1. Thực Trạng năng suất lao động Việt Nam
Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống, đặc
trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu
đầu vào (lao động làm việc). Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực sản
xuất của một đơn vị hay cả nền kinh tế - xã hội.
Hiện nay có thể tính năng suất lao động theo 3 chỉ tiêu: hiện vật, giá trị và thời
gian lao động nhưng ở Việt Nam, năng suất lao động được tính toán theo chỉ tiêu
giá trị tổng sản lượng.
Từ số liệu thống kê về GDP về tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá thực tế
và lao động làm việc có trong Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê, ta tính
được mức năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2005 -2007.
Nếu tính theo giá cố định (giá năm 1994) và nghiên cứu biến động của năng suất lao
động ta thấy 5 năm qua năng suất lao động chung toàn nền kinh tế quốc dân của
Việt Nam liên tục tăng lên với tốc độ tăng năng suất lao động năm sau gấp hơn 2
lần năm trước. Cụ thể như sau:
Bảng 1: Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội giai đoạn 2005 - 2007
Năm
ĐVT
2005
Năng suất lao động
Triệu/người /năm 19,62
Tôc độ tăng NSLĐ (%) %
5,51
Nguồn: Tổng cục thống kê
2006
22,46
14,46
2007
29
29
Năng suất lao động của Việt Nam đang từng bước được nâng cao, tuy nhiên hiện
thời đạt xấp xỉ 1.700USD/lao động/năm nhưng còn rất thấp thua xa so với nhiều
nước trong khu vực.rất thấp. Chỉ số nói trên của Việt Nam mới bằng khoảng 50%
của những nước thuộc tốp trung bình trong khu vực như Indonesia, Philippin. So
với Thái Lan, năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng khoảng 30%. Trong khi
năng suất lao động của Việt Nam chưa vượt qua con số 2.000 USD/lao động/năm,
chỉ số này của Brunei hơn 60.000USD, Singapo hơn 50.000USD, Malaysia hơn
14.000USD. Nếu so sánh với các nước ngoài khu vực ví dụ như Mỹ- là nước có
năng suất cao nhất thì năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 1,6%
Với năng suất thấp như vậy thì khả năng tích lũy trong nước thấpvì giá trị thặng
dư chẳng còn được bao nhiêu. Cụ thể là tỷ lệ tích lũy so với GDP năm 2007 của
1
nước ta lên đến 41,65%, sau khi trừ đi chênh lệch giữa nhập khẩu và xuất khẩu
(nhập siêu) tới 13,43%, thì tích lũy trong nước chỉ còn bằng 28,22%, thấp hơn Thái
Lan, Hàn Quốc, Ấn Độ, càng thấp xa so với Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là tích
lũy có một phần quan trọng còn phụ thuộc vào nước ngoài. Năng suất lao động thấp
chẳng những làm cho giá trị thặng dư, tích lũy thấp mà còn làm cho tiêu dùng bình
quân đầu người thấp.
Xem xét năng suất lao động của nền kinh tế trên góc độ phần chia theo các nhóm
ngành kinh tế: nông- lâm – ngư nghiệp; công nghiệp xây dựng và thương mại dịch
vụ thì theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động xã hội (tính
bằng GDP theo giá thực tế chia cho một lao động làm việc) năm 2006 của Việt Nam
là 22,46 triệu đồng/người (trong đó nông, lâm nghiệp 7,09 triệu, thủy sản 24,59
triệu, công nghiệp 58,25 triệu, xây dựng 26,45 triệu, thương nghiệp 25,29 triệu,
khách sạn, nhà hàng 45,78 triệu, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 36,15 triệu, văn
hóa, y tế, giáo dục 27,37 triệu, các ngành dịch vụ khác 57,55 triệu). Như vậy, dễ
dàng thấy rằng năng suất lao động của nhóm ngành nông, lâm, nghiệp là thấp nhất,
chỉ bằng một phần ba mức năng suất lao động chung của cả nước, chỉ bằng một
phần tám mức năng suất lao động của nhóm ngành cao nhất là ngành công nghiệp.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho năng suất lao động trong nông, lâm nghiệp thấp là
do số lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất (52,1%), thời gian chưa sử dụng còn nhiều
tới 20%, Ngành công nghiệp có năng suất lao động cao nhất, nhưng số lượng lao
động chiếm tỷ trọng thấp (13,5%), tốc độ tăng chậm, tính gia công và khai thác
nguyên nhiên vật liệu còn cao, giá trị tăng thêm thấp, tỷ trọng doanh nghiệp có công
nghệ thấp còn lớn (57%), tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao chỉ đạt khoảng
20,5%, thấp xa so với các chỉ số tương ứng 40-50% của các nước trong khu vực.
Năng suất lao động các ngành dịch vụ tuy cao hơn mức chung, nhưng vẫn thấp
hơn nhóm ngành công nghiệp là do số lao động nhóm này chủ yếu tập trung chủ
yếu vào ngành thương nghiệp, mà ngành thương nghiệp của ta hiện buôn bán nhỏ
còn chiếm tỷ trọng lớn và tính đại lý của thương mại còn lớn; tập trung vào ngành
giáo dục, y tế, văn hóa,... là những ngành có giá trị gia tăng thấp. Đồng thời nhiều
2
hoạt động dịch vụ vẫn còn mang tính kiêm nhiệm ngoài giờ của các cơ quan, đơn
vị, hộ gia đình, lúc nông nhàn ở nông thôn nên tính chuyên nghiệp thấp.
Tuy nhiên khi xét về tốc độ tăng năng suất lao động thì có thể thấy: năng suất lao
động trong ngành nông - lâm nghiệp tăng đều hơn (từ 3,15% đến 4,21%) và bình
quân 5 năm (2001-2005) đạt 3,81%. Năng suất lao động của công nghiệp trong 3
năm đầu (2001 - 2003) tăng không đáng kể, đến năm 2004 có tốc độ tăng tương
đương tốc độ tăng năng suất lao động của ngành nông - lâm nghiệp (4,05%) và đến
năm 2005 đạt khá cao (6,54%). Mức tăng bình quân 5 năm đạt 2,75%, thấp hơn tốc
độ tăng năng suất lao động bình quân 5 năm của ngành nông, lâm nghiệp là -1,06%
(=2,75% - 3,81%). Năng suất lao động của các ngành kinh tế khác trong 2 năm
2001 và 2002 giảm chút ít, 3 năm tiếp theo có tăng, nhưng chậm và bình quân 5
năm (2001 - 2005) năng suất lao động của các ngành này gần như không tăng.
Bảng 2: Tốc độ tăng năng suất lao động của các ngành kinh tế thời kỳ 2001 2005
Đơn vị tính: %
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Bình quân
Ngành KT
Chung nền kinh tế 4,25
-Ngành
nông-lâm4,21
4,48
3,15
4,54
3,34
5,19
4,21
5,58
4,14
5 năm
4,81
3,81
nghiệp
-Ngành công nghiệp 0,19
Các ngành kinh tế-0,1
2,03
-0,03
1,05
1,07
4,05
1,19
6,54
0,20
2,75
0,48
khác
Xem xét kinh tế nhà nước trên khía cạnh khu vực kinh tế thì trong 3 khu vực,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có mức năng suất lao động cao nhất. Năm
2007, năng suất lao động theo giá thực tế của khu vực kinh tế này đạt 131,25 triệu
đồng. Khu vực kinh tế nhà nước có mức năng suất đứng vị trí thứ hai, đạt 104,86
triệu đồng. Thấp nhất là năng suất lao động của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đạt
13,58 triệu đồng. Như vậy năng suất lao động của khu vực có vốn đầu tư nước
3
ngoài cao gấp 9,6 lần khu vực ngoài nhà nước trong khi khu vực nhà nước gấp 7,72
lần.
Năng suất lao động theo khu vực
Đơn vị: triệu/người/năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Kinh tế nhà nước
79.7863227 92.2455492 104.864389
Kinh tế ngoài Nhà nước
10.2476489 11.6813638 13.5843829
Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài
118.4375 124.123031 131.254871
Nguồn: Tổng cục thống kê
Quan sát số liệu về năng suất lao động của 3 khu vực giai đoạn 2001- 2005 theo
thời gian, năng suất lao động giữa 3 khu vực kinh tế trên ở những năm trước còn có
sự chênh lệch nhiều hơn, và đã ngày càng được thu hẹp, tức là theo xu hướng càng
những năm về sau mức độ chênh lệch này càng nhỏ dần
Có thể thấy, năng suất lao động chung của cả ba khu vực ở Việt Nam đạt thấp
chủ yếu là do, năng suất lao động của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt quá thấp,
trong khi đó lao động của khu vực kinh tế này lại rất lớn, chiếm tới 88% tổng số lao
động làm việc ở cả ba khu vực.
Xét về tốc độ tăng, quan sát năng suất lao động thì năng suất lao động khu vực
kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh và đều nhất, sau đến năng suất lao động khu vực
kinh tế nhà nước. Năng suất lao động khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
biến động nhẹ khoảng 1%.
Bảng 3: Tốc độ tăng năng suất lao động của toàn nền kinh tế và các khu vực
kinh tế thời kỳ 2001 – 2005
Đơn vị tính: %
Năm
2005
1. KV kinh tế nhà nước
6,87
2. KV kinh tế ngoài nhà nước
5,17
3. KV kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
5,63
Nguồn : Tổng cục thống kê
2006
15,61
13,99
4,80
2007
13,67
16,29
5,75
Theo số liệu của tổng cục thống kê cho thấy trong 6 năm qua, năng suất lao động
bình quân của các doanh nghiệp tăng 8,7%/ năm. Nếu loại trừ tác động của yếu tố
4
giá thì tăng trưởng năng suất bình quân của các doanh nghiệp đạt 8,4%/ năm, cao
hơn nhiều so với tăng trưởng năng suất lao động toàn bộ nền kinh tế (khoảng 6%/
năm).
Bảng 2. Năng suất bình quân của các doanh nghiệp, 2000 - 2005
Chỉ tiêu
Năngsuất
lao động
Đơn vị
2000
2001
triệu đồng/ 228,9
người
228,3
2002
256,5
2003
277,57
2004
298,0
2005
345,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Trong các loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp liên doanh có năng suất cao nhất năm 2005 đạt 1.357,2 triệu đồng/ lao động với mức tăng năng suất 10%/ năm, tiếp
đó là các doanh nghiệp nhà nước Trung ương - đạt 473,2 triệu đồng/ lao động với
mức tăng 14,2%/ năm, công ty cổ phần có vốn nhà nước đạt 380 triệu đồng/ lao
động với mức tăng 18%/ năm, doanh nghiệp tư nhân đạt 360,9 triệu đồng/ lao động
với mức tăng 3,7%/ năm.
Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã tích cực đổi mới tổ chức quản lí, đẩy
mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, cải tiến quy trình sản xuất, nâng
cao trình độ quản lí và trình độ tay nghề của người lao động cho nên đã đạt được sự
tăng trưởng mạnh về năng suất lao động. Tuy nhiên, cần phải nói rằng nhìn chung
năng suất lao động của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn rất thấp. NSLĐ của doanh
nghiệp Việt Nam thấp hơn 2-5 lần so với các nước ASEAN. Trong khi đó, chi phí
về lao động trên giá trị mới của Việt Nam rất cao, bằng 47,38%, tương đương với
Nhật Bản và Mỹ. Chẳng hạn, trong lĩnh vực dệt thoi, một công nhân Việt Nam đứng
10 máy, hiệu suất là 80%, trong khi một công nhân Đài Loan đứng 30 - 40 máy,
hiệu suất 90%. Năng suất lao động trong ngành dệt của Việt Nam chỉ bằng 90% của
Trung Quốc, 85% của Thái Lan.
5
Tóm lại, phân tích trên đây cho thấy, năng suất lao động bình quân chung toàn
nền kinh tế quốc dân của nước ta đạt được còn ở mức thấp so với các nước trên thế
giới. Trong đó, đặc biệt khu vực kinh tế ngoài nhà nước (xét theo hình thức sở hữu)
và ngành nông - lâm nghiệp (xét theo ngành kinh tế) có mức năng suất lao động rất
thấp, nhưng lại có lao động chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó đã làm ảnh hưởng rất nhiều
đến mức năng suất lao động bình quân chung toàn nền kinh tế quốc dân, làm giảm
sức cạnh tranh của các ngành kinh tế trong nước so với nước ngoài cũng như làm
giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
2. Các nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động việt nam chưa cao.
Có thể tổng kết năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp là do một số
nguyên nhân chính như sau:
Hiện nay công nghệ sản xuất của nước ta còn yếu kém, lạc hậu. Theo đánh giá
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ lạc
hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ. Có đến 76% máy móc,
thiết bị và dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam là công nghệ thuộc
thế hệ những năm 1950-1960; 75% số thiết bị đã hết khấu hao và 50% là được tân
trang lại. Tính chung cho các doanh nghiệp tỷ trọng thiết bị hiện đại chỉ có khoảng
10%, lạc hậu chiếm trung bình 38% và rất lạc hậu tới 52%.
Trong khi công nghệ sản xuất của nước ta còn yếu thì việc đổi mới công nghệ
vẫn chưa được các doanh nghiệp coi trọng đúng mức. Theo Bộ Khoa học và Công
nghệ thì tốc độ đổi mới công nghệ còn rất thấp, bình quân khoảng 10%/năm. Các
doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư khoảng 0,2-0,3% doanh thu cho việc đầu tư
đổi mới công nghệ, thấp hơn nhiều so với mức 10% ở Hàn Quốc hay 5% ở ấn Độ.
Chất lượng nguồn nhân lực hiện còn rất thấp, thiếu trầm trọng nguồn nhân lực
chất lượng cao, đến năm 2007 tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo mới chỉ
chiếm gần 30% .Hiện nay việt nam vẫn đang thiếu trầm trọng nhưng người lao
động có trình độ cao, cơ cấu đào tạo giữa các cấp học mất cân đối tỷ lệ đào tạo ở
nước ta hiện nay giữa đại học, cao đẳng - trung cấp chuyên nghiệp - học nghề . Bên
cạnh đó, doanh nghiệp còn ít chú trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực, mà chủ yếu tập
6
trung vào khai thác, sử dụng. Nếu có đào tạo thì mỗi doanh nghiệp phải tự lo việc
huấn luyện, đào tạo, bằng cách người cũ hướng dẫn cho người mới một cách thả nổi
không kiểm soát. Việc không được đào tạo bài bản, khoa học và thiếu phương pháp
sư phạm đã dẫn đến thao tác bị hỏng, dẫn đến không cải thiện năng suất lao động.
Hệ thống trả lương và đãi ngộ hiện nay còn nhiều hạn chế chưa khuyến khích
được người lao động cải tiến và nâng cao tay nghề năng lực thao tác, nhằm nâng
cao năng suất lao động.
Tỷ trọng lao động trong các ngành vẫn còn mất cân đối, phần lớn lao động tập
trung trong các ngành có năng suất lao động thấp như nông lâm ngư nghiệp còn các
ngành có năng suất lao động cao thì tỷ trọng nguồn nhân lực vẫn ít, do đó ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất lao động chung của cả nước.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động ở Việt Nam
Như vậy, trình độ kỹ thuật, công nghệ còn thấp, cơ sở vật chất còn nghèo, công
tác quản lý còn một số hạn chế, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đặc
biệt là sản xuất nông nghiệp là những nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động ở
Việt Nam còn thấp. Dưới đây làm một số kiến nghị nhằm nâng cao năng suất lao
động:
Nhà nước cần phải hoàn thiện các chính sách để nhằm chuyển dịch cơ cấu lao
động giữa các ngành kinh tế nhằm tăng tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp
dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động trong các nghành nông lâm nghiệp. Cụ thể như đào tạo
nghề cho người lao động trong các ngành nông nghiệp để dần chuyển họ sang các
ngành công nghiệp.
Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp luật để tạo điều kiện phát
triển thị trường công nghệ hoạt động phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng và ban
hàn một số văn bản pháp quy về sở hữu trí tuệ như sở hữu công nghiệp, quyền tác
giả, hợp đồng chuyển giao công nghệ… Thúc đẩy cung - cầu đối với sản phẩm
công nghệ, thúc đẩy việc hình thành các tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ
7
thuộc mọi thành phần kinh tế, xây dựng trung tâm hay ngân hàng công nghệ quốc
gia, hình thành các tổ chức tư vấn công nghệ, định kỳ tổ chức các hội chợ, hội thảo
về công nghệ nhằm phổ biến rộng rãi các thông tin và kiến thức về sở hữu trí tuệ,
thông tin về công nghệ mới...
Phát triển hơn nữa thị trường cho thuê tài chính vì đây là một hình thức tín dụng
thuê mua trung và dài hạn quan trọng giúp doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu mua sắm
máy móc thiết bị theo đúng yêu cầu về chủng loại, mẫu mã... trong điều kiện thiếu
vốn chủ sở hữu. Các biện pháp cụ thể là:
+ Các công ty cho thuê tài chính cần mở rộng mạng lưới phục vụ để đáp ứng tốt
nhu cầu của doanh nghiệp trên toàn quốc, đặc biệt là các công ty thuộc các ngân
hàng thương mại cần tận dụng mạng lưới chi nhánh ngân hàng sẵn có để phát triển
hoạt động này qua hình thức uỷ thác cho thuê tài chính, điều này cũng làm giảm
thiểu chi phí quản lý tài sản thuê, tạo điều kiện giảm lãi suất cho thuê.
+ Mở rộng các hình thức thuê cho phù hợp với yêu cầu đổi mới tài sản của doanh
nghiệp, đồng thời để giảm thiểu rủi ro của hoạt động này cần phát triển thị trường
cho thuê lại, thị trường mua bán các máy móc đã qua sử dụng, nhanh chóng phát
triển thị trường cho thuê vận hành
+ Nhà nước cần có chính sách ưu đãi hợp lý nhất là ưu đãi về thuế đối với công
ty cho thuê tài chính
Nhà nước và doanh nghiệp cần phải phối hợp trong việc đẩy mạnh công tác đào
tạo và đào tạo lại lao động, nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực đáp ứng
với yêu cầu ngày càng tăng của công việc cũng như sự tiến bộ mạnh mẽ của máy
móc và công nghệ:
+ Tiếp tục huy động vốn thuộc mọi thành phần kinh tế cho đầu tư mở rộng các
hình thức đào tạo, hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, kỹ năng với
những tiêu chuẩn chất lượng được quy định chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo và nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề.
8
+ Tăng cường ngân sách cho nghiên cứu khoa học thuộc các trường đại học,
trường kỹ thuật để tạo đà cho việc đi ngay vào công nghệ tiên tiến của thế giới.
+ Tiến hành thực hiện tiêu chuẩn hóa đối với các cơ sở dạy nghề theo những quy
định về chỉ tiêu chất lượng, văn bằng chứng chỉ do các cơ sở này cấp phải được cơ
quan quản lý Nhà nước công nhận, tiến tới được công nhận trong phạm vi khu vực
và quốc tế, tăng cường hợp tác, liên doanh, trao đổi với các cơ sở đào tạo của nước
ngoài, nhất là các nước tiên tiến.
+ Đầu tư nâng cấp, đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, khuyến khích
phương thức giảng dạy hiện đại, mở rộng quyền tự chủ trong việc lựa chọn giáo
trình, tuyển sinh và thu chi tài chính...
Doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến việc đổi mới máy móc thiết bị, hiện đại
hoá công nghệ để bắt kịp với tiến bộ khoa học kỹ thuật khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần rà soát lại công tác tổ chức quản lí, tổ chức sản
xuất, thiết bị, công nghệ, lao động, vật tư, nguyên liệu... đánh giá những điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (theo phương pháp SWOT) đối với từng
khâu, từng bộ phận, từng vấn đề quan trọng trong doanh nghiệp và toàn bộ doanh
nghiệp.
Đồng thời doanh nghiệp cũng đến công tác quản lý nguồn nhân lực
như sử dụng nhân lực có hiệu quả, chú trọng từ khâu tuyển chọn, bố trí, sử dụng lao
động, bảo đảm lao động có trình độ, năng lực phù hợp; đồng thời, tăng cường đào
tạo và đạo tạo lại đến nâng cao trình độ, kỹ năng của người quản lí và lao động; tạo
môi trường làm việc thân mật, cởi mở nhằm làm cho nhân viên gắn bó hơn với
doanh nghiệp, phát huy sáng kiến, tăng khả năng làm việc theo nhóm.
9
MỤC LỤC
1. Thực trạng năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua
2. Một số nguyên nhân hạn chế năng suất lao động của Việt Nam
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong thời
gian tới
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Lê Xuân Bá – Nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - Viện nghiên cứu kinh tế TW
2. Chủ biên: PGS.TS Trần Xuân Cầu- PGS.TS Mai Quốc Chánh- Giáo trình Kinh tế
nguồn nhân lực- 2007- NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân
3. Tạp chí lao động và xã hội tháng 10/2006, tháng 4/2007
4. Các trang web: : Tổng cục thống kê
: thời báo kinh tế
11