Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHẾ ĐỘ THỦY THẠCH ĐỘNG LỰC VÙNG CỬA SÔNG VEN BIỂN CHỊU TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN ĐÊ BIỂN VŨNG TÀU – GÒ CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.3 MB, 25 trang )

ĐỀ TÀI ĐỘC LẬP CẤP NHÀ NƯỚC
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHẾ ĐỘ THỦY THẠCH ĐỘNG
LỰC VÙNG CỬA SÔNG VEN BIỂN CHỊU TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN ĐÊ BIỂN
VŨNG TÀU – GÒ CÔNG

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT, LỰA CHỌN CÁC
PHƯƠNG ÁN TUYẾN ĐÊ BIỂN KHÁC NHAU


Mục lục

MỤC LỤC

2


DANH MỤC HÌNH VẼ

3


Mục lục

DANH MỤC BẢNG BIỂU

4


MỞ ĐẦU
Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) là thành phố đông dân nhất cả nước, dân số thống kê
năm 2012 là khoảng 7.7 triệu người với mật độ dân số khoảng 3,666 người/km 2, là trung tâm


kinh tế, văn hóa và giáo dục của cả nước. Hiện nay, thành phố và thủ đô Hà Nội là hai đô thị
xếp hạng đặc biệt của nước ta.
Nằm ở hạ nguồn của các sông thuộc hệ thống sông Đồng Nai, có địa hình thấp trũng với hơn
60% diện tích có cao trình thấp dưới 2 m, nên Tp. HCM chịu ảnh hưởng sâu sắc của dòng
chảy trên sông và thủy triều biển Đông, với các vấn đề nổi cộm là ngập úng do lũ và triều
gây ra. Trong những thập kỷ gần đây, sự phát triển đô thị nhanh chóng với công tác quản lý
và qui hoạch chưa tốt đã dẫn đến những hệ lụy như đã làm giảm không gian chứa nước triều,
hạn chế khả năng vận chuyển nước của hệ thống kênh rạch, cùng với hiện tượng sụt lún đất
nền với tốc độ cao (khoảng 1.5 - 3 cm/năm) kết hợp sự hiện tượng nước biển dâng do biến
đổi khí hậu đã làm cho mực nước sông kênh tăng lên nhanh chóng với xu thế năm sau cao
hơn năm trước. Hệ quả là tình trạng ngập úng do kết hợp mưa triều của Tp. HCM ngày một
trầm trọng hơn cho dù hệ thống hồ chứa thượng lưu trong lưu vực đã phát huy tốt vai trò
điều tiết lũ.
Trong nỗ lực đi tìm kiếm một giải pháp giải quyết triệt để vấn đề ngập úng do tổ hợp tác
động của lũ thượng nguồn, mưa lớn và triều cường cho Tp. Hồ Chí Minh, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã đề xuất ý tưởng dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công với các thành
phần chính bao gồm: (i) Tuyến đê chính dài 28km nối Gò Công đến cách Vũng Tàu 5km sau
đó nối với Cần Giờ bằng tuyến đê phụ 13km; (ii) Cống Lòng Tàu; (iii) Các đập ngăn cửa
sông Đồng Tranh và các sông kênh dọc phía Bắc (bờ tả) sông Soài Rạp.
Mục tiêu chính của dự án là (i) Chống lũ lụt, ngập úng và xâm nhập mặn cho toàn vùng
Tp.HCM, trước mắt và lâu dài (khi mực nước biển dâng thêm 75-100 cm); (ii) Tăng cường
khả năng thoát lũ, giảm chiều sâu và thời gian ngập lũ, chống xâm nhập mặn cho vùng ĐTM
trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng; (iii) Chống xâm nhập mặn cho khu vực
Gò Công, Long An; (iv) Phòng chống thiên tai và các tác động từ biển cho toàn bộ khu vực
TP. Hồ Chí Minh và vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) với diện tích hơn 1 triệu ha.
Về lâu dài khi, sau khi xử lý tốt môi trường ở khu vực sẽ chuyển thành hồ chứa nước ngọt
cho vùng Đồng Tháp Mười, chuẩn bị cho mọi sự biến động bất lợi về dòng chảy do tác động
của các hồ thủy điện và các nước ở thượng nguồn. Dự án tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách
giao thông giữa các tỉnh miền Tây với các tỉnh ở Nam Trung bộ. Đặc biệt, dự án có tác động
tích cực và đem lại hiệu ích tổng hợp, tạo sự liên kết cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra

vùng động lực mới phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ, mở rộng và hình thành chuỗi đô
thị mới của cả TPHCM và các tỉnh, thành phố lân cận (Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Tiền
Giang và các tỉnh Tây Nam bộ,…), là nơi xây dựng hệ thống cảng biển trong tương lai, khai
thác năng lượng gió và năng lượng triều.


Mở đầu

Tuy nhiên, tác động của tuyến đê này đối với các mặt kinh tế, xã hội và sinh thái môi trường
của khu vực xây dựng công trình và lân cận chắc chắn cũng không nhỏ, cần được đánh giá
một cách thỏa đáng những vấn đề “được và mất” để đưa ra quyết định có hay không nên xây
dựng tuyến đê này. Nhằm cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đánh giá tính khả
thi của dự án, Bộ Khoa học và Công nghệ đã cho triển khai thực hiện nhóm đề tài "Nghiên
cứu xác lập cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng tuyến đê biển đa mục tiêu Vũng
Tàu – Gò Công", gồm 06 đề tài:
(1)

Nghiên cứu giải pháp tổng thể kiểm soát ngập lụt vùng hạ lưu sông Đồng Nai - Sài Gòn
và vùng phụ cận;

(2)

Nghiên cứu biến động của chế độ thủy thạch động lực vùng của sông ven biển chịu tác
động của dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công;

(3)

Nghiên cứu đánh giá tác động của dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công đến giao thông
vận tải thủy;


(4)

Nghiên cứu đánh giá tác động của dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công đến hệ sinh thái
rừng ngập mặn và hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy sản trong khu vực;

(5)

Đánh giá tác động của dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công đến phát triển kinh tế xã hội
vùng nghiên cứu;

(6)

Nghiên cứu kết cấu công trình và giải pháp xây dựng tuyến đê biển Vũng Tàu - Gò
Công.

Đề tài số 2 "Nghiên cứu biến động của chế độ thủy thạch động lực vùng cửa sông ven biển
chịu tác động của Dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công" do Viện Khoa học miền Nam thực
hiện.
Các mục tiêu của đề tài bao gồm:
(i)

Đánh giá được biến đổi về chế độ thủy thạch động lực vùng cửa sông ven biển chịu tác
động của dự án đê biển;

(ii)

Dự báo diễn biến hình thái cửa sông, bờ biển khu vực chịu tác động của dự án;

Báo cáo này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu đề xuất giải pháp tuyến đê và công trình trên đê
hợp lý trên phương diện thủy thạch động lực.



CHƯƠNG 1.

1.1

THÔNG TIN CHUNG VỀ DỰ ÁN ĐÊ BIỂN VŨNG
TÀU - GÒ CÔNG

CƠ SỞ HÌNH THÀNH DỰ ÁN

Nằm ở hạ nguồn của các sông thuộc hệ thống sông Đồng Nai, có địa hình thấp trũng với hơn
60% diện tích có cao trình thấp dưới 2 m, nên Tp. HCM chịu ảnh hưởng sâu sắc của dòng
chảy trên sông và thủy triều biển Đông, với các vấn đề nổi cộm là ngập úng do lũ và triều
gây ra. Trong những thập kỷ gần đây, nhiều hồ chứa lớn đã được xây dựng ở thượng lưu đã
phát huy vai trò điều tiết dòng chảy lũ nên vấn đề ngập úng do lũ được giảm nhẹ, và hầu như
chỉ còn bị chi phối chính bởi triều và mưa. Tuy nhiên, trong khoảng gần hai thập kỷ trở lại
đây, sự phát triển kinh tế vượt bậc đã kéo theo quá trình phát triển đô thị nhanh chóng, hàng
loạt khu đô thị mới đã được xây dựng trên những vùng đất trũng trước kia vốn vùng ngập
triều, cùng với nạn san lấp lấn chiếm kênh rạch không được kiểm soát đã giảm đi hết sức
đáng kể không gian chứa nước triều. Ngoài ra, hệ thống đường giao thông, đê ngăn lũ, ngăn
triều cũng chia cắt, hạn chế khả năng trao đổi nước giữa hệ thống sông kênh và các vùng
trũng. Hệ quả là dòng chảy chỉ còn tập trung phần lớn ở trong sông và một phần kênh còn lại
nên đã làm mực nước đã tăng lên nhanh chóng với xu thế năm sau cao hơn năm trước. Mực
nước lớn nhất ở trạm Phú An sông Sài Gòn các năm 2007 (ngày 28/10), 2009 (5/11), 2012
(18/10) và 2013 (20/10) lần lượt là 1.49 m, 1.56 m, 1.62 m và 1.68 m. Hiện tượng trên đã
làm cho tình trạng ngập úng do kết hợp mưa triều của Tp. HCM ngày một trầm trọng, đã và
đang gây ra những ảnh hưởng rất tiêu cực đến đời sống người dân, hạn chế sự phát triển của
thành phố trong tương lai. Bên cạnh đó, hiện tượng sụt lún đất (do khai thác nước ngầm, do
xây dựng hạ tầng,...) và hiện tượng biến đổi khí hậu cũng góp phần không nhỏ làm trầm

trọng thêm vấn đề ngập úng.
Để đối phó với vấn đề ngập lụt, hiện tại có hai đề án qui hoạch chống ngập cho thành phố đã
được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đầu tiên là qui hoạch chống ngập do mưa cho khu
vực nội thị do JICA trợ giúp xây dựng. Qui hoạch này đã được Thủ tướng phê duyệt theo
quyết định số 752/QĐ-TTg ngày 19/06/2001 (và được biết đến là "Qui hoạch 752"). Căn cứ
vào qui hoạch này, Tp. HCM đã lập danh mục các dự án thoát nước với 68 dự án sử dụng
vốn trong nước. Các dự án sử dụng vốn vay ODA bao gồm: dự án vệ sinh môi trường lưu
vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè, dự án cải thiện môi trường nước lưu vực Tàu Hủ - Bến Nghé Đôi - Tẻ, dự án cải thiện vệ sinh và nâng cấp đô thị lưu vực Tân Hóa - Lò Gốm đã hoặc đang
trong giai đoạn hoàn tất. Tuy nhiên, Qui hoạch 752 được xây dựng với mực nước lũ thiết kế
tại cửa sông Sài Gòn là +1.32 m, có nghĩa là các dự án đã xây dựng ở trên chỉ phát huy đầy
đủ hiệu quả khi mực nước trong sông Sài Gòn nhỏ hơn +1.32 m. Chính vì vậy, mặc dù đã
đầu tư không ít công sức và tiền của trong hơn 10 năm qua, tình hình ngập lụt của thành phố
vẫn rất trầm kha. Không phải các dự án chống ngập của thành phố không phát huy hiệu quả.
Trên thực tế nhiều khu vực ngập nặng đã hết ngập hoặc giảm ngập nhờ các dự án chống ngập


như khu vực đường Cô Bắc-Cô Giang (quận 1), khu vực trước Nhà hát Hòa Bình (quận 10),
khu vực Bùng binh Cây Gõ (quận 6)… Theo Trung tâm Điều hành chương trình chống ngập
Tp. HCM, đã có khoảng 20% điểm ngập ở khu vực nội thành được xóa nhờ các dự án chống
ngập cho lưu vực Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Tàu Hủ-Bến Nghé, Tân Hóa-Lò Gốm cùng một số
dự án chống ngập nhỏ, lẻ khác (tuy chưa hoàn thành song cũng đã bắt đầu phát huy hiệu
quả). Vấn đề là hiện nay lại phát sinh thêm nhiều điểm ngập mới ở các quận, huyện ngoại
thành, cũng như do mực nước trên sông Sài Gòn đã vượt xa mực nước thiết kế +1.32 m nên
đã làm hạn chế hiệu quả các dự án kể trên.
Qui hoạch thứ hai là "Qui hoạch thủy lợi chống ngập úng khu vực Tp. HCM" được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng nhằm đối phó với ngập úng do lũ và triều, đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1547/QĐ – TTg ngày 28/10/2008, nên
được gọi là "Qui hoạch 1547". Theo qui hoạch này, khu vực Tp. HCM được chia làm 3 vùng
kiểm soát nước. Vùng I bao gồm toàn bộ khu vực bờ hữu sông Sài Gòn - Nhà Bè, trong đó
có khu vực nội thành cũ, khu vực phía Nam thành phố và một phần tỉnh Long An (bờ tả sông

Vàm Cỏ và Vàm Cỏ Đông), là khu vực trọng tâm của quy hoạch. Vùng II gồm toàn bộ khu
vực ngã ba sông Đồng Nai - Sài Gòn. Vùng III bao gồm toàn bộ khu vực bờ tả sông Nhà Bè Soài Rạp.
Giải pháp kiểm soát lũ từ thượng lưu của Qui hoạch 1547 là: (i) Bổ sung nhiệm vụ điều tiết
lũ, hoàn thiện quy trình vận hành của các hồ chứa để bảo đảm an toàn và kiểm soát lũ tạo
thuận lợi để chống ngập cho vùng hạ du; (ii) Phối hợp vận hành xả lũ các hồ: Dầu Tiếng, Trị
An, Phước Hòa và các hồ khác ở thượng lưu có xét đến chế độ thủy triều đoạn cửa sông; (iii)
Phân lũ sông Đồng Nai sang sông Thị Vải qua sông Đồng Môn, kết hợp với cải tạo môi
trường; (iv) Phân lũ sông Sài Gòn qua Rạch Tra, kết hợp phân lũ với cải tạo đất, môi trường
(vùng I), giảm áp lực lũ cho trung tâm thành phố; và (v) Ngăn và chuyển hướng tiêu thoát lũ
tràn từ phía Tây vào địa bàn thành phố.
Giải pháp chống ngập úng cho vùng I của Qui hoạch 1547 bao gồm: (i) Hệ thống đê bao ven
theo bờ hữu sông Sài Gòn (từ Bến Súc), sông Soài Rạp và bờ tả sông Vàm Cỏ Đông đến tỉnh
lộ 824 (thị trấn Đức Hòa - tỉnh Long An) dài 172 km; (ii) Hệ thống cống khép kín tuyến đê
bao được đặt tại các cửa sông, rạch đổ ra sông Sài Gòn, Nhà Bè, sông Vàm Cỏ và sông Vàm
Cỏ Đông với 12 cống chính là Rạch Tra, Vàm Thuật, Bến Nghé, Tân Thuận, Phú Xuân,
Mương Chuối, sông Kinh, Kinh Lộ, Kinh Hàng, Thủ Bộ, Bến Lức, Kênh Xáng Lớn, 22 cống
có khẩu độ từ 7.5 ÷ 60 m, và 70 cống có khẩu độ từ 2 ÷ 5 m; (iii) Nạo vét, mở rộng tuyến
kênh trục Rạch Tra - Thầy Cai - An Hạ - kênh Chợ Đệm, kết hợp với tuyến kênh Vàm Thuật
- Tham Lương - Bến Cát - Rạch Nước Lên đã được Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt
đầu tư, sau khi hoàn thành sẽ nâng cao khả năng tiêu thoát nước về phía Nam; và (iv) Các
“hồ điều tiết” bao gồm hệ thống ao, hồ, kênh rạch và một số khu vực đất trũng được cải tạo
để có đủ dung tích dự phòng trữ lượng nước mưa tiêu ra từ trung tâm Thành phố trong thời


gian triều cường, bảo đảm diện tích đất dành cho các hồ điều tiết không được nhỏ hơn 17%
tổng diện tích toàn vùng.
Giải pháp chống ngập cho vùng II bao gồm: (i) Tôn nền cao trên mực nước lũ khoảng +2.5m
đối với khu đô thị; (ii) Xây đê bao khép kín với các cống dưới đê tiêu nước khi lũ xuống thấp
cho các khu nhà vườn, du lịch; (iii) Cải tạo sông, rạch để tăng cường khả năng tiêu thoát
nước cho các vùng cao thuộc quận Thủ Đức, quận 9; (iv) Nạo vét, cải tạo các trục kênh rạch

nhằm cải thiện điều kiện giao thông thủy kết hợp làm giảm áp lực lũ sông Đồng Nai cho các
khu đô thị mới ven sông Sài Gòn.
Vùng III trong Qui hoạch 1547 được xác định là vùng đệm, trong tương lai việc tiêu thoát
nước sẽ được giải quyết với các công trình lớn, tùy thuộc vào tình hình nước biển dâng và
quá trình phát triển đô thị ở phía Nam thành phố. Trước mắt, để chống ngập trong điều kiện
hiện tại phải sử dụng hệ thống đê bao nhỏ và đê biển (đê biển sẽ được xem xét trong một quy
hoạch khác).
Một số hạn chế của qui hoạch 1547 đó là chưa giải quyết vấn đề chống ngập cho toàn khu
vực, chưa có giải pháp kiểm soát ngập cho vùng III. Việc đảm bảo yêu cầu diện tích đất dành
cho các hồ điều tiết không được nhỏ hơn 17% tổng diện tích toàn vùng trong giải pháp kiểm
soát ngập lụt cho vùng I nhằm đảm bảo đủ dung tích chứa lượng nước mưa của trận mưa
thiết kế khi mực nước ngăn triều cao là một yêu cầu không dễ thực hiện trong điều kiện quỹ
đất hạn chế, giá đất cao.
Trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp tổng thể giải quyết triệt để hơn vấn đề ngập úng do tổ
hợp tác động của lũ thượng nguồn, mưa lớn và triều cường, dự án đê biển Vũng Tàu - Gò
Công đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất. Dự án này được đề xuất dựa
trên cơ sở bài toán quy hoạch tổng thể về thuỷ lợi của vùng, khả năng về kỹ thuật, công nghệ
hiện nay của Việt Nam và thế giới, đồng thời dựa trên cơ sở thực tế những công trình đã có ở
các nước như Hà Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, New Orlean, Mexico, Saint-Peterburg...
1.2

CÁC MỤC TIÊU CỦA DỰ ÁN

Các mục tiêu chính của dự án như được trình bày trong "Báo cáo tóm tắt Qui hoạch đê biển
Vũng Tàu Gò Công" (Viện QHTLMN, 2011) bao gồm: (i) Chống lũ lụt, ngập úng và xâm
nhập mặn cho toàn vùng Tp. HCM, trước mắt và lâu dài (khi mực nước biển dâng thêm 75100cm); (ii) Tăng cường khả năng thoát lũ, giảm chiều sâu và thời gian ngập lũ, chống xâm
nhập mặn cho vùng ĐTM trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng; (iii) Chống
xâm nhập mặn cho khu vực Gò Công, Long An; (iv) Phòng chống thiên tai và các tác động
từ biển cho toàn bộ khu vực TP. Hồ Chí Minh và vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) với diện
tích hơn 1 triệu ha.

Về lâu dài khi, sau khi xử lý tốt môi trường ở khu vực sẽ chuyển thành hồ chứa nước ngọt


cho vùng Đồng Tháp Mười, chuẩn bị cho mọi sự biến động bất lợi về dòng chảy do tác động
của các hồ thủy điện và các nước ở thượng nguồn.
Dự án tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách giao thông giữa các tỉnh miền Tây với các tỉnh ở
Nam Trung bộ. Đặc biệt, dự án có tác động tích cực và đem lại hiệu ích tổng hợp, tạo sự liên
kết cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra vùng động lực mới phát triển ngành công nghiệp,
dịch vụ, mở rộng và hình thành chuỗi đô thị mới của cả Tp. HCM và các tỉnh, thành phố lân
cận (Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang và các tỉnh Tây Nam bộ,…). Là nơi xây
dựng hệ thống cảng biển trong tương lai, khai thác năng lượng gió và năng lượng triều.
1.3

CÁC THÀNH PHẦN CÔNG TRÌNH CỦA DỰ ÁN

Hình 1- 1. Các hạng mục công trình chính và vị trí dự kiến của dự án đê biển Vũng Tàu - Gò
Công (Nguồn: Viện QHTLMN, 2011).

Hình 1-1 trình bày các hạng mục công trình chính và vị trí dự kiến của phương án đề xuất
lựa chọn trong tài liệu "Báo cáo tóm tắt Qui hoạch đê biển Vũng Tàu Gò Công" (Viện
QHTLMN, 2011). Tuyến đê xuất phát từ Gò Công đến gần Vũng Tàu (cách Vũng Tàu
khoảng 5km), nối tiếp với tuyến đê nhỏ đi vào rừng Cần Giờ. Tuyến đê chính dài 28km và
một cống kiểm soát triều, thoát kết hợp với âu thuyền cho tàu 30,000 tấn, sau đó kết nối với
Vũng Tàu bằng cầu giao thông có tĩnh không đủ cao để các loại tàu bè đi lại bình thường
vào khu vực vịnh Gành Rái và cảng Cát Lái. Tuyến đê phụ dài khoảng 13km nối từ đầu cầu
phía đê chính đi vào Cần Giờ. Theo phương án này sẽ tạo được hồ chứa có diện tích mặt
nước 43,000 ha (kể cả trong sông là 50,000ha), tổng dung tích 2.5-3 tỷ m 3 (dung tích hữu ích
cho phòng lũ 1.5 tỷ m 3). Ngoài ra, dự kiến xây dựng một cống kiểm soát triều, thoát lũ rộng
200m, cao trình đáy -12m kết hợp với âu thuyền cho tàu 20,000 tấn trên sông Lòng Tàu.



Để đảm bảo hiệu quả công trình và giảm thiểu tác động đến vùng sinh thái Cần Giờ thì sẽ có
tuyến đê bao ven biển Cần Giờ và bờ phía đông sông Soài Rạp - Nhà Bè cho tới cống Lòng
Tàu (đường màu xanh nhạt trên Hình 1-1), tuyến đê này sẽ bao gồm đập ngăn cửa Đồng
Tranh và đập ngăn/cống điều khiển trên các sông kênh nối phía đông sông Soài Rạp như
sông Vàm Sát, kênh Tắc Ông Đĩa, kênh Ba Tòng.


Chương 2. Sơ bộ đề xuất các phương án tuyến đê và công trình trên đê

CHƯƠNG 2. SƠ BỘ ĐỀ XUẤT CÁC PHƯƠNG ÁN TUYẾN
ĐÊ, CÔNG TRÌNH TRÊN ĐÊ ĐỂ NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN
2.1

CÁC PHƯƠNG ÁN TUYẾN ĐÊ ĐỀ XUẤT

Để lựa chọn được phương án tuyến đê hợp lý, các phân tích đánh giá cần được xem xét đầy
đủ trên các khía cạnh khác nhau về kỹ thuật và kinh tế. Trong nghiên cứu này, các tuyến đê
được sơ bộ đề xuất dựa trên các khía cạnh sau:
(i)

Các vị trí kết nối với đất liền: Các điểm kết nối phải đảm bảo khả năng để tuyến đê
có thể kết nối thuận lợi với các trục đường giao thông chính sẵn có ở cả hai phía Gò
Công và Vũng Tàu;

(ii)

Dung tích hồ điều tiết phía trong đê: Dung tích của hồ điều tiết phải đủ để điều tiết
chống ngập cho Tp.HCM và vùng phụ cận trong điều kiện có lũ thượng nguồn.
Dung tích hồ chứa do đề tài 1 thực hiện được sử dụng tham khảo;


(iii) Khối lượng vật liệu cần để xây dựng đê: sơ bộ đánh giá dựa trên độ sâu mực
nước/cao trình đáy biển tuyến đê đi qua.
Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng khác quyết định đến việc lựa chọn tuyến đê là
điều kiện địa chất. Tuy nhiên do hiện tại tài liệu địa chất còn hạn chế nên chưa được xem xét
trong báo cáo này. Sơ bộ thì việc đề xuất các tuyến đê để nghiên cứu lựa chọn sẽ dựa trên
các vị trí kết nối.
2.1.1 Kết nối tuyến đê với đất liền

2.1.1.1 Vị trí kết nối phía Gò Công

Hình 2-2. Các vị trí điểm kết nối tiềm năng ở Gò Công


C. ĐỀ 4: Đề xuất giải pháp tuyến đê (bao gồm cả công trình trên đê) hợp lý trên phương diện thủy thạch động lực
Đề tài: “Nghiên cứu biến động của chế độ thủy thạch động lực vùng cửa sông ven biển chịu tác động của Dự án đê
biển Vũng Tàu - Gò Công”

Hình 2- 3. Chi tiết vị trí kết nối GC1 phía Gò Công

Hình 2- 4. Chi tiết vị trí kết nối GC2 phía Gò Công

Căn cứ trên cơ sở hạ tầng hiện tại ở Gò Công, có hai vị trí kết nối với tuyến tiềm năng như
thể hiện trên hình Hình 2-2 ÷ Hình 2-4. Điểm kết nối 1 nằm trên đường thẳng kéo dài của
tỉnh lộ 862 đoạn sau thị trấn Tân Hòa ra biển. Ưu điểm của vị trí này là đường giao thông
trên đê và tỉnh lộ 862 sẽ được kết nối thẳng và thuận hơn, mật độ dân cư tại vị trí kết nối
thấp, nhưng nhược điểm là phải xây dựng đoạn đường mới khoảng 3.7 km. Điểm kết nối 2 là
điểm cuối phía biển của đường tỉnh lộ 862 hiện tại.



Chương 2. Sơ bộ đề xuất các phương án tuyến đê và công trình trên đê

2.1.1.2 Vị trí kết nối phía Tp. Vũng Tàu

Hình 2-5. Các vị trí điểm kết nối tiềm năng ở Tp. Vũng Tàu

Căn cứ hiện trạng cơ sở hạ tầng phía Tp. Vũng Tàu, để tuyến đê biển phát huy được mục tiêu
kết hợp làm đường giao thông liên vùng kết nối Đông Nam Bộ và ĐBSCL thì tuyến đê phải
được kết nối với các đường quốc lộ 51B (Bình Giã) hoặc quốc lộ 51C (đường 3 Tháng 2). Từ
đó, có 04 vị trí kết nối được dự kiến đề xuất như trình bày trên các Hình 2-5 - Hình 2-8.
Trong đó các phương án kết nối VT1 và VT2 không phải làm đường hầm như các phương án
VT3 và VT4 nhưng lại đi qua khu dân cư hiện hữu. Phương án VT4 có chiều dài đường hầm
ngắn hơn phương án VT3 và phần qua khu dân cư hiện hữu cũng ít hơn.


C. ĐỀ 4: Đề xuất giải pháp tuyến đê (bao gồm cả công trình trên đê) hợp lý trên phương diện thủy thạch động lực
Đề tài: “Nghiên cứu biến động của chế độ thủy thạch động lực vùng cửa sông ven biển chịu tác động của Dự án đê
biển Vũng Tàu - Gò Công”

Hình 2-6. Chi tiết vị trí kết nối VT1 và VT2 phía Tp. Vũng Tàu

Hình 2- 7. Chi tiết vị trí kết nối VT3 phía Tp. Vũng Tàu


Chương 2. Sơ bộ đề xuất các phương án tuyến đê và công trình trên đê

Hình 2-8. Chi tiết vị trí kết nối VT4 phía Tp. Vũng Tàu

2.1.1.3 Điểm kết nối tuyến đê phụ phía Cần Giờ


Hình 2- 9. Vị trí điểm kết nối tại Cần Thạnh


C. ĐỀ 4: Đề xuất giải pháp tuyến đê (bao gồm cả công trình trên đê) hợp lý trên phương diện thủy thạch động lực
Đề tài: “Nghiên cứu biến động của chế độ thủy thạch động lực vùng cửa sông ven biển chịu tác động của Dự án đê
biển Vũng Tàu - Gò Công”

Điểm kết nối Cần Thạnh nằm trong khu vực rừng ngập mặn Cần Giờ. Tuyến đê kết nối với
Cần Thạnh không bị hạn chế nhiều bởi đường giao thông trên đê, do đó vị trí điểm kết nối
không chịu nhiều ảnh hưởng của hệ thống cơ sở hạ tầng tại Cần Thạnh. Vì vậy tại Cần Thạnh
chỉ xem xét 1 vị trí điểm kết nối, phụ thuộc vào việc xác định diện tích lưu vực và dung tích
hồ điều tiết. Vị trí điểm kết nối được thể hiện như trong Hình 2-9.
2.1.2 Các phương án tuyến đê đề xuất để nghiên cứu lựa chọn

Dựa trên các vị trí kết nối tiềm năng xác định ở trên, các tuyến đê khác nhau đã được phác
họa. Trong số các tuyến đê đó, 03 tuyến đê như trình bày trên Hình 2-10 đã được lựa chọn để
phân tích nghiên cứu nhằm xác định được tuyến đê hợp lý trên phương diện thủy thạch động
lực.

Hình 2-10. Các phương án tuyến đê đề xuất nghiên cứu.

2.2

CÁC PHƯƠNG ÁN CÔNG TRÌNH TRÊN ĐÊ ĐỀ XUẤT

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu ban đầu của đề tài số 01 "Nghiên cứu giải pháp tổng thể kiểm
soát ngập lụt vùng hạ lưu sông Đồng Nai - Sài Gòn và vùng phụ cận" và các đề tài khác, Ban
chỉ đạo liên ngành và các chủ nhiệm của 06 đề tài trong nhóm đề tài "Xác lập cơ sở khoa học
và thực tiễn cho việc xây dựng tuyến đê biển Vũng Tàu - Gò Công" đã thống nhất một số
kịch bản công trình chung cho việc nghiên cứu đánh giá tác động của dự án lên các mặt kinh

tế, xã hội, và môi trường. Theo đó, trên tuyến đê chính sẽ bố trí 03 cụm cửa thoát nước (với
các kịch bản chiều rộng cống khác nhau) và một âu thuyền (Hình 2-11). Các kịch bản sử
dụng trong nghiên cứu này được trình bày trong Bảng 2-1, trong đó 4 kịch bản sau cùng là
các kịch bản được thống nhất bởi Ban chỉ đạo và các chủ nhiệm công trình.


Chương 2. Sơ bộ đề xuất các phương án tuyến đê và công trình trên đê

Hình 2- 11. Phương án bố trí các hạng mục công trình chính dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công.
Bảng 2- 1.Các kịch bản công trình đề xuất trong nghiên cứu này

TT

TÊN KỊCH
BẢN

1

Baseline

2

CCT-1

3

CCT-2

4


CCT-3

5

CCT-4

6

CCT-5

MÔ TẢ
KỊCH BẢN

Chưa có
công trình
Có công
trình
Có công
trình
Có công
trình
Có công
trình
Có công
trình

CỐNG TRÊN ĐÊ BIỂN

CỐNG LÒNG TÀU


ΣBề rộng
cống (m)

∇ đáy
cống (m)

Bề rộng
cống (m)

∇ đáy
cống (m)

1000

-10

200

-12

2000

-10

200

-12

2500


-10

200

-12

3000

-10

200

-12

3500

-10

200

-12

Ghi chú

C1=400m, C2 = 400m,
C3=200m
C1=800m, C2 = 800m,
C3=400m
C1=1000m, C2 = 1000m,
C3=500m

C1=100m, C2 = 100m,
C3=1000m
C1=1500m, C2 = 1000m,
C3=1000m


CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN TUYẾN
ĐÊ VÀ CÔNG TRÌNH TRÊN ĐÊ HỢP LÝ TRÊN PHƯƠNG
DIỆN THỦY THẠCH ĐỘNG LỰC
3.1

LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN BỀ RỘNG CỐNG TRÊN ĐÊ

Việc lựa chọn bề rộng cống trên đê cần được cân nhắc trên một số khía cạnh sau đây:
(i)

Hiệu quả chống ngập, kiểm soát mực nước cho khu vực phía trong đê, cụ thể là Tp.
HCM và vùng phụ cận trong điều kiện mực nước hiện tại cũng như trong điều kiện
mực nước biển dâng.

(ii) Mức độ tác động lên môi trường sinh thái, giao thông thủy: đảm bảo khả năng trao
đổi nước giữa phía trong và phía ngoài tuyến đê; đảm bảo mực nước phục vụ giao
thông thủy; đảm bảo biên độ dao động mực nước để giảm thiểu tác động đến hệ sinh
thái; hạn chế mức độ bồi lắng trong hệ thống sông bên trong tuyến đê.
(iii) Chi phí xây dựng, vận hành, và duy tu bảo dưỡng công trình: bề rộng càng lớn thì
chi phí càng cao.
Đối với hai khía cạnh đầu tiên thì chiều rộng cống càng lớn thì càng đảm bảo. Tuy nhiên, đối
với khía cạnh thứ ba thì ngược lại, bề rộng cống càng lớn thì chi phí xây dựng, vận hành, duy
tu bảo dưỡng càng cao.
Xét về hiệu quả chống ngập hay kiểm soát mực nước trong điều kiện bất lợi nhất đã được

thực hiện bởi đề tài số 01 "Nghiên cứu giải pháp tổng thể kiểm soát ngập lụt vùng hạ lưu
sông Đồng Nai - Sài Gòn và vùng phụ cận" do Đại học Thủy lợi Hà Nội thực hiện. Theo đó,
trong điều kiện nước biển hiện tại, chiều rộng cống yêu cầu để đảm bảo tiêu thoát lũ là B ≥
1000m. Tuy nhiên, trong các kịch bản nước biển dâng đến 75cm và 100cm, bề rộng cống yêu
cầu lần là B ≥ 3000m và B ≥ 4000m.
Trên khía cạnh tác động đến môi trường sinh thái, kết quả tính toán với các bề rộng cống B =
1000m, 2000m, 2500m, 3000m, và 3500m trong điều kiện chế độ thủy văn thượng nguồn
trung bình và chưa xét tới nước biển dâng như trên đây cho thấy thời gian phải vận hành
đóng mở cống là không nhiều, phần lớn thời gian trong năm là cống mở tự do, đặc biệt với
bề rộng cống B = 1000m thì không cần phải vận hành đóng mở. Bề rộng cống càng lớn thì
tác động đến chế độ mực nước càng giảm: biên độ triều tăng lên do đỉnh triều tăng lên, chân
triều giảm rút sâu hơn. Chẳng hạn như tại Nhà Bè, khi bề rộng cống tăng từ 1000m lên
2000m, đỉnh triều lớn lớn nhất tăng 30 cm trong khi chân triều thấp nhất hạ 89cm (Hình 312a). Khi bề rộng cống tăng từ 2000m lên 3000m, đỉnh triều lớn nhất chỉ tăng 6cm, chân
triều thấp nhất hạ 19cm. Khi bề rộng cống tăng từ 3000m lên 3500m, đỉnh triều chỉ tăng 3cm
và chân triều chỉ hạ 6cm.
Lượng dòng chảy qua sông Nhà Bè được xem như là chỉ số đánh giá mức độ trao đổi nước
và các thông tố môi trường kèm theo giữa hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai (phía hạ lưu


Chương 3. Phân tích lựa chọn phương án hợp lý

của các khu đô thị và vùng kinh tế trọng điểm trong khu vực là Tp. HCM, Biên Hòa, Long
An) và biển. Kết quả tính toán cho thấy, khi bề rộng cống tăng từ bề rộng cống tăng từ
1000m lên 2000m, tổng lượng nước pha triều rút tăng 17%, pha triều lên tăng 24% (Hình 312b). Khi bề rộng cống tăng từ 2000m lên 3000m, tổng lượng nước pha triều lên và rút chỉ
lần lượt tăng 5% và 7%. Khi bề rộng cống tăng từ 3000m lên 3500m, tổng lượng nước trao
đổi qua sông Nhà Bè chỉ tăng khoảng 1% khi triều lên và 2% khi triều rút.

(a)

(b)


(c)
(d)
Hình 3-12. Thay đổi mực nước đỉnh triều và chân triều (a), tổng lượng dòng chảy pha triều rút
và triều lên (b), vận tốc trung bình mặt cắt lớn nhất (c) tại mặt cắt NB1 sông Nhà Bè theo bề
rộng cống khác nhau so với kịch bản hiện trạng, và vận tốc lớn nhất tại cống trên đê (d).
Tác động của dự án đê biển lên vận tốc dòng chảy trên các hệ thống sông cũng theo xu thế bề
rộng cống càng lớn thì tác động càng giảm. Chẳng hạn như trên sông Nhà Bè, khi bề rộng
cống tăng từ 1000m lên 2000m, vận tốc lớn nhất tăng 30% khi triều rút và 40% khi triều lên
(Hình 3-12). Khi bề rộng cống tăng từ 2000m lên 3000m, vận tốc lớn nhất tăng chỉ 7% khi
triều rút và 8% khi triều lên. Khi bề rộng cống tăng từ 3000m lên 3500m, bề rộng cống chỉ
tăng 1% khi triều rút và 2% khi triều lên.
Đối với vận tốc dòng chảy tại các cửa cống, khi bề rộng cống càng lớn thì vận tốc dòng chảy
qua cống càng giảm. Khi bề rộng cống tăng từ 1000m lên 2000m, vận tốc lớn nhất qua cống


giảm 1.2 m/s (Hình 3-12d). Khi bề rộng cống tăng từ 2000m lên 3000m, vận tốc lớn nhất
tăng , vận tốc lớn nhất qua cống giảm 0.6m/s. Vận tốc dòng chảy càng giảm thì càng thuận
lợi cho tàu thuyền qua lại âu thuyền, nhất là khi âu thuyền được vận hành mở tự do.

(a) Soài Rạp

(b) Lòng Tàu

Hình 3- 13. Tổng lượng bồi xói trên sông Soài Rạp (a) và Lòng Tàu (b) trong các kịch bản tính
toán.

Trên khía cạnh vận chuyển bùn cát và diễn biến hình thái, Hình 3-13 so sánh tổng lượng bùn
cát bồi/xói trên sông Soài Rạp và Lòng Tàu trong một năm khí hậu mô phỏng. Trên sông
Soài Rạp, có thể thấy rõ xu thế là khi bề rộng cống càng giảm, mức độ xói lở càng giảm. Xu

thế bồi cũng tương tự như vậy đối với các phương án B = 1000m, 2000m, 2500m, và 3000m.
Tuy nhiên, trong phương án B = 3500m thì mức độ bồi tăng lên. Các xu thế trên có thể được
giải thích là tổng lượng bồi lắng và xói lở bị chi phối bởi các yếu tố (i) Chế độ dòng chảy: bề
rộng cống tăng, vận tốc dòng chảy tăng nên xói lở tăng lên, bồi lắng cũng giảm đi; (ii)
Nguồn bùn cát từ phía ngoài đưa vào: Lượng bùn cát bồi lắng ở trên sông Soài Rạp được
đóng góp một phần đáng kể bởi nguồn bùn cát từ ngoài cửa đưa vào, bao gồm cả lượng bùn
cát xói ở cửa cống. Trong mô phỏng, việc xói sâu tại các cửa cống được khống chế ở độ sâu
giới hạn (< 2m nhằm giảm bớt tác động xói sâu của khu vực cửa đến sa bồi khu vực lân cận)
nên khi bề rộng cống càng tăng khối lượng bùn cát xói càng tăng. Tổng hợp lại, khối lượng
bùn cát từ phía ngoài đưa vào sông Soài Rạp tỉ lệ với bề rộng cống. Khi bề rộng cống tăng
đến một mức độ nhất định (B = 3500m trong kết quả mô phỏng này) thì yếu tố tác động thứ
hai trội hơn yếu tố tác động thứ nhất nên bồi lắng sẽ tăng lên. Trên sông Lòng Tàu, tổng
lượng bùn cát bồi/xói đều có xu thế tăng khi bề rộng cống tăng.
Từ các phân tích trên đây cho thấy, trên phương diện hiệu quả chống ngập có xét đến yếu tố
nước biển dâng, môi trường sinh thái (về các khía cạnh kiểm soát chế độ mực nước, khả
năng trao đổi nước, vận chuyển bùn cát và diễn biến hình thái), sơ bộ có thể lựa chọn bề rộng
cống khoảng B = 3000m. Ngay cả đối với kịch bản nước biển dâng 100cm, dù cho chiều
rộng cống yêu cầu như tính toán của đề tài 1 là B ≥ 4000m, thì chiều rộng cống B = 3000m
vẫn có thể chấp nhận được nếu xét tới việc kết hợp âu thuyền để tiêu nước trong tình huống
bất lợi (lũ lớn ở thượng nguồn, triều cao).


Chương 3. Phân tích lựa chọn phương án hợp lý

3.2

LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN TUYẾN ĐÊ

Như đã trình bày trong chương 2, 03 tuyến đê như trình bày trên Hình 2-10 đã được sơ bộ
lựa chọn để sử dụng cho mục đích nghiên cứu phân tích lựa chọn phương án tuyến hợp lý

trên khía cạnh thủy thạch động lực. Việc mô phỏng mô hình thủy động lực và vận chuyển
bùn cát đã được thực hiện đầy đủ với tổ hợp 03 kịch bản tuyến đê và 05 phương án bề rộng
cống B = 1000m, 2000m, 2500m, 3000m, 3500m (tổng cộng 15 kịch bản mô phỏng). Tuy
nhiên, trong báo cáo này chỉ phương án cống B = 3000m được lựa chọn trình bày trong phân
tích lựa chọn tuyến đê. Các kết quả trong các mô phỏng còn lại được trình bày trong các báo
cáo chuyên đề.

Hình 3- 14. Đường quá trình mực nước tại vị trí P1 trong kịch bản B = 3000m với 03 phương án
tuyến đê.

Kết quả tính toán trên các Hình 3-14 cho thấy, trong điều kiện chế độ thủy văn thượng nguồn
trung bình và chưa xét tới nước biển dâng, sự khác biệt về tác động của đê biển lên chế độ
thủy động lực của hệ thống sông kênh phía bên trong tuyến đê (chế độ mực nước, lưu tốc
dòng chảy và tổng lượng nước trao đổi với phía ngoài đê, ...) trong 03 phương án tuyến đê là
không đáng kể. Điểm khác biệt duy nhất là tại các thời đoạn phải vận hành công trình, khi đó
vai trò điều tiết của hồ được thể hiện rõ hơn khi mực nước trong phương án tuyến 3 là thấp
nhất và tuyến 1 là cao nhất sau khi vận hành đóng cống pha triều lên, chân triều trong
phương án tuyến đê 3 là cao nhất. Điều này được giải thích là trong pha triều lên, sau khi
đóng cống thì nước từ hồ vẫn tiếp tục chảy vào hệ thống sông bên trong nên mực nước hồ hạ
dần, do dung tích hồ ứng với tuyến 3 là nhỏ nhất (Bảng 3-2) nên mực nước hồ cũng sẽ hạ
xuống thấp nhất. Trong pha triều rút, cũng vì dung tích nhỏ nhất nên khả năng chứa khối
nước từ các sông rút ra là thấp nhất nên mực nước trong hồ là cao nhất.
Hình 3-15 so sánh tổng lượng dòng chảy tính toán tại mặt cắt NB1 tương ứng với các
phương án tuyến đê. Có thể thấy thay đổi về khả năng trao đổi nước giữa hệ thống sông phía
trong và biển ngoài tuyến đê là không đáng kể giữa các phương án tuyến đê trong điều kiện
chế độ thủy văn thượng nguồn trung bình và chưa xét tới nước biển dâng.
Hình 3-16 so sánh phân bố bồi xói mô phỏng trong khu vực lân cận dự án giữa kịch bản có
công trình với 03 phương án tuyến với nhau và với kịch bản hiện trạng sau một năm khí hậu.



Đối với khu vực bên ngoài tuyến đê, phạm vi các bãi bồi xen giữa các cửa cống cũng như
phía Tây cống số 1 có xu thế tăng dần từ tuyến 1 đến tuyến 3, phạm vi xói bãi Tân Thành
(nằm giữa cống số 1 và cửa Tiểu) giảm dần từ tuyến 1 đến tuyến 3. Phía trong lòng hồ, phạm
vi hố xói sau cống số 2 trong phương án tuyến đê 3 mở rộng gần sát bờ biển Cần Giờ nhất,
có khả năng ảnh hưởng đến ổn định bờ biển khu vực này. Trên sông Soài Rạp và Lòng Tàu,
tổng lượng bồi lắng cũng tăng dần từ tuyến 1 đến tuyến 3 (Hình 3-17). Điều này được hiểu là
khả năng vận chuyển bùn cát từ phía ngoài vào tăng dần từ tuyến đê 3 đến tuyến đê 1 do: (i)
dung tích lòng hồ và diện tích lòng hồ giảm nên khả năng lắng đọng bùn cát trong lòng hồ
giảm từ tuyến đê 3 đến tuyến đê 1; (ii) khoảng cách từ các cửa cống đến cửa Soài Rạp tăng
từ tuyến đê 3 đến tuyến đê 1. Ngoài ra, phạm vi bờ biển Gò Công được bảo vệ bởi tuyến đê
biển cũng dài hơn với tuyến đê 1 và 2 so với tuyến đê 3.
Từ các phân tích trên đây cho thấy xét về phương diện thủy động lực và hình thái, phương án
tuyến đê 2 là hợp lý hơn tuyến đê 1 và 3. Thêm vào đó, về mặt dung tích hồ sử dụng để điều
tiết trong trường hợp bất lợi (có lũ lớn ở thượng nguồn và triều cao phía biển) của phương án
tuyến đê 2 cũng đã được kiểm định bởi đề tài số 01 là đủ đảm bảo để chống ngập cho khu
vực hưởng lợi phía trong. Vì vậy, tuyến đê 2 là tuyến đê được kiến nghị lựa chọn xét trên
phương diện thủy động lực và hình thái.
Bảng 3- 2. Thông số hồ phía trong đê theo các phương án tuyến đề xuất1

Hình 3-15. Tổng lượng dòng chảy tại mặt cắt NB1 trong các phương án tuyến đê khác nhau (bề
rộng cống đê chính B = 3000m).

1 Dung tích hồ tính từ cao trình +1.2m đến đáy hồ, dung tích hiệu dụng tính từ cao trình +1.2 đến mực nước thấp
95% tại Vũng Tàu là -3.2m.


Chương 3. Phân tích lựa chọn phương án hợp lý

Hình 3- 16. So sánh phân bố bồi xói tại thời điểm sau một năm mô phỏng trong các kịch bản mô
phỏng (a) Baseline, (b) đê tuyến 1, (c) đê tuyến 2, và (d) đê tuyến 3.


(a) Soài Rạp
(b) Lòng Tàu
Hình 3- 17. Tổng lượng bùn cát bồi xói trên sông Soài Rạp (a) và Lòng Tàu (b) ứng với các


phương án đê (bề rộng cống trên đê B=3000m).

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Dựa trên kết quả tính toán mô hình cũng như kết quả học hỏi kinh nghiệm từ các công trình
đê biển trên thế giới, đặc biệt là công trình đê biển bảo vệ thành phố Saint Peterburg của
Nga, một số kiến nghị về lựa chọn bố trí tuyến đê biển và công trình trên đê được đưa ra như
sau:
(i)

Bề rộng cửa thoát nước của cống trên đê phải đảm bảo đủ lớn để ít ảnh hưởng đến chế
độ thủy động lực, môi trường và hệ sinh thái của hệ thống phía bên trong. Xét về mặt
thủy thạch động lực, bề rộng cống nên là B ≥ 3000m (tương đương bề rộng lớn nhất
của cửa Soài Rạp hiện trạng).

(ii)

Để tăng cường trao đổi nước giữa phía trong và ngoài tuyến đê, đảm bảo phân bố dòng
chảy tương đối đều nhằm hạn chế tối đa các vùng nước lặng trong khu vực hồ, cần bố
trí phân bố cống trên đê tại nhiều vị trí.

(iii) Vị trí tuyến đê phải cách bờ biển phía Cần Giờ đủ xa để hạn chế ảnh hưởng của dòng
chảy vào ra cửa có thể gây xói. Trên phương diện thủy thạch động lực, tuyến đê 2 trong
nghiên cứu này (cũng là tuyến đê đề xuất bởi Tổng cục Thủy lợi) là hợp lý.
Tất nhiên, việc lựa chọn qui mô công trình và tuyến đê cần được thực hiện dựa trên phân tích

đầy đủ cả về phương diện kỹ thuật, kinh tế (chi phí xây dựng và vận hành công trình), và các
tác động môi trường khác.


×