BM 01-Bia SKKN
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Người thực hiện:
NGUYỄN THỊ MINH HUỆ
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn: .............................
(Ghi rõ tên bộ môn)
- Lĩnh vực khác: .......................................................
(Ghi rõ tên lĩnh vực)
Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
Hiện vật khác
BM02-LLKHSKKN
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: NGUYỄN THỊ MINH HUỆ
2. Ngày tháng năm sinh: 10- 01- 1965
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: 803, khu 5, ấp 2, xã An Hòa, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
5. Điện thoại: 061.3834289 (CQ)/
6. Fax:
(NR); ĐTDĐ: 01232591888
E-mail:
7. Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 1987
- Chuyên ngành đào tạo: ĐHSP Ngữ văn và Cử nhân Giáo dục Chính trị
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Quản lý trường học.
Số năm có kinh nghiệm: 15
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
o Để dạy tốt tiết thực hành giáo dục công dân lớp 12: Ngoại khóa về các chính
sách xã hội ở địa phương Đồng Nai.
o Một số biện pháp để nâng cao chất lư ng học tập bộ môn văn cho học sinh
lớp 12
o Công tác chủ nhiệm lớp ở trường Trung Học Phổ Thông.
o Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lư ng giáo dục đạo đức cho
học sinh ở trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, Biên Hòa, Đồng Nai
o Một số giải pháp quản lý giáo dục học sinh chưa ngoan ở trường THPT
Nguyễn Hữu Cảnh, Biên Hòa, Đồng Nai
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở TRƯỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH
THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và thế giới có những biến
đổi to lớn, nhanh chóng, với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, kỹ thuật và công
nghệ, sự hình thành nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá trở thành một xu hướng tất
yếu khách quan. Điều đó đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho giáo dục Việt
Nam. Trong bối cảnh ấy, chiến lư c phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia là
chiến lư c phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực. Chính vì thế, Nghị
quyết 40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc Hội khóa X đã khẳng
định mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là “Xây dựng
nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới
nhằm nâng cao chất lư ng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực phục vụ đất nước, phù h p với thực tiễn và truyền thống
Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu
vực và trên thế giới ”
Chiến lư c phát triển giáo dục 2011-2020 đã khẳng định “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lư ng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Chủ trương đổi mới nội dung chương trình
giáo dục phổ thông hiện nay cũng nhấn mạnh yêu cầu tăng cường giáo dục hướng
nghiệp (GDHN) nhằm góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc phân luồng học
sinh (HS), chuẩn bị cho HS đi vào cuộc sống lao động hoặc đư c tiếp tục đào tạo
phù h p với năng lực bản thân và nhu cầu xã hội.
Hoạt động GDHN cho HS phổ thông ở nước ta còn rất yếu. Tuy đư c nhà
nước chính thức xác định bởi quyết định 126/CP, ngày 19/3/1981 của Hội đồng
chính phủ “Về công tác Hướng nghiệp trong trường Phổ thông và việc sử dụng
học sinh các cấp PTCS và PTTH tốt nghiệp ra trường”; ngày 05/5/2006, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình hoạt động GDHN cấp THPT nhưng
thực tế hiện nay cho thấy việc lực chọn nghề của học sinh THPT vẫn còn nhiều
vấn đề chưa h p lý, chưa phù h p với nhu cầu phát triển của kinh tế- xã hội của
đất nước. Hơn nữa, do nhiều yếu tố khác nhau như đời sống của người lao động
bấp bênh, do khủng hoảng kinh tế và lạm phát tiền tệ, người dân không muốn cho
con em mình vào một số nghề mà thu nhập quá thấp lại không có tương lai phát
triển. Từ đó, nhiều phụ huynh có ý thức cho con em chạy đua vào đại học, cao
đẳng. Xu thế tách học với hành, giáo dục với lao động sản xuất tăng lên. Vai trò
của công tác hướng nghiệp dần dần bị coi nhẹ. Tâm lý trọng bằng cấp, học để
“làm quan”, “trọng thầy hơn trọng th ” vẫn còn khá nặng nề trong mỗi con người
trong xã hội. Đồng thời, thực tế ấy cũng phản ánh công tác hướng nghiệp và phân
luồng HS của chúng ta còn yếu kém, chưa định hướng nghề nghiệp đư c cho HS,
nên việc chọn nghề chỉ theo cảm tính, mang nặng tính chủ quan, phiến diện thiếu
thực tế. Đa số HS không có sự hiểu biết về thế giới nghề nghiệp. Các em không
biết nghề mình chọn có những đặc điểm, yêu cầu gì về năng lực, phẩm chất;
tương lai phát triển của ngành nghề đó ở địa phương và trong cả nước ra sao và
không tự đánh giá đư c bản thân cũng như hoàn cảnh gia đình mình có phù h p
với nghề ấy hay không.
Với tình trạng trên, HS không chọn đư c nghề phù h p, xã hội mất cân đối
nghiêm trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực, việc “thừa thầy thiếu th ”, học nghề
không phù h p đưa đến việc bỏ nghề phổ biến ở các địa phương, cơ cấu ngành
nghề gây sức ép rất nặng nề trong các kỳ thi tuyển sinh và sự lãng phí lớn về thời
gian, sức khoẻ, tiền bạc của nhà nước và nhân dân. Để giải quyết vấn đề trên, cần
phải có sự tham gia của các cấp chính quyền, các ngành, các tổ chức đoàn thể xã
hội, trong đó hoạt động GDHN của ngành giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng.
Trong những năm qua, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai đã có
nhiều cố gắng trong việc phát triển mạng lưới trường lớp, nâng cao số lư ng, chất
lư ng đội ngũ giáo viên, công tác hướng nghiệp đã đư c quan tâm một bước. Tuy
nhiên, chất lư ng của hoạt động GDHN trong các trường THPT chưa cao. Hầu
như các trường chưa thấy đư c vị trí, tầm quan trọng của hoạt động này nên chỉ
thực hiện một cách qua loa, chiếu lệ. Việc định hướng cho phụ huynh và con em
họ chọn con đường nào để có một vị trí thích h p trong đời sống kinh tế - xã hội
sau này chưa đư c giải đáp thoả đáng. Qua nhiều năm công tác và giảng dạy ở
trường THPT, vừa làm công tác quản lý vừa trực tiếp hướng dẫn học sinh THPT
về công tác hướng nghiệp, tôi rút ra một số kinh nghiệm cũng như đề xuấtmột số
giải pháp quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông để
định hướng cho học sinh sau khi tốt nghiệp ra trường. Vì vậy, tôi chọn đề tài:
“Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT
Nguyễn Hữu Cảnh, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai”.
II.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG
NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Giáo dục hướng nghiệp là một trong những bộ phận quan trọng trong giáo
dục phổ thông, là nền tảng để phát triển nguồn nhân lực.
1.1. Các khái niệm cơ bản:
1.1.1.Khái niệm về hướng nghiệp:
Hướng nghiệp là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục học, y học,
xã hội học, kinh tế học v.v…nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn đư c nghề vừa phù
h p hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng đư c
nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
Một số khái niệm khác về hướng nghiệp:
Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ tr mọi cá nhân chọn lựa và phát
triển chuyên môn nghề nghiệp phù h p nhất với khả năng của cá nhân đồng thời
thỏa mãn nhu cầu, nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nông nghiệp ở cấp độ địa
phương và quốc gia.
Hướng nghiệp nhằm mục đích phân bố h p lý và sử dụng hiệu quả lực
lư ng lao động dự trữ có sẵn của đất nước.
Hiểu hướng nghiệp trên bình diện xã hội: Toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp,
công trường, nông trường, các cơ quan quản lý kinh tế và quản lý nhà nước, các
cơ quan của những đoàn thể chính trị, xã hội … đều cần đến những người có năng
lực và phẩm chất nhân cách phù h p. Để chọn đư c những người theo đúng
những tiêu chuẩn đã định theo những chỉ số khách quan, những cơ quan tổ chức
nói trên có nhiệm vụ làm cho thế hệ trẻ hiểu đư c nội dung, tính chất, đặc điểm,
điều kiện…công tác của mình, giúp cho họ tìm hiểu những nghề nghiệp, chuyên
môn mà mình cần tuyển chọn. Cuối cùng, những cơ quan, cơ sở sản xuất phải tiến
hành lựa chọn người trên cơ sở nguyện vọng và dự định của họ.
Hiểu hướng nghiệp trên bình diện trường phổ thông: hướng nghiệp trong
trường phổ thông đư c thể hiện như một hệ thống tác động sư phạm nhằm làm
cho các em học sinh chọn đư c nghề một cách h p lý.
Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông là một bộ phận trong
công tác hướng nghiệp của toàn xã hội. Vì vậy, công tác hướng nghiệp trong
trường phải thống nhất với công tác hướng nghiệp trong xã hội. Nhà trường của
chúng ta có tính chất hướng nghiệp vì toàn bộ chương trình, nội dung, kế hoạch
đào tạo, phương pháp đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nhà trường
đều quán triệt và thể hiện tinh thần hướng nghiệp. Trong quá trình đào tạo ở
trường phổ thông, trẻ em đều chịu những tác động hướng nghiệp, đều đư c chuẩn
bị sẵn sàng để tham gia lao động nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp THCS, THPT.
1.1 .2. Khái niệm giáo dục hướng nghiệp:
GDHN là một hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà trường, gia đình, xã
hội nhằm chuẩn bị cho HS phổ thông những hiểu biết về nghề nghiệp, có lý
tưởng nghề nghiệp trong sáng, có thái độ đúng đối với lao động, sẵn sàng đi vào
những nghề, những nơi cần lao động trẻ tuổi, có văn hóa.
GDHN là một bộ phận của giáo dục toàn diện, thông qua giáo dục hướng
nghiệp, mỗi học sinh có sự hiểu biết về tính chất của ngành nghề mà mình hướng
tới, biết phân tích thị trường hoạt động và sự đào tạo nghề tương ứng. Từ đó mỗi
học sinh tự xác định đư c đâu là nghề nghiệp phù h p hoặc không phù h p.
1.1.3. Giải pháp quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường trung
học phổ thông.
Nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác động nhằm thay đổi,
chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái nhất định… nhằm đạt
đư c mục đích hoạt động. Giải pháp càng thích h p, càng tối ưu, càng giúp con
người nhanh chóng giải quyết đư c những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để có đư c
những giải pháp như vậy, cần phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đáng
tin cậy.
Giải pháp quản lý giáo dục là những cách thức tác động của chủ thể quản
lý hướng vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra của hệ thống giáo dục, làm cho
hệ thống đó vận hành đạt đư c kết quả mong muốn.
Giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp là những cách thức tác
động của chủ thể quản lý hướng vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra của công
tác GDHN, để hoạt động GDHN vận hành đạt đư c kết quả mong muốn.
1.2. Một số vấn đề GDHN ở trường THPT:
1.2.1. Mục tiêu GDHN ở trường THPT:
Theo nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 40/2000/QH10 ngày
9/2/2000 của Quốc hội và chỉ thị 14/2001/CT-TTg ngày 11/6/2001 của Thủ
tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm nâng cao chất
lư ng toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành chỉ thị 33/2003/CTBGD& ĐT về tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm
tăng cường giáo dục hướng nghiệp, góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc phân
luồng học sinh, chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống lao động hoặc đư c tiếp tục
đào tạo phù h p với năng lực bản thân và nhu cầu của xã hội.
Quản lý giáo dục hướng nghiệp là quản lý các hệ thống những biện pháp
dựa trên cơ sở khoa học để giúp đỡ học sinh chọn nghề phù h p với nhu cầu xã
hội. Nó là cả một hệ thống các biện pháp mà người tổ chức cần đưa vào đó để
giúp học sinh định hướng nghề chứ không phải đơn thuần chỉ là dạy nghề.
1.2.2. Tầm quan trọng của công tác GDHN ở trường THPT:
Công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT là giúp học sinh biết về
thế giới nghề nghiệp, hình thành nhân cách nghề nghiệp; giáo dục thái độ đúng
đắn đối với lao động, tạo sự sẵn sàng tâm lý đi vào lao động nghề nghiệp. Qua
công tác GDHN sẽ góp phần phân luồng HS sau khi tốt nghiệp THPT dựa vào
khả năng học tập, khả năng về kinh tế để chọn nghề phù h p đồng thời giúp HS tự
giác đi học nghề làm giảm sự thuyên chuyển nghề, giảm sự thất nghiệp, giảm tệ
nạn xã hội, ổn định đư c xã hội.
1.2.3. Nhiệm vụ của GDHN:
Nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông đư c ghi rõ
trong quyết định số 126/CP của Hội đồng chính phủ” Công tác hướng nghiệp các
trường phổ thông gồm các nhiệm vụ sau đây:
Giáo dục thái độ lao động và ý thức đúng đắn đối với nghề nghiệp;
Tổ chức cho học sinh làm quen với một số nghề phổ biến trong xã hội và
các nghề truyền thống ở địa phương;
Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng học sinh để
khuyến khích, hướng dẫn và bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích h p nhất;
Động viên học sinh đi vào những nghề, những nơi mà xã hội đang cần có
lao động trẻ tuổi và có văn hóa .
1.2.4. Nội dung của GDHN ở trường THPT:
Nội dung hướng nghiệp nói chung gồm có 3 khâu: Định hướng nghề
nghiệp, tư vấn hướng nghiệp và tuyển chọn nghề nghiệp. Ba nội dung trên quan
hệ chặt chẽ với nhau, hỗ tr lẫn nhau, trong đó tư vấn hướng nghiệp là cầu nối
giữa hai nội dung định hướng nghề nghiệp và tuyển chọn nghề nghiệp. Trong
chương trình phổ thông, nhà trường tiến hành 2 nội dung: Định hướng nghề
nghiệp và tư vấn nghề nghiệp. Sau đây là sơ đồ nội dung hướng nghiệp:
Định hướng
nghề nghiệp
Tuyển chọn
nghề nghiệp
Tư vấn
hướng nghiệp
Sơ đồ nội dung hướng nghiệp
Định hướng nghề nghiệp nhằm cung cấp cho HS những thông tin về tình
hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương; về nhu cầu sử dụng
lao động ; về thế giới nghề nghiệp; về sự hoạt động của những ngành cơ bản,
nghề chủ yếu và những yêu cầu chủ yếu đối với người lao động. Trên cơ sở đó,
giúp HS biết đánh giá bản thân và lựa chọn nghề nghiệp một cách có ý thức.
Tư vấn hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp tâm lý – giáo dục để
đánh giá toàn bộ những phẩm chất, năng lực thể chất và tinh thần của thanh thiếu
niên, đối chiếu những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, có xem xét
đến nhu cầu nhân lực của các thành phần kinh tế nhằm xác định nhóm nghề phù
h p, trên cơ sở đó cho HS những lời khuyên chọn nghề có căn cứ khoa học, loại
bỏ những trường h p may rủi, thiếu hiểu biết trong việc chọn nghề.
Tuyển chọn nghề nghiệp là xuất phát điểm, từ yêu cầu của nghề để tuyển
chọn đư c người phù h p vào học hay làm việc.
Trong nhà trường phổ thông, giáo dục hướng nghiệp có các nội dung sau:
- Cung cấp thông tin nghề: giúp HS có đư c bức tranh tổng thể về thế giới
nghề nghiệp, có hiểu biết về cơ bản một số nghề cụ thể.
- Cung cấp thông tin về thị trường lao động của địa phương, khu vực và của
đất nước.
- Giúp HS tự tìm hiểu năng lực bản thân liên quan đến các tiêu chí nghề
nghiệp.
- Cho HS lời khuyên chọn ngành học, nghề làm có cơ sở khoa học.
1.2.5. Hình thức của GDHN ở trường THPT
Trong các trường phổ thông, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh có nhiều
hình thức khác nhau nhưng phổ biến qua các hình thức sau:
1.2.5.1. Hướng nghiệp thông qua các môn văn hóa:
Học sinh THPT chuẩn bị bước vào cuộc sống tham gia lao động sản xuất
và đào tạo nghề, nhà trường ngoài việc cung cấp những kiến thức cơ bản qua các
môn học tự nhiên xã hội còn cung cấp những tri thức chung nhất về ngành nghề
trong xã hội. Vì vậy, thông qua các môn học nhằm khai thác giữa chúng với
ngành, nghề là một trong những biện pháp hướng nghiệp quan trọng. Quá trình
đó làm cho bài giảng gắn liền cuộc sống, mở rộng tầm nhìn nghề nghiệp của
học sinh, kích thích học sinh hăng say học tập. Do đó, hướng nghiệp thông qua
các môn học nâng cao chất lư ng dạy và học .
1.2.5.2. Hướng nghiệp qua dạy học môn Công nghệ và lao động sản xuất.
Là môn khoa học ứng dụng kỹ thuật có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh
những nguyên lý cơ bản về kỹ thuật, công nghệ khoa học và quản lý tổ chức sản
xuất ; minh họa ứng dụng của các nguyên lý khoa học- kỹ thuật trong các quá
trình sản xuất tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận với các hoạt động ngành nghề
khác nhau trong xã hội. Do đó, kỹ thuật là con đường quan trọng để thực hiện
giáo dục kỹ thuật tổng h p và hướng nghiệp, nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ năng
lực, dịch chuyển lao động trong điều kiện lao động đổi mới về nội dung và giáo
dục sự chọn nghề một cách có ý thức.
Vì vậy, truyền thụ kiến thức kỹ thuật tạo điều kiện thuận l i cho công tác
giáo dục tư tưởng, chính trị, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, giáo dục lao động,
định hướng thế hệ trẻ vào phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.5.3. Hướng nghiệp qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp:
Việc giới thiệu nghề cho học sinh thông qua các bài học chỉ có thể kết h p trong
quá trình dạy những chương, bài liên quan trực tiếp tới ngành nghề và việc thông
tin về từng ngành nghề. Do đó, các buổi sinh hoạt hướng nghiệp, giới thiệu nghề
cho học sinh có hệ thống nhằm làm cho học sinh có hiểu biết về cơ cấu kinh tế
đất nước và địa phương, nhu cầu sử dụng lao động dự trữ xã hội, những hiểu biết
về những ngành nghề cơ bản và nghề truyền thống của địa phương. Trên cơ sở
đó, hướng dẫn học sinh lựa chọn hướng học tập và nghề nghiệp phù h p với năng
lực cá nhân đáp ứng những yêu cầu của xã hội
Theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sinh hoạt hướng nghiệp đư c
tiến hành một tiết trong một tháng để giới thiệu, tuyên truyền, giải thích ngành
nghề. Khi giới thiệu cần tập trung vào một số điểm cơ bản như: vị trí, vai trò, triển
vọng, những hoạt động cơ bản của nghề, phẩm chất, năng lực lao động cần có,
những môn học cần thiết đối với nghề. Nhà trường tự sưu tầm, sử dụng tài liệu,
sách tham khảo… dựa vào các cơ sở sản xuất, cán bộ kỹ thuật của địa phương để
giới thiệu nghề cho HS.
1.2.5.4. Hướng nghiệp qua hoạt động ngoại khóa:
Hoạt động ngoại khóa phục vụ hướng nghiệp bao gồm những hình thức
sau: tổ hoạt động ngoại khóa bộ môn ( sinh học, vật lý, hóa học, toán, kỹ thuật…),
tham quan sản xuất, tọa đàm nghề nghiệp, hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngành
nghề. Mỗi hình thức đư c tổ chức tốt có tác dụng giới thiệu nghề, phát triển hứng
thú nghề nghiệp, hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngành nghề, làm quen với các dạng
lao động khác nhau nhằm giáo dục cho học sinh thái độ đúng đắn với lao động,
đối với nghề nghiệp; cung cấp những kiến thức cần thiết và tối thiểu của một số
ngành, nghề của địa phương, nghề truyền thống của địa phương; phát triển hứng
thú nghề nghiệp và tổ chức cho học sinh làm quen với sản xuất, hướng dẫn các
em đi vào hoạt động nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp ra trường.
Các hình thức hướng nghiệp trên tiến hành trong mối kết h p chặt chẽ với
nhau sẽ góp phần nâng cao chất lư ng giáo dục toàn diện cho học sinh THPT.
1.2.5.5. Hướng nghiệp qua việc giới thiệu ngành nghề:
Để giúp học sinh hiểu về ngành nghề, các trường THPT tổ chức các buổi
tư vấn tuyển sinh, mời cán bộ đào tạo của các trường Đại học, Cao đẳng, TCCN
giới thiệu, tuyên truyền, giải thích ngành nghề. Nội dung chủ yếu của những buổi
tư vấn này là giới thiệu cho học sinh khái quát về những ngành nghề cơ bản, chỉ
tiêu tuyển sinh, vị trí vai trò, triển vọng củangành nghề, những phẩm chất năng
lực lao động cần có, những môn học phổ thông cần thiết đối với nghề.
Ngoài ra, nhà trường sưu tầm sử dụng tài liệu, sách báo, tranh ảnh, phim,
truyền hình, dựa vào các cơ sở sản xuất, phụ huynh học sinh, cán bộ kỹ thuật của
địa phương để giới thiệu nghề cho học sinh.
Các hình thức trên là định hướng chung cho tất cả các trường THPT. Tuy
nhiên, do đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội ở các vùng miền khác nhau, nên một
số trường đã có thêm các cách tổ chức GDHN rất phong phú, đa dạng, phù h p
với địa phương mình.
1.3. Quản lý công tác GDHN ở trường THPT:
1.3.1. Mục tiêu của quản lý GDHN: Quản lý GDHN góp phần tích cực và
có hiệu quả vào việc phân luồng học sinh, chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống
lao động hoặc tiếp tục đào tạo phù h p với năng lực bản thân và nhu cầu xã hội.
1.3.2. Nội dung quản lý công tác GDHN
Quản lý hoạt động GDHN là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, h p qui luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức, điều khiển và quản lý hoạt
động GDHN của những người làm công tác giáo dục nhằm giúp cho HS sau khi
ra trường có thể chọn đư c nghề nghiệp phù h p với năng lực bản thân, hoàn
cảnh gia đình và điều kiện kinh tế xã hội của địa phương và đất nước.
Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đào tạo không ngừng đổi mới
nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy…nhằm mục đích nâng cao chất
lư ng dạy-học và giáo dục để đào tạo ra các thế hệ con người Việt Nam đáp ứng
đư c những yêu cầu của thời đại…
Chất lư ng GDHN là vấn đề không chỉ ngành giáo dục mà cả xã hội hiện
nay đều quan tâm. Nâng cao chất lư ng hoạt động GDHN là một bộ phận của
nâng cao chất lư ng giáo dục hướng đến mục tiêu: giúp HS tự giác chọn đư c
nghề trong tương lai không chỉ để kiếm sống mà còn là nơi thể hiện nhân cách,
phát triển tài năng, cống hiến trí tuệ và sức lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT: GDHN là
một môn học mới đư c chính thức đưa vào chương trình giáo dục THPT từ năm
học 2006-2007, nó có nhiều nội dung mới và khá phức tạp. Vì vậy để công tác
GDHN ở các trường THPT có hiệu quả, hiệu trưởng các trường phổ thông cần
thực hiện tốt các nội dung quản lý sau:
1.3.2.1. Quản lý kế hoạch hoạt động GDHN:
Đây là mục tiêu phát triển giáo dục nói chung và giáo dục hướng nghiệp
nói riêng giúp nhà quản lý xác định các giải pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu.
Hiện nay, chương trình GDHN đã đư c Bộ Giáo dục tổ chức biên soạn thành sách
lớp 10,11,12, mỗi lớp có những chủ đề GDHN riêng biệt. Dựa vào chương trình,
kế hoạch đã đư c qui định đó mà hiệu trưởng nhà trường xây dựng kế hoạch cụ
thể công tác GDHN của nhà trường.
1.3.2.2. Quản lý nội dung, chương trình GDHN:
Nội dung cơ bản của công tác GDHN hiện nay trong chương trình THPT là
từng bước giới thiệu cho HS các ngành nghề của địa phương và trong xã hội, làm
cho HS hiểu rõ ý nghĩa của việc chọn nghề, trang bị cho HS kiến thức sơ bộ
nhưng cần thiết về các nghề chủ yếu đối với đối tư ng lao động, công cụ lao
động, sản phẩm làm ra …. Các yêu cầu của nghề đối với lao động, yêu cầu về
thái độ, phẩm chất, sức khỏe; triển vọng của từng nghề; chú ý quan tâm đến
những nghề của xã hội và địa phương có triển vọng phát triển trong những năm
sắp tới.
1.3.2.3. Quản lý các phương pháp, hình thức tổ chức HĐHN:
Trong chương trình hoạt động GDHN, quan điểm xây dựng chương trình
coi HS là chủ thể của hoạt động chọn nghề và tổ chức các hoạt động cho HS
đư c thể hiện rõ: Thầy tổ chức cho các em giao lưu với cơ sở sản xuất, tổ chức
tham quan trường Đại học, Cao đẳng,THCN, tổ chức các buổi hội thảo tranh luận
của lớp, ở nhóm…Như vậy thầy đóng vai trò là người tổ chức, định hướng, điều
khiển các hoạt động của HS, còn HS phải tự mình điều tra thu thập các thông tin
về nghề , trường đào tạo, sự phát triển kinh tế của địa phương, cơ sở sản xuất.
1.3.2.4. Quản lý hoạt động GDHN của giáo viên và các lực lư ng giáo dục
khác:
Đội ngũ tham gia công tác GDHN là chủ thể của quá trình hoạt động, bao
gồm nhiều lực lư ng tham gia. Để thực hiện tốt công tác GDHN, trong nhà
trường phổ thông hiện nay nhất thiết phải xây dựng đư c lực lư ng chuyên
trách, hàng năm nhà trường cần có kế hoạch cử lực lư ng này tham gia các
chương trình tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ do ngành tổ chức.
Tham gia vào công tác GDHN còn có các tổ chức đoàn thể như Đoàn thanh
niên, Hội liên hiệp thanh niện Việt nam. Đây là lực lư ng có số lư ng đông đảo
và hùng hậu trong các trường phổ thông, hoạt động của các tổ chức này phần lớn
gắn liền với các hoạt động phong trào, chính vì vậy nhà trường cần tạo điều kiện
thuận l i cho các tổ chức này hoạt động, tuy nhiên phải xây dựng đư c qui chế
phối h p để đưa đư c các nội dung của công tác GDHN vào trong chương trình
hoạt động của họ.
Ngoài ra do GDHN là một hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà trường,
gia đình, xã hội, vì vậy chủ thể tham gia công tác GDHN còn có nhiều lực lư ng
khác như Ban đại diện cha mẹ HS, và các tổ chức xã hội khác. Nhà trường phải
quan tâm đến việc xây dựng mối quan hệ phối h p chặt chẽ với các tổ chức này
để đem lại hiệu quả cao trong hiệu quả giáo dục nói chung của nhà trường, trong
đó có công tác GDHN.
1.3.2.5. Quản lý hoạt động hướng nghiệp của HS:
Là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện của HS trong
quá trình học tập thông qua việc kiểm tra đánh giá. Kiểm tra, đánh giá là một
khâu quan trọng không thể thiếu đư c trong quá trình giáo dục.
Nội dung chương trình GDHN đã đư c xây dựng thành những chủ đề cụ
thể trong từng tháng của mỗi năm học. Mặc dù hiện nay việc kiểm tra đánh giá
kết quả hướng nghiệp đối với HS chưa đư c cụ thể hóa thành điểm số để tham gia
vào việc đánh giá kết quả giáo dục các mặt, nhưng để GDHN ngày càng có ý
nghĩa thiết thực thì cuối mỗi chủ đề sinh hoạt hướng nghiệp, giáo viên cần đánh
giá quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu
học tập của HS nhằm tạo cơ sở cho các quyết định sư phạm của giáo viên và
nhà trường, cho bản thân HS để các em học tập ngày càng tiến bộ hơn. Đồng
thời qua đó nhà trường cũng đánh giá đư c hiệu quả hoạt động GDHN diễn ra
trong nhà trường như thế nào.
1.3.2.6. Quản lý các điều kiện phục vụ hoạt động GDHN:
Các điều kiện phục vụ cho quá trình dạy học – giáo dục nói chung gồm
nhiều loại, chung qui lại đó là cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và nguồn tài chính.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất- thiết bị dạy học chỉ phát huy đư c tác dụng nếu như
nó thực sự trở thành một nhân tố của quá trình giáo dục; cơ sở vật chất – thiết bị
dạy học phải phù h p với các nhân tố khác như: mục đích, nội dung , phương
pháp và hình thức tổ chức giáo dục. Muốn GDHN đạt hiệu quả cao nhà trường
vừa kết h p việc tận dụng nguồn cơ sở vật chất – thiết bị dạy học sẵn có với
việc lập kế hoạch trang bị mua sắm thêm cũng như các biện pháp bảo quản các
thiết bị để sử dụng có hiệu quả bền vững.
GDHN trong nhà trường phổ thông đòi hỏi phải chuẩn bị cho HS có một
tiềm năng nghề nghiệp để khi học xong phổ thông các em có thể sẵn sàng tham
gia vào thị trường việc làm, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp trong thời kỳ CNHHĐH đất nước.
1.3.3. Phương pháp quản lý công tác GDHN
Phương pháp quản lý là cách thức tác động có thể có và có chủ đích của chủ
thể quản lý đến đối tư ng quản lý và khách thể quản lý để đạt đư c các mục tiêu
quản lý đề ra .
Phương pháp quản lý có vai trò quan trọng quyết định đến sự thành công
hay thất bại trong việc thực hiện các nhiệm vụ. Phương pháp quản lý tạo động lực
kích thích tính năng động, tính sáng tạo của người lao động và các tập thể lao
động .
Người quản lý muốn quản lý có hiệu quả cao phải biết lựa chọn và kết h p
khéo léo các phương pháp quản lý vì: Các phương pháp quản lý đều hướng vào con
người mà con người là “tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”. Mặt khác mỗi
phương pháp quản lý đều có những ưu điểm và như c điểm nhất định. Vì vậy vận
dụng tổng h p các phương pháp thường đạt hiệu quả cao.
Thực hiện các giải pháp quản lý phù h p và đồng bộ các chức năng quản
lý một cách khoa học, thực tiễn sẽ là bước quyết định nâng cao công tác giáo dục
hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông .
2. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Khái quát về những thuận lợi và khó khăn của trường THPT
Nguyễn Hữu Cảnh
2.1.1. Thuận lợi:
Công tác GDHN cho học sinh phổ thông đã đư c Đảng và nhà nước quan
tâm, ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện .
Sở Giáo dục & Đào tạo đã quan tâm chỉ đạo tới hoạt động GDHN. Tổ chức
cho giáo viên đi dự đầy đủ các lớp tập huấn do Bộ tổ chức và cung cấp kịp thời
các loại sách phục vụ giảng dạy.
- Ban giám hiệu đã nhận thức đư c tầm quan trọng của công tác hướng
nghiệp và phân luồng đối với học sinh nên đã chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc
giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Thường xuyên tổ chức cho cán
bộ, giáo viên học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, của nhà nước và của ngành
giáo dục, đặc biệt là các văn bản liên quan đến công tác hướng nghiệp cho HS
phổ thông. Vì vậy, nhận thức của cán bộ giáo viên về công tác này không ngừng
đư c nâng cao.
- Chi bộ Đảng lãnh đạo đúng hướng, tổ chức phối h p hoạt động giữa các
đoàn thể một cách nhịp nhàng, tạo đư c chỗ đứng khá tốt cho công tác hướng
nghiệp trong các hoạt động giáo dục của nhà trường.
- Ban giám hiệu có kinh nghiệm, năng động sáng tạo, luôn tìm tòi huy
động mọi nguồn lực để tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
GDHN; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, mọi công việc đều đư c dân chủ
bàn bạc thống nhất trước khi thực hiện.
- Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm với công việc.
- Tập thể nhà trường luôn đoàn kết, nhất trí thực hiện tốt mọi nhiệm vụ của
nhà trường.
2.1.2. Khó khăn
- Đội ngũ giáo viên không đư c đào tạo bài bản, chưa đư c qua một lớp
học chính quy nào, những kiến thức về hướng nghiệp chỉ đư c thu thập qua vài
lớp tập huấn ngắn hạn trong hè, còn chủ yếu là do tự tìm hiểu nên chất lư ng giáo
dục chưa cao.
- GDHN là hoạt động mới mẻ nên kinh nghiệm quản lý cũng như giảng dạy
còn hạn chế. Việc tổ chức kiểm tra đánh giá hoạt động này gặp nhiều khó khăn vì
là hoạt động không cho điểm học sinh. Bộ giáo dục cũng chưa xây dựng đư c hệ
thống tiêu chí đánh giá có cơ sở khoa học, thường đánh giá bằng định tính chứ
chưa định lư ng.
- Nội dung chương trình môn GDHN từ năm học 2008-2009 đến nay bị
chia ra để tích h p vào môn khác, làm cho việc giảng dạy không liên tục, chia
nhỏ, khó quản lý.
- Cơ sơ vật chất của trường chưa đư c trang bị phòng hướng nghiệp cũng
như các thiết bị chuyên dùng cho công tác tư vấn hướng nghiệp. Hơn nữa giáo
viên chuyên trách tư vấn không có nên việc cho lời khuyên phù h p với HS khi
chọn nghề rất khó thực hiện.
- Chưa xây dựng đư c phương án kiểm nghiệm lời tư vấn để rút kinh
nghiệm nên giáo viên có tư vấn cũng rất sơ bộ và dè dặt khi tư vấn cho HS.
- Việc huy động các lư ng cùng tham gia vào công tác GDHN còn lỏng
lẻo, chưa phát huy cao đư c tinh thần xã hội hóa giáo dục hướng nghiệp.
2.2. Thực trạng hoạt động giáo dục hướng nghiệp và công tác quản lý
GDHN ở trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, thành phố Biên Hòa.
2.2.1. Nhận thức về công tác GDHN
GDHN với tư cách là một hoạt động giáo dục chưa đư c thực sự coi trọng
trong nhiều năm qua. Hầu hết giáo viên dạy hoạt động GDHN đều chưa qua một
lớp đào tạo sư phạm nào về hướng nghiệp, do đó thường thiếu những kiến thức cần
thiết để soạn bài và thường lúng túng về cách tổ chức và phương pháp dạy học một
bài trước học sinh. Ngay cả giáo viên dạy các môn kỹ thuật trong trường THPT
hoặc giáo viên dạy nghề phổ thông ở trung tâm dạy nghề cũng gặp phải tình trạng
lúng túng bởi hầu hết chỉ hiểu sâu về một nghề và hiểu sơ bộ về một số nghề có
chuyên môn lân cận với nghề của mình mà thôi, nên khi giới thiệu cho học sinh
một nghề khác sẽ gặp nhiều khó khăn.
Về nhận thức của giáo viên:
Lực lư ng trực tiếp tham gia vào giảng dạy và định hướng nghề nghiệp cho
học sinh và có ảnh hưởng rất lớn vào việc lựa chọn nghề nghiệp của các em sau
khi hết THPT đó là giáo viên. Nhưng thực tế còn một số giáo viên chưa thực sự
quan tâm nhiều đến công tác này, một mặt xuất phát từ một ít giáo viên chưa
xem môn học này là hoạt động chính khóa, không có thi tốt nghiệp, không có tính
chất bắt buộc như các môn học khác. Mặt khác chưa thấy đư c ý nghĩa tầm quan
trọng của môn học trong nhà trường phổ thông.
Nhận thức của học sinh:
Đa số các em cho là một môn học rất cần thiết và bổ ích trong tương lai,
vì qua môn học này, thầy cô đã cung cấp giúp cho học sinh chọn nghề trên cơ sở
dựa vào năng lực, sở trường của học sinh đư c bộc lộ, có đối chiếu với yêu cầu
phân công lao động xã hội, đồng thời điều chỉnh nguyện vọng khi cần thiết và
giúp đỡ cho học sinh học tập, rèn luyện theo ngành, nghề đã chọn qua các hoạt
động hướng nghiệp cho các em hiểu rằng với năng lực, khả năng học tập của các
em, hoàn cảnh gia đình của bản thân sẽ giúp các em chọn nghề phù h p với tình
hình thực tế của bản thân .
Một số ít học sinh thì cho rằng môn học này không cần thiết, có cũng đư c
không có cũng đư c, nên để thời gian đầu tư cho các môn học khác quan trọng
hơn. Do vậy việc chọn nghề của các em bị tác động nhiều từ thu nhập của nghề,
sự tư vấn của giáo viên dạy hướng nghiệp, ảnh hưởng của gia đình và sự lôi cuốn
của bạn bè. Một số khác cho rằng qua sách báo và các loại hình thông tin khác
như: Internet, tivi, báo chí …các em cũng nắm đư c thông tin về nghề nghiệp.
Nhận thức về công tác GDHN của đội ngũ cán bộ quản lý:
Ban Giám hiệu nhà trường đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông và tạo điều kiện cho Đoàn trường, cán
bộ, giáo viên tham gia giảng dạy một cách thuận l i.
2.2.2. Thực trạng về quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT
Nguyễn Hữu Cảnh, thành phố biên Hòa.
Việc quản lý hoạt động GDHN cho HS phổ thông là việc làm mới và khó.
Công tác HN không chỉ đơn thuần là hướng tới việc định hướng chọn nghề trong
tương lai của thanh niên, mà còn làm cho cá nhân đó hiểu hệ giá trị của nghề,
hình thành hứng thú, say mê nghề và tâm nguyện cống hiến cuộc đời cho nghề đã
chọn. Hướng nghiệp là làm cho cá nhân nhận ra chân giá trị của nghề và tìm thấy
hạnh phúc khi tận tâm cống hiến tinh thần và sức lực cho nghề đó. Hướng nghiệp
là làm cho cá nhân lấy việc hành nghề làm lẽ sống chứ không phải là phương tiện
kiếm sống. Vì vậy, cần có sự tham gia đồng bộ của nhiều bộ phận xã hội.
Việc tổ chức các hoạt động GDHN hiện nay đã đư c đưa vào chương trình,
hình thức tổ chức và phương pháp thực hiện rất đa dạng. Có 4 hình thức HN chủ
yếu đang đư c thực hiện là: Qua các giờ HN chính khóa, qua các buổi giáo dục
ngoài giờ lên lớp, các buổi lao động và tích h p vào môn Công nghệ, các môn
học khác.
Trong các giờ hướng nghiệp chính khóa, trường giao cho Đoàn thanh niên,
một số giáo viên có kinh nghiệm đã đư c dự tập huấn về hoạt động GDHN, hoặc
ban giám hiệu thực hiện. Hình thức tổ chức : giờ học chính khóa đư c tổ chức
chéo buổi cho 2 đến 3 lớp học ở hội trường (01 tiết/tháng). Nội dung chuyển sang
tích h p vào các môn giáo dục ngoài giờ lên lớp và môn công nghệ. Với thời
lư ng này, giáo viên hướng nghiệp khó có thể hoàn thành đư c yêu cầu đặt ra đối
với nhiệm vụ nặng nề của hoạt động.
Về giáo dục lao động cho học sinh, trước hết giáo dục lao động nhằm hình
thành ở các em thái độ đúng đắn đối với lao động: yêu lao động, kính trọng người
lao động, quý trọng sản phẩm lao động. Đồng thời, góp phần hình thành ở các em
những cơ sở ban đầu của các kỹ năng và thói quen lao động theo khoa học sau
này. Những nội dung giáo dục trên đư c hình thành thông qua việc tổ chức cho
học sinh tham gia các hình thức lao động khác nhau nhu: lao động giúp đỡ gia
đình, lao động vệ sinh trường lớp, lao động tự phục vụ, lao động giữ gìn và sửa
chữa bàn ghế, các dụng cụ đơn giản khác trong lớp v v… Tuy nhiên, do thời gian
hạn chế nên thời gian trong tuần chủ yếu của học sinh là dành cho việc học, còn
thời gian lao động rất ít. Những công việc nặng nhọc hoặc đòi hỏi kỹ thuật, nhà
trường phải h p đồng lao động bên ngoài.
Về tích h p vào môn công nghệ và các môn văn hóa khác đư c giáo viên
chủ động vào bộ môn của mình. Ví dụ trong chương trình Địa lí lớp 12, hầu hết
các bài đều có thể lồng ghép nội dung GDHN. Cụ thể, ở phần Địa lí dân cư, các em
sẽ nắm đư c đặc điểm dân số, nguồn lao động, việc sử dụng lao động của nước ta.
Giáo viên phân tích vấn đề việc làm hiện nay và hướng giải quyết. Nếu khéo léo
trong giảng dạy, người giáo viên địa lí sẽ giúp các em nhận thức đúng đắn về
nguồn lao động và nhu cầu việc làm của đất nước, của địa phương. Sự hiểu biết về
thực trạng nhu cầu nghề hiện nay sẽ là cơ sở cho ý thức lựa chọn nghề của các em
sau này. Hoặc ở phần Địa lí các vùng kinh tế, giáo viên giúp học sinh nắm đư c
các thế mạnh và các hạn chế của điều kiện tự nhiên, dân cư, cơ sở vật chất kỹ thuật
các chính sách và hướng phát triển của vùng của từng vùng kinh tế ở Việt Nam;
các giải pháp phát triển trong tương lai của từng vùng sẽ giúp các em nhận thức
sâu sắc hơn điều kiện phát triển, xu thế phát triển của vùng mà địa phương các em
trực thuộc. Qua đó, HS thấy đư c vai trò, giá trị của lao động trong ngành nghề và
xác định đư c nhiệm vụ, vinh dự khi làm nghề mà mình lựa chọn. Đây cũng là cơ
sở quan trọng trong quá trình định hướng phát triển nghề và thái độ của các em với
nghề. Ở phần Địa lí địa phương là phần quan trọng để GDHN cho HS vì phần này
đề cập sâu về những kiến thức về tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương nơi HS
sinh sống. Giáo viên sẽ giúp các em có cái nhìn và khả năng đánh giá toàn diện,
đúng đắn về hiện trạng kinh tế cũng như nhu cầu lao động của địa phương. Sau khi
học bài, giáo viên yêu cầu HS viết báo cáo theo chủ đề. Như vậy, khai thác theo
hướng GDHN, giáo viên có thể hướng HS định hướng đư c nghề phù h p với
năng lực, nguyện vọng, tự giác điều chỉnh nguyện vọng theo yêu cầu của xã hội.
Về giáo dục ngoài giờ lên lớp, các giáo viên đều gặp khó khăn về mặt thời
lư ng cũng như về kiến thức do không đư c đào tạo, phải dạy chéo môn và thiếu
tài liệu tham khảo. Tuy nhiên, giáo viên đư c phân công giảng dạy đã có nhiều cố
gắng vận dụng nhiều phương pháp khác nhau để chuyển tải nội dung hướng
nghiệp đến HS những thông tin đầy đủ về nghề hoặc về cách quyết định chọn
nghề.
2.2.2.1. Công tác xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục HN:
Kế hoạch GDHN đư c trường lập thành một mục trong kế hoạch chung cho cả
năm học. Nội dung hoạt động tập trung vào hoạt động tư vấn hướng nghiệp, tổ
chức thông qua hoạt động của Đoàn trường, hội LHTN Việt nam trong nhà
trường.
Phó Hiệu trưởng phụ trách công tác này lập bản kế hoạch cụ thể, phân công
người dạy, thời gian dạy, bài dạy cho từng khối. Như vậy, từng cá nhân đư c phân
công theo kế hoạch đã có chuẩn bị các điều kiện dạy tốt hơn như: soạn giáo án, thu
thập thông tin về nghề, các hình ảnh minh họa, các phương tiện hỗ tr …
2.2.2.2. Công tác tổ chức thực hiện nội dung, chương trình hoạt động
giáo dục hướng nghiệp:
Chương trình GDHN từ khi thay sách mới áp dụng đại trà năm học 2006-2007
đư c quy định cho mỗi khối (10,11,12) một năm 27 tiết, chia đều cho 9 tháng, mỗi
tháng 3 tiết. Tuy nhiên, đến năm học 2010- 2011, số tiết giảm chỉ còn 1 tiết/ tháng,
còn lại đư c tích h p vào môn Công nghệ và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Chương
trình đư c phân chia cụ thể như sau:
- Lớp 10: gồm 9 bài, mỗi bài 1 tiết chia đều mỗi tháng 1 bài gồm:
+ Em thích nghề gì?
+ Năng lực nghề nghiệp và truyền thống nghề nghiệp gia đình.
+ Tìm hiểu nghề dạy học
+ Vấn đề giới trong chọn nghề
+ Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp.
+ Tìm hiểu một số nghề thuộc các ngành Y và Dư c
+ Tìm hiểu thực tế một cơ sở sản xuất nông nghiệp hoặc công nghiệp.
+ Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành xây dựng.
+ Nghề tương lai của tôi.
- Lớp 11: Gồm 9 bài, mỗi bài 1 tiết chia theo các chủ đề:
+ Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Giao thông vận tải và Địa chất.
+ Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực kinh doanh dịch vụ.
+ Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Năng lư ng, Bưu chính- viễn thông,
công nghệ thông tin
+ Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
+ Giao lưu với gương vư t khó, điển hình về sản xuất kinh doanh giỏi
+ Nghề nghiệp với nhu cầu của thị trường lao động.
+ Tôi muốn đạt ước mơ
+ Tìm hiểu thực tế một trường đại học (hoặc cao đẳng, TCCN, dạy nghề)
tại địa phương.
- Lớp 12: Gồm 9 bài, mỗi bài 1 tiết, chia theo các chủ đề:
+ Định hướng phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và đất nước.
+ Những điều kiện để thành đạt trong nghề
+ Tìm hiểu hệ thống đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề của
trung ương và địa phương
+ Tìm hiểu hệ thống đào tạo đại học và cao đẳng
+ Tư vấn chọn nghề
+ Hướng dẫn HS chọn nghề và làm hồ sơ tuyển sinh
+ Thanh niên lập thân, lập nghiệp
+ Tháng 4+5: tổ chức tham quan hoặc hoạt động giao lưu theo chủ đề
hướng nghiệp.
Nhìn chung, với cấu trúc chương trình như trên, nếu đư c giảng dạy một
cách đầy đủ, đúng phương pháp và đội ngũ giáo viên có chuyên môn, nhiệt tình,
trách nhiệm với công việc thì HS cũng có thể đư c trang bị khá tốt những hiểu
biết về thế giới nghề nghiệp và cách chọn nghề cho mình một cách phù h p. Tuy
nhiên, thời gian 1 tiết/ bài là quá ít nên người dạy phải hết sức cô đọng nội dung
và lựa chọn phương pháp để cố gắng chuyển tải đư c nội dung cơ bản về ngành
nghề, thời gian học sinh thảo luận rất hạn chế.
2.2.2.3. Công tác quản lý phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động
GDHN:
Đầu mỗi năm học, Sở GD &ĐT đều tổ chức tập huấn thay sách trong đó có
tập huấn về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy. Theo đó, nhà trường
phải quản lý việc đổi mới phương pháp theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động của HS. Tuy nhiên, việc giảng dạy theo lối thuyết trình là khá phổ biến.
GDHN vốn là một lĩnh vực phải có những hiểu biết thực tế, nội dung lại gắn chặt
với đời sống xã hội và sản xuất. Cách giảng dạy thuyết trình trong điều kiện giáo
viên ít có thông tin về nghề nghiệp thường dẫn đến tình trạng thiếu sinh động trong
giờ học, học sinh chán nản, tham gia cho có để khỏi bị trừ điểm hạnh kiểm.
Chính vì vậy, việc quy định hình thức tổ chức hoạt động GDHN cho phù h p
và đạt hiệu quả là điều mà người quản lý phải quan tâm thực hiện. Do trường học 2
buổi / ngày nên nhà trường phải tổ chức dạy GDHN chéo buổi; gắn với các hoạt
động ngoài giờ lên lớp. Tùy theo nội dung bài mà có khi dạy theo đơn vị lớp hay
cho 2-3 lớp, có khi cả khối cùng tham gia chung ở hội trường. Ngoài tiết hoạt động
GDHN theo quy định, nhà trường đã tổ chức một số hoạt động khác như:
- Tổ chức các buổi giao lưu, nói chuyện giữa đại diện một số trường Đại học, Cao
đẳng, Trung cấp nghề trên địa bàn về nói chuyện với học sinh lớp 12 về những
thông tin ngành nghề, cơ hội tìm việc làm sau khi học nghề. Các em đã chuẩn bị
trước một số câu hỏi và đại diện các đơn vị tuyển sinh đã giải đáp thắc mắc cho
HS; khuyến khích các em không đủ năng lực thi Đại học thì làm hồ sơ thi Cao
đẳng hoặc Trung học chuyên nghiệp, trung cấp nghề…
- Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niện Việt nam đã tổ nhiều hoạt động
phong trào lồng ghép với các hoạt động GDHN vào trong chương trình hoạt động
của Đoàn như phong trào “ Thanh niên lập thân, lập nghiệp”. Đoàn trường đã tổ
chức buổi nói chuyện với gương học sinh, sinh viên học tập thành đạt ( là cựu học
sinh của trường), từ đó tạo cho HS niềm hứng thú noi gương cũng như tìm hiểu
về ngành nghề dễ thành công trong xã hội hiện nay.
- Một số tiết do giáo viên chủ nhiệm đảm nhận, các thầy cô đã lồng ghép nội dung
vào những giờ sinh hoạt lớp, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các em, phân tích
tư vấn cho HS hiểu về việc chọn ngành nghề phù h p với bản thân và hoàn cảnh
gia đình.
- Nhà trường tổ chức cho HS tham quan các trường Đại học, Cao đẳng qua những
ngày hội tư vấn tuyển sinh do báo Tuổi trẻ hoặc Tỉnh Đoàn phối h p với các
trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp( TCCN) hoặc các trường trung
cấp nghề tổ chức. Sau các buổi tư vấn này, các em sẽ có thêm thông tin cần thiết,
quan trọng để tự tin đăng kí dự thi vào trường, vào ngành học phù h p nhất với
năng lực của bản thân mà các em đam mê và xã hội thực sự có nhu cầu. Với nhiều
hình thức, các hoạt động của ngày hội đã cung cấp thông tin về ngành đào tạo, hình
thức tuyển sinh, việc làm sau khi ra trường, điểm chuẩn đầu vào cho đối tư ng học
sinh trung học phổ thông.
- Tổ chức thực hiện phương pháp thuyết trình: Giới thiệu khái quát chủ đề, nói
ngắn gọn những vấn đề quan trọng nhất và cần thiết nhất để học sinh biết đư c ý
nghĩa và nội dung của bài; Giải thích các điểm chính của bài; Giao bài tập cho
học sinh.
- Tổ chức cho học sinh tìm hiểu thông tin về nghề nghiệp và cơ sở đào tạo:
Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu thông tin của Nghề dạy học.
Học sinh sẽ phải trả lời các câu hỏi: Nghề dạy học có từ bao giờ? Nó có
tầm quan trọng như thế nào đối với kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước? Đối
tư ng và công cụ của nghề dạy học là gì? So sánh đối tư ng và công cụ của lao
động của nghề dạy học với các ngành nghề khác? Công việc chủ yếu của nghề
dạy học là gì?
Giáo viên chia nhóm, phân công nội dung cho từng nhóm và các nhóm thảo
luận, ghi ra giấy và đại diện nhóm lên trình bày.
Sau đó, giáo viên giúp học sinh phân tích, chọn lọc những thông tin cần
thiết, rút ra kết luận từ những thông tin đã thu thập đư c.
- Tổ chức thảo luận lớp về nội dung hướng nghiệp nhằm mục đích khuyến khích
HS trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và biết cách làm việc với người khác. Giáo viên
xác định chủ đề buổi thảo luận, dự kiến thời gian và các bước tiến hành, chuẩn bị
các câu hỏi nêu vấn đề cho buổi thảo luận và điều khiển buổi thảo luận theo các
bước đã chuẩn bị. Sau khi thảo luận, đại diện các nhóm sẽ trình bày kết quả của
mình trên giấy khổ Ao, giáo viên cho học sinh cùng đánh giá các kết quả rồi rút ra
kết luận.
- Tổ chức hoạt động theo nhóm. Khi học theo nhóm, học sinh có thể cùng nhau
đạt đư c những điều mà các em không làm đư c một mình. Bằng cách mỗi người
góp một phần hiểu biết của mình rồi tập h p các thông tin đầy đủ về nghề hoặc về
cách quyết định chọn nghề. Giáo viên chọn nhóm và điều khiển hoạt động nhóm.
Mỗi nhóm cử trưởng nhóm và thư ký. Giao nhiệm vụ chi tiết cho từng nhóm. Quy
định thời gian cho từng nhiệm vụ. Trong quá trình các nhóm hoạt động, giáo viên
thường xuyên đi kiểm tra hoạt động của từng nhóm và kịp thời điều chỉnh, hướng
dẫn công việc. Đại diện các nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm trước lớp.
bằng bảng hoặc bằng giấy khổ lớn Ao. Trong quá trình học tập theo nhóm, học
sinh có thể hỗ tr lẫn nhau và một trong những hình thức hỗ tr hiệu quả là các
em có thể tự kiểm tra lẫn nhau. Để giúp học sinh làm tốt công việc này, giáo viên
cần đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ thể. Với phương pháp kiểm tra lẫn nhau,
giáo viên đã tạo ra bầu không khí vui vẻ, sôi nổi cho các em, bài học trôi qua nhẹ
nhàng và hiệu quả.
- Tổ chức trò chơi, nhằm thu hút sự tham gia của học sinh, giúp các em giảm bớt
mệt mỏi, tạo hứng thú trong quá trình học tập.
- Đóng vai (diễn kịch), mô phỏng, nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh,
biết xử lý thông tin, ứng dụng những lý thuyết đã học vào thực tiễn sinh động và
đa dạng. Thông thường, giáo viên tạo tình huống trước khi thảo luận một chủ đề
nào đó, giáo viên chuẩn bị kịch bản, cho HS xem trước, phân công học sinh chọn
vai. Đóng vai sẽ kích thích học sinh thảo luận sôi nổi về chủ đề đư c nêu.
2.2.2.4. Công tác kiểm tra đánh giá hoạt động GDHN:
Hoạt động GDHN là hoạt động có đặc thù riêng là giáo viên không kiểm tra
cho điểm như các môn học khác. Kết quả của hoạt động đư c biểu hiện một cách
rất trừu tư ng là HS chọn đư c ngành học, nghề làm phù h p sau khi ra trường.
Tuy vậy, quản lý việc kiểm tra đánh giá của giáo viên vẫn có thể tiến hành dựa trên
những nhận xét về thái độ, ý thức học tập, tham gia các hoạt động, chuẩn bị cho
tiết học của HS.
2.2.2.5. Về quản lý người học:
Quản lý người học là công việc đư c thực hiện qua kiểm tra sĩ số, ý thức thái
độ tham gia hoạt động của HS. Người giáo viên đảm nhiệm hoạt động này cần phải
có sự nghiêm khắc, tỉ mỉ, đồng thời phải có sức lôi cuốn thu hút học sinh để các
em khi tham dự hoạt động này thực sự cảm thấy bổ ích, lý thú và là nhu cầu của
bản thân. Việc điểm danh và trừ hạnh kiểm HS chỉ là biện pháp hành chính bắt
buộc và không thật sự hiệu quả.
III.
HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI