại phong kiến . Từ xa
xưa sứ Kinh Bắc đã nổi tiếng với làn điệu dân ca Quan Họ . Từ thời Pháp
thuộc cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện hai tỉnh là Bắc Ninh và Bắc Giang
15


(10/10/1895) . Đến năm 1963 hai tỉnh này sát nhập thành một tỉnh gọi là Hà
Bắc , gần đây Bắc Ninh và Bắc Giang lại được tách ra như cũ . Do hầu hết
các làng quan họ đều nằm ở Bắc Ninh nên mọi người coi Bắc Ninh là cái nôi
hình thành và nuôi dưỡng quan họ . Nhưng về đại quát miền quê ấy là một
vùng rộng lớn ở phía bắc sông Hồng . Nằm trong vùng văn minh châu thổ
sông Hồng , song Thái Bình giáp danh với các tỉnh Lạng Sơn ,Thái Nguyên ,
Vĩnh Phúc , Hưng Yên , Hải Dương , Quảng Ninh ngày nay . Tính từ điểm
cực bắc đến nam dài khoảng 70 km , từ đông sang tây là khoảng 120km gồm
cả vùng đồng bằng và miền núi nhưng các làng Quan Họ tập chung chủ yếu
ở vùng đồng bằng . Sứ Kinh Bắc gồm nhiều dân tộc cùng chung sống nhưng
chỉ có người Việt là chơi Quan Họ .
Nghĩa của từ Quan Họ có nhiều cách giải thích khác nhau . Có thể chia
làm hai luồng là : cách giải thích theo truyền miệng của các làng về những
truyền thuyết của làng họ .Và cách giải thích theo nghiên cứu khảo cổ của
các nhà khoa học nghiên cứu về Quan Họ .
Theo cách giải thích của các vùng Quan Họ thì có nhiều cách giải thích
khác nhau tuỳ vào mỗi làng . Người vùng Bịu ( Hoài thượng ,Bịu sim huyện
Tiên Du cũ ) và Diềm Xá ( Viêm Xá , huyện Yên Phong ) vốn là hai nơi có
kết bạn quan họ bền vững và lâu dài nhất thì gọi là quan họ vì là tiếng hát
của hai họ quan kết bạn với nhau . Truyền thuyết gắn tiếng hát với một nhân
vật có thật trong lịch sử là Trang Bịu tức Nguyến Đăng Đạo , đỗ trạng
nguyên năm 1684 người Hoài Thượng , huyện Tiên Du cho rằng ông là
người có công đặt ra lối hát Quan họ .
Người vùng Châu khê (Bùi Xá , huyện Yên Phong) lại giải thịch là hát

quan họ là tiếng hát của quan viên họ nhà trai với quan viên họ nhà gái .
Tiếng hát giữa quan viên hai họ gọi tắt là Quan Họ .
Người vùng Chè, Quả Cam, Thị Cầu... lại gắn tiếng hát Quan họ với
16


những truyền thuyết . Chuyện rằng: Chúa Trịnh Sâm đi du xuân, thấy một
người con gái đang cắt cỏ trên núi Chè (có nơi kể là núi Long Khám, có nơi
kể là núi Qủa Cảm... ) vừa cắt cỏ vừa hát:
"Tay cầm bán nguyệt xênh xang
Bao nhiêu cây cỏ lai hàng tay ta ".
Tiếng hát hay khiến quan quân phải họ lại (dừng lại) để nghe. Thấy
người đẹp, hát hay, bài hát lại chứa đựng khẩu khí "trị, bình", chúa vời về
cung, trở nên bà chúa. Dân gian cho là tiếng hát kia tạo nên sự may mắn,
hạnh phúc nên đua nhau hát, nên tiếng hát lan rộng, ngày càng bầy đặt ra
nhiều, trở thành lối hát gọi là hát Quan họ.Cũng gần giống truyền thuyết trên
nhưng lại gắn với cuộc du xuân cầu duyên, cầu tự của Lý Thánh Tông qua
vùng Cầu Lự, Siêu Loại (Thuận Thành) và cô gái hát ấy là Ỷ Lan, sau thành
nguyên phi, rồi hoàng hậu, rồi hoàng thái hậu nhà Lý. Người vùng Hồi Quan
(nay thuộc huyện Tiên Sơn) lại kể rằng: Lý Công Uẩn chạy giặc, dân muốn
cản quân quan giặc nên ùa ra đường hát làm quan quân phải họ lại, dừng lại,
để Lý Công Uẩn chạy thoát... Tuy chi tết khác nhau, nhưng các truyền thuyết
trên đều giải thích Quan họ là tiếng hát làm quan quân phải họ lại, dừng lại.
Ý kiến của một số nhà nghiên cứu về tên gọi Quan họ có mặt khác.
Trong cuốn Dân ca Quan họ Bắc Ninh, nhiều tác giả, cho rằng: "...Quan họ
là một danh từ kép. Trong ngôn ngữ, dưới chế độ phong kiến chữ họ với chữ
phường là hai danh từ gần đồng nghĩa với nhau, chỉ một tập thể người nhất
định ". Nhưng:"...Chữ phường thường dùng với ý nghĩa khinh miệt, chỉ
những người cùng làm một nghề...không được coi trọng..." ."Chữ họ thường
dùng với ý nghĩa coi trọng, chỉ những nhóm người thuộc lớp trên của xã hội:

Sĩ, nông, cùng sinh hoạt kết bạn với nhau, ví dụ: họ tư văn, họ võ phả, họ
lợn, họ gạo, họ chọi gà ... Các người trong họ tư văn, họ võ phả gọi là quan
viên họ tư văn, quan viên họ võ phả, gọi tắt là Quan họ tư văn, Quan họ võ
17


phả . Như vậy, các tác giả cuốn sách :"Dân ca Quan họ Bắc Ninh" cho Quan
họ là danh từ kép chỉ nhóm người ca hát với ý nghĩa coi trọng. Và lối
hát,tiếng hát gắn liền với tập thể gọi là Quan họ nên cũng gọi là hát Quan họ
Trong một tham luận đọc tại hội nghị khoa học về sưu tầm, nghiên cứu
Quan họ lần thứ 4, năm 1971, Mấy ý kiến về vấn đề tìm hiểu nguồn gốc dân
ca Quan họ, Lê Thị Nhâm Tuyết, Viện Dân tộc học, đã giành một phần tham
luận để "tìm hiểu nguồn gốc của cái tên Quan họ...". Tác giả không đồng ý
với cách giải thích Quan họ là họ nhà quan, hoặc Quan họ là dừng lại, hoặc
là quan viên họ, tức là hội của lớp người nông dân có quyền ăn nói và coi
cách giải thích ấy là "duy danh", "thông tục".Tác giả cho rằng từ quan không
phải là một từ Hán - Việt vay mượn mà đã có từ thời Hùng Vương trong từ
kép quan lang là một từ Việt cổ trước khi nhập vào từ quan Hán Việt, và có
nghĩa là người đàn ông. Còn từ họ... chỉ một cộng đồng gắn theo máu mủ,
huyết thống, và đã có nhiều thời kỳ cộng đồng này mang ý nghĩa vai trò của
những đơn vị xã hội (những công xã thị tộc), sau này thành những làng.
Do những lý do lịch sử những công xã thị tộc ấy có thể tách ra làm hai
(hoặc nhiều hơn), những người đàn ông trong họ (Quan họ) mới tách ra, dẫn
dân mình (họ mình) về làng gốc chơi và hát theo tục lệ, nên lối chơi và hát
ấy cũng được gọi tên là hát Quan họ như trường hợp hát quan làng hát đám
cưới - Tày, Nùng. Tác giả đã giả định như vậy sau khi so sánh thấy hát quan
làng, gọi tên như vậy để chỉ một loại dân ca đám cưới, chỉ vì một điều giản
dị: "Quan làng là người đại diện cao nhất của họ nhà trai có thẩm quyền bàn
bạc về tất cả mọi việc liên quan tới nghi lễ và tổ chức cưới hỏi với nhà gái.
Quan làng phải thuộc nhiều bài hát đám cưới để đối lại với họ nhà gái..."

Nhà nghiên cứu văn học dân gian nổi tiếng Vũ Ngọc Phan, trong bài
viết : " Mấy ý kiến sơ bộ về dân ca Quan họ", sau khi bác bỏ giả thuyết
Quan họ là quan họ lại, dừng lại, tác giả gợi ý các nhà nghiên cứu lưu tâm
18


tới những truyền thuyết về Quan họ ở châu Cổ Pháp (Ðình Bảng) quê hương
của Lý Công Uẩn với những người trong họ nhà Lý tụ họp hát mừng mỗi khi
các vua Lý về thăm quê hương. Tác giả viết: "Cứ mỗi khi vua về thăm quê
(châu Cổ Pháp) thì những người trong họ Lý, mà người đương thời gọi là
"quan viên họ Lý", đều đến ly cung và hát những câu dân ca mà nhân dân
trong vùng thường hát để mừng nhà vua. Từ đó, nhân dân gọi những câu dân
ca ấy là hát Quan họ".
Như vậy, theo tác giả, Quan họ là tiếng hát của quan viên họ Lý hát để
mừng vua khi vua về thăm quê hương.
Quan họ là một hình thức văn nghệ dân gian mang đậm nét văn hoá
Việt đó là tính cộng đồng . Cũng như các làn điệu dân ca khác của Việt Nam
hát Quan họ là hình thức hát theo nhóm . Chính vì đó mà tục lẹ rủ bạn ra
đời . Để đi hát quan họ thì phải có bọn , bọn Quan họ thường có từ 4 đến 6
người , mỗi nhóm được hình thành theo mọtt kiểu khác nhau . Có thể là do
các anh nhớn , chị nhớn rủ hộ các em nhỏ . hay là thanh niên làng yêu ca hát
mà thành lập một bọn . Nam nữ trong bọn được gọi lần lượt là anh hai , anh
ba , anh tư … chị hai , chị ba , chị tư … Họ sống bình đẳng , đùm bọc giúp
đỡ lẫn nhau khong chỉ khi đi hát mà cả trong đời sống thường ngày .Ngày
lao động tối đến họ thường tập chung tại nhà anh nhớn , chị nhớn cùng nhau
luyện câu , luyện giọng . Các đôi hát thường gắn bó với nhau cả đời vì vậy ở
vùng Quan họ luôn có những đôi nam nữ nổi tiếng đủ lối , đủ câu , giộng
vang như chuông .
Ngoài lời ca tiếng hát ra điều mà làm cho Quan họ gây được sự chú ý
của du khách gần xa chính là trang phục đậm đà bản sắc dân tộc của các liền

anh , liền chị Quan họ .

19


(Trang phục
liền

anh)

( trang phục liền
chị)
Liền anh Quan
họ mặc áo dài năm
thân , cổ đứng ,có
lá sen ,viền tà , gấu to dài tới quá đầu gối . Thường mặc hai áo cánh rồi mặc
áo dài . Chất liệu làm áo cánh thường là vải diềm bâu , vải cát lá , vải
phin ,vải truc bâu . người khá giả hơn thì mmay áo cánh bằng sồi hoặc lụa .
Áo dài ngoài thường mầu đen làm bằng lương , the . Có may áo thành hai
lớp , một lớp là lương hoặc the đen lớp trong là lụa mầu xanh cốm , xanh lá
mạ hoặc vàng chanh gọi là áo kép.
Quần dài thường mầu trắng , may rộng theo kiểu chân què , dài đến mắt
cá chân . Chất liệu may cũng là diềm bâu , phin , trúc bâu hoặc lụa trắng .
Thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần . Chân thường đi guốc mộc nhưng ngày
nay mọi người thường đi giầy đen , đầu đội khăn xếp , tay cầm ô .
Liền chị Quan họ mặc áo mớ ba mớ bẩy . Nhưng trong thực tế các liền
chị thường mặc áo mớ ba ( ba áo lồng vào nhau ) . Chất liệu làm áo dài
thường làm bằng the , lụa thường mầu nâu già , nâu non , cánh dán , đen .
Áo cánh trong có thể bằng phi trắng , lụa mỡ gà . Yếm có thể may bằng vải
mầu đẹp nhất là lụa nhuộm mầu đào .

Thắt lưng là một dải lụa nhỏ được nhuộm mầu sắc sặc sỡ để buộc cạp
váy với eo . Váy của người Quan họ là váy sồi váy lụa , đôi khi là váy kép .
Bên trong là váy làm băng vải mầu , bên ngoài là váy làm bằng the , lụa mầu
20


đen.
Dép của các liền chị là loại dép cong làm bằng da trâu được thuộc theo
phương pháp thủ công . Thường các liền chị không đi tất . Đầu chít khăn mỏ
quạ và đội nón quai thao .
Cho dù có nhiều tên gọi và nhiều cách giải thích khác nhau nhưng lề lối
hát thường mang tính quy củ , khuân phét và có sự thống nhất cao trong toàn
vùng Quan Họ . Hát Quan Họ có những lối hát tiêu biểu sau đây : hát đối
đáp , hát canh , hát hội , hát thờ , hát cầu đảo , hát giải hạn , hát mừng , hát
kết chạ .
Ngoài các đặc điểm kể trên điều làm cho Quan họ trở nên hấp dẫn còn
do những đặc điểm về âm nhạc , lời ca , quy tắc gieo vần , phương thức biểu
diễn mang tính nghệ thuật cao . Và đặc biệt Quan họ để lại những giá trị cao
đẹp về nội dung tư tưởng .
Về mặt nội dung , Quan họ là sự tổng hợp của nghệ thuật văn hoá dân gian
sứ Bắc xưa . Ngày nay nghệ thuật Quan họ không ngừng tiếp thu nghệ thuật
của Tuồng , Chèo , Cải lương ,Ca trù , dân ca khắp các miền Bắc Trung Nam
.
Về mặt tư tưởng , bằng những phong tục, lề lối ước định của mình
người Quan họ đã hình thành những quan niệm đạo đức, những hành vi và
tình cảm đạo đức bắt nguồn từ những lẽ phải có cội rễ sâu xa trong truyền
thống văn hóa dân gian đối với quan hệ bạn bè, quan hệ yêu đương nam nữ,
quan hệ vợ chồng, tình làng, nghĩa xóm, quan hệ lớp người trước với lớp
người sau, lớp già lớp trẻ... dựa trên nghĩa nặng, ân sâu, tôn lẫn kính chung,
trước sau đùm bọc, thủy chung ...

Ðến với sinh hoạt văn hóa quan họ cũng là đến với quyền được sáng
tạo, diễn xướng, thưởng thức những giá trị văn hóa, nghệ thuật của chính
mình, của những tri âm, tri kỷ, của cộng đồng người gắn bó, hòa hợp với
21


mình, trong sự tự do và chân thật. Bằng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, người
quan họ có thể nói với chính mình, với bàu bạn, với con người về những ước
mơ, khát vọng, buồn, thương, yêu, ghét..., về những điều cuộc đời nên có và
phải có... vừa để tự giải phóng tinh thần cho mỗi cá thể vừa để gắn bó có ích
và tốt đẹp đối với cuộc đời .
b . Nghệ thuật Ca Trù
Ca trù còn gọi là hát ả đào, là một môn nghệ thuật có từ lâu đời ở nước ta.
Kể từ thuở manh nha cho tới ngày nay, môn nghệ thuật này đã trải qua nhiều
thế kỷ và đã có nhiều thay đổi. Bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc cộng với một
số trò diễn và múa dân gian, Ca trù lúc khởi thủy cũng như trong một thời
gian khá dài là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp, bao gồm nhạc, thơ, múa và
trò diễn. Do vậy, nhiều tiết mục của nghệ thuật Ca trù đã từng được biểu
diễn bởi một số đông các diễn viên. Trong giáo phường cũng đã từng tổ
chức

những

dàn

nhạc

để

đệm


cho

hát,

múa



đào.

Khoảng từ cuối thế kỷ 18, lối hát cho một số ít thính giả thưởng thức dần
trở nên thịnh hành, đòi hỏi đào, kép phải chau chuốt giọng hát, tiếng đàn và
kỹ thuật gơ phách. Cùng với nghệ thuật được điêu luyện tới mức tối đa thì số
lượng diễn viên và phương tiện diễn tả cũng được giảm xuống tới mức tối
thiểu, do đó quan viên cầm chầu cũng tự bỏ trống lớn để chuyển sang dùng
trống nhỏ.
tại các tư gia, tiếng hát tuy nhỏ nhẹ và tinh tế nhưng đầy nội lực ngày
càng được hâm mộ và được sử dụng với tần suất lớn hơn nhiều so với lối hát
thờ nơi cửa đình hoặc các lối hát khác. Chính từ lối hát phóng khoáng và có
phần phóng túng ấy (mà một số nhà nghiên cứu gọ là Hát chơi) đã làm nảy
sinh ra điệu Hát nói, có khả năng lẩy thành tiếng nhạc cho muôn vàn ý thơ
trong nhiều tuyệt tác cả các danh sĩ đương thời. Một lối chơi mới trong văn
hóa Ca trù đã hình thành.
22


Hầu hết những điệu Ca trù còn truyền lại được để chúng ta nghe thấy
ngày hôm nay đều là những bài xưa kia đã được trình diễn trong lối hát chơi.
Do vậy mà điệu Hát nói đóng vai trò quán xuyến. Điệu Hát nói cũng đã từng

được nhiều sĩ phu yêu nước dùng để thổ lộ nỗi lòng cảm khái trước cảnh
nước mất nhà tan và động viên mọi người đứng lên giành lại độc lập, tự do
cho Tổ quốc.
ca trù là một loại nhạc có nhiều luật lệ nghiêm ngặt. Chưa kể những
tiêu chuẩn về thanh, sắc và đạo đức, về phép tắc và phương tiện? để được
phép hành nghề mà chỉ nói riêng về Âm với Nhạc thôi cũng đã thấy nhiều
quy định khắt khe. Chẳng hạn như:
Hát có 5 giọng
Đàn có 5 cung
Phách có 5 khổ
Điểm trù có 5 phép
Đó mới chỉ là những điều cơ bản, còn đào nương nào muốn giọng hát,
tiếng phách được hay thì phải luyện tập theo 8 tiêu chuẩn sau: Quán, Xuyến,
Dằn, Thét, Khuôn, Rẫy, Diệu, Vợi. Đồng thời phải biết tránh 6 điều sau: Lỏi,
Ngang, Cản, Chặn, Hụt, Sa. Khi hòa giọng hát với tiếng phách, tiếng đàn thì
phải tuyệt đối tuân theo các khổ phách, khổ đàn, không được sai phạm.
Trống chầu tuy giao cho quan viên nhưng cũng phải là người am hiểu
thấu đáo âm luật Ca trù mới có thể cầm roi được. Người đánh trống ít nhất
phải biết 5 phép trông dục, 6 phép trống chầu và nhiều cách biến hóa khác
nữa. Khi đã cùng hòa trong một canh hát thì tiếng trống sẽ trở thành nhạc cụ
thứ ba sau phách và đàn nhằm tôn vinh tiếng hát với lời thơ. Tất cả trở thành
một bản hòa tấu vô cùng phong phú của nhiều âm sắc, nhiều tính năng khác
nhau và luôn có sự thay đổi, biến hóa không ngừng.
Nghệ thuật Ca trù bộc lộ tình đời một cách vừa quyến rũ, vừa thanh tao
23


và độc đáo. Nó dễ mến vì ai cũng có thể nghe và hiểu được nhưng lại không
dễ chút nào khi muốn tạo ra Âm và Nhạc đúng cách Ca trù. Thật vậy, ngày
xưa kia, cho dù đã đắm mình trong truyền thống mà con cháu trong nghề

cũng vẫn phải luyện tập gian khổ dăm bảy năm mới mong tinh thông nghiệp
hát, nghề đàn. Suy ra mới thấy nghệ thuật Ca trù quả là cao quý biết bao. Nó
đáng được bảo tồn và phát huy để phục vụ cho cuộc sống hôm nay của
chúng ta.
c . Nghệ thuật múa dối nước
Cảnh tượng quanh ao làng thật là náo nhiệt. Nông dân, thợ thủ công,
tiểu thương, đàn ông, đàn bà, các cụ già và trẻ em như đã hẹn hò đến đây.
Nơi thường ngày rất yên tỉnh này bỗng rộn rã tiếng trống, tiếng chiêng và âm
điệu những nhạc cụ dân gian khác: đàn nhị, sáo trúc... Ơở bờ ao nổi lên một
công trình bằng gạch lợp ngói có hình dáng như một ngôi đền. Đây là ngôi
Thủy đình. Khán giả đứng vây quanh bờ ao. Tiếng trống nổi lên mỗi lúc một
rộn ràng. Rẽ tấm mành trúc, xuất hiện một con rối bằng gỗ lớn bằng một chú
bé bốn tuổi, đôi mắt đầy vẻ tinh nghịch, nét mặt tươi cười, mặc chiếc áo nẹp
không tay, không khuy cài để hở cái bụng quả dưa rồi cất tiếng hát...
Hát xong, chú tiến lại bánh pháo treo trên một cây sào cắm giữa ao và
châm lửa. Pháo nổ ran mặt nước và ban đồng ca cất tiếng hát báo hiệu sắp
kéo cờ. Những lá cờ nổi lên từ mặt nước và đi tới cột cờ "phần phật" trước
gió. Tiếng trống càng thêm rộn rã. Một con rồng lướt trên mặt nước. Hai con
lân tranh một quả cầu lụa theo nhịp trống do một con rối đánh. Con hạc xòe
hai cánh, mổ lên cổ một con rùa đang rẽ nước mặt hồ, vừa bơi vừa lắc lư
đầu. Sau trò tứ linh của Rồng, Lân, Rùa, Hạc, một ngư ông đi đến. Ông thả
câu và một lúc sau, một chú cá cắn câu giẫy giụa.
Đó là cảnh tượng một buổi biểu diễn múa rối nước, đỉnh cao và tiêu biểu
nhất của nghệ thuật múa rối Việt Nam.
24


Về nguồn gốc xuất sứ của múa rối nước cho đến nay vẫn là một ẩn số .
Trên bia Sùng Thiện Diên Linh (Hà Nam Ninh) dựng năm 1121 ca ngợi
công trạng của vua Lý Nhân Tông, Nguyễn Công Bật có nói đến "trò máy"

như sau: "Giữa dòng nước lung linh, một con rùa vàng lớn nổi lên đội ba
hòn núi, trên mặt nước chảy lờ đờ, lộ mai, há miệng phun nước... Một nhà sư
tí hon đánh chuông và biết quay người lại phía phát ra tiếng sáo hay phủ
phục cúi chào khi tiến đến gần nhà vua". Nhà nghiên cứu về nghệ thuật rôi
nước Việt Nam Tô Sanh sau nhiều năm tìm tòi nghiên cứu các bí truền , các
văn tự cổ khắc trên văn bia ở các Thuỷ Đình ông đã khẳng định rằng múa
rối nước đã đạt tới trình độ nghệ thuật cao từ đời nhà Lý (1010 - 1225) và
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác liên tục cho tới ngày nay.
Múa rối nước người ta chỉ gặp ở Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng múa
rối nước đã biến mất ở Trung Quốc và ngày nay "chỉ còn tồn tại ở Việt
Nam".
Đặc điểm nghệ thuật múa rối nước Việt Nam rất đặc sắc và mang đậm
nét dân tộc . Khuôn mặt và y phục của con rối mang những nét tiêu biểu của
Việt Nam và chủ đề các tiết mục đều lấy từ lịch sử Việt Nam (Hai Bà Trưng,
trận Bạch Đằng, chiến thắng quân Nguyên) hoặc lấy từ đời sống nông thôn
Việt Nam như trò chọi trâu và đánh đu.
Lời giáo đầu và nhạc đệm không hề mang ảnh hưởng của Trung Quốc.
Ngôn ngử sử dụng là ngôn ngữ bình dân, trái ngược hẳn với văn phong Hán
- Việt của hát tuồng hay hát bội thường chỉ giới nho sĩ và chuyên môn mới
hiểu được. Nó cũng không hề chịu ảnh hưởng của sử thi Ra-ma-y-a-na như
các loại hình múa rối Ấn Độ và các nước Đông Nam Á , Thái Lan,
Campuchia, Lào, Miến Điện, Malaysia và Indonesia.
Xưa kia, các gia đình nông dân đều giữ bí truyền về việc điều khiển con
rối trong những tình huống đặc biệt. Ngày nay, họ bắt đầu dạy lại cho các
25


×