Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

NGHIÊN CỨU NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN HỆ THỰC VẬT RỪNG NGẬP MẶN Ở THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.36 MB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

TRẦN NGỌC YẾN

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN HỆ THỰC VẬT RỪNG
NGẬP MẶN Ở THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH VÀ ĐỀ
XUẤT CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN

HÀ NỘI, NĂM 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

TRẦN NGỌC YẾN

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN HỆ THỰC VẬT RỪNG
NGẬP MẶN Ở THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH VÀ ĐỀ
XUẤT CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN

Ngành

: Quản lý Tài nguyên và Môi trường

Mã ngành: D580102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THẾ HƯNG


HÀ NỘI, NĂM 2016


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
BTNMT
ĐDSH
VTV
TB
HST
KV
NNPTNT
HTX
KBTTNTN
RNM
RQ
TNMT
TP
TPCP
TVNM
UBND

Viết đầy đủ
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Đa dạng sinh học
Vườn thực vật
Trung bình
Hệ sinh thái
Khu vực
Nông nghiệp Phát triển Nông thôn

Hợp tác xã
Khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
Rừng ngập mặn
Rist Quotient
Tài nguyên Môi trường
Thành phố
Thành phố Cẩm Phả
Thực vật ngập mặn
Ủy ban nhân dân


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Nghiên cứu những đặc trưng cơ bản hệ thực
vật rừng ngập mặn ở thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh và đề xuất các
biện pháp bảo tồn” Là kết quả nghiên cứu của bản thân. Những phần sử dụng tài
liệu tham khảo trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm và chịu mọi kỷ luật của khoa và nhà trường đề ra.
Hà nội, ngày 1 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Trần Ngọc Yến


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, quan tâm nhiệt tình từ tập thể, cá nhân trong và
ngoài trường.
Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc tới các thầy,
cô giáo của Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội nói chung và các
thầy cô giáo trong khoa Môi trường nói riêng đã tận tình giảng dạy, truyền đạt cho

tôi những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo PGS.TS Nguyễn Thế Hưng giảng viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã tận tình giúp đỡ,
trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề
tài tốt nghiệp này.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn tới cán bộ phòng Tài nguyên và Môi
trường Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ninh đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành đề tài này.
Cuối cùng tôi xin gửi tới lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè đã
động viên tôi trong suốt quá trình hoàn thành đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do điều kiện về thời gian, trình độ nghiên
cứu còn hạn chế nên khi thực hiện đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi
mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh
viên để khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.!


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH ẢNH
1.4.3.1. Bảo tồn nguyên vị (in- situ)..........................................................................17
2.2.4. Khí hậu.......................................................................................................21
Khí hậu Quảng Ninh mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi phía bắc Vi ệt
Nam và có yếu tố riêng của một tỉnh ven biển, những quần đảo ở huy ện Cô Tô
và Vân Đồn...là đặc trưng của khí hậu đại dương. .............................................21
Đặc điểm chính của khí hậu Quảng Ninh như sau:..............................................21
2.2.5. Thủy văn......................................................................................................22
2.2.6. Đất đai.............................................................................................................23

Theo tài liệu điều tra nông hóa; thổ nhưỡng tỉnh Quảng Ninh năm 2004, trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh có loại đất sau (bảng 2.1):...................................................23
Các khu vực vùng sâu vùng xa và hải đảo cũng được tạo điều kiện xây dựng
các công trình trường học chắc chắn, đảm bảo an sinh xã hội cho những
người miền núi và người dân tộc........................................................................29
3.2.3. Y tế..............................................................................................................29
4.2. Những hạn chế...............................................................................................30


DANH MỤC BẢNG

1.4.3.1. Bảo tồn nguyên vị (in- situ)..........................................................................17
2.2.4. Khí hậu.......................................................................................................21
Khí hậu Quảng Ninh mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi phía bắc Vi ệt
Nam và có yếu tố riêng của một tỉnh ven biển, những quần đảo ở huy ện Cô Tô
và Vân Đồn...là đặc trưng của khí hậu đại dương. .............................................21
Đặc điểm chính của khí hậu Quảng Ninh như sau:..............................................21
2.2.5. Thủy văn......................................................................................................22
2.2.6. Đất đai.............................................................................................................23
Theo tài liệu điều tra nông hóa; thổ nhưỡng tỉnh Quảng Ninh năm 2004, trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh có loại đất sau (bảng 2.1):...................................................23
Các khu vực vùng sâu vùng xa và hải đảo cũng được tạo điều kiện xây dựng
các công trình trường học chắc chắn, đảm bảo an sinh xã hội cho những
người miền núi và người dân tộc........................................................................29
3.2.3. Y tế..............................................................................................................29
4.2. Những hạn chế...............................................................................................30


DANH MỤC HÌNH ẢNH
1.4.3.1. Bảo tồn nguyên vị (in- situ)..........................................................................17

2.2.4. Khí hậu.......................................................................................................21
Khí hậu Quảng Ninh mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi phía bắc Vi ệt
Nam và có yếu tố riêng của một tỉnh ven biển, những quần đảo ở huy ện Cô Tô
và Vân Đồn...là đặc trưng của khí hậu đại dương. .............................................21
Đặc điểm chính của khí hậu Quảng Ninh như sau:..............................................21
2.2.5. Thủy văn......................................................................................................22
2.2.6. Đất đai.............................................................................................................23
Theo tài liệu điều tra nông hóa; thổ nhưỡng tỉnh Quảng Ninh năm 2004, trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh có loại đất sau (bảng 2.1):...................................................23
Các khu vực vùng sâu vùng xa và hải đảo cũng được tạo điều kiện xây dựng
các công trình trường học chắc chắn, đảm bảo an sinh xã hội cho những
người miền núi và người dân tộc........................................................................29
3.2.3. Y tế..............................................................................................................29
4.2. Những hạn chế...............................................................................................30


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái quan trọng có năng suất cao ở vùng

cửa sông ven biển nhiệt đới và rất nhạy cảm với các tác động của con người và
thiên nhiên.
RNM không chỉ cung cấp các sản phẩm có giá trị như gỗ, than, củi, tanin,
thức ăn, thuốc uống... mà còn là nơi sống và ương giống của nhiều loại hải sản,
chim nước, chim di cư và một số động vật có ý nghĩa kinh tế lớn như khỉ, lợn rừng,
cá sấu, kỳ đà, chồn, trăn...
RNM có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ bờ biển, bờ sông, điều hòa khí hậu,
hạn chế xói lở, mở rộng diện tích lục địa, hạn chế sự xâm nhập mặn, ngăn cản các

chất thải rắn trôi ra biển, bảo vệ đê điều, đồng ruộng, nơi sống của người dân ven
biển trước sự tàn phá của gió mùa, bão, nước biển dâng.
Tuy nhiên, thảm thực vật RNM ở Việt Nam đã bị suy thoái nghiêm trọng.
Cuộc chiến tranh hóa học của Mỹ (1962 - 1971) đã phá hủy nhiều khu RNM ven
biển Nam Bộ, nơi có rừng tốt nhất, nhiều loài cây nhất ở Việt Nam. Sau chiến tranh,
do sức ép về dân số và kinh tế, RNM tiếp tục bị suy giảm mạnh về diện tích, cấu
trúc và chất lượng.
Tình trạng khai thác bừa bãi, phá rừng lấy đất xây dựng đô thị, cảng, sản xuất
nông nghiệp, làm ruộng muối, đặc biệt là việc phá rừng, kể cả rừng phòng hộ ven
biển, làm đầm nuôi tôm quảng canh thô sơ đã và đang là một hiểm họa to lớn đối
với tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Hậu quả là diện tích đất thoái hóa ngày càng tăng; khí hậu đang diễn biến theo
chiều hướng xấu đi rõ rệt, nước mặn lấn sâu vào nội địa làm giảm năng suất cây
nông nghiệp; nguồn giống tôm, cua, cá giảm; nhiều loài hải sản mất nơi sống, một
số loài cá, ốc, sò mất bãi đẻ; hiện tượng xói lở bờ sông, bờ biển diễn ra hàng ngày
do mất rừng; gió bão phá hoại đê điều, đồng ruộng và nhà cửa; đời sống của người
dân nghèo ven biển bị đe dọa.

1


Xuất phát từ thực tiễn, chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu những đặc trưng
cơ bản hệ thực vật rừng ngập mặn ở thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh và
đề xuất các biện pháp bảo tồn”.
2.

Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu hiện trạng và đặc điểm hệ thực vật ngập mặn ở thành phố Cẩm

Phả, tỉnh Quảng Ninh.

- Đề xuất các biện pháp bảo tồn, phục hồi hệ thực vật ngập mặn ở vùng
nghiên cứu.
3. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra thành phần loài và thành phần kiểu dạng sống (cây gỗ, cây bụi, cây
thảo,...) của rừng ngập mặn ở thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
- Tìm hiểu ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên và nhân tạo đến hệ thực vật
ngập mặn thành phố Cẩm Phả
- Đề xuất các biện pháp bảo tồn và phục hồi thực vật ngập mặn ở thành phố
Cẩm Phả.

2


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Đa dạng sinh học
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về đa dạng sinh học. Định nghĩa do Quỹ
Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế - WWF) (1989) quan niệm:“Đa dạng sinh học
(ĐDSH) là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật,
động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những Hệ
sinh thái (HST) vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường”. Do vậy,
ĐDSH bao gồm 3 cấp độ: đa dạng gen, đa dạng loài và đa dạng HST. Đa dạng loài
bao gồm toàn bộ các loài sinh vật sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các loài động,
thực vật và các loài nấm. Ở mức độ vi mô hơn, đa dạng sinh học bao gồm cả sự
khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể sống cách ly về
địa lý cũng như sự khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể.
Đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các
loài sinh sống, các HST nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả
sự khác biệt của các mối tương tác giữa chúng với nhau.

Theo Công ước ĐDSH thì “ĐDSH là sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ
tất cả các nguồn trong các HST trên cạn, ở biển và các HST dưới nước khác, và mọi
tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên; ĐDSH bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng
di truyền hay còn gọi là đa dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài), và các HST (đa
dạng HST).
- Đa dạng di truyền được hiểu là tần số và sự đa dạng của các gen và bộ gen
trong mỗi quần thể và giữa các quần thể với nhau;
- Đa dạng loài là tần số và sự phong phú về trạng thái của các loài khác nhau;
- Đa dạng HST là sự phong phú về trạng thái và tần số của các HST khác
nhau.
Từ ba góc độ này, người ta có thể tiếp cận với ĐDSH ở cả ba mức độ: mức độ
phân tử (gen), mức độ cơ thể và mức độ HST.

3


ĐDSH bao gồm cả các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các phần
cơ thể, các quần thể, hay các hợp phần sinh học khác của HST, hiện đang có giá trị
sử dụng hay có tiềm năng sử dụng cho loài người. Nói cách khác, ĐDSH là toàn bộ
tài nguyên thiên nhiên tạo nên do tất cả các dạng sống trên trái đất, là sự đa dạng
của sự sống ở tất cả các dạng, các cấp độ và các tổ hợp giữa chúng. Đó không chỉ là
tổng số của các HST, các loài, các vật chất di truyền mà còn bao gồm tất cả các mối
quan hệ phức tạp bên trong và giữa chúng với nhau.
Cũng có nhiều ý kiến cho rằng ĐDSH bao gồm cả đa dạng văn hoá, là sự thể
hiện của xã hội con người, một thành viên của thế giới sinh vật và đồng thời là một
nhân tố quan trọng của các HST. Đa dạng văn hoá được thể hiện bằng sự đa dạng
ngôn ngữ, tín ngưỡng tôn giáo, những kinh nghiệm về việc quản lý đất đai, nghệ
thuật, âm nhạc, cấu trúc xã hội, sự lựa chọn những cây trồng, chế độ ăn uống và một
số thuộc tính khác của xã hội loài người. Văn hoá bản địa là một trong những khía
cạnh rất quan trọng của đa dạng văn hoá chính là văn hoá của các dân tộc bản địa.

Đa dạng văn hoá gắn liền với các dân tộc bản địa bị đe doạ bởi nền kinh tế và xã hội
“văn minh”. Việc bảo vệ sự đa dạng về văn hoá này là rất cần thiết do thông thường
nó là nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Vì vậy, ĐDSH phải được coi là sản phẩm của sự tương tác của hai hệ thống:
hệ thống tự nhiên và hệ thống xã hội.
Sự hiểu biết của con người hiện nay về ĐDSH còn rất hạn chế, vẫn chỉ dừng
lại ở việc đánh giá tính đa dạng của các dạng sống và mức độ suy thoái của chúng.
Hiện nay chưa có ai có thể khẳng định được có bao nhiêu loài động thực vật và vi
sinh vật hiện đang sống trên trái đất. Có thể ước lượng chừng 5 đến 30 triệu loài
nhưng đa số các nhà sinh học cho rằng có khoảng 14 triệu loài trong đó mới chỉ có
khoảng 1,7 triệu loài được mô tả và đặt tên, còn số loài được nghiên cứu đầy đủ thì
rất ít. Đa dạng di truyền và đa dạng sinh thái không nhìn thấy được một cách rõ
ràng… và sự hiểu biết của chúng ta về các lĩnh vực này còn hết sức ít ỏi.
1.1.2. Thảm thực vật
Thảm thực vật đại diện cho sức khỏe và sự sạch của đời sống thực vật và
lượng đất nền được cung cấp bởi thực vật và động vật. Thảm thực vật không có đơn
vị phân loại, dạng sống, cấu trúc, liên kết không gian mở rộng cụ thể, hay bất kỳ

4


thực vật cụ thể hoặc các đặc tính tốt khác. Nó rộng hơn so với hệ thực vật vốn chỉ
dành riêng cho thành phần loài. Có lẽ từ đồng nghĩa nhất với nó là quần xã thực vật,
nhưng thảm thực vật có thể, và thường là, đề cập đến một phạm vi rộng hơn phạm
vi không gian của thuật ngữ kia, bao gồm cả quy mô lớn như toàn cầu. Rừng cây gỗ
đỏ nguyên sinh, bãi ngập mặn ven biển, đầm lầy rêu nước, lớp vỏ đất sa mạc, những
đám cỏ dại ven đường, cánh đồng lúa mì, vườn cây và thảm cỏ trồng; tất cả đều
nằm trong phạm vi nghĩa của thảm thực vật.
1.1.3. Thực vật ngập mặn
Thực vật ngập mặn là các loại cây gỗ và cây bụi sống trong các vùng nước

mặn ven biển trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu giữa vĩ độ 25° Bắc và
25° Nam. Các độ mặn khác nhau tạo ra nhiều loài thay đổi từ nước lợ đến nước
mặn(30 đến 40ppt), đến các môi trường có độ măn lớn hơn gấp 2 lần độ mặn nước
biển (đến 90 ppt), tại đây hàm lượng muối cô đặc bởi sự bốc hơi.
Có một số loài cây gỗ và cây bụy thích nghi với môi trường nước mặn. Không
phải tất cả các loài đều thích nghi, mặc dù thuật ngữ "thực vật ngập mặn" có thể
được dùng để chỉ tất cả chúng, hoặc theo nghĩa hẹp hơn, nó chỉ dùng cho họ thực
vật ngập mặn là Rhizophoraceae(họ Đước), hoặc đặc biệt hơn là chi Rhizophora.
Thực vật ngập mặn hình thành một môi trường sống nước mặn của rừng cây
thân gỗ và rừng cây bụi hay còn gọi là rừng ngập mặn.Rừng ngập mặn thường phân
bố ở vùng ven biển tích tụ các trầm tích hạt mịn và chúng có vai trò bảo vệ các
vùng đất bởi tác động của sóng năng lượng cao. Có thể gặp chúng ở các cửa sông
và dọc theo các bờ biển hở. Thực vật ngập mặn chiếm khoảng 3/4 bờ biển nhiệt đới.
1.2. Những nghiên cứu về đa dạng thực vật trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về đa dạng thực vật trên thế giới
1.2.1.1. Những nghiên cứu về đa dạng thảm thực vật nói chung
Trên thế giới, đa dạng sinh học đã được nghiên cứu từ lâu, nhưng phải đến
những năm 1990 của thế kỉ XX thì vấn đề này mới thực sự trở nên cấp thiết và thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học ở nhiều quốc gia. Ở đây, tôi xin
điểm qua những công trình nghiên cứu có giá trị như: Thực vật chí Hồng Kông,
1861; Thực vật chí Australia, 1866; Thực vật chí vùng tây Bắc và trung tâm Ấn Độ,
1874; Thực vật chí Ấn Độ (1872-1897); Thực vật chí Miến Điện, 1877; Thực vật

5


chí Malaixia, 1892 - 1925; Thực vật chí Hải Nam, 1972-1977; Thực vật chí Vân
Nam, 1977 (dẫn theo Từ Minh Tiệp,).
Theo Tolmachev.I “chỉ cần điều tra trên một diện tích đủ lớn để có thể bao
trùm được sự phong phú của nơi sống, nhưng không có sự phân hóa về mặt địa lý”.

Ông gọi đó là hệ thực vật cụ thể, và ông cũng đã đưa ra nhận định là số loài của một
hệ thực vật cụ thể ở vùng nhiệt đới ẩm thường là 1500-2000 loài.
Năm 1965, Al. A. Phêđôrốp đã dự đoán thế giới có khoảng: 300.000 loài thực
vật hạt kín; 5.000 – 7.000 loài thực vật hạt trần; 6.000 – 10.000 loài quyết thực vật;
14.000 – 18.000 loài rêu; 19.000 – 40.000 loài tảo; 15.000 – 20.000 loài địa y;
85.000 – 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc thấp khác.
Đối với từng châu lục, G. N. Slucop (1962) đưa ra số lượng các loài thực vật
hạt kín phân bố ở các châu lục như sau :
- Châu Mỹ có khoảng 97.000 loài trong đó: Hoa Kỳ + Canada: 25.000 loài;
Mehico + Trung Mỹ: 17.000 loài; Nam Mỹ: 56.000 loài; Đất lửa + Nam cực: 1.000
loài.
- Châu Âu có khoảng 15.000 loài trong đó: Trung và Bắc Âu: 5.000 loài; Nam
Âu, vùng Ban căng và Capcasơ: 10.000 loài.
- Châu Phi có khoảng 40.500 loài trong đó: các vùng nhiệt đới ẩm: 15.500
loài; Madagasca: 7.000 loài; Nam Phi: 6.500 loài; Bắc Phi, Angieri, Ma Rốc và các
vùng phụ cận khác: 4.500 loài; Abitxini: 4.000 loài; Tuynidi và Ai cập: 2.000 loài;
Xomali và Eritrea: 1.000 loài.
- Châu Á có khoảng 125.000 loài trong đó: Đông Nam Á: 80.000 loài; các
khu vực nhiệt đới Ấn Độ: 26.000 loài; Tiểu Á: 8.000 loài; Viễn đông thuộc Liên
bang Nga, Triều Tiên, Đông bắc Trung Quốc: 6.000 loài; Xibêria thuộc Liên bang
Nga, Mông Cổ và Trung Á: 5.000 loài.
- Châu Úc có khoảng 21.000 loài trong đó: Đông Bắc Úc: 6.000 loài; Tây
Nam Úc: 5.500 loài; Lục địa Úc: 5.000 loài; Taxman và Tây tây lan: 4.500 loài
Lecointre và Guyader (2001), đã thống kê số loài thực vật trên thế giới như
sau:

6


Bảng 1.1. Số loài thực vật được mô tả trên toàn thế giới [31]

Bậc phân loại

Tên thường gọi

Số loài mô tả

Fungi
Bryophyta
Lycopodiophyta
Polypodiophyta
Pinophyta
Magnoliophyta

Nấm
Ngành Rêu
Ngành Thông đất
Ngành Dương xỉ
Ngành Thông
Ngành Ngọc lan

100.800
15.000
1.275
9.500
601
233.885

% số loài đã
được mô tả
5,80

0,90
0,07
0,50
0,03
13,40

Bảng 1.2. Số loài thực vật được mô tả trên toàn thế giới [31]
Nhóm
Vi khuẩn và tảo lam
Nấm
Tảo
Rêu
Hạt trần
Hạt kín

Số loài mô tả
4.760
46.938
26.900
17.000

Nguồn

WCMC. 1998

980
258.000

IUCN. 1997
IUCN. 1997


Cùng với việc nghiên cứu sự đa dạng về khu hệ thực vật, các nhà khoa học
cũng đưa nhiều cách phân loại thảm thực vật dựa trên những cơ sở khác nhau: I. K.
Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường xanh; thực vật
rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên mặt đất trong thời
kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và
phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm. Cùng năm đó,
G. N. Vưxôxki chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp cây nhiều năm và lớp cây
hàng năm.
Năm 1936, khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến Điện,

H.G.

Champion đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á
nhiệt đới, ôn đới và núi cao.
Đến năm 1938, J. Beard đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp,
quần hệ và loạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần
hệ rừng xanh từng mùa; loạt quần hệ khô thường xanh; loạt quần hệ miền núi; loạt
quần hệ ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quanh năm (dẫn theo Đào Ngọc Tú).

7


Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia thảm thực
vật Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và vùng trung
gian. Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó.
Segova (1957) lại phân chia thảm thực vật theo vành đai: vành đai biển bùn
lầy, vành đai núi thấp dưới 800 m – 1000 m và vành đai cao hơn.
Năm 1973, UNESCO đã công bố một khung phân loại thảm thực vật thế giới
dựa trên nguyên tắc ngoại mạo và cấu trúc, chia thảm thực vật thế giới thành 5 lớp

quần hệ: lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thưa, lớp quần hệ cây bụi, lớp quần
hệ cây bụi lùn, lớp quần hệ cây thảo.
1.2.1.2. Những nghiên cứu về đa dạng thảm thực vật ngập mặn
Về đa dạng rừng ngập mặn trên thế giới cũng được quan tâm nghiên cứu từ
khá lâu. Theo Tomlinson, (1986), các hệ sinh thái rừng nước mặn rất đa dạng về
thành phần thực vật, cấu trúc rừng và tỉ lệ tăng trưởng với trên 80 loài thực vật
trong 30 chi thuộc hơn 20 họ. Odum (1975) khẳng định “Rừng ngập mặn có năng
suất sinh học cao hơn các hệ sinh thái khác”, và Rao (1986) cho rằng, rừng ngập
mặn là một trong những vùng giàu nhất và có năng suất sinh học cao nhất, tạo thành
chuỗi thức ăn cơ bản ở vùng ven biển. Rừng ngập mặn là dạng cấu trúc thực vật đặc
trưng của vùng ven biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, là một trong những hệ sinh thái
rừng ngập nước quan trọng (FAO, 1994).
Diện tích rừng ngập mặn trên thế giới khoảng 18 triệu ha (Salding và cộng
sự, 1997). Lĩnh vực được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhiều nhất là phân
loại thảm thực vật, thảm thực vật và phân bố. Hai công trình rất nổi tiếng là
Mangrove vegetation của V. J. Chapman (1975) và The botany of mangroves của
P.B. Tomlinson (1986) đã nghiên cứu về giải phẫu, phân loại, phân bố, sinh thái các
loài cây ngập mặn trên thế giới. Nhiều tác giả còn đề cập đến những ảnh hưởng của
các nhân tố sinh thái đến sự hình thành và phát triển của rừng ngập mặn. Theo
Chapman (1977) có 7 yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến sự phát triển của rừng ngập
mặn là nhiệt độ, thể nền đất bùn, sự bảo vệ, độ mặn, thủy triều, dòng hải lưu, biển
nông. Tomlinson (1986) cho rằng nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng và phân bố của rừng ngập mặn. Cây ngập mặn sinh trưởng tốt trong môi
trường có nhiệt độ ấm, biên độ dao động nhiệt không quá 100C ( P. Saenger và cộng

8


sự, 1983). Rao (1986) nhận định rằng trong các nhân tố khí hậu thì lượng mưa là
nhân tố quan trọng nhất cung cấp nguồn nước ngọt cho cây ngập mặn sinh trưởng

và phát triển. De Hann (1931) đã chia thực vật ngập mặn thành 2 nhóm: nhóm phát
triển ở độ mặn từ 10 – 300/00 và nhóm phát triển ở độ mặn 0 – 100/00.
1.2.2. Những nghiên cứu về đa dạng thực vật ở Việt Nam
1.2.2.1. Những nghiên cứu về đa dạng hệ thực vật
Ở nước ta, những công trình nghiên cứu về đa dạng thực vật trước những
năm 1960 phần lớn do các tác giả nước ngoài thực hiện: Loureiro (1790), Pierre
(1879 - 1907), Lecomte (1907 - 1937) ….Cuốn “ Thực vật chí Đại cương Đông
Dương” của H. Lecomte đã xác định khoảng 240 họ với khoảng 7.000 loài thực
vật bậc cao có mạch trên toàn bộ lãnh Đông Dương .
Phan Kế Lộc (1970) đưa ra con số hệ thực vật miền bắc Việt Nam có 5.609
loài thuộc 1660 chi và 240 họ. Đến năm 1978, Thái Văn Trừng thống kê hệ thực vật
Việt Nam có 7004 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi, 289 họ.
Theo Phạm Hoàng Hộ (1991 - 1993) hệ thực vật ở Việt Nam có 10.500 loài.
Nguyễn Tiến Bân (1997) trong cuốn “Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực
vật hạt kín ở Việt Nam” đã mô tả khóa phân loại của 265 họ và khoảng 2.300 chi.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) khi tổng kết các công trình nghiên cứu về khu hệ thực
vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2.393 loài thực vật bậc thấp và 1.373 loài thực vật
bậc cao thuộc 2.524 chi, 378 họ.
Mới đây nhất, trong cuốn "Danh lục các loài thực vật Việt Nam" các nhà
nghiên cứu đã đưa ra số liệu thống kê hệ thực vật Việt Nam gồm 368 loài vi khuẩn
lam (Tiền nhân - Procaryota ), 2.200 loài Nấm (Fungi), 2.176 loài Tảo (Algae), 841
loài Rêu (Bryophyta), 1 loài Khuyết lá thông (Psilotophyta), 53 loài Thông đất
(Lycopodiophyta), 2 loài cỏ Tháp bút (Equisetophyta), 691 loài Dương xỉ
(Polipodiophyta), 69 loài Hạt trần (Gymnospermae), và khoảng 10.000 loài (trên
850 taxon dưới loài-phân loài, thứ, dạng,...) Hạt kín (Angiospermae), đưa tổng số
loài thực vật Việt Nam lên gần 20.000 loài. Cho đến nay, đây là danh lục thực vật
đầy đủ nhất ở Việt Nam đã được cập nhật tên khoa học, tên đồng nghĩa cũng như
phân bố của chúng ở Việt Nam và trên Thế giới.

9



Ngoài những công trình trên, còn có nhiều công trình khác nghiên cứu về đa
dạng hệ thực vật ở các vùng khác nhau của Việt Nam như: Lê Mộng Chân (1994)
điều tra tổ thành vùng núi cao Vườn quốc gia Ba Vì đã phát hiện được 483 loài
thuộc 323 chi, 136 họ thực vật bậc cao có mạch trong đó gặp 7 loài được mô tả lần
đầu tiên . Đỗ Tất Lợi (1995) khi nghiên cứu các loài cây thuốc đã công bố 798 loài
thuộc 164 họ có ở hầu hết các tỉnh nước ta. Lê Ngọc Công và Hoàng Chung (1995)
nghiên cứu thành phần loài, dạng sống của sa van bụi và đồi trung du Bắc Thái (cũ)
đã phát hiện được 123 loài thuộc 47 họ khác nhau . Nguyễn Thế Hưng, Hoàng
Chung (1995) khi nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái, sinh vật học của sa van
Quảng Ninh và các mô hình sử dụng đã phát hiện được 60 họ thực vật khác nhau
với 131 loài. Nguyễn Nghĩa Thìn đã thống kê thành phần loài của Vườn quốc gia
Tam Đảo có khoảng 2.000 loài thực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc 478 chi,
213 họ thuộc 3 ngành: Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín. Lê Ngọc Công (1998) khi
nghiên cứu tác dụng cải tạo môi trường của một số mô hình rừng trồng ở một số
tỉnh miền núi đã công bố thành phần loài gồm 211 loài thuộc 64 họ. Nguyễn Thế
Hưng (2003) nghiên cứu đặc điểm của thảm thực vật cây bụi ở huyện Hoành Bồ, thị
xã Cẩm Phả, Quảng Ninh thống kê trong các trạng thái thảm thực vật nghiên cứu có
324 loài thuộc 251 chi và 93 họ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch là 3 ngành
Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín. Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2004), khi nghiên
cứu tính đa dạng thực vật trên núi đá vôi phía Đông Bắc khu bảo tồn thiên nhiên
Hữu Liên, Hữu Lũng, Lạng Sơn đã xác định được 554 loài, 334 chi, 124 họ của 5
ngành thực vật bậc cao có mạch. Lê Ngọc Công (2004) nghiên cứu hệ thực vật tỉnh
Thái Nguyên đã thống kê các loài thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là
160 họ, 468 chi, 654 loài. Vũ Thị Liên (2005) nghiên cứu ảnh hưởng của một số
kiểu thảm thực vật đến biến đổi môi trường đất ở một số khu vực tỉnh Sơn La đã
thống kê trong các trạng thái thảm thực vật được nghiên cứu có 452 loài thuộc 326
chi và 103 họ của 3 ngành thực vật bậc cao. Thái Văn Thụy, Nguyễn Phúc Nguyên
(2005), khi nghiên cứu về thảm thực vật Vườn quốc gia Ba Vì đã xác định ở đây có

11 kiểu quần xã thực vật khác nhau. Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu khác
như Trần Đình Lý, Nguyễn Nghĩa Thìn (2006).
1.2.2.2. Những nghiên cứu về đa dạng thực vật ngập mặn ở Việt Nam

10


Ở Việt Nam trước năm 1943 có 408.500 ha rừng ngập mặn (Maurand, 1943),
nhưng đến nay diện tích rừng ngập mặn đã giảm đi rất nhiều. Năm 1983 còn
252.000 ha, đến năm 1987 chỉ còn 205.000 ha . Rừng ngập mặn ở Việt Nam đã suy
giảm cả về diện tích và chất lượng vì nhiều nguyên nhân như chiến tranh, chất hóa
học, khai thác bừa bãi, phá rừng để sản xuất nông nghiệp, nuôi tôm…(Phan Nguyên
Hồng, 2003) [16]. Theo kết quả kiểm kê rừng toàn quốc (theo quyết định số
03/2001/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 5/1/2001) công bố tháng
7/2001 do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng tiến hành, diện tích rừng ngập mặn
(RNM) Việt Nam tính đến ngày 21/12/1999 là 156.608ha. Trong đó diện tích RNM
tự nhiên là 59.732 ha chiếm 38,1% và diện tích RNM trồng là 96.876ha chiếm
61,95%. Trong số diện tích RNM trồng ở Việt Nam, rừng đước (Rhizophora
apiculata) trồng chiếm 80.000ha (82,6%), còn lại 16.876 ha là rừng trồng trang
(Kandelia obovata), bần chua (Sonneratia caseolaris) và các loại cây ngập mặn
trồng khác (17,4%) (Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, 2001) .

Năm
Hình 1.1. Diện tích RNM thay đổi qua các năm
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu rừng ngập mặn ở Việt Nam đã
được chú ý trên nhiều lĩnh vực. Công trình nghiên cứu về rừng ngập mặn đầu tiên
của Việt Nam là luận án tiến sĩ của Vũ Văn Cương (1964) về các quần thể thực vật
của rừng Sát – Vũng Tàu. Tác giả chia thực vật ở đây thành 2 nhóm: nhóm thực vật

11



nước mặn và nhóm thực vật nước lợ. Lê Công Khanh (1986) mô tả các đặc điểm
sinh học để phân biệt các chi, họ cây trong rừng ngập mặn. Phùng Chung Ngân và
Châu Quang Hiền (1987) xác định ở Việt Nam có 7 kiểu thảm thực vật ngập mặn:
rừng Mắm hoặc Bần đơn thuần, rừng Đước đơn thuần, rừng Dừa nước, rừng hỗn
hợp vùng triều trung bình, rừng Vẹt- Giá vùng đất cao, rừng Chà là – Ráng dại và
trảng thoái hóa. Phan Nguyên Hồng (1991) lập danh mục cùng với một số chỉ tiêu
khác (dạng sống, môi trường, khu phân bố) của 75 loài thuộc 2 nhóm loài cây ngập
mặn điển hình và cây gia nhập vào rừng ngập mặn.
Phan Nguyên Hồng và cộng sự (1991), khi nghiên cứu về khu hệ thực vật
ngập mặn ở khu vực Đông Bắc đã phân loại thảm thực vật ở đây thành các nhóm
thích nghi với độ mặn khác nhau như: Quần thể Mắm biển (Avicennia marina) phân
bố ở trên các bãi cát và bãi đang bồi, đây là quần thể tiên phong trên đất ngập triều
trung bình thấp; Quần xã Đâng (Rhizophora stylosa) – Trang (Kandelia obovata) –
Sú (Aegiceras corniculatum) sống trên đất ngập triều trung bình; Quần xã Đâng –
Trang – Vẹt dù (Bruguiera gymnorrhiza) phân bố trên đất ngập triều trung bình cao,
loài ưu thế là Đâng; Quần xã Vẹt dù - Đâng, phân bố trên những bãi đất bùn hơi rắn
hoặc các bãi có đá, chỉ ngập triều cao; Quần thể Vẹt dù, phân bố ở trên nền đá
xương xẩu, ít khi ngập triều; Quần xã Côi (Scyphiphora hydrophyllacea) – Giá
(Excoecaria agallocha) – Cóc vàng (Lumnitzera racemosa) dạng cây bụi trên nền
đất bùn hơi cứng, nhiều sỏi hoặc đất thoái hoá, chỉ ngập triều cao; Quần xã Tra
(Hibiscus tiliaceus) - Su ổi (Xylocarpus granatum) – Hếp (Scaevola taccada) phân
bố trên các bờ biển có đất mặn ít khi ngập triều .
Phan Nguyên Hồng (1999) đã thống kê được ở Việt Nam có 106 loài cây
ngập mặn, trong đó vùng ven biển Nam Bộ có 100 loài, vùng ven biển Trung Bộ có
69 loài, ven biển Bắc Bộ có 52 loài, chủ yếu gồm các loài cây Đước, Vẹt (họ
Rhizophoraceae), Mấm (họ Avicenniaceae), Bần (họ Sonneratiaceae), Dừa nước,
Chà là (họ Palmae), Rau sam đỏ (họ Aizoaceae). Thành phần của thảm thực vật tự
nhiên ở vùng cửa sông thường gồm những loài cây nước lợ (chịu được môi trường

nước lợ), điển hình là các loài Bần trắng (Sonneratia alba), Bần Chua (Sonneratia
caseolaris), Vẹt Khang (Bruguiera sexangula), Dừa nước (Nypa fruticans) là những
loài chỉ thị cho môi trường nước lợ.

12


Nguyễn Hoàng Trí (1996), Phan Nguyên Hồng và cộng sự (1999) cho rằng
Đưng (Rhizophora mucronata) không có ở miền Bắc, chỉ có ở miền Nam và miền
Trung, Cóc trắng (Lumnitzera racemosa) gặp ở cả 3 miền trên vùng đất cao ngập
triều không thường xuyên, Vẹt đen (Bruguiera sexangula) không có ở miền Bắc,
gặp ở vùng nước lợ ở miền Nam. Trang (Kandelia candel) phân bố từ Bắc vào
Nam, chịu được biên độ nhiệt khá khắc nghiệt, hiện được trồng nhiều ở miền Bắc .
1.3. Những nghiên cứu về dạng sống (life form) của thực vật trên thế giới và ở
Việt Nam
1.3.1. Những nghiên cứu về dạng sống thực vật trên thế giới
Hình thái cấu trúc cơ thể thực vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó
biểu hiện qua dạng sống của nó, dạng sống của thực vật đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.
Braun – Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính liên tục
hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt; mọc thành dải
nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn.
Hiện nay, người ta vẫn dùng hệ thống của Raunkiaer (1934) [10] để sắp xếp
các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một trong các dạng sống. Cơ sở phân chia
dạng sống của ông là sự khác nhau về khả năng thích nghi của thực vật qua thời
gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các dấu hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn một
dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở đâu trên mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong
năm. Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất
2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất

3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm
Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác nhau trên trái
đất (SB): SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo
tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên những đặc
điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo, phương thức sống của

13


thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường tạo nên. Thuộc
về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của thực vật, đặc điểm qua đông, sinh
sản…
Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất sinh thái
học hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu hiệu hình thái
sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu khác như ra quả nhiều lần hay một
lần trong cả đời của cá thể bao gồm: ngành, kiểu, lớp và lớp phụ. Trong bảng phân
loại này không bao gồm những cây thuỷ sinh. Trong bảng phân loại này ông còn
chia ra các đơn vị nhỏ hơn là nhóm, nhóm phụ, tổ và các dạng đặc thù.
Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên bởi
Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm phần
dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu thị mức độ
khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm của cây. Vì thế
việc sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng sống sẽ giúp cho ta
đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc trưng của môi trường.
1.3.2. Những nghiên cứu về dạng sống của thực vật ở Việt Nam
Ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về dạng sống như: Doãn Ngọc
Chất (1969) nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật thuộc họ Hoà thảo.

Hoàng Chung (1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng cỏ Bắc
Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại kiểu đồng cỏ sa
van, thảo nguyên .
Hoàng Chung (2008), khi nghiên cứu thực vật trong đồng cỏ vùng núi bắc
Việt Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu cây bụi, kiểu
cây bụi thân bò, kiểu cây bụi nhỏ, kiểu cây bụi nhỏ bò, kiểu nửa bụi, kiểu thực vật
có khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ rễ cái sống lâu năm.
Phan Nguyên Hồng (1991) khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật rừng ngập
mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: cây gỗ (G), cây bụi (B), cây thân
thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp dạng cây bụi (G/B), ký sinh (K), bì sinh (BS). Áp
dụng theo nguyên tắc của Raunkiaer, Nguyễn Bá Thụ, Phùng Ngọc Lan, Nguyễn
Nghĩa Thìn (1995) đã xây dựng phổ dạng sống của hệ thực vật Vườn quốc gia Cúc
Phương là:

14


SB = 57,8Ph + 10,5Ch + 12,4He + 8,3Cr + 11,0Th
Đặng Kim Vui (2002) , nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau
nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã phân chia dạng sống thực vật
dựa vào hình thái cây: cây gỗ, cây bụi, cây leo và cây cỏ, đồng thời ông đã xác định
được có 17 kiểu dạng sống, trong đó có 5 kiểu dạng cây bụi (cây bụi; cây bụi thân
bò; cây bụi nhỏ; cây bụi nhỏ thân bò; cây nửa bụi).
Nguyễn Thế Hưng (2003) khi nghiên cứu dạng sống thực vật trong các trạng
thái thảm thực vật tại Hoành Bồ (Quảng Ninh) đã kết luận: nhóm cây chồi trên đất
có 196 loài chiếm 60,49% tổng số loài của toàn hệ thực vật; nhóm cây chồi sát đất
có 26 loài chiếm 8,02%; nhóm cây chồi nửa ẩn có 43 loài chiếm 13,27%; nhóm cây
chồi ẩn có 24 loài chiếm 7,47%; nhóm cây 1 năm có 35 loài chiếm 10,80% .
Lê Ngọc Công (2004) khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng bằng khoanh
nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên đã phân chia thực vật thành các

nhóm dạng sống sau: cây gỗ; cây bụi; cây cỏ và dây leo…
1.4. Những nghiên cứu về bảo tồn thực vật trên thế giới và ở Việt Nam.
1.4.1. Những nghiên cứu về bảo tồn thực vật trên thế giới
Ngay từ những năm 1970, các nhà khoa học đã nhận thức được tình trạng
khủng hoảng đa dạng sinh học. Để bày tỏ mối quan tâm của mình, năm 1978 nhà
sinh thái học Micheal Soule đã tổ chức hội thảo quốc tế đầu tiên về bảo tồn sinh
học. Trong hội thảo này, ông đã bày tỏ phương pháp tiếp cận mới nhằm giúp các
loài thực vật, động vật thoát khỏi cơn sóng tuyệt chủng do con người gây ra. Sau
đó, cùng với đồng nghiệp của mình, ông đã phát triển lý thuyết sinh học bảo tồn.
Sinh học bảo tồn là một nguyên lí khoa học được xây dựng để bảo vệ các loài,
thiết lập các khu bảo tồn mới, củng cố nâng cấp các vườn quốc gia và cũng là để
xác định các loài nào trên trái đất được bảo tồn trong tương lai (Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2006, Nghị định 32 về quản lí thực vật rừng,
động vật rừng nguy cấp, quý hiếm).
Năm 1964, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên Quốc tế
(IUCN) đã cho xuất bản những Bộ sách đỏ, trong đó chỉ ra các loài động vật, thực
vật đang có nguy cơ bị tuyệt chủng trên thế giới cần phải bảo tồn. Sách đỏ năm

15


2009 của tổ chức này công bố có đến 70% thực vật bị đe dọa, không ít hơn 12.151
loài cây trong Sách đỏ và 8.500 loài sắp tuyệt chủng .
1.4.2. Những nghiên cứu về bảo tồn thực vật ở Việt Nam
Theo Trương Quang Học(2003), do tồn tại những nguyên nhân khác nhau mà
đa dạng sinh học của Việt Nam đã bị suy thoái trầm trọng. Diện tích rừng, hệ sinh
thái có đa dạng sinh học cao nhất đã giảm từ 72% (1909) xuống 43% (năm 1941)
xuống 28% (1995). Trong những năm gần đây, với nhiều cố gắng của nhà nước và
cộng đồng, diện tích che phủ của rừng đã được nâng lên: 33,2% (2000), 35,8%
(2003) và 39,1% (2009). Tuy nhiên, rừng nguyên sinh/rừng giầu vẫn có xu hướng

giảm sút chỉ còn khoảng dưới 10% (Alexander et all., 2000, Bộ TN&MT, 2005)
Phần thực vật sách đỏ Việt Nam được xuất bản năm 1996 với 356 loài nằm
trong danh mục.Theo kết quả được thống kê trong Sách đỏ Việt Nam (2004) cho
thấy tổng số loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa đã lên đến 857 loài, gồm
407 loài động vật và 450 loài thực vật, tức số loài đang bị đe dọa đã tăng đáng kể.
Sự xuống cấp hay mất đi rừng ngập mặn đã làm suy giảm nguồn lợi tái tạo khác và
sự mất mát đó rất khó có thể định lượng cả về số lượng và giá trị. Một nghiên cứu
mới đây của Vụ nuôi trồng Philipin chỉ ra rằng mất rừng ngập mặn ở đất nước này
đã kèm theo việc mất đi các chức năng về sinh học và sinh thái gây ra thiệt hại rất
lớn, ước tính 242 triệu USD/năm.
Mặc dù có nhiều công trình và chính sách đưa ra các giải pháp nhằm bảo tồn
đa dạng thực vật ở Việt Nam như trong các công trình của Phan Kế Lộc, Phạm
Hoàng Hộ, Nguyễn Hoàng Nghĩa, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Quốc Trị, Nghị
định về bảo tồn đa dạng sinh học… Tuy nhiên sự suy giảm đa dạng nguồn tài
nguyên sinh học vẫn diễn ra, theo phiên bản mới nhất hiện nay là Sách đỏ Việt Nam
2007, được công bố vào ngày 26 tháng 6 năm 2008, theo số liệu này hiện nay tại
Việt Nam có 882 loài (418 loài động vật và 464 loại thực vật) đang bị đe dọa ngoài
thiên nhiên, tăng 167 loài so với thời điểm năm 1992. Trong đó có 116 loài động
vật được coi là “rất nguy cấp” và 45 loài thực vật “rất nguy cấp” (trong số 196 loài
thực vật đang“nguy cấp”).
Trong công trình tổng kết của Nguyễn Nghĩa Thìn và Đặng Quyết Chiến xác
định trong số 1162 loài thực vật bậc cao có mạch thống kê được các tác giả mới chỉ

16


ra có 42 loài được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam với 1 loài đang bị tuyệt chủng,
16 loài sắp bị tuyệt chủng, 14 loài hiếm và 11 loài bị đe dọa tuyệt chủng.
Phan Hoàng Giẻo, Đặng Minh Quân, Nguyễn Nghĩa Thìn (2012), đã xác định
tại núi Hàm Rồng của VQG Phú Quốc có 11 loài cây có tên trong “Sách đỏ Việt

Nam” (2007) chiếm 3,12% số loài của hệ. Trong đó có 6 loài nguy cấp và 5 loài sẽ
nguy cấp.
Phan Kế Lộc (2013) khi nghiên cứu hệ thực vật tại KBTTN Na Hang đã ghi
nhận được 31 loài (16%) Bị đe dọa tuyệt chủng trong đó có 1 loài đang bị tuyệt
chủng trầm trọng (Lan hài hằng), 12 loài Đang bị tuyệt chủng (4 loài cây gỗ (đó là
Nghiến, Trai, Đinh vàng và Thông hai lá đá vôi), 3 loài Lan kim tuyến (Kim tuyến
thật, Kim tuyến đá vôi và Kim tuyến giả), 3 loài Lan hài khác (Lan hài xanh, Lan
hài trần liên và Lan hài tía) và 2 loài khác (Tỏi lào chuông và Thu hải đường Na
Hang), 18 loài Sắp bị tuyệt chủng.
1.4.3. Thực trạng về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam
Để ngăn ngừa sự suy thoái đa dạng sinh học, Việt Nam đã tiến hành công tác
bảo tồn đa dạng sinh học khá sớm. Hai hình thức bảo tồn ĐDSH phổ biến được áp
dụng ở Việt Nam là: Bảo tồn nội vi hay nguyên vị (Insitu conservation) và bảo tồn
ngoại vi hay chuyển vị (Exsitu conservation).
1.4.3.1. Bảo tồn nguyên vị (in- situ)
Bảo tồn nguyên vị bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục đích bảo
vệ các loài, các chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên.
Tuỳ theo đối tượng bảo tồn để áp dụng các hình thức quản lý thích hợp. Thông
thường bảo tồn nguyên vị được thực hiện bằng cách thành lập các khu bảo tồn và đề
xuất các biện pháp quản lý phù hợp.
Việt Nam là một trong những nước sớm quan tâm đến vấn đề bảo tồn tài
nguyên đa dạng sinh học. Ngày 7 tháng 7 năm 1962, Vườn quốc gia Cúc Phương là
KBT đầu tiên được thành lập ở miền Bắc. Thời gian đầu gọi là khu “rừng cấm” Cúc
Phương, đây là khu bảo tồn thiên nhiên đối với hệ động thực vật trên núi đá vôi nằm
tiếp giáp ở vùng sinh thái đồng bằng Bắc bộ và Tây Bắc. Ở miền Nam, năm 1965,
Phạm Hoàng Hộ và Phùng Trung Ngân đã đề nghị và được chính phủ Sài Gòn
quyết định thành lập 10 khu bảo vệ vùng thấp: Côn Đảo, Châu Đốc, Bảo Lộc, Rừng

17



×