Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Chính sách đối ngoại của việt nam đối với trung quốc về vấn đề biển đông giai đoạn 2007 – 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.69 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TUYÊN TRUYỀN

TIỂU LUẬN
MÔN: QUAN HỆ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ
Đề tài:

Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông giai
đoạn 2007 – 2012

Học viên : Lê Trần Thanh Hằng
Lớp

: Quản lý văn hóa Tư tưởng

HÀ NỘI, 05/2013
1


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Biển Đông là một vùng biển nửa kín, đây là một trong những khu vực chiến
lược quan trọng bậc nhất trên thế giới. Vùng biển này án ngữ nhiều tuyến đường
hàng hải quan trọng nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Biển Đông có
môi trường biển đa dạng và nguồn tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu khí và
thủy sản. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được ví như hai pháo đài nổi trên


biển Đông, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược an ninh quốc phòng của
các quốc gia và vùng lãnh thổ ven bờ như Trung Quốc, Đài Loan và bốn thành
viên của ASEAN là Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Brunei. Có lẽ vì lý do đó,
vùng biển đảo này trở thành đối tượng tranh chấp giữa các quốc gia và vùng lãnh
thổ hơn nửa thập kỉ nay – có thể nói đây là một “ điểm nóng” tiềm tàng về an ninh
và ổn định của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Kể từ khu Hiệp ước về Quy
tắc ứng xử chung trên biển Đông (2002) được kí kết đến trước 2007, chưa có
xung đột vũ trang nào xảy ra giữa lực lượng hải quân của các nước liên quan. Rõ
rang, tuyên bố này bước đầu góp phần biến biển Đông thành một vùng biển hòa
bình và ổn định hơn. Tuy nhiên, căng thẳng va chạm trên biển, đặc biệt liên quan
đến vấn đề nghề cá và khai thác dầu khí giữa Trung Quốc và các nước ASEAN,
trong đó có Việt Nam, vẫn tồn tại và gần đây có phần căng thẳng hơn.
Năm 2007, căng thẳng bùng phát khi Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa,
trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ
quyền. Hành động từ phía Trung Quốc gây ra phản ứng dữ dội từ Việt Nam, đặc
biệt xảy ra nhiều cuộc biểu tình quy mô phản đối quyết định của nhà cầm quyền
Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc liên tục bắt giữ hoặc tấn công các tàu
đánh cá và ngư dân, hay gây sức ép buộc các công ty dầu khí nước ngoài phải từ
bỏ dự án đối với các đối tác Việt Nam trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của Việt Nam. Trước tình hình đó, chính phủ Việt Nam đã có những điều
chỉnh nhất định trong cách tiếp cận của họ đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông
theo hướng công khai hóa và quốc tế hóa. Một số cuộc tọa đàm, hội thảo quốc gia
và quốc tế về vấn đề Biển Đông đã được tổ chức. Các phương tiện truyền thông
Việt Nam cũng công khai bình luận các khía cạnh an ninh – quân sự, kinh tế, luật
2


pháp của vấn đề tranh chấp biển, đồng thời đưa tin về hành động bắt bớ, ngăn cản
tàu thuyền Việt Nam của các lực lượng Trung Quốc. Ngày 6/5/2009, Việt Nam và
Malaysia nộp báo cáo chung về Ranh giới ngoài của thềm lục địa khu vực phía

Nam Biển Đông, và một ngày sau, Việt Nam nộp báo cáo riêng lên Ủy ban Thềm
lục địa của Liên Hợp Quốc. Trong một nỗ lực củng cổ quốc phòng, Việt Nam đặt
mua một số tàu ngầm và vũ khí tối tân của Nga với số tiền bằng phân nửa ngân
sách quốc phòng của Việt Nam.
Tranh chấp ở Biển Đông từ lâu đã trở thành một đề tài tranh cãi sôi nổi trong
giới học giả nghiên cứu về an ninh trong nước và quốc tế. Đây cũng là vấn đề đau
đầu cho các chính phủ của các quốc gia liên quan đến tranh chấp. Và cho đến nay,
có lẽ chưa có một hướng giải pháp nào sáng suốt nhất để giải quyết những mâu
thuẫn trên. Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác
nhau trong tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ ở Biển Đông.Tuy nhiên, chưa có nhiều
đề tài nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ những diễn biến mới ở Biển Đông
và những điều chỉnh trong cách tiếp cận của Việt Nam đối với các tranh chấp ở
khu vực này.Thêm vào đó, ở một góc độ hoạch định chính sách, cần có thêm
những phân tích kĩ lưỡng về tính hiệu quả và dự báo ảnh hưởng ngắn và dài hạn
của những điều chỉnh chính sách trên.Đó là những cơ sở khoa học và thực tiễn để
tôi chọn lựa đề tài “ Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Trung Quốc về
vấn đề Biển Đông giai đoạn 2007 – 2012”.
2.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

2.1. Mục đích của đề tài

Đề tài mong muốn làm rõ các câu hỏi:
Trước những động thái ngày càng hung hăng của Trung Quốc, ngoại
giao Việt Nam đã điều chỉnh chính sách ngoại giao của mình như thế
nào để giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc?
• Những chính sách đối ngoại đó đã đạt được những thành tựu gì và ngoại
giao Việt Nam nên làm gì tiếp theo trong vấn đề Biển Đông với Trung
Quốc?



2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Thứ nhất, đề tài sẽ nêu khái quất bối cảnh lịch sử trong và ngoài nước giai
đoạn 2007 – 2012.
Thứ hai, đề tài sẽ trình bày các chính sách đối ngoại của Việt Nam nhằm giải
quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2012 ( gồm 3 chính
sách nổi bật : ngoại giao bình tĩnh, ngoại giao phòng thủ, ngoại giao du kích – kêu
gọi sự đồng thuận đa phương).
3


Thứ ba, với những chính sách đối ngoại được triển khai ở phần 2, Việt nam đã
đạt được những gì trong mối quan hệ giữa hai nước, trong tiến độ giải quyết vấn
đề Biển Đông
Thứ tư, đề tài sẽ đưa ra những kiến nghị, những hướng đi trong tương lai cho
Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc.
3.

Kết cấu đề tài

Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung
gồm có 4 vấn đề:
Chương 1: Bối cảnh lịch sử
Chương 2: Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Trung Quốc về vấn đề Biển
Đông giai đoạn 2007 – 2012
Chương 3: Những thành quả đạt được
Chương 4: Hướng đi của Việt Nam về vấn đề Biển Đông với Trung Quốc.


4


B.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: Bối cảnh lịch sử
1.1.

Cái nhìn về “ Đường lưỡi bò” của các học giả quốc tế

Đường “ lưỡi bò”, “chữ U” hay “ đứt đoạn”… là những cách gọi khác nhau mà các
học giả trên thế giới dùng đề chỉ yêu sách của Trung Quốc đối với 80% diện tích
của Biển Đông, được vẽ sát vào các bờ của các quốc gia ven Biển Đông như Việt
Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines.
Đường yêu sách này ban đầu có 11 đoạn, do chính quyền Trung Quốc ( Quốc dân
Đảng) vẽ ra vào năm 1947 và sau đó được CHND Trung Hoa tiếp tục sử dụng
nhưng có sửa đổi ( bỏ bớt hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ nên chỉ còn lại 9 đoạn).
Công hàm của Trung Quốc đệ trình lên Ủy ban Liên hợp quốc về thềm lục địa mở
rộng ngày 7/5/2009 có lẽ là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua, thể hiện quan
điểm chính thức của Trung Quốc về ý nghĩa pháp lý quốc tế của đường yêu sách 9
đoạn và cũng là lần đầu tiên mà Trung Quốc chính thức công bố sơ đồ đường yêu
sách này với thế giới.
5


Ngoại trừ các học giả Trung Quốc, tất cả các học giả nước ngoài đều chỉ rõ, đường
lưỡi bò của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn.
Vùng nước trong “ đường lưỡi bò” chiếm 80% diện tích Biển Đông mà Trung

Quốc cho là “ vùng nước lịch sử” là không thể chấp nhận được. Cộng đồng quốc tế
chưa bao giờ ghi nhận một yêu sách như vật và sẽ không chấp nhận một vùng biển
lớn nhất nhì thế giới thuộc về quyền tài phán của một nước. Thậm chí, Indonesia,
một nước không hề dính líu đến tranh chấp Biển Đông cũng phải chính thức gửi
công hàm phản đối “ đường lưỡi bò”, cho rằng bản đồ đường đứt khúc 9 đoạn của
Trung Quốc là “ rõ ràng không có căn cử pháp lý quốc tế và đi ngược lại với các
quy định của Công ước Luật biển 1982”.

Quan điểm của Việt Nam về tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam –
Trung Quốc

1.2.













1.3.

Kiên quyết khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa – Trường Sa.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền là nhiệm vụ lâu dài,, toàn diện, phức tạp. Đấu
tranh cả ngoại giao và trên thực địa

Giữ vững hòa bình để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân đến
năm 2020 trở thành nước Công nghiệp, đi đôi với bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Nhanh chóng phát triển thực lực tổng hợp của đất nước.
Độc lập, tự chủ trong các vấn đề đối ngoại. tăng cường mở rộng quan hệ đối
ngoại hợp tác cùng có lợi với các nước, tạo sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau.
Vừa bảo vệ được chủ quyền nhưng cũng vừa duy trì hữu nghị, hợp tác toàn
diện với các nước có liên quan. Cảnh giác trước âm mưu lợi dụng bất đồng
chia rẽ, cô lập Việt Nam với các nước có liên quan
Giải quyết bất đồng thông qua thương lượng bình đẳng, tôn trọng luật pháp
quốc tế, giữ vững nguyên trạng, không làm phức tạp thêm tình hình, không
sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Thu hẹp bất đồng, tìm kiếm giải pháp lâu dài mà các bên có liên quan đều
chấp nhận được.
Đẩy mạnh phát triển Kinh tế - Quốc phòng biển
Giáo dục ý thức chủ quyền dân tộc

Việt Nam đưa ra bằng chứng pháp lý về chủ quyền trên biển

Đánh dấu chủ quyền, Việt Nam có những bằng chứng sau: theo chính sử Việt
Nam về theo nhiểu nhân chứng nước ngoài, từ thế kỷ 17, các chúa Nguyễn với
danh nghĩa Nhà nước đã thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hàng năm ra khai
thác và quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày nay vẫn còn vết tích
6


của hoạt động đó thông qua “ lễ khao lề tế lính Hoàng Sa” được tổ chức hàng năm
tại đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). Mới đây, từ ngày 19 – 21/4/2008 lễ hội đó lại được
tổ chức tưng bừng để tưởng nhớ những người lính ra đi bảo vệ vùng biển đảo của
Tổ quốc mấy trăm năm trước. Đó là một bằng chứng sống, vẫn còn có giá trị đối
với Việt Nam. Tiếp đó triều Nguyễn rất quan tâm đến việc củng cố chủ quyền Việt

Nam trên hai quần đảo, các hoàng đế Gia Long, Minh Mạng liên tiếp phái thủy
quân ra Hoàng Sa – Trường Sa khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ, lập miếu, dựng bia,
cắm cờ (1816). Theo Đại Nam Thực Lục Chính biên, trong 3 năm: 1833, 1835,
1836 vua Minh Mạng liên tiếp có chỉ thị về Hoàng Sa.
Nhiều bản đồ do người Việt vẽ đã xác định chủ quyền ở hai quần đảo trong:
Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư trong Hồng Đức Bản Đồ; Toàn Tập An Nam Lộ
trong sách Thiên Hạ Bản Đồ (của Đỗ Bá Công soạn năm Chính Hòa thứ 7 – 1686)
và Toàn Tập An Nam Lộ. Nhiều sách của người Việt nhắc đến hai quần đảo với
nhiều trích dẫn có giá trị như: Phủ Biên Tạp Lục của nhà bác học Lê Quý Đôn
(1776); Dư Địa Chí trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (1821) và sách Hoàng
Việt Địa Dư Chí (1833), Đại Nam Thực Lục, Khâm Định Đại Nam Hội Điền Sư
Lệ (1851) của triểu Nguyễn.
Sự xác lập chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa (cũng như với Trường Sa) còn
được minh chứng bằng những tài liệu do người nước ngoài ghi chép như sách Hải
ngoại ký sự của Thích Đại Sán viết năm 1696, hay của nhiều tác giả Tây phương
như Le Poivre (1749), J.Chaigneau (1816 – 1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)
… Gần đây, trong cuốn “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”
xuất ở Paris năm 1996, giáo sư Monique Chemillier Gendreau, chủ tịch Hội luật
gia Châu Âu đã viết: “ Khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm 1884, Việt Nam đã
nắm giữ không có cạnh tranh và trong khoảng gần 2 thế kỷ, một quyền đối với các
quần đảo (Hoàng Sa, Trường Sa), theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó”.

1.4.

Quan điểm của Trung Quốc và hành động của họ

Đối với vấn đề Biển Đông ngày 27/04, trong buổi tiếp Chủ nhiệm Ủy ban
Quốc phòng Việt Nam, ông Sun Jian Guo – Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội
giải phóng nhân dân Trung Quốc cho biết, vấn đề tranh chấp trên Biển Đông là
vấn đề lớn nhất mà hai nước còn nhiều điều chưa có sự thống nhất và tồn tại mâu

thuẫn. Trung Quốc kịch liệt phản đối việc đưa vấn đề này ngày càng trở nên “quá
nóng”, phản đối việc đưa vấn đề này thành sự kiện “quốc tế hóa”, đồng thời cũng
phản đối việc các nước khác tham gia vào vấn đề này. Theo đó hai nước Việt –
Trung nên bình tĩnh, thận trọng và song phương giải quyết vấn đề này qua đó
không làm tổn hại đến mối quan hệ hai nước. Bên cạnh đó, ông Sun Jian Guo cũng
7


bày tỏ hi vọng, trong thời gian tới hai bên sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác, giao lưu
hơn nữa. Hy vọng hai bên sẽ tiếp tục phát huy và tăng cường mối quân hệ hữu hảo
giữa hai nhà nước, hai dân tộc.
Trong một động thái chung, trước đó trong buổi họp bảo nhân dịp đầu năm
mới, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam cho biết, tranh chấp Biển Đông là vấn đề nên
được giải quyết “nội bộ”, bởi hai nước có mối quan hệ thân thiết an hem. Bên
cạnh đó, cơ chế một Đảng lãnh đạo chính là một điểm vô cùng thuận lợi để hai
nước giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, nếu điều kiện chưa chin muồi, làm cản trở
quan hệ hai nước, điều cần phải làm là nên gác lại vấn đề… Đây là cách làm phù
hợp nhất, theo đó hai bên có thể hợp tác cùng nhau khai thác tài nguyên tại vùng
biển tranh chấp.
Cho đến nay, Việt Nam chủ trương các cuộc đàm phán đa phương để giải
quyết tranh chấp, với tất cả các nước cùng ngồi vào bàn thương thảo. Trong khi đó
thì Trung Quốc lại đòi hỏi đàm phán song phương với từng nước có tranh chấp với
họ, cụ thể là với Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei. Giới phân tích từng
thẩm định là sở dĩ Bắc Kinh chủ trường như vậy, đó là vị giải pháp này sẽ giúp
một nước lớn như họ phát huy được sức ép trên các nước Đông Nam Á nhỏ hơn.
Mặc dù đã ký kết vào năm 2002 với khối ASEAN một bản tuyên bố về các
quy tắc ứng xử tại Biển Động, gọi tắt theo tiếng Anh là DOC, cho đến nay, Trung
Quốc vẫn không áp dụng những gì đã hứa. Không những thế, mọi nỗ lực của Hiệp
hội Đông Nam Á nhằm thúc đẩy Bắc Kinh thực thi lời cam kết đều bị gạt bỏ, đúng
theo lập trường không thương thuyết đa phương của mình.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng không ngần ngại dùng uy thế của mình để tạo ra
tình trạng chia rẽ trong ASEAN trên vấn đề Biển Đông, giữa các nước có tranh
chấp với Trung Quốc và các nước không dính dáng gi đến hồ sơ này. Nhóm nước
thứ hai này được coi là dễ dàng chiều ý Bắc Kinh hơn là không muốn.

1.5.

Sự tham gia của Mỹ vào Biển Đông

Cuối tháng 3/2010, Trung Quốc đưa Biển Đông vào danh sách “lợi ích cốt
lõi”, nghĩa là không khoan nhượng, không thương thuyết. Đây là cột mốc mới
trong chính sách Biển Đông của Bắc Kinh. Với Mỹ, nó là giọt nước làm tràn ly.
Thái độ quyết đoán của Trung Quốc thúc đẩy Mỹ nhập cuộc. Sự thiếu tin cậy tăng
lên.
Đường hàng hải ở Đông Á mang tính cách chiến lược quan trọng đối với Hoa Kỳ,
và cần phải duy trì sự ổn định, quyền tự do di chuyển, quyền tự do trao đổi thương
mại hợp pháp.
8


Chính sách của Hoa Kỳ là được duy trì sự hiện diện về ngoại giao, thương mại và
quân sự để bảo vệ hòa bình và quyền lợi của Mỹ ở nơi này. Chính sách này nhằm
bảo về sự tôn trọng luật biển quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về
luật biên.
Chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama nói rằng Hoa kỳ coi việc giải
quyết một cách hòa bình những tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông là mối quan
tâm quốc gia và đồng thời hối thúc các quốc gia liên quan đàm phán để tìm ra
giải pháp.
Hang tin Bloomberg trích lời Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton phát biểu tại
Diễn đàn khu vực ASEAN tại Hà Nội rằng việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ

này là “ưu tiên ngoại giao hàng đầu” và việc chấm dứt những bất đồng ở Biển
Nam Trung Hoa, mà Việt Nam gọi là Biển Đông là “vấn đề then chốt đối với sự
ổn định của khu vực”.
Theo thông tấn xã AP, cũng tại diễn đàn này, Ngoại trưởng Mỹ nói rang
Washington quan ngại rằng những tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn nhau ở quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa làm ảnh hưởng tới giao thương hàng hải, cản trở
việc tiếp cận vùng hải phận quốc tế ở khu vực và hủy hoại luật về biển của Liên
Hiệp Quốc.
Vẫn theo AP, những nhận định của Bà Clinton có phân chắc sẽ làm Trung Quốc
tức giận, tuy nhiên bà Clinton nói rằng Hoa Kỳ không ủng hộ bất cứ nước nào
trong vấn đề về chủ quyền ở Biển Đông và Hoa Ký sẵn sang cùng tất cả các bên
hành động để chấm dứt các tranh chấp.

9


CHƯƠNG 2: Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Trung Quốc về
vấn đề Biển Đông giai đoạn 2007 – 2012
2.1. Ngoại giao bình tĩnh
2.1.1. Thái độ của Trung Quốc
Ngày 09/07/2007, Trung Quốc đã bắn chết ít nhất một ngư dân Việt Nam và
nhiều ngư dân khác bị thương vì cho rằng họ đánh cá trong khu vực biển thuộc chủ
quyền của Trung Quốc, sự kiện này đã gây ra sự phẫn nộ cho người dân Việt Nam
ở trong cũng như ngoài nước. Tháng 6/2007, Trung Quốc đã làm áp lực để tập
đoàn dầu khí BP của Anh Quốc phải rút lui khỏi dự án thăm dò dầu khí với bên
Việt Nam mà Trung Quốc cho là thực hiện tại vùng biển thuộc chủ quyền của
Trung Quốc.
Tháng 12/2007, Trung Quốc cho lập thành phố hành chính Tam Sa trong đó
bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà các nước khác cùng tuyên bố
chủ quyền, điều này đã gây nên phản ứng mạnh mẽ từ người dân Việt Nam, đã có

rất nhiều cuộc biểu tình nổ ra. Như một hiệu ứng lây lan, các báo chí Philippines
sau đó đồng loạt chỉ trích chính phủ Philippines khi tham gia thỏa thuận thăm dò
dầu khí với Trung Quốc và Việt Nam. Sự chỉ trích này đã dẫn đến việc Philippines
rút lui khi thỏa thuận này vừa hết hiệu lực vào ngày 01/07/2008.
Cuối năm 2008, Trung Quốc đã nổ sung cảnh cáo, và sau đó gây áp lực buộc
tập đoàn dầu khí Mỹ Exxon – Mobil phải rút lui khỏi dự án liên doanh với Việt
Nam thăm dò dầu khí trên vùng biển này, mặc dù Việt Nam khằng định là dự án
được tiến hành trên vùng biển thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
của Việt Nam.
Ngày 8/3/2009 đã có một vụ căng thẳng giữa tàu thám hiểm hải dương
Impeccable của Mỹ với 5 tàu của Trung Quốc trên vùng biển này, sau đó giữa Mỹ
và Trung Quốc đã xảy ra một cuộc tranh luận gay gắt trên các phương tiện truyền
thông, phía Mỹ giải thích vùng biển này là biển quốc tế, tàu Mỹ có quyền thực
hiện các nghiên cứu biển trong vùng đó, còn Trung Quốc khẳng định đây là vùng
biển thuộc chủ quyền của họ.
Kể từ ngày 16/05/2009 cho tới nay, Trung Quốc đơn phương ra lệnh cấm
đánh bắt cá trên Biển Đông, và họ đã cho lực lượng tàu Ngư Chính (vốn được cải
tạo từ các tàu quân sự) để “thực thi” lệnh cấm đánh bắt cá này. Trong khi đó, nhiều
tàu cá Việt Nam đã bị bắt giữ đòi tiền chuộc hoặc bị đâm chìm.

2.1.2. Phản ứng của Việt Nam


Biển Đông là cuộc xung đột lợi ích. Với Việt Nam, Trung Quốc chủ trương
“lục hoãn hải khẩu” (trên đất liền hòa dịu, ngoài biển căng thẳng). Nhưng Biển
Đông còn liên quan đến nhiều nước khác. Cần kiên trì đàm phán, đấu tranh có lý
có tình, trước hết là song phương. Đa phương chỉ hỗ trợ chứ không thay thế được
song phương. Từ năm ngoái, lãnh đạo các cấp 2 nước đã nhiều lần đề cập giải
quyết tranh chấp Biển Đông.
Tại cuộc gặp Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng nhân dịp diễn đàn Bác

Ngao, tháng 4/2009, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nêu rõ: Nam Hải (Biển Đông) là vấn
đề cuối cùng do lịch sử để lại mà hai nước vẫn chưa giải quyết được. Hai bên cần
nhìn xa trông rộng, xuất phát từ đại cục, tích cực bảo vệ ổn định Nam Hải, đẩy
mạnh hợp tác cùng có lợi, tranh thủ Nam Hải cùng mở ra đột phá tích cực. Vị Thủ
tướng rất được người dân Trung Quốc yêu mến này bày tỏ hy vọng giải quyết thỏa
đáng vấn đề Nam Hải.
Tháng 11/2009, khi ký kết các văn kiện liên quan tới việc thực thi Hiệp định
biên giới trên đất liền, hai bên đã thống nhất sẽ hình thành quy chế về giải quyết
vấn đề trên biển. Tân Hoa Xã trích lời Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nói rằng
Việt Nam mong muốn cùng Trung Quốc giải quyết vấn đề Biển Đông một cách
“đúng mực”, dựa trên quan hệ chung và tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Phó Thủ
tướng Việt Nam cũng khẳng định nguyên tắc giữ hòa bình và ổn định trong khu
vực.
Ngày 6/5/2009, Malaysia và Việt Nam trình lên Ủy ban ranh giới thềm lục
địa của Liên Hợp Quốc (viết tắt là CLCS) báo cáo chung về khu vực thềm lục địa
mở rộng tại phía Nam Biển Đông. Vào ngày 8/5/2009, Việt Nam đã nộp bản đăng
ký riêng trên khu vực phía giữa của Biển Đông. Khu vực xác định hoàn toàn năm
ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh thổ lục địa của Malaysia và Việt Nam và
nằm ngoài các ranh giới đã thỏa thuận với các nước hữu quan. Đây là lý do hai
nước khẳng định báo cáo chung không làm tổn hại các vấn đề liên quan đến phân
định ranh giới giữa các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc tiếp giáp.
Ngay sau đó, Trung Quốc đã gửi công hàm số CML/17/2009 phản đối báo
cáo chung này của Việt Nam và Malaysia, đặc biệt công hàm phản đối này có kèm
theo một bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò” (mặc dù Trung Quốc chưa bao giờ giải
thích “đường lưỡi bò” này là gì) với những yêu sách: “Chủ quyền không thể tranh
cãi của Trung Quốc đối với các đảo ở biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế
cận, cùng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan
cũng như đáy biển và mặt đất dưới đáy biển”. Việt Nam đã phản đối ngay lập tức
công hàm này.


2.2. Ngoại giao phòng thủ
Rõ rang là những hành động quyết đoán về quân sự gần đây của Trung Quốc
ở Tây Thái Bình Dương và Biển Đông khuyến khích việc đẩy mạnh hợp tác quân
sự Việt – Mỹ. Cả hai nước đều chia sẻ mối quan tâm trong việc ngăn ngừa Trung


Quốc hay bất cứ nước nào khác thống trị tuyến đường thương mại trên biển và
thực thi chủ quyền lãnh thổ thông qua cưỡng chế. Việt Nam nhìn thấy sự hiện diện
của Mỹ như là sự ngăn cản, chống lại sức mạnh quân sự gia tăng của Trung Quốc.
Năm 2009, Việt Nam bắt đầu tham gia vào một trò chơi rất tinh tế về dấu
hiệu mà ta xem sự hiện diên quân sự của Mỹ trong khu vực là chính đáng. Chẳng
hạn như, các quan chức quân đội Việt Nam đã bay tới tàu sân bay USS John
C.Stennis để quan sát các hoạt động bay trên Biển Đông. Cuối năm 2009, Bộ
trưởng Quốc Phòng Việt Nam, ông Phùng Quang Thanh đã dừng chân tại Bộ chỉ
huy Thái Bình Dương ở Hawaii trên đường đến Washington và đã được chụp ảnh
qua kính viễn vọng của một tàu ngầm hạt nhân Mỹ.
Sự hợp tác gia tăng trong năm 2010 khi nhà máy đóng tàu Việt Nam sửa chữa
hai tàu quân sự của Mỹ. Vào dịp kỷ niệm 15 năm quan hệ ngoại giao, Phó Đại sứ
Việt Nam tại Washington đã công khai đi thăm tàu sân bay USS George
H.W.Bush, đậu tại Norfolk. Ngay sau đó, các quan chức quân sự và chính phủ từ
Đà Nẵng bay ra tàu sân bay USS George Washington để quan sát các hoạt động
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông.
Cùng lúc, Việt Nam và Hoa ký tiến hành các hoạt động hải quân chung đầu
tiên. Quan trọng hơn, cuộc diễn tập không liên quan đến các tàu hải quân Việt
Nam hoạt động trên biển với các đối tác Mỹ. Thay vào đó, hoạt động được tiến
hành trên tày USS John S.McCain, trong khi nó đậu tại Đà Nẵng. Chuyến thăm
này là một phần trong chương trình viếng thăm hàng năm thăm bắt đầu từ năm
2003. Các hoạt động tham gia chỉ liên quan đến sự huấn luyện không tác chiến
như kiểm soát thiệt hại, luyện tập tìm kiếm, cứu hộ và trao đổi kỹ năng nấu nướng.
Những trao đổi có thể nghe tầm thường nhưng cần thiết để xây dựng niềm

tin. Giai đoạn xây dựng niềm tin trong quan hệ quân sự bây giờ đã qua. Việt Nam
và Mỹ đang tham gia xây dựng một chương trình hoạt động thiết thực nhằm tăng
cường tính chuyên nghiệp của quân đội Việt Nam. Nói rộng hơn, cả hai nước sẽ
hợp tác trong việc xây dựng các khả năng trong các lĩnh vực đặc biệt như gin giữ
hòa bình, an ninh môi trường, phối hợp tìm kiếm và cứu nạn đa phương và đáp
ứng cứu trợ thiên tai trong khu vực.
Các mối quan hệ quân sự Việt – Mỹ gần hơn cũng phù hợp với chiến lược
rộng hơn của Việt Nam về ngoại giao quốc phòng với các nước khác. Việt Nam có
các mối quan hệ quốc phòng lâu dài với Nga và Ấn Độ. Chúng ta có một chương
trình phát triển tốt với Úc kể từ năm 1999, mà Úc đã đào tạo hơn 150 viên chức
Việt Nam. Việt Nam cũng trong quá trình đẩy mạnh quan hệ quân sự với Pháp.
Ý nghĩa tương đương là sự phát triển các mối quân hệ quân sự Việt – Trung.
Hai nước đã tiến hành ít nhất chin cuộc tuần tra hải quân chung ở Vịnh Bắc Bộ từ
năm 2006. Năm nay, lần đầu tiên hai nước tiến hành thực tập tìm kiếm và cứu hộ
chung trên biển. Việt Nam đã tiếp đón ba chuyến viếng thăm của hải quân Trung
Quốc và 2010 là năm đầu tiên mà hải quân Việt Nam đến thăm cảng Trung Quốc.


2.3. Ngoại giao du kích – kêu gọi sự đồng thuận đa phương
2.3.1. Song phương không thể giải quyết ổn thỏa vấn đề Biển Đông
Trước hết, Biển Đông có 3 vần đề chính là: tranh chấp chủ quyền bề biển –
đảo, tự do lưu thông hàng hải quốc tế, hợp tác hòa bình trong khu vực. Do đặc thù
của chúng, cả 3 loại vấn đề này không có một vấn đề nào có thể giải quyết ổn thỏa
trên cơ sở song phương.
Lấy ví dụ, thực tiễn đàm phán về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển – đảo
trong Biển Đông cho thấy một thỏa thuận, dù loại gì, giả thử đạt được giữa một
bên là Trung Quốc với một bên là một nước ASEAN “A” nào đó, sẽ thường xuyên
đặt ra tình huống gây nên những nghi kỵ, hoặc thậm chí sự phản đối của các nước
ASEAN “B”, “C”, “D”… Cách làm song phương như vật dứt khoát dẫn đến mầm
mống những tranh chấp mới trong nội bộ cộng đồng ASEAN và chung cuộc thậm

chí có thể hủy hoại cộng đồng ASEAN.
Thực tiễn này không phải là sự tưởng tượng, mà đã xảy ra trong thực tế, khi
Trung Quốc năm 2004 ký thỏa thuận với Philippines tiến hành thăm dò địa chấn
khu vực đảo Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa. Ký kết song phương này đã bị
Việt Nam phản đối, được giải quyết một các vớt vát là sau đó cả Trung Quốc và
Philippines đều đồng ý để Việt Nam cung tham gia. Nhưng hậy quả không thể
khắc phục được là ký kết thăm dò địa chấn này đã làm giảm sút đáng kể (gần như
là vô hiệu hóa trên thực tế - de facto) tuyên bố của các bên về Nguyên tắc ứng xử ở
Biển Đông (DOC) được ký kết năm 2002 giữa các nước ASEAN và Trung Quốc.
Ký kết thăm dò địa chấn này đã gây chia rẽ nội bộ ASEAN, sau đó còn gây
chia rẽ sâu sắc nội bộ quốc gia Philippines. Phe đối lập chống Tổng thống Gloria
Macapagal Arroyo đặt vấn đề nghi vấn có sự tham nhũng lớn cho ký kết này trích
từ những khoản viện trợ và đầu tư rất lớn lên đến hàng tỷ đô la trong chuyến đi
thăm Philippines của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào năm 2005. Phía Trung Quốc ca ngợi
chuyến đi thăm này mở ra một thời kỳ hoàng kim quan hệ song phương Trung
Quốc – Philippines…
Chỉ một ví dụ này đủ cho thấy việc củng cố sự bền vững của cộng đồng
ASEAN nhạy cảm và khó khăn như thế nào. Mà trong thực tiễn tồn tại của cộng
đồng ASEAN cho đến nay có vô vàn ví dụ như thế.

2.3.2. Hợp tác đa phương ngày càng quan trọng trong giải quyết các vấn
đề khu vực và quốc tế
Ngoại trưởng Mỹ đã tuyên bố “lợi ích quốc gia” của Mỹ tại Biển Đông và
khuyến khích hợp tác đa phương giải quyết vấn đề. Kết luận có thể rút ra: Bất kể
một ký kết tay đôi nào giữa một bên là Trung Quốc và một bên là một nước thành
viên ASEAN về những vấn đề có liên quan đến Biển Đông đều có nguy cơ gây


nghi kỵ giữa các nước ASEAN với nhau và làm suy yếu cộng đồng này, điều này
đồng nghĩa làm tăng thêm nguy cơ gây mất hòa bình và ổn định trong khu vực. Lẽ

đơn giản là vấn đề chủ quyền về biển đảo cực ký nhạy cảm đối với toàn khu vực
và thường xảy ra tranh chấp giữa ba nước với nhau trở lên.
Khỏi phải bàn tuyến hàng hải Malacca đi qua Biển Đông chiếm gần 1/3 vận
tải biển của thương mại thế giới, phần lớn các hợp tác kinh tế trên Biển Đông là
những hợp tác song phương hoặc đa phương giữa một nước thành viên ASEAN
với một hay nhiều nước bên thứ ba khác ngoài khu vực. Biển Đông là một biển mở
ra Thái Bình Dương, nếu nhìn theo khía cạnh hòa bình và an ninh khu viwcj liên
quan mật thiết với hòa bình và an ninh thế giới, sẽ càng rõ bất kể một giải pháp
song phương nào cho bất kỳ một vấn đề gì giữa một bên là Trung Quốc và một
bên là một nước thành viên ASEAN đều không thể đáp ứng được những đòi hỏi
của cuộc sống đặt ra.
Lịch sử quan hệ quốc tế, dù là trong chiến tranh giữa các nước lớn, dù là
trong các cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, dù là trong các tranh chấp tập hợp
ngoại bang hay chư hầu để củng cố thế lực của mình, chia để trị, bẻ từng chiếc đũa
trong cả bó đũa…là những thủ đoạn cổ xưa nhưng vẫn đắc dụng cho đến tận bây
giờ.
Trung Quốc hiển nhiên rất mạnh, mạnh áp đảo với với từng nước và so với
tất cả các nước trong khu vực Biển Đông cộng lại. Nếu Trung Quốc, cũng theo
đuổi các mục tiêu hòa bình, hợp tác, hữu nghị, lại trong tình hình hầu như không
một nước nào trong cộng đông ASEAN có mưu đồ hay có khả năng thôn tính hay
lật đổ Trung Quốc, không một nước nào trong cộng đồng này có khả năng riêng lẻ
từng nước hay co cụm lại với nhau để tranh giành bất cứ vấn đề gì với Trung
Quốc, vậy nguyên do gì khiến Trung Quốc cứ phải khăng khăng giải pháp song
phương “Trung Quốc + 1 ASEAN” trong tìm kiến những giải pháp chó các vấn đề
của Biển Đông?
Hợp tác và giải pháp đa phương không thôi thật ra cũng chưa đủ. Điều quyết
định là hợp tác và giải pháp đa phương này phải công khai minh bạch, và phải theo
đuổi những mục đích hòa bình, hữu nghị, hợp tác rất công khai minh bạch cho
Biển Đông, không thể nói một đằng làm một nẻo được. Nếu có sự công khai minh
bạch như vậy, thì có gì phải chống giải pháp đa phương trong những vấn đề của

Biển Đông?

2.3.3. Ngoại giao du kích – kêu gọi sự đồng thuận đa phương
Ngày 23/7/2010 được nhiều nhà nghiên cứu nhận định là một ngày thắng lợi
của ngoại giao Việt Nam. Việt Nam đã thành công bước đầu khi đưa tranh chấp
Biển Đông trong cuộc họp báo cấp cao của ARF, và được sự ủng hộ của nhiều
quốc gia liên quan, đặc biệt với lời tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ - bà Hilary
Clinton: “Hoa kỳ hỗ trợ quá trình cộng tác ngoại giao của tất cả các bên tranh
chấp để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ khác nhau mà không cần cưỡng


chế. Chúng tôi phản đối việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực vủa bất
kỳ nước tranh chấp nào. Trong khi Hoa Kỳ không đứng về bên nào trong các
tranh chấp lãnh thổ về các vùng đất, đảo, đá…(land features) trên Biển Đông,
chúng tôi tin rằng các bên tranh chấp nên theo đuổi việc tranh chấp lãnh thổ
của mình và các quyền đối với không gian biển theo quy định của Công ước
Liên Hiệp Quốc về luật biển…Hoa kỳ ủng hộ Tuyên bố Ứng xử của các bên
trên Biển Đông của ASEAN – Trung Quốc năm 2002. Chúng tôi khuyến khích
các bên đạt được sự thỏa thuận quy tắc ứng xử hoàn toàn. Hoa kỳ chuẩn bị tạo
điều kiện cho các sáng kiến và các biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với
tuyên bố. Bởi vì tất cả các bên tranh chấp và cộng đồng quốc tế rộng hơn đều
quan tâm về việc thương mại không bị ngăn cản để tiến hành trong điều kiện
hợp pháp. Tôn trọng lợi ích của cộng đồng quốc tế và những nỗ lực có trách
nhiệm để giải quyết những khiếu nại chưa được giải quyết và giúp tạo ra các
điều kiện để giải quyết các tranh chấp và giảm căng thẳng trong khu vực.”
Trước đó, Trung Quốc – đối thủ chính và cũng là một cường quốc đang lên
của thế giới vẫn luôn “buộc” các quốc gia trong tranh chấp Biển Đông vào “cái
khung giải quyết” là “thương lượng song phương”. Cho tới trước hội nghị thượng
đỉnh Trung Quốc – ASEAN vào tháng 10/2009 tại Huahin (Thái Lan), bà Tiết Hán
Cần, đại sứ Trung Quốc tại ASEAN đã phát biểu: “Trung Quốc cho rằng đây là

bất đồng giữa Trung Quốc và các nước riêng ré xung quanh Biển Đông, chứ
không phải giữa Trung Quốc và ASEAN… Bởi vậy, chính phủ Trung Quốc
muốn giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua các cuộc đàm phán song
phương.” Và bà cũng nói thêm: “Cuộc họp này của ASEAN phải là trong khuôn
khổ hợp tác, chứ không phải để tranh cãi”.
Thế nhưng Việt Nam đã không ngồi yên, bên cạnh việc tăng cường sức mạnh
quân sự như mua tàu ngầm Kilo và máy bay Sukhoi – 30MK2 của Nga, tháng
11/2009, Việt Nam đã tổ chức một cuộc Hội thảo quốc tế lớn về Biển Đông, hội
thảo đã quy tụ được khá đông đủ các nhà nghiên cứu về Biển Đông từ nhiều nước
trên thế giới. Hội thảo được coi như một kênh ngoại giao để tìm kiếm những tiếng
nói đa phương cho việc giải quyết tranh chấp, và hội thảo đã thành công.
Sau những thành công đó, Việt Nam tiếp tục những bước đi âm thầm trong
cuộc “vận động quốc tế” của mình. Tháng 12/2009 Việt Nam cho công bố Sách
trắng quốc phòng, trong đó cũng đề cập tới phương hướng đối ngoại của Việt Nam
trong giải quyết tranh chấp.
Việt Nam muốn đa phương hóa vấn đề này và đã kêu gọi sự đồng thuận đa
phương, cụ thể là từ phía các nước ASEAN. Tại ARF năm 2010 vừa rồi, Việt Nam
đã đưa Biển Đông vào chương trình nghị sự, 12 quốc gia đã cùng lên tiếng về vấn
đề an ninh Biển Đông và mong muốn thúc đẩy cơ chế hợp tác đa phương để giải
quyết vấn đề này. Nó thể hiện nguyện vọng, ý chí không những của các Quốc gia
tham gia diễn đàn ARF mà còn là ý chí nguyện vọng của cộng đồng quốc tế trong
việc giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh trong khu vực Biển Đông.


Việc ủng hộ cơ chế đa phương cũng hoàn toàn phù hợp với các nguyên tác
của luật pháp và thực tiễn quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp trên biển.
Trong việc giải quyết các tranh chấp này, các nguyên tắc và thực tiễn quốc tế đã có
nhiều phương pháp, cách thức thỏa thuận. Một trong những cách thức thực tiễn
quốc tế là áp dụng cơ chế hợp tác đa phương, bởi nó liên quan đến lợi ích không
những của các quốc gia có yêu sách chủ quyền lãnh thổ và phạm vi các vùng biển

và thềm lục địa mà còn liên quan đến lợi ích của các quốc gia khác trên thế giới có
nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua tuyến đường hàng hải quốc tế quan trọng này.
Việt Nam đã, đang và sẽ hết sức tranh thủ, tận dụng và phát huy tất cả các
kênh giải quyết tranh chấp hiện có, cả song phương và đa phương.
Bất kì phương thức nào, dù song phương, đa phương hay quốc tế hóa đều có
lợi, Việt Nam sẽ hết sức tận dụng, gia công xây dựng, nghiên cứu áp dụng.
Việt Nam áp dụng linh hoạt các phương cách, vì thực tiễn quốc tế cho phép
áp dụng nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề, miễn là giải quyết nhanh chóng, ổn
định. Đó là cách tiếp cận đúng đắn của mình.
Đấy là chưa nói hợp tác và giải pháp đa phương và “quốc tế hóa” là hai vấn
đề khác nhau. “Quốc tế hóa” hay “không quốc tế hóa” còn thuộc về chủ quyền và
quyền quyết định của từng nước hữu quan trong Biển Đông. Tuy nhiên tự dung
đem vấn đề “quốc tế hóa” ra để làm lý do chối bỏ hợp tác và giải pháp đa phương
cho những vấn đề của Biển Đông câu chuyện lại có ý đồ và nội dung khác.

2.3.4. Ngoại giao du kích – tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Những gì Việt Nam cùng với ASEAN đã làm trong năm 2010 đã chứng tỏ
cách hiểu về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh của các nhà ngoại giao Việt Nam.
Theo nhà ngoại giao kỳ cựu Vũ Khoan, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
được thể hiện ở chỗ dù còn một cơ hội nhỏ nhất, ông vẫn cố gắng tối đa để giữ hòa
bình cho dân tộc. Tất nhiên, trên cơ sở một bất biến là đảm bảo độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ. Còn khi bắt buộc phải tiến hành chiến tranh, Hồ Chí Minh đã
tranh thủ sự ủng hộ tối đa của những người yêu chuộng hòa bình và chính nghĩa
trên toàn thế giới.
Còn Tiến sĩ Nguyễn Vũ Tùng, một chuyên gia hàng đầu về quan hệ ASEAN
– Mỹ của Học viện Ngoại giao, trong một bài viết trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế,
đã phân tích tư tưởng này dưới góc nhìn của quan hệ giữa nước nhỏ và nước lớn.
Theo Tiến sĩ Tùng, mức độ “nín nhịn” để giữ hòa hiếu có thể được giảm đi thông
qua các giải pháp như: “mở rộng quan hệ với các nước thứ ba để tạo thêm thế và
lực cho nước nhỏ trong quan hệ với nước lớn, và tham gia các cơ chế đa

phương để tạo thêm ràng buộc hành vi và trách nhiệm của nước lớn đối với
nước nhỏ.”
Việc mười tám quốc gia bên ngoài khu vực, trong đó có Mỹ, Trung Quốc,
Nga, hay Ấn Độ, vào cơ chế ADMM+, như một sự bổ sung quan trọng cho những
khiếm khuyết của cơ chế Diễn đàn An ninh Khu vực (ARF) là một ví dụ. Việc mời


Nga và Mỹ tham gia thượng đỉnh Đông Á, và biến diễn đàn này thành một cơ chế
chủ yếu giải quyết các tranh chấp ở Đông Á, bao gồm cả khu vực Đông Nam Á, là
một ví dụ khác, quan trọng hơn.
Song song với việc tạo lập, hoặc mở rộng, các cơ chế nói trên, việc củng cố
các mối quan hệ song phương với các nước thứ ba cũng được Việt Nam đặc biệt
chú trọng.
Chẳng hạn, người Nga cũng đã quay trở lại Việt Nam với một hợp đồng xây
dựng nhà mày điện hạt nhân, và một thỏa thuận dành cho doanh nghiệp Nga khôi
phục lại quân cảng Cam Ranh thành một căn cứ hậu cần quốc tế cho cả thương
thuyền lẫn pháo hạm.
Hay. Khi sang Việt Nam dự Cấp cao Đông Á mở rộng, ngoại trưởng Mỹ
Hilary Clinton đã nói rằng cách đây 10 năm, bà đã không thể hình dung quan hệ
Mỹ - Việt lại phát triển đến mức đáng kinh ngạc như thế này.
Tàu chiến Mỹ ra vào Biển Đông thì viếng thăm, khi thì vào để sửa chữa. Mặc
dù kinh tế vẫn chưa phục hổi sau khủng hoảng, nhiều tập đoàn công tu hàng đầu
của Mỹ vẫn đến Việt Nam tìm cơ hội đầu tư. Và Mỹ vẫn đang cố thuyết phục Việt
Nam tham gia hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong
khi từ chối đề nghị của một số nước khác.
Một người bạn của Tiến sĩ Nguyễn Vũ Tùng là Giáo sư người Thụy Điển
Ramses Amer, đã từng cảnh báo rằng “Việt Nam cần tránh sự đụng độ giữa Mỹ và
Trung Quốc ở Biển Đông, bởi trâu bò đánh nhau – ruồi muỗi chết”.
Có lẽ những lời phát biểu rất mềm dẻo của ngoại trưởng Clinton đối với
Trung Quốc trước khi qua dự Cấp cao Đông Á, đã khiến không chỉ vị Giáo sư

Thụy Điển này yên tâm hơn. Bởi nước chủ nhà Việt Nam đã được tôn trọng, và
người Mỹ không muốn làm cho họ bị khó xử.
Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, trưởng đoàn Việt Nam trong đối
thoại Việt – Mỹ về ngoại giao – quốc phòng – an ninh, đã hoàn toàn có lý khi cho
rằng: “không có lĩnh vực gì mà Việt Nam và Mỹ lại không thể thảo luận để tìm
giải pháp được”.
Có lẽ, riêng trong quan hệ với khu vực này, người Mỹ cuối cùng đã rút ra
được “bài học Việt Nam”. Họ hiểu rằng “nền ngoại giao pháo hạm” không phải
là giải pháp duy nhất để tạo ảnh hưởng.
Việc Trung Quốc đồng ý khởi động trở lại công tác của Nhóm chuyên viên về
thực hiện DOC trong than 10/2010 là một tín hiệu tốt dù dè dặt cho tiến trình xây
dựng một niềm tin giữa các nước hữu quan.

CHƯƠNG 3: Thành quả đạt được
3.1.

Giai đoạn 2007 – 2009

Trong giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc
đã tham gia Tuyên bố về cách ứng xử ở Biển Đông (DOC) vào ngày 4/11/2002.
Đó là Tuyên bố về Hành vi của các bên ở Biển Nam Trung Hoa, “tái cam kết với


mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc và Công ươc LHQ năm
1982 về Luật Biển”, “tránh những hành động cư trú ở những đảo, đá, bãi cát, đảo
thấp”, cam kết giải quyết tranh chấp chủ quyền một cách hòa bình và “tôn trọng
quyền tự do giao thông và bay trên Biển Nam Trung Hoa”. Cam kết, thỏa thuận
này thể hiện thiện chí của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề về chủ quyền
quốc gia. Đó là những thành công trong quan hệ đối ngoại với các nước an hem,
bạn bè trong khu vực.

Lãnh đạo hai nước đã nhiều lần thỏa thuận “tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán
hiện nay về các vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình để tìm ra
một giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được. Trong khi tiến
hành đàm phán, hai bên không tiến hành những hoạt động làm phức tạp tình hình,
không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực, bàn bạc kịp thời và giải quyết thỏa
đáng những bất đồng nảy sinh trên tinh thần xây dựng”. Lập trường đó của lãnh
đạo hai nước Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với tuyên bố về vấn đề Biển Đông
của cuộc gặp cấp cao ASEAN – Trung Quốc tại Phnôm Pênh năm 2002. Hai bên
cũng đã kí kết được một số hiệp định hợp tác song phương trong đó có thể kể tới
Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Hiệp định hợp
tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc.
3.2.
3.2.1.

Giai đoạn 2009-2012
Những nỗ lực của Việt Nam

Trong năm 2010, Việt Nam đã giữ chức Chủ tịch ASEAN và việc đưa Mỹ và
Nga tham gia vào Cấp cao Đông Á (EAS) và việc hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN mở rộng (ADMM+) với 8 nước có Nga và Mỹ tham gia đã tạo thêm điều
kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc đối trọng lực lượng với Trung Quốc, thu
hút sự ủng hộ của quốc tế.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công bố công khai Việt Nam tự xây dựng cảng
quân sự Cam Ranh và đã khẳng định sẵn sàng cung cấp dịch vụ cho tàu hải quân
của các nước trên thế giới, kể cả tàu ngầm tại cảng Cam Ranh theo cơ chế thị
trường giống như tất cả các nước khác đã làm và Việt Nam sẽ thuê doanh nghiệp
có kinh nghiệm của Nga làm tư vấn cho việc xây dựng này.
Các cơ chế an ninh khu vực, nhất là ARF tiếp tục phát huy tác dụng tích cực,
trong đó có việc thông qua Kế hoạch hành động thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn
ARF; và được bổ sung thêm một số cơ chế mới, nhất là ADMM+. Các công cụ

bảo vệ an ninh khu vực tiếp tục phát huy tác dụng trong việc chia sẻ và xây dựng
các chuẩn mực ứng xử giữa các quốc gia. Việc Canada, Thổ Nhĩ Kỳ và sắp tới là
EU tham gia TAC đã đưa số quốc gia và thực thể ngoài tham gia TAC lên thành
19, thực sự làm cho hiệp ước này trở thành bộ quy tắc ứng xử chỉ đạo quan hệ giứa
các quốc gia khi tham gia các hoạt động ở khu vực. Việc thực hiện DOC đã có
những tiến triển mới đáng khích lệ với việc nối lại họp Nhóm công tác chung


ASEAN – Trung Quốc và dự kiến sớm họp lại Quan chức cao cấp (SOM) về DOC
cũng như một số cam kết khác của các bên liên quan. Điều quan trọng là nhiều
nước trong và ngoài khu vực đều quan tâm và chia sẻ nhận thức chung là cần duy
trì hòa bình và an ninh ở Biển Đông; giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật
pháp quốc tế, nhất là công ước LHQ về Luật biển 1982; thực hiện hiệu quả DOC
và tiến tới thông qua Bộ quy tắc ứng xử về Biển Đông (COC). Rõ ràng, tranh cãi
rộng rãi về sự nóng lên của vấn đề Biển Đông đã tạp ra một môi trường chiến lược
mới cho phép mọi đối tác có thể tham gia và tiếp cận đa phương về các vấn đề liên
quan đến tự do và chủ quyền hàng hải.
Việt Nam đã nỗ lực điều hành Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở
rộng lần đầu tiên ngay sau khi xảy ra những tranh cãi căng thẳng về Biển Đông.
Hội nghị này là một diễn đàn an ninh mới bổ trợ cho Hội nghị cấp cao Đông Á
(EAS) và diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) trong việc giải quyết các thách thức an
ninh chủ yếu trong khu vực. Tháng 8/2010, tàu Mỹ USS George Washington đã đi
dọc bờ biển Việt Nam và đã đón những đoàn khách của các sĩ quan cao cấp trong
quân đội Việt Nam lên thăm tàu. Tháng 10, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert
Gates đã đến Hà Nội dự lễ khai mạc hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN+, Liên minh của Mỹ với Việt Nam, nước đang nhanh chóng hiện đại hóa
năng lực phòng vệ chứng tỏ đây là một tập hợp đáng gờm. năm 2009, Việt Nam
trở thành khách hàng mua vũ khí lớn nhất của Nga; tháng 4 năm đó Việt Nam mua
6 tàu ngầm Project 636 Class Kilo class và 12 máy bay SU – 30MKK của Nga
trong một hợp đồng ước tính 2,4 tỷ USD. Nga cũng đã ký kết một hợp đồng xây

dựng nhà mày hạt nhân đầu tiên cho Việt Nam. Nga đã ký hợp đồng đóng 2 tàu
chiến loại Gepard 3.9 cho hải quân Việt Nam năm 2006; tàu chiến đầu tiên đã
được giao vào tháng 10/2010, và chiếc thứ hai được giao vào cuối năm nay. Ngoài
ra, Pháp đã tuyên bố sẵn sang cung cấp trang thiết bị cần thiết để hiện đại hóa
Quốc phòng Việt Nam khi Bộ trưởng Quốc phòng của Pháp Hervé Morin đến
thăm Việt Nam vào tháng 7 năm 2010 nhưng chưa có hợp đồng nào được công bố.
Ngày 28 tháng Giêng 2011, Trung Quốc và Việt Nam đã thông báo ý định tổ
chức một đợt thảo luận mới về những tranh chấp lãnh thổ trên biển.


3.2.2.

Phản ứng của Trung Quốc
3.2.3. Trung Quốc tiếp tục tăng cường sự hiện diện của mình ở Biển Đông và

những triển vọng cho một giải pháp mang tính thương lượng về vấn đề này, trong
đó có tính đến các quan điểm của ASEAN, đang có vẻ như là không tưởng. Với
việc dấy lên của lòng yêu nước được khuyến khích bởi đại diện quân đội Trung
Quốc, không một nhà lãnh đạo Bắc Kinh nào sẽ xem xét triển vọng này. Theo tin
đã đưa, Quốc vụ viện Trung Quốc đang thảo luận các kế hoạch để phát triển du
lịch trên quần đảo Hoàng Sa mà kéo theo đó là việc xây dựng các khách sạn,
đường băng và các cơ sở vật chất có liên quan. Các kế hoạch này được dự định
nhằm hỗ trợ kinh tế đảo Hải Nam nơi sẽ quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa trong cơ cấu hành chính của Trung Quốc. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt
Nam, bà Nguyễn Phương Nga đã bày tỏ quan điểm của Việt Nam cho rằng kế
hoạch này “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, gây căng thẳng và
làm tình hình phức tạp hơn”. Trung Quốc đã hiện diện ở quần đảo Hoàng Sa và đã
xây một đường băng dài 2.600m trên đảo Phú Lâm và các trang thiết bị SIGTINT
trên các tiền đồn khác.
3.2.4. Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông của Trung Quốc gây ra các vấn đề


tái diễn cho các ngư dân Việt Nam, những người thường xuyên bị bắt và tàu cá của
họ bị tịch thu. Sau đó, họ lại bị yêu cầu nộp phạt với mức cắt cổ. Lệnh cấm đánh
bắt cá đơn phương của Trung Quốc năm 2010 được áp đặt trong mười tuần từ
tháng 5 đến tháng 7. Việc kéo dài thêm lệnh cấm này rất mập mờ mặc dù nó bao
trùm một vùng quanh quần đảo Hoàng Sa nhừng không xa về phía nam của quần
đảo Trường Sa. Việt Nam đã kiên quyết chống lại lệnh cấm này vì phương kế sinh
nhai của các ngư dân Việt Nam bị ảnh hưởng. Để thực thi lệnh cấm và bảo vệ các
tàu đánh bắt cá của mình ở Biển Đông, Trung Quốc thường xuyên phái các tàu mà
nước này khẳng định là tàu “tuần tra đánh bắt cá” nhưng thực chất đã được chuyển
đổi thành tàu hải quân. Các tàu Quản lý đánh bắt cá Yuzheng 311 và Yuzheng 202
hoạt động kế bên các tàu đánh cá Trung Quốc trửo thành mô hình triển khai
thường xuyên.
3.2.5. Tháng 3/2010, một tàu tuần tra của Trung Quốc đã bắt giữ một tàu đánh

cá nhỏ của Việt Nam cùng 12 ngư dân trên tàu tại vùng biển Hoàng Sa, phía Việt
Nam ngay lập tức phản đối và yêu cầu Trung Quốc trả tự do cho các ngư dân.
3.2.6. Tháng 7/2010, Trung Quốc tiến hành một số cuộc diễn tập hải quân trên

Biển Đông, đây được xem như việc đáp trả của nước này đối với cuộc tập trận
chung trên biển của Mỹ và Hàn Quốc được dự định diễn ra trên vùng biển Hoàng
Hà mà Trung Quốc đã phản đối rất dữ dội. Quy mô của cuộc tập trận gây ngạc
nhiên đối với các quan sát viên bởi cả hai thành viên của Ban Quân ủy TW là
Tham mưu trưởng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc Cheng Bingde và
Tư lệnh hải quân Trung Quốc Wu Shengli, đã trực tiếp tham gia vào cuộc tập trận


này, một sự kiện hiếm thấy. Việc các tàu từ ba hạm đội hải quân tham gia đã cho
thầy quy mô của cuộc tập trận mà giới truyền thông Trung Quốc khẳng định là
chưa từng có tiền lệ.

3.2.7. Vào tháng 8, Việt Nam đã buộc tội Trung Quốc tiến hành các vụ thăm

dò địa chất gần đảo Hoàng Sa và trên thềm lục địa của Việt Nam. Điều này lại gây
thêm căng thẳng giữa hai quốc gia. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam bà
Nguyễn Phương Nga đã khẳng định rằng các tàu Trung Quốc đã tiến hành các hoạt
động thăm dò địa chất từ cuối tháng 5. Tất cả các động thái này có thể cho thấy
một chiến lược phối hợp nhằm khẳng định sự hiện diện mạnh hơn trên Biển Đông
hoặc có thể hơn, đây là các động thái riêng rẽ của các thế lực khác nhau và để phản
ứng với những sự kiện khác nhau.


CHƯƠNG 4: Hướng đi trong tương lai của Việt Nam cho
tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc
3.2.8.

3.2.9. Các cuộc đối đầu quân sự trong khu vực hẳn là điều mà các quốc gia

tranh chấp trên Biển Đông đều không muốn xảy ra. Vì thế, một giải pháp để giải
quyết cuộc tranh chấp này là rất cần thiết, bởi vì việc giữ nguyên trạng (status quo)
là rất nguy hiểm, gây bất ổn bởi nó thúc đẩy các bên yêu sách hành động đơn
phương, như vậy nó lại tạo cơ hội cho các cường quốc bên ngoài tham gia vào.
Hơn thế nữa, khó có thể giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông trong tương lai
gần, vì vậy Việt Nam cần xác định hướng đi đúng đắn và lâu dài. Có nhiều giải
pháp được đưa ra bởi các chuyên gia mà Việt Nam có thể áp dụng
3.2.10.

4.1. Giải quyết thông qua tòa án quốc tế

Trong thế giới văn minh hiện nay, pháp luật đã trở thành nền tảng
cho ứng xử giữa các quốc gia.Việt Nam, là nước nhỏ, cần phải tận dụng phương

tiện và lý luận luật pháp để bảo vệ chủ quyền của mình.Việt Nam cần đào tạo và
huy động các chuyên gia luật quan tâm và tham gia vào việc bảo vệ chủ quyền trên
Biển Đông.
3.2.11.

Theo điều 287 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982
thì vấn đề tranh chấp này có thể đưa ra Tòa án Quốc tế về Luật biển (thành lập
theo phụ lục VI), Tòa án Quốc tế (ICJ), Tòa án trọng tài (thành lập theo phụ lục
VII) và Tòa án đặc biệt (phụ lục VIII).
3.2.12.

Thực tế trong lịch sử đã có nhiều cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa
các quốc gia đã được đưa ra phân xử tại Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ), đặc biệt là
các cuộc tranh chấp biên giới như vụ eo biển Corfu, vụ ngư trưởng Na Uy, vụ các
đảo Minquiers và Ecrehous hay vụ thềm lục địa biển Bắc… Trước đây đã có lần
Việt Nam tỏ rõ thái độ sẵn sàng đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông ra nhờ Tòa án
quốc tế phân xử. Đó là vào năm 1988, khi xung đột quân sự giữa hai nước tại khu
vực Biển Đông dâng cao hay vào năm 1994, khi bầu không khí căng thẳng tại khu
vực này tiếp tục leo thang.
3.2.13.

Tuy nhiên, Tòa án quốc tế chỉ có thể giải quyết dựa trên cơ sở sự
chấp thuận đưa vụ việc ra tòa của các quốc gia tham gia tranh chấp. Trung Quốc
luôn có ý lảng tránh việc này và một bất lợi có thể thấy rõ của ta ở chỗ Trung
Quốc là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an có quyền phủ quyết bất kỳ
giải pháp nào mà Hội đồng đưa ra.
3.2.14.

Nhưng không phải hết hi vọng, tại hội thảo quốc tế về Biển Đông
tháng 11/2009, PGS – TS Nguyễn Bá Diến, Giám đốc Trung tâm Luật biển và

khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội trình bày tham luận “Áp dụng nguyên tắc thụ
3.2.15.


đắc lãnh thổ trong luật quốc tế giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông”.
Nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ (chiếm hữu thực sự) là một tập quán quốc tế. Hơn 100
năm nay, Tòa án Công lý quốc tế cho đến trọng tài quốc tế giải quyết tranh chấp về
biển, đảo, lãnh thổ đều áp dụng nguyên tắc này như vụ tranh chấp quần đảo
Falmas giữa Hoa Kỳ và Hà Lan năm 1928, tranh chấp các đảo Minquiers và
Écrehous giữa Anh và Pháp năm 1953…
Nội dung của nguyên tắc: Một quốc gia được coi là chiếm hữu
một vùng đất, vùng biển, đảo nào đó phải thỏa mãn bốn yếu tố. Thứ nhất là chiếm
hữu một cách hòa bình chứ không phải bằng vũ lực, quân sự.Thứ hai là công bố
công khai, đàng hoàng cho các quốc gia khác biết.Thứ ba là chiếm hữu liên tục,
không gián đoạn.Thứ tư là chiếm hữu bằng hình thức nhà nước, tức là việc chiếm
hữu đó phải được thực thi bởi cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước. Tòa án quốc
tế có thể dựa vào nguyên tắc này để phân định cụ thể ai là người có danh nghĩa
chiếm hữu đầu tiên, quốc gia nào có danh nghĩa quyền lãnh thổ đối với các vùng ở
Biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa.
3.2.16.

Còn một vấn đề khác đó là Tòa án quốc tế có thể chấp nhận giải
quyết đơn kiện đơn phương với điều kiện các quốc gia trước đó phải ký vào điều
khoản chấp nhận thẩm quyền của Tòa án quốc tế. Nhưng cả Việt Nam và Trung
Quốc, Indonesia đều không ký vào điều khoản này. Như vậy, việc Việt Nam đơn
phương kiện ra Tòa án quốc tế là điều không thể. Chính vì vậy, điều cần nhất là
phải kêu gọi Trung Quốc và cộng đồng quốc tế phải lên tiếng buộc Trung Quốc
cùng đưa vấn đề ra Tòa án quốc tế để giải quyết. Và điều cần thiết là Việt Nam
phải chuẩn bị tâm lý vững chắc cũng như lí luận sắc bén cùng bằng chứng thuyết
phục để có thể có được lợi thế khi ra tòa.

3.2.17.

3.2.18.

4.2. Hợp tác cùng khai thác chung

Trung Quốc đưa ra lập trường cứng rắn với lập luận rằng 80%
diện tích Biển Đông thuộc về lãnh thổ của họ nhưng yêu sách này không hề có cơ
sở pháp lí trong luật pháp quốc tế hiện đại hay luật biển quốc tế năm 1982 và bị
quốc tế chỉ trích. Thế nhưng, Trung Quốc với ưu thế quân sự và chính trị cường
quốc của mình luôn bộc lộ ý định chống lại các cuộc đàm phán đa phương về quần
đảo Trường Sa. Nước này luôn muốn thực hiện các cuộc đàm phán song phương
bởi vì Trung Quốc với sức mạnh của mình sẽ dễ dàng “bẻ gãy từng chiếc đũa” hơn
là “một bó đũa”, và như vật Trung Quốc luôn chiếm thế “thượng phong” trên bàn
đàm phán. Với tình hình như vậy thì giải pháp tiếp theo cần cân nhắc đó là phân
định biển hoặc cùng nhau khai thác chung.
3.2.19.

Khai thác chung không phải mô hình mới, trên thế giới đã có
nhiều khu vực áp dụng hình thức này, điển hình là Hiệp ước Svalbard ngày
19/12/1920, theo đó các bên tranh chấp công nhận chủ quyền của Na Uy đối với
quần đảo Svalbard, trong khi duy trì quyền tiếp cận hiện hữu của các quốc gia
3.2.20.


khác đối với quần đảo này nhằm mục đích thực hiện việc khai thác, săn bắt và các
hoạt động kinh tế khác. Hay một số Hiệp ước khác như Thỏa thuận khai thác
chung giữa Papua New Guinea và Australia năm 1978, Na Uy và Anh ở biển Bắc,
Arab Saudi và Sudan, Thailand và Malaysia, Australia và Indonesia, Việt Nam và
Malaysia. Tuy nhiên, thỏa thuận về khai thác chung chỉ là giải pháp mang tính tạm

thời nhằm giảm xung đột giữa các bên tranh chấp và với mục đích phát triển nguồn
tài nguyên mà thôi. Thỏa thuận này không được làm ảnh hưởng tới yêu sách về
chủ quyền lãnh thổ cũng như các quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên
biển.
Trên thực tế, Việt Nam đã và đang thực hiện phương án “hợp tác
cùng phát triển” được đưa ra lần đầu vào tháng 10/1993 trong chuyến thăm chính
thức Thái Lan của Tổng bí thư Đỗ Mười. Với phương án này, Việt Nam đề xuất
hợp tác cùng phát triển trong các khu vực tranh chấp bao gồm không chỉ thăm dò,
khai thác tài nguyên mà còn bao gồm các lĩnh vực khác như bảo vệ môi trường
biển, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, giữ gìn an toàn và an
ninh hàng hải, chống cướp biển… và các lĩnh vực khác phù hợp với lợi ích của các
bên liên quan. Đây được coi là phương án phù hợp và được tiến hành khá thuận lợi
do đã đáp ứng được các tiêu chí về việc xác định vùng thực sự có tranh chấp…
3.2.21.

Những thành công của phương án hợp tác cùng phát triển cho
thấy một điều rằng, nếu các quốc gia quyết tâm và thiện chí cũng như tuân thủ các
nguyên tắc hợp tác đã định thì chắc chắn lợi ích của tất cả các nước đối với biển
Đông sẽ được đảm bảo, đồng thời nguyện vọng biến Biển Đông thành khu vực hòa
bình, hợp tác và thịnh vượng sẽ trở thành hiện thực. Chính vì vậy, Việt Nam cần
tiếp tục phát huy những kết quả đạt được cũng như thúc đẩy hơn nữa việc triển
khai phương án này.
3.2.22.

Ngoài hai phương án giải quyết vấn đề Biển Đông nêu ở trên,
Việt Nam cần phải nỗ lực không ngừng nâng cao vị thế của mình trên trường quốc
tế, đặc biệt chú ý đến tương quan với Trung Quốc. Hơn nữa, Việt Nam cần hết sức
bén nhạy với cán cân quyền lực trong khu vực và phải lập tức mạnh dạn điều chỉnh
chiến lược đối ngoại khi tương quan lực lượng trong khu vực biến đổi bất lợi cho
mình. Đây là vấn đề không thể giải quyết trong một sớm một chiều vì vậy, Việt

Nam cần kiên định và tự tin cũng như phải tuyên truyền nâng cao nhận thức của
người dân trong nước về vấn đề này cũng như kêu gọi sự lên tiếng của cộng đồng
quốc tế.
3.2.23.


C.

KẾT LUẬN

Cuộc tranh chấp Biển Đông vẫn đang là một tranh chấp phức tạp, khó
giải quyết, và chừng nào mà tranh chấp này vẫn còn tồn tại thì khu vực vẫn bị đe
dọa bởi sự mất ổn định. Những tranh chấp trên các khu vực biển Đông, đặc biệt là
khu vực hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thể hiện sự đan xen, cân nhắc thể hiện
cả chính sách đối nội và đối ngoại. Các quốc gia không dễ dàng từ bỏ chủ quyền
của mình đối với các khu vực này.Chủ quyền đều được mỗi quốc gia quan niệm là
đặc biệt thiêng liêng.Chính vì vây, hiện nay các giải pháp cho việc giải quyết vấn
đề chủ quyền cho các bên yêu sách vẫn còn mờ mịt, chưa có lối ra. Để đi đến một
giải pháp lâu dài cho cuộc tranh chấp, các quốc gia có liên quan phải sẵn sàng
không quá đề cao tinh thần dân tộc, giảm bớt sự nghi kỵ lẫn nhau và chấp nhận
nhân nhượng, thỏa hiệp. Điều này sẽ dẫn đến sự hợp tác, cùng có lợi.
3.2.24.

Cho đến nay, một số cuộc thương lượng nhằm đi đến thỏa thuận về việc
phát triển tài nguyên tại một số vùng tranh chấp khác nhau trên thế giới đã mang
lại kết quả và được coi như là những khuôn mẫu cho việc quản lý phát triển tài
nguyên trong Biển Đông. Cũng giống như tranh chấp biển Đông, mỗi thỏa thuận
đều nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền, quyền tài
phán biển, những tính toàn về địa chiến lược và quyền tiếp cận các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Qua các thỏa thuận này, chúng ta có thể học hỏi được nhiều

điều về những cách thức và biện pháp mà những thỏa thuận này đã xử lý đối với
vấn đề chủ quyền hóc búa, cũng như vấn đề phạm vi và chiều hướng của các
quyền, những nhiệm vụ và trách nhiệm của các bên liên quan.
3.2.25.

Đối với tranh chấp biển Đông, cũng đã có nhiều ý tưởng, đề xuất về
những giải pháp tạm thời cụ thể: từ mức độ xây dựng lòng tin, đến quản lý cùng
khai thác tài nguyên chung tại khu vực này. Trong khu vực biển Đông, nhiều mô
hình hợp tác chung rất thành công, nhưng cũng không ít mô hình sẽ mãi mãi không
thể trở thành hiện thực. Qua phân tích về những trường hợp hợp tác nói trên,
những mô hình hợp tác thành công phải thỏa mãn đước các điều kiện sau:
3.2.26.

1) Đáp ứng được nhu cầu và lợi ích chung của các bên.
2) Việc khai thác chung được thực hiện trong một khu vực chồng lấn được

xác định rõ ràng, tạo bởi các tuyên bố chủ quyền của các bên phù hợp
với luật pháp quốc tế - đây là tiêu chí quan trọng nhất trong bất kỳ thỏa
thuận khai thác chung nào
3) Cơ chế, phương thức hợp tác khai thác chung trên cơ sở luật pháp quốc
tế. Tranh chấp Biển Đông là một trong những tranh chấp phức tạp nhất
thế giới, vì thế không có một mô hình nào hay phương thức hợp tác
chung duy nhất nào có thể áp dụng thành công ở biển Đông. Trong đó,
điều quan trọng nhất là hợp tác khai thác chung phải đảm bảo phân chia
lợi ích của các bên một cách bình đẳng


×