Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tiểu luận thực trạng chi tiêu công ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.95 KB, 10 trang )

TÀI CHÍNH CÔNG.NHÓM 5.
ĐỀ TÀI……………………………
LỜI MỞ ĐẦU : Trong nền kinh tế hiện đại, các khoản chi tiêu công không mất đi mà nó lại
tạo ra sự tái phân phối giữa các khu vực trong nền kinh tế, trong đó Nhà nước đóng vai trò
trung tâm trong quá trình này. Thông qua các khoản chi tiêu công, Nhà nước cung cấp cho xã
hội những hàng hoá mà khu vực tư không có khả năng cung ứng, hoặc cung ứng không có
hiệu quả mà nguồn từ các khoản thu nhập xã hội như thuế, phí, lệ phí. Như vậy, Nhà nước
thực hiện tái phân phối thu nhập xã hội công bằng hơn, khắc phục những khuyết tật của cơ
chế thị trường, bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng và bền vững.
BÀI THUYẾT TRÌNH GỒM CÓ …
1.
Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi tiêu công.
2. Cơ cấu chi tiêu công và các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu chi tiêu công. 3.
thực trạng chi tiêu công ở Việt Nam hiện nay.
4. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả chi tiêu công.
1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi tiêu công.
Khái niệm:
Chi tiêu công là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý hành chính,
các đơn vị sự nghiệp được kiểm soát và tài trợ của Chính phủ. Ngoài các khoản chi của các
quỹ ngân sách, về cơ bản chi tiêu công thể hiện các khoản chi của Chính phủ được Quốc hội
thông qua. Chi tiêu công phản ánh giá trị các hàng hoá mà Chính phủ mua vào để đó cung
cấp các loại hàng hoá công cho xã hội nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Đặc điểm của chi tiêu công :
- Chi tiêu công phục vụ lợi ích chung của cộng đồng dân cư ở các vùng hay các quốc gia.
Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền kinh tế xã hội của Nhà nước và cũng
chính trong quá trình thực hiện chức năng đó, Nhà nước cung cấp một lượng hàng hoá khổng
lồ cho nền kinh tế.
- Chi tiêu công luôn gắn liền với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã
hội mà Nhà nước thực hiện.
Các khoản chi tiêu công do chính quyền Nhà nước các cấp đảm nhiệm theo các nội dung đã
được quy định trong phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước và các khoản chi tiêu này nhằm


đảm bảo cho các cấp chính quyền thực hiện chức năng quản lý , phát triển kinh tế - xã hội .
Các cấp của cơ quan quyền lực Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung,
mức độ của các khoản chi tiêu công nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước.
- Chi tiêu công mang tính chất công cộng, tương ứng với những đơn đặt hàng của Chính phủ
về mua hàng hoá, dịch vụ nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước .Đó cũng là
những khoản chi cần thiết và phát sinh tương đối ổn định như chi lương cho đội ngũ cán bộ,
công chức, chi hàng hoá, dịch vụ công đáp ứng nhu cầu tiêu dùng công cộng của dân cư…
- Chi tiêu công mang tính chất không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp và thể hiện ở chỗ
không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn
lại dưới hình thức các khoản chi tiêu công.
Vai trò của chi tiêu công đối với nền kinh tế:
a. vai trò phân bổ nguồn lực
Một trong những vai trò quan trọng của chính phủ là can thiệp vào nền kinh tế thị trường để
khắc phục những khuyết tật của thị trường, như độc quyền, hang hóa công cộng, ngoại ứng
hay thông tin không đối xững, tất nhiên, cũng cần phải thấy sự can thiệp của chính phủ vào


phân bổ nguồn lực không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề. Bởi lẽ chính
phủ cũng có những hạn chế của mình và mọi chính sách can thiệp của chính phủ đề kèm theo
chi phí nhất định. Vì thế, nguyên tắc biên đã chỉ ra một tiêu chuẩn để đánh giá giá trị của
chính sách can thiệp chính phủ, đó là các chính sách đó phải mang lại cho xã hội những lợi
ích lơn hơn những chi phí phát sinh mà xã hội gánh chịu
b. vai trò phân phối lại thu nhập
Đây là một mục tiêu quan trọng đứng sau nhiều chính sách của chính phủ. Chính phủ có thể
thực hiện mục tiêu này bằng cách nhưng cách thức trực tiếp thường dùng nhất là đánh thuế
kuyx tiến và chi trợ cấp bằng tiền cho các đối tượng cần thiết, việc chính phủ cung cấp các
dịch vụ ý tếm giáo dục, nhà ở và các dịch vụ xã hội khác cũng là những trọng tâm của các
chính sách phân phối lại, Ngoài ra, các hoạt động điều tiết như bào vệ người tiêu dung, chống
độc quyền, đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh thực phẩm… cũng mang hàm ý phân phối lại.

tuy nhiên, đứng sau mỗi mức độ phân phối lại đó đều hàm chưa sự đánh đổi giữa hiệu quả và
công bằng, vì nó có lien quan đến nhwungx chi phí nhất định để đảm bảo hoạt động phân
phối lại mang tính hiệu quả cao.
c. vai trò ổn định hóa nền kinh tế
Các chính sách chi tiêu công giữ vai trò thiết yếu trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ
mô như cải thiện cán cân thanh toán, nâng cao tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế,
chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế bảo gồm các chính
sách tìa khóa (thueeys và chi tiêu cỉa chính phủ) và chính sách tiền teek (mức cung tiền, lãi
suất, tín dụng). Bằng việc sự dụng một chcahs cẩn thận 2 công cụ chính sahchs này, chính
ohiar có thế tác động tớ tổng chi tiêu của xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tổng sản lượng, tỷ
lệ người lao động có việc làm, mức giá cũng như tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế
2. Cơ cấu chi tiêu công và các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu công
Cơ cấu chi tiêu công.
Cách phân loại này được thực hiện dựa trên việc xem xét các khoản chi tiêu công có thực sự
đòi hỏi tiêu hao nguôn lực của kt quốc dân hay không, theo đó chi tiêu công được chua thành
chi mua sắm hang hóa dịch vụ, dịch vụ và chi chuyển nhượng
Phân loại theo tính chất
- Chi mua sắm hang hóa dịch vụ:
là những khoản chi tiêu đòi hỏi các nguồn lực kinh tế. việc khu vực công sử dụng những
nguồn lực này sẽ loại bỏ việc sử dụng chúng vào các khu vực khác. Vì thế, với một tổng
nguồn lực có hạnh của kinh tế, vấn đề đặt ra là cần phải cân nhắc chi tiêu vào đâu sẽ có
hiệu quả nhất.
- Chi phí chuyển giao: (chi lương hưu, trợ cấp, phúc lợi xã hội):
những khoản chi tiêu này không thể hiện yêu cầu của khu vự công cộng đối với nguồn lực
thực chủa xã hội, vì chún đơn thuần chỉ là sự chuyển giao từ người này sang người khác
thông qua khâu trung gian là khu vực công. Tuy nhiên nói như vậy không cón ghĩa là chi
chuyển giao không gây tổn thất gì cho xã hội
Phân loại theo chức năng
Các phân loại này thương được sử dụng trong đánh giá phân bổ nguồn lực của Chính phủ
nhàm thực hiện hoạt động và mục tiêu khác nhau của chính phủ. Theo cách phân loại này, chi

tiêu công bao gồm:
- Chi thường xuyên:
Đây là nhóm chi phát sinh thường xuyên cần thiết cho hoạt động của các đơn vị khu vực
công. Chi thường xuyên bao gồm chi lương, chi nghiệp vụ, chi quản lý các hoạt động
- Chi đầu tư phát triển:


Đây là nhóm chỉ gắn liền với các chức năng phát triển kinh tế của nhà nước. chi đầu tư
phát triển gồn có chi xây dựng cơ sở hạ tầng; đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế có sự quản lý và điểu tiết từ nhà nước, chỉ hỗ trợ
cho các quỹ hỗ trợ tài chính của nhà nước. chi dự trự quốc gia
Phân loại theo quy trình lập ngân sách, gồm có:
- Chi tiêu công theo các yếu tố đầu vào:
Nhà nước xác lập mức kinh phí choc ac khoản chi tiêu công dựa trên danh sách liệt kê
các khoản mua sắm những phương tiện cần thiết cho hoạt động của các cơ quan, đơn vị.
thông thường cho các khoản mục cơ bản sau: chỉ mua tài sản cố định, chi mua tài sản lưu
động, chi tiền lương và các khoản phụ cấp, chi bằng tiền khác
- Chi tiêu công theo đầu ra:
Kinh phí phân bổ cho một đơn vị cơ quan, không căn cứ vào các yếu tố đầu vào mà dựa
vào khối lượng công việc đầu ra và kết quả tác động đến mục tiêu hoạt động của đơn vị
Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng chi tiêu công












Tỷ trọng chi tiêu công trong GDP thường có xu hướng tăng dần theo từng năm. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này:
Thứ nhất là do sự mở rộng không ngừng vai trò của nhà nước:
Khi xã hội ngày càng phát triển, ngày càng công nghiệp hóa thì hệ thống các mối
quan hệ xã hội, thương mại và pháp lý trong nền kinh tế càng trở nên nhiều và phức
tạp hơn. Khi đó, chính phủ cần phải có vị thế mạnh hơn để thiết lập và vận hành tổ
chức giải quyết những mối quan hệ đan xen đó, điều này tất yêu dẫn đến sự tăng
nhanh và mở rộng của chi tiêu công, đặc biệt trong lĩnh vực luật pháp và duy trì trật tự
cho giao thông, liên lạc.
Thứ hai là do thu nhập bình quân đầu người tăng:
quá trình tăng trưởng GDP trên đầu người cũng chính là quá trình phát triển của nền
kinh tế từ độ thấp lên cao. hiển nhiên trong quá trình quá đó, đầu ra của các hoàn
hooas coogn cộng cũng không ngừng tăng theo, số liệu thống kê cho thấy, mức chi
tiêu của hang hóa công cộng không chỉ tăng về số tuyệt đố mà còn cả tỷ trọng trong
GDP
Thứ ba do thay đồi công nghệ
Sự thay đổi công nghệ ảnh hưởng lớn đến tỷ trọng chi tiêu cho hang hóa công cộng,
thể hiển qua việc làm thay đổi quy trình sản xuất và các sản phẩm được tạo ra, sự tác
động đó có thể theo chiều hướng làm tăng hoặc giảm tầm quan trọng tương đối của
các loại hàng hóa công cộng, do đó cũng làm chi tiêu công cộng thay đổi theo,
Thứ tư là thay đổi dân số,
Đây cũng là một yếu tố quan trọng quyết định sự thay đổi tỷ trọng chi tiêu công cộng.
Dân số tăng sẽ ảnh hướng đến các khoản chi tiêu cho giáo dục, y tế. tương tự hiện
tượng “Lão hóa dân số” cũng khiến chính phủ phải tăng thêm các khoản chi cho y tế
và phúc lợi xã hội, đó là các chi phí phát sinh khác do việc thiếu hụt lực lượng lao
động gây ra.
Thứ năm là quá trình đô thị hóa:
Quá trình đô thị hóa sẽ làm nảy sinh nhiều nhu cầu mới vốn không có ở các vùng

nông thôn. Đại bộ phận những nhu cầu phát sinh them đó là các hàng hóa và dịch vụ
công cộng như đường xá, cầu cống, khu vui chơi, giải trí, dịch vụ chăm sóc sức khỏe ,
giáo dục… vì thế, chi tiêu công cũng sẽ tăng.


3. Thực trạng chi tiêu công ở Việt Nam hiện nay.
Xét về góc độ chi ngân sách, có một số tiền không nhỏ đã bị lãng phí, thất thoát thông qua
việc đầu tư công, thông qua việc chi tiêu của các cơ quan nhà nước, thông qua việc làm ăn kém
hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Những kết quả kiểm toán, thanh tra với số tiền bị lãng
phí, thất thoát lớn mới được công bố và được đưa lên mặt báo hằng ngày là điều không thể coi
thường. Đầu tư, chi tiêu kém hiệu quả góp phần làm bội chi ngân sách, làm tăng nợ nần của
Chính phủ và tạo sức ép lạm phát.
Nền kinh tế đang phải đối mặt với những khó khăn, Chính phủ buộc phải thực hiện các
biện pháp quyết liệt nhằm cắt giảm chi đầu tư công, giảm chi thường xuyên để kiềm chế lạm
phát. Thế nhưng, nếu đi sâu vào phân tích vấn đề, ngoài những nguyên nhân khách quan, lãng
phí, bội chi ngân sách kéo dài, còn do hệ lụy từ những tồn tại trong thu chi ngân sách.
1. Chi thiếu căn cứ, sai mục tiêu





Tồn tại nổi lên trong công tác lập và giao dự toán chi ngân sách cho các dự án đầu tư phát
triển thời gian qua là chi thiếu căn cứ, bố trí vốn không đúng với quy định của Luật Ngân
sách Nhà nước
việc phân bổ vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia của các bộ ngành, địa phương
còn nhiều tồn tại, trong đó chủ yếu là tình trạng phân bổ sai nội dung, mục tiêu, đối tượng
hưởng thụ...
việc phân bổ dự toán tại một số bộ ngành, địa phương vẫn còn diễn ra tình trạng bình
quân chủ nghĩa, dẫn tới tình trạng phân bổ dàn trải, chia nhỏ kinh phí cho các dự án...

Cũng trong công tác phân bổ ngân sách, phân khai, giao kinh phí và nhiệm vụ còn chậm,
lập và phân bổ dự toán không sát với thực tế dẫn đến điều chỉnh, bổ sung nhiều lần hoặc
không thực hiện được dự án như đã đề ra.


Vụ việc Ban QLDA nhiệt điện 2, nơi bị phản ánh có nhiều khuất tất cần được làm rõ.
Dư luận còn cho rằng, TCty TNHH MTV Cấp thoát nước Thanh Hóa là đơn vị đã trúng
thầu thực hiện gói thầu gần 16 tỷ đồng (trong tổng số 23.000 tỷ đồng đầu tư dự án Nhiệt
điện Nghi Sơn 1) về cấp thoát nước do ông Nguyễn Huy Nhắn, Phó Tổng giám đốc đảm
nhận. Nhưng, hiện tại ông Nhắn lại là người của Ban QLDA nhiệt điện 2 trong việc quản
lý, tư vấn giám sát việc triển khai thực hiện một số hạng mục thuộc Dự án nhà máy Nhiệt
điện Nghi Sơn 1 liệu có khách quan? Bởi lẽ, ông Nhắn là đơn vị trúng thầu, lại vừa là
người tư vấn, giám sát công trình, liệu có đúng và đảm bảo khách quan cho việc đầu tư,
triển khai thực hiện dự án khi ông Nhắn được là người “vừa đá bóng, vừa thổi còi”?
2. .Đầu tư dàn trải, lãng phí
do khâu khảo sát, nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư của dự án còn rất hạn chế, nên nhiều
dự án đã qua bước nghiên cứu khả thi phải dừng lại, gây lãng phí lớn cho nguồn vốn ngân
sách Nhà nước
3. Chi chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn
4. Vay, tạm ứng không đúng quy định

Hiện tượng này theo nhận định là còn khá phổ biến, nhất là những khoản cho tạm ứng dây
dưa nhiều năm, chậm được xử lý trong khi ngân sách của các địa phương còn phải đi vay
và nhận bổ sung từ ngân sách Trung ương, dẫn đến việc sử dụng ngân sách kém hiệu quả.
Các vấn đề này đơn cử vụ sai phạm nghiêm trọng đã đẩy Vinashin tới bờ vực phá sản gây
chấn động dư luận trong nước trong năm vừa qua.


Vinashin đối mặt với nguy cơ phá sản
Theo đánh giá của Chính phủ, cùng với các nền kinh tế thế giới và trong nước, Tập đoàn

Vinashin chịu tác động hết sức nặng nề, đặc biệt về thị trường và nguồn vốn của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngân hàng thắt chặt cho vay, các dự án đầu tư đang triển
khai thiếu vốn không hoàn thành được để đưa vào sản xuất. Ngành vận tải viễn dương bị đình
đốn, các chủ tàu đã hủy hợp đồng và các thỏa thuận đóng tàu trị giá hơn 8 tỷ USD. Riêng trong
năm 2010 số hợp đồng đóng tàu có nguy cơ bị hủy lên tới trên 700 triệu USD.
Mặt khác, Chính phủ cho rằng, do công tác dự báo còn nhiều bất cập nên việc lập kế hoạch phát
triển sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư không chính xác. Các dự án đầu tư quá nhiều, dàn
trải, vượt khả năng cân đối tài chính, hầu hết các dự án đầu tư đều triển khai dở dang...
Đặc biệt, để giải quyết khó khăn nêu trên, Tập đoàn Vinashin đã phải vay nợ mới để trả nợ cũ,
vay ngắn hạn trả dài hạn, thậm chí lấy vốn lưu động để chi đầu tư. Kết quả là từ năm 2009 Tập
đoàn Vinashin kinh doanh thua lỗ. Đến tháng 6 năm 2010, tổng tài sản của Tập đoàn Vinashin
khoảng 104.000 tỷ đồng nhưng tổng số nợ là 86 nghìn tỷ đồng, vốn điều lệ thấp lại sử dụng vốn
dàn trải nên tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu gần 1 lần, rơi vào tình trạng mất cân đối tài chính
nghiêm trọng, đứng trước nguy cơ phá sản, sản xuất đình đốn, công nhân chuyển việc, bỏ việc
gần 17.000 người, mất việc gần 5.000 người.
Yếu kém và sai phạm của lãnh đạo là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu
Về nguyên nhân dẫn tới nguy cơ phá sản tại Vinashin, Chính phủ nhận định yếu tố khách


quan là thị trường đóng tàu và vận tải biển thế giới sụt
giảm đột ngột. Tổng giá trị hợp đồng đóng mới năm
2008 giảm 38% so với năm 2007. Giá đóng mới tàu
giảm một nửa song thị trường đóng tàu vẫn ngừng trệ,
các đơn đặt hàng giảm mạnh từ 57%-80%, có loại tàu
không còn hợp đồng đóng mới. Một số công ty vận tải
biển phải hủy hợp đồng đã ký...
Tuy nhiên, Chính phủ cũng nhận định, yếu kém và sai
phạm của lãnh đạo Vinashin là nguyên nhân trực tiếp,
chủ yếu dẫn tới tình trạng trên. Cụ thể, những yếu kém
đó là năng lực quản trị doanh nghiệp và dự báo yếu

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP
kém, trình độ cán bộ lãnh đạo quản lý chưa đáp ứng Nguyễn
Xuân Phúc trình bày kết
yêu cầu; xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh luận của
Chính phủ về Vinashin.
doanh, kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp quá nhanh,
ảnh Vũ Lân
quá nóng, không phù hợp với nguồn vốn, năng lực
quản lý và quy hoạch phát triển được cấp có thẩm quyền phê duyệt; quản lý đầu tư, quản
lý tài chính lỏng lẻo, kém hiệu quả, nhiều quyết định trái quy định của pháp luật; tổ chức
phát triển hệ thống doanh nghiệp quá dàn trải và quản lý nhân sự cán bộ không chặt chẽ.
Nghiêm trọng hơn, Vinashin đã báo cáo không đúng thực trạng về sử dụng vốn, về đầu tư,
về phát triển thêm doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh và tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh, mỗi lần báo cáo số liệu khác nhau. Năm 2009 và Quý I năm 2010 thua lỗ
nhưng vẫn báo cáo có lãi.
"Khuyết điểm này của lãnh đạo, trước hết của người đứng đầu Tập đoàn làm cho cơ quan
quản lý nhà nước, cơ quan chủ sở hữu cấp trên nắm không đúng thực trạng nên chỉ đạo
không kịp thời, đầy đủ"- Chính phủ khẳng định.
Ngoài ra, Vinashin đã quyết định thực hiện nhiều dự án đầu tư ngoài quy hoạch, không
đúng quy định của pháp luật hiện hành; quyết định sử dụng vốn kém hiệu quả, có biểu
hiện sai trái; sử dụng một số vốn lớn để mua tàu vận tải biển của nước ngoài, trong đó có
những con tàu mua quá cũ; không nghiêm túc thực hiện những ý kiến chỉ đạo của cơ quan
có thẩm quyền.
"Những yếu kém và sai phạm nghiêm trọng, nhất là về đầu tư, về sử dụng vốn của lãnh
đạo Tập đoàn cộng với những yếu tố khách quan tác động nặng nề, đã làm cho Tập đoàn
thua lỗ, không vay được vốn, mất khả năng chi trả, không còn vốn để hoạt động. Từ năm
2008, nhiều dự án đầu tư phải dừng lại, một số đơn vị ngừng hoạt động sản xuất kinh
doanh, một bộ phận không nhỏ người lao động bỏ việc, mất việc" - Chính phủ kết luận.
Cũng tại phiên họp thường kỳ, Chính phủ đã thừa nhận việc quản lý nhà nước và thực
hiện quyền chủ sở hữu của Chính phủ đối với DNNN, tập đoàn kinh tế nói chung và Tập

đoàn Vinashin nói riêng còn nhiều bất cập, kém hiệu quả.
.


4. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả chi tiêu công
Cải cách quản lý chi tiêu công phải đặt trong bối cảnh cải cách hành chính công tổng thể và nâng
cao năng lực quản lý của Chính phủ.
Với quan điểm này, yêu cầu Nhà nước phải làm cho vai trò quản lý của mình phù hợp với năng
lực đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, cụ thể là phải xây dựng các thể chế nhằm tạo ra một khu
vực công năng động, bao gồm tăng cường xây dựng các thể chế về chính sách; chính quyền có
khả năng xây dựng và phối hợp chính sách trong việc lựa chọn mục tiêu chiến lược; phân bổ
nguồn lực gắn kết với kế hoạch và chính sách; thực hiện, kiểm soát và đánh giá kết quả các hoạt
động; công chức phải có động cơ và năng lực quản lý tốt; ngăn chặn nạn tham nhũng ...
Quản lý chi tiêu công cần dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân sách và quản lý tài chính tốt.
Những nguyên tắc đó là:
° Tính tổng thể và tính kỷ luật: Tính tổng thể đòi hỏi một sự tiếp cận đối với những vấn đề chi
tiêu công đang tồn tại, hiểu biết tất cả những mối liên kết và đánh giá những trở lực thuộc về định
chế và sau đó tìm ra những điểm tiếp cận thích hợp để đẩy mạnh quá trình cải cách chi tiêu công
theo từng giai đoạn. Ngân sách phải bao quát tất cả những hoạt động tài chính của Chính phủ.
Trong ngân sách, những quyết định tài chính mà Chính phủ đưa ra cần phải dựa vào cơ sở giới
hạn cứng của ngân sách và có sự cạnh tranh, đánh đổi giữa các nhu cầu và mục tiêu. Tính kỷ luật,
đi đối với nó là tính tiết kiệm, hàm ý rằng ngân sách chỉ nên tập trung những nguồn lực vừa đủ ở
mức cần thiết để thực hiện tốt những chính sách Chính phủ.
° Tính linh hoạt:. Tính linh hoạt có liên quan đến vấn đề đưa những quyết định đến tất cả các nơi
mà thông tin hợp lý có thể có. Thuộc về hoạt động, những người quản lý cần có quyền lực đối với
những quyết định quản lý; thuộc về chương trình, các cá nhân Bộ trưởng cần được trao thêm
quyền lực đối với những quyết định chương trình. Những vấn đề này phải được đi kèm tính minh
bạch và tính trách nhiệm, đồng thời đòi hỏi phải một chiến lược chặt chẽ.
° Tính tiên liệu: Trong quản lý chi tiêu công, tính tiên liệu đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện chính sách và chương trình có hiệu quả và hiệu lực. Ở những quốc gia mà có sự ổn định

kinh tế vĩ mô và chính sách chiến lược thì ở đó khu vực công sẽ thực hiện tốt hơn chức năng
cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Vấn đề này đòi hỏi cần chú ý đến sự cân đối giữa ngắn hạn và dài
hạn. Chính sách tài khóa phải chú ý đến nhu cầu để làm chắc chắn dòng chảy của các quỹ tiền tệ
đến các chương trình, dự án đúng lúc. Điều này đòi hỏi phải cách tiếp cận trung hạn đối với việc
điều chỉnh những mất cân đối ngân sách và đánh giá chương trình.
° Tính trung thực: Tính trung thực yêu cầu ngân sách nên xuất phát từ những dự toán không có sự
thiên vị cả thu lẫn chi. Sự thiên vị này có thể bắt nguồn từ những vấn đề thuộc về chính trị lẫn kỹ
thuật. Những dự toán quá lạc quan sẽ làm mềm đi giới hạn ngân sách và dẫn đến sự thất bại trong
việc thực hiện những chiến lược chính sách ưu tiên .
° Thông tin: Thông tin tốt sẽ làm vững chắc thêm tính trung trực và đưa ra quyết định tốt. Thông
tin chính xác và kịp thời về chi phí, đầu ra và kết quả là rất cần thiết trong quản lý chi tiêu công.
° Tính minh bạch và tính trách nhiệm: Tính minh bạch và tính trách nhiệm yêu cầu các quyết
định, cùng với cơ sở kết quả và chi phí của nó có thể tiếp cận rõ ràng và được thông tin rộng rãi


cho công chúng. Tính minh bạch đòi hỏi những người ra quyết định phải có tất cả những dữ liệu
và thông tin thích hợp. Người ra quyết định phải có trách nhiệm về thực thi quyền lực đã được
trao.
Quản lý chi tiêu công cần đặt trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn.
Với việc thiết lập khuôn khổ chi tiêu trung hạn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu
công:
° Tăng cường năng lực của Chính phủ trong soạn lập ngân sách, đặc biệt là khả năng dự báo khi
phân bổ ngân sách.
° Tăng cường kỷ luật ngân sách và tính minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình trong sử dụng
nguồn lực công.
° Tăng cường chất lượng những thông tin ngân sách, tính rõ ràng của các mục tiêu chính sách.
Hướng sự tập trung của các quan chức chính phủ vào thời kỳ trung hạn chứ không chỉ một năm
ngân sách hiện hành.
° Cho phép Chính phủ tập trung nhiều hơn vào những ưu tiên mang tính chiến lược mà vẫn làm
cho quy trình ngân sách toàn diện hơn.



LỜI KẾT

Sau một thời gian ngắn được thực tập tại công ty TNHH Nhựa Việt Đứccùng với những kiến
thức đã học được ở nhà trường, em thấy rằng với những nỗ lực và quyết tâm của toàn thể ban lãnh
đạo, nhân viên của công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nhiều năm qua.
Công ty TNHH Nhựa Việt Đứcđã phát huy được những ưu thế của mình đồng thời hạn chế
được rất nhiều những bất lợi. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công ty vẫn còn tồn tại
không ít hạn chế làm ảnh hưởng đến tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty, điều đó đòi hỏi công
ty cần cố gắng hơn nữa để có thể gia tăng lợi nhuận cho mình. Vấn đề tăng lợi nhuận là một vấn đề
luôn được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm nên em đã mạnh dạn nghiên cứu và đề ra một số ý
kiến đóng góp là nên có những chiến dịch PR để công ty TNHH Nhựa Việt Đức nói riêng và các
doanh nghiệp nói chung xem xét để gia tăng lợi nhuận cho mình. Những giải pháp và kiến nghị em
đưa ra chỉ là những suy nghĩ chủ quan cộng với những kiến thức em được học trong nhà trường
nhằm góp phần vào quá trình đổi mới của công ty trong giai đoạn hiện nay.
Do trình độ, kinh nghiệm thực tế và thời gian có hạn, nên bài viết này có thể sẽ tồn tại nhiều
thiếu sót và nhược điểm nên em rất mong được sự góp ý kiến của các thầy cô. Em xin chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Thị Liên Hương cùng tập thể ban lãnh đạo công ty TNHH
Nhựa Việt Đứcđã giúp đỡ em trong thời gian qua và tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành báo
cáo này.
Em xin chân thành cảm ơn!



×