Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.41 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong
dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THCS

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: VÕ THỊ KIM TỊNH
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A


Hà Tĩnh, năm 2015
ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất
lượng giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ mơn Giáo dục cơng dân nói chung, mảng
kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân cách,
rèn giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt, trong điều
kiện phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với trình độ phát
triển cao của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp dụng các phương
pháp dạy học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình huống) là việc làm cần
thiết đối với giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường


phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến phương pháp
cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ
thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, phương pháp
dạy học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học
chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng, cho ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm
tăng tính thực tiễn của mơn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các
vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân là
mơn học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc
áp dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy mơn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “Sử dụng phương pháp dạy
học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông qua dạy học
môn Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

2


Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu việc áp
dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn Giáo dục
công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ,
hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường THCS
Đức Thuận – thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục
công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học

môn Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Đức Thuận
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THCS Đức Thuận
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học mơn Giáo dục cơng
dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường THCS Đức Thuận
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết lý
thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều tra,
đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như phỏng vấn
sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

3


7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo viên
GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh.

8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong dạy
học môn GDCD ở trường Trung học.
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trị tự giác, tích cực, tự lực đạt
tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm
bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học địi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trị, trong q
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trị
lĩnh hội được nội dung trí dục.

4


Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học
có mối liên hệ mật thiết với nhau.

Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng
là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác
động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất
này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương
đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở
lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lơgic hợp lý, và bằng
lơgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh
giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó
hữu cơ với nhau, chúng khơng thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên
chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai
chức năng trên đây bằng chính lơgic của bài giảng, với lơgic hợp lý của bài giảng,
thầy vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả
việc tự học của trị. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mơ hình cơ bản cho
phương pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải
tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội
dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên tồn bộ lơgic bài giảng của thầy mà tự
lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm
tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản
của bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lơgic của bản thân. Vậy,
trong phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với
nhau, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền
đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối

5



ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc
ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp
học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trị nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ
bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thơng tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trị phải sử dụng tồn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và q trình học thì q trình dạy có vai trị chỉ đạo trong
cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết
quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hồn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án
giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hồn cảnh gắn với câu chuyện có
cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh
chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là
những tình huống thực hoặc mơ phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm
mục đích dạy học”.

Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
tốn nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải
quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những

6


tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái
(kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này địi hỏi phải
được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh
ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt
tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con
người tìm tịi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của
hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành
động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải
quyết mâu thuẫn đó, khơng phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tịi sáng
tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp
giành kiến thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức
được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì
hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là
tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và
giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề ln chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ
cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu và

giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức hành
động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng
về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và
kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề khơng
địi hỏi q cao đối với trình độ hiện có của học sinh.

7


* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách
quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có
nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tịi, tích cực, sáng tạo, kết
quả là họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng
thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng
thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết
cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp
mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu

thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh.
Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt
được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương
pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả
về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên khơng đưa
ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng khơng đúng với nội dung hoặc
khơng sát thực tế. Từ đó làm cho người học khơng định hướng được cách giải quyết
tình huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:

8


Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và
dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thơng qua các tình huống được phân tích, thảo luận,
người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức
này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào
tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương
pháp giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn
liền với q trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, q
trình tiếp nhận thơng tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong

đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì
phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một mơi trường học tích cực có sự tương
tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và
họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan
điểm đó. Họ khơng bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết
một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh
đó, dạy học bằng tình huống cịn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm
cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm
phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải
vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của
nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thơng qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả
năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp
bao giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư
duy độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ
khả năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức
cho cả người học lẫn người dạy.

9


Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành cơng trong
tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và

hạn chế của bản thân khi họ ln có mơi trường thuận lợi để so sánh với các học viên
khác trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm
việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng
tình huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một
cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lơgic; hiểu biết thực tế
sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết
phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ
dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người
khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức,
kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có
thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả
năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học
tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thơng qua
việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các
vấn đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thơng tin và trở thành người
có thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên
cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học
vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu,
tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình.
Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời

10



họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên
để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học
sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu
tình huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của
tình huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
cịn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng
tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm
của người học. Vì vậy, đơi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ khơng hướng theo con
đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là
trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác
nhau, và giáo viên khơng có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống địi hỏi tinh thần tự học, thái
độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên,
hiện nay có khá nhiều học sinh khơng quen với phương pháp học bằng tình huống, họ
khơng có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, khơng hợp tác từ đó làm giảm hiệu
quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định,
giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic
cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp
nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình
huống địi hỏi giảng viên phải là người tích cực, ln đổi mới, cập nhật thông tin, kiến
thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội

và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất
ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần
đã phải thay đổi cho phù hợp.

11


Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy khơng có việc gì để làm. Đây là một ý
kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống địi hỏi những kỹ năng phức tạp
hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức
và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện…
Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng
phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong q trình thuyết
giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng
bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những
loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng
của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng
và (2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ
thuyết giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề
nhằm gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống

này cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc.
Các tình huống khơng cần q khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên
cứu và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất
và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp
dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực
tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không
những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị
theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình

12


huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho
học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xun suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn
bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ
mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng
các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó
lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong
việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý
các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là
cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới
một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ
định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo
viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua q trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây

dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình
giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các
bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống ln bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là
một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào
thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà
thơng thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp
thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể địi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn

13


đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình
huống hồn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng
tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã
được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội
dung kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình
tiết của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình.
Thứ hai, nếu khơng tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một
tình huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như
phân tích trên đây phải được tn thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một cơng đoạn quan trọng trong quá
trình dạy học bằng tình huống .

1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn GDCD
ở trường Trung học
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Hiện tôi đang dạy học tại trường THCS Đức Thuận. trường này thuộc vùng
nông thôn của thị xã Hồng Lĩnh, tĩnh Hà Tĩnh nên tầm nhận thức chưa cao, chưa rộng
mở,sự giao lưu , giao tiếp để học hỏi còn nhiều hạn chế so với những vùng đơ thị. Nên
việc dạy học nói chung và dạy học mơn GDCD nói riêng cịn gặp nhiều khó khăn, bất
cập từ nhiều phía, từ ban lãnh đạo đến giáo viên, từ các bậc phụ huynh, học sinh đến
thực tế giảng dạy. Mặt khác, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh ở bậc THCS rất
khó dạy, khó bảo, hay hiếu động, ham chơi, lười học. nhiều em học để mất gốc từ bậc
tiểu học cho nên lên bậc THCS rồi mà chưa đọc thông, viết thạo, chữ viết cịn sai lỗi
chính tả nhiều. Đây là trở ngại quá lớn khi các em phải tiếp tục tìm hiểu, khám phá
những kiến thức cao hơn, rộng lớn hơn, trìu tượng hơn.Từ đó dẫn đến việc mất kiến
thức và kỹ năng cơ bản, nên học sinh chán học, không hứng thú học tập. Đã thế từ
phía học sinh và phụ huynh cịn quan niệm sai lệch cho đó là một môn học phụ,
không cần thiết phải học nhiều.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học Đức Thuận, thị xã Hồng
Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

14


1. Thực trạng việc giảng dạy bôn môn GDCD ở nhà trường hiện nay:
Như chúng ta đã biết mục tiêu của Giáo dục chính là đào tạo thế hệ trẻ, đáp
ứng nhu cầu của đất nước theo từng giai đoạn phát triển. Trước hết phải kể đến đó
chính là xã hội, gia đình và bản thân ngành giáo dục cịn chú trọng các mơn khoa học
nhằm nâng cao trí tuệ mà chưa chú ý nâng cao cho học sinh, nghĩa là chỉ chú ý đến
rèn tài mà nhân cách chưa rèn đạo đức.
Thời gian dành cho bộ mơn này cịn ít (1 tiết/tuần). Sách giáo khoa hiện nay

nội dung phong phú, hợp với lứa tuổi học sinh theo từng cấp học nhưng nếu giáo viên
thiếu sự đầu tư thì giờ học sẽ nhàm chán, học sinh khơng thích học bộ môn này.
Giáo viên giảng dạy bộ môn này thường kiêm nghiệm hai phân môn như VănGiáo dục công dân; sử - Giáo dục công dân hoặc là phải dạy chéo mơn, dạy khơng
đúng với phân mơn mình được đào tạo, hoặc được đào tạo rồi mà không được quan
tâm giảng dạy đúng bộ môn GDCD. Bởi do ban lãnh đạo GD và ban giám hiệu nhà
trường có quan niệm xem nhẹ môn GDCD, cho rằng với môn GDCD là môn GD tư
tưởng chung chung, thuần túy nên ai cũng có thể giảng dạy được. Tình trạng này kéo
dài đã nhiều năm và hiện nay vẫn còn tiếp diễn. Do tác động của xã hội, các bậc phụ
huynh và học sinh chạy đua theo cơ chế thị trường, chỉ chú tâm học văn, học toán, học
Anh,….để mai sau lên THPT đi thi Đại học kiếm nghề lập nghiệp. Họ sẵn sàng đầu tư
tiền bạc cho con em đi học thêm những mơn đó cịn mơn GDCD khơng học cũng biết
rồi,…Thực sự họ không hiểu hết được giá trị của bộ môn GDCD là để làm gì. Nếu
như các mơn học khác của KHTN và KHXH có nhiệm vụ là cung cấp các tri thức về tự
nhiên và về xã hội, thì môn GDCD sẽ cung cấp những tri thức về nhân sinh, tri thức
làm người. những tri thức của GDCD trực tiếp xây dựng tư tưởng, tình cảm và hành vi
lối sống, trách nhiệm và nghĩa vu của công dân đối với gia đình và cộng đồng xã hội,
…Đó chính là lợi thế của môn GDCD mà các môn học khác khơng có được và đó
cũng chính là tầm quan trọng của môn GDCD.
Mặt khác trong thực tế dạy môn GDCD lâu nay giáo viên thường giáo dục tư
tưởng chung chung, lý thuyết chung chung và trìu tượng, tách rời giáo dục tư tưởng
và tri thức của môn GDCD. Một sỗ giáo viên chưa nhận thức đầy đủ rằng các tri thức
của mơn GDCD bãn thân nó đã chứa đựng các tri thức hiểu biết về nhân sinh (đạo
đức học,pháp luật).Dạy học môn GDCD mà chưa gắn với việc tư tưởng đạo đức với

15


thực tế cuộc sống xã hội, gắn nội dung bài giảng với các chủ đề lớn của xã hội, gắn
với đường lối của đảng thời điểm chính trị của cách mạng một cách sâu sắc, triệt để
và hiệu quả.

Trong thực tế giảng dạy một số giáo viên cịn chưa tích cực trong đổi mới
phương pháp dạy học,còn ngại thay đổi phương pháp dạy học củ vẫn thiên về phương
pháp thuyết trình, trang bị kiến thức lý thuyết là chính, khiến cho các giờ học thuộc
môn GDCD trở nên khô cứng nặng nề, không lôi cuốn được học sinh, không phát huy
tính tích cực tự giác, hứng thú học tập của học sinh.Một số giáo viên đã lớn tuổi, sự
bắt nhịp với cơng nghệ thơn tin cịn chậm, chưa nhuần nhuyễn và thiếu linh hoạt.
Các trường THCS hiện nay đang còn thiếu phương tiện dạy học hiện đại, mỗi
trường may ra chỉ có được vài màn hình máy chiếu cho nên thỉnh thoảng giáo viên
mới có cơ hội để dạy học bằng máy chiếu.
Nơi dung sách giáo khoa cịn nhiều nội dung bất cập như cũ kĩ, lạc hậu chưa
được sửa đổi kịp thời theo sự thay đổi của hiến pháp 2013. Cho nên buộc giáo viên
phải vất vã tìm kiếm tài liệu để soạn bài và giảng dạy.
Trên đây là những nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn tới việc giảng dạy
môn GDCD ở bậc trung học cơ sở tại địa phương tơi đang dạy học cịn gặp nhiều khó
khăn, bất cập và dẫn tới chất lượng dạy học môn GDCD đạt kết quả chưa cao.
2. Đối tượng học sinh
- Học sinh trường Trung học Cơ sở Đức Thuận chúng tôi đa số các em đều
ngoan và đã chú trọng việc học tập của mình.Tuy nhiện cịn một số học sinh chưa chủ
động, tự giác học tập vẫn còn phải nhắc nhở trong vấn đề tiếp nhận tri thức. Các em
học sinh thuộc vùng nông thôn nên tầm nhận thức chưa cao, chưa rộng mở, sự giao
lưu, giao tiếp để học hỏi cịn nhiều hạn chế so với vùng đơ thị. Đặc điểm tâm sinh lý
lứa tuổi vị thành niên khó day, khó bảo, hiêú động nhiều lúc cịn ham chơi hơn ham
học. Chính vì vậy tạo hứng thú cho học sinh trong bài dạy là điều vô cùng quan trọng.
Giáo viên phải tích cực vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống thơng qua
việc giảng dạy mơn GDCD để nhằm giáo dục đạo đưc - pháp luật cho học sinh trung
học cơ sở.
1.2.3 Những thành công và hạn chế

16



1.2.3.1 Những thành công
Qua thực tế giảng dạy giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt
là việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm giáo dục pháp luật
cho học sinh phổ thông trong dạy học mơn GDCD ở trường THCS đã góp phần nâng
cao chất lượng dạy học bộ môn. Học sinh THCS là lứa tuổi thanh thiếu niên, lứa tuổi
có nhiều biến đổi mạnh về cả thể chất và tâm lý, luôn phải đối mặt với những khó
khăn, thách thức với những vấn đề, những tình huống đa dạng của cuộc sống. Phương
pháp giải quyết vấn đề để giúp học sinh biết cách giải quyết tích cực, hiệu quả đối
với những khó khăn thách thức của cuộc sống thực tiễn,để có một cuộc sống chất
lượng, an toàn và lành mạnh.
Phương pháp dạy học bằng tình huống cịn giúp học sinh phát triển tư duy phê phán
và kĩ năng ra quyết định
1.2.3.2 Những hạn chế
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống mất rất nhiều thời gian để soạn
giảng, chọn bài tập tình huống cho phù hợp với nội dung bài học. Việc đưa tình huống
ra và giải quyết tình huống cũng mất nhiều thời gian, có khi cịn gây ồn ào ảnh
hưởng tới các lớp học khác
1.2.3.3 Nguyên nhân
Sự thành công hay hạn chế đều do chính giáo viên và học sinh quyết định.Ngồi
ra cịn cần sự hợp tác, giúp đỡ từ nhiều phía như lãnh đạo ngành Giáo dục, Ban giám
hiệu nhà trường, phụ huynh, học sinh,…
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua thực tế giảng dạy môn GDCD tại trường THCS của địa phương nơi tôi
đang dạy học, bản thân tôi đã đúc rút được ra một số vấn đề khó khăn, thuận lợi đang
diễn ra thường xuyên ở trường THCS.Để khắc phục những khó khăn và phát huy
những thuận lợi trên , bản thân giao viên phải nổ lực phấn đấu vươn lên.Đầu tư thời
gian và công sức soạn giảng tốt nhất, tìm kiếm, học hỏi, vận dụng và phát huy tối ưu
các phương pháp và kỹ thuật dạy học, đặc biệt là phương pháp dạy học bằng tình
huống để nhằm nâng cao chất lượng dạy – học môn GDCD. Giúp các em hiểu bài và

thực hiện đúng pháp luật.

17


CHƯƠNG 2
XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MƠN GDCD NHẰM GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ.
2.1.Trước hết để thực hiện phương pháp dạy học theo tình huống giáo viên phải thực
hiện đúng quy trình sau
- Xác định,nhận dạng vấn đề tình huống;
- Thu thập thơng tin có liên quan đến vấn đề tình huống đặt ra;.
- Liệt kê các cách giải quyết có thể có;
- Phân tích, đánh giá mỗi cách giải quyết (tích cưc, hạn chế, cảm xúc, giá trị);
- So sánh kết quả các cách giải quyết;
- Lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất;
- Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn;
- Rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác;
Giáo viên tiến hành chia lớp thành nhóm nhỏ cho học sinh thảo luận theo nhóm, để
tiến hành giải quyết vấn đề tình huống.
Ví dụ:
Khi dạy GDCD lớp 9, Bài 14: Quyền và nghĩa vụ lao động nghĩa vụ của cơng
dân. Tơi đưa ra bài tập tình huống sau:
Anh Minh và chị Huệ cùng được nhận vào làm việc tại xí nghiệp tư nhân X chuyên
sản xuất dày da, với mức tiền công theo hợp đồng lao động là 3 triệu đồng trên tháng.
Sau một tháng làm việc, anh Minh được giám đốc xí nghiệp trả đúng tiền cơng như
trong hiệp đồng là 3 triệu đồng. Cịn chị Huệ chỉ được nhận 2 triệu rưỡi,vì lý do chị là
nữ nên năng suất không bằng anh Minh,mặc dù thực tế chị Huệ làm việc rất tốt đạt
năng suất cao.
Câu hỏi:

Việc xí nghiệp trả cơng lao động cho chị Huệ như vậy có đúng khơng?
Chị Huệ muốn khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình thì
phải gửi đơn đến đâu?

18


Sau khi cho các nhóm học sinh thảo luận, đưa ra ý kiến trả lời, bổ sung cho nhau thì
giáo viên chọn ý kiến xuất sắc nhất. Cụ thể là trả lời như sau:
Việc giám đốc xí nghiệp trả cơng lao động cho chị Huệ như vậy là sai. Bởi vì
theo điều 55 và 111 của bộ luật lao động quy đinh:” Tiền lương của người lao động
do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất và hiệu
quả công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương do
nhà nước quy định” (điều 55 BLLĐ)
“ Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc về tuyển dụng, sử dụng,
năng bậc lương và trả công lao động”(điều 111 BLLĐ)
Mặt khác điều 63 Hiến pháp 1992 quy định lao động nữ và nam làm việc như
nhau thì tiền lương ngang nhau,...”
Việc giám đốc lấy lý do chị Huệ là nữ, nên năng suất làm việc không bằng anh
Minh để không trả đúng tiền công lao động như trong hiệp đồng là vi phạm BLLĐ, vi
phạm quyền lao động của công dân
- Việc giải quyết tranh chấp về lao động, căn cứ vào mục I, chương 14 BLLĐ,
thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp lao động cá nhân. Muốn khiếu nại chị
Huệ phải gửi đơn đến HĐ hòa giải của xí nghiệp nơi chị Huệ đang làm việc (nếu có).
Trường hợp xí nghiệp khơng thành lập hội đồng hịa giải, hoặc hịa giải khơng thành
cơng, thì chị Huệ cần phải gửi hồ sơ yêu cầu xét xử tranh chấp cho toàn án cấp huyện.
2.2 Khi dạy bài 17 GDCD lớp 9: Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Tôi đưa ra bài tập tình
huống sau:
Nguyễn Văn An 19 tuổi, có tên trong danh sách khám nghĩa vụ quân sự ở địa
phương nhưng An khong chịu đi khám mặc dù chính quyền nhắc nhở và đã bị xử lý

hành chính, trong đợt tuyển nghĩa vụ quân sự vừa qua ở địa phương An đã bỏ trốn
nghĩa vụ đi nơi khác. Câu hỏi:
1. An đã vi phạm luật gì?
2.Hành vi của An có được gọi là phạm tội khơng?Vì sao?
Giáo viên chia lơp thành 4 nhóm, mỗi nhóm thảo luận hai câu hỏi trên, sau khi
thảo luận trên các nhóm lần lượt trình bày ý kiến của mình. Giáo viên cho các nhóm
nhận xét, đánh giá và bổ sung ý kiến.Cuối cùng giáo viên chọn cách giải quyết tình
huống xuất sắc nhất, đúng với quy định của pháp luật. Cụ thể trả lời như sau:

19


1. An 19 tuổi theo luật 12 nghĩa vụ quân sự,An đã đủ tuổi nhập ngũ vậy mà An
không chịu khám nghĩa vụ quân sự, lại bỏ trốn.Vậy là An đã cố tình trốn tránh viêc
nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc như vậy An đã vi phạm luật nghĩa vụ quân sự .Theo điều 69,
An vi phạm các quy đinh về đăng ký nghĩa vụ quân sự, tuyển chọn và gọi công nhân
nhập ngũ.
2. Hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự của An đã được nhắc nhở nhiều lần, đã
bị xử lý hành chính mà vẫn tái diễn nên hành vi đó có thể coi là phạm tội căn cứ theo
điều 259 BLHS Tội trốn tránh nghĩa vị quân sự:
Người nào không chấp hành đúng quy định của pháp luât về đăng ký nghĩa vụ
quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện, đã bị xử
phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa xóa án tích mà cịn
vi phạm thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 2 tháng đến 3
năm.
Bảo vệ tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng, là quyền cao quý của công dân cho nên
công dân phải thực thi đúng pháp luật.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong quá trình dạy học, người giáo viên phải năng động, linh hoạt vận dụng
nhuần nhuyễn các phương pháp và kỹ thuật dạy học pháp luật trong môn GDCD ở

trường THCS, đặc biệt phát huy phương pháp dạy học tình huống như trên để góp
phần nâng cao chất lượng bộ mơn GDCD và góp phần giáo dục đạo đức và pháp luật
cho học sinh.

KẾT LUẬN
Qua thực tiễn cùng với một số kinh nghiệm tích lũy được trong suốt q trình
giảng dạy, bản thân tôi đã bước đầu thu nhận được những kết quả đáng mừng từ
việc vận dụng một cách linh hoạt phương pháp tình huống theo cách riêng của
mình khi giảng dạy một số bài trong chương trinh GDCD trường THCS.

20


Bằng việc tự nghiên cứu chuẩn bị bài trước, học sinh phải tự tìm hiểu , thâm
nhập thực tiễn đầy sinh động đang diễn ra hàng ngày, học sinh có thể tự rèn luyện
cho mình khả năng phân tích, đặc biệt là khả năng ứng dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống. Đây cũng là mục đích, yêu cầu sư phạm của môn học này.
Tuy nhiên nếu người giáo viên không linh hoạt, nhạy bén khi sử dụng phương
pháp này phù hợp thì bài giảng sẽ trở nên khơ khan, khó hiểu như vốn dĩ người ta
vẫn nhận xét về mơn học này, các kiến thức sẽ mang tính hàn lâm, kinh viện, tồn
tại trên cơ sở lí thuyết sng. Mặt khác, học trị sẽ khơng có những bước bứt phá
ra khỏi tính thụ động, tiếp thu bài một cách máy móc, kém hiệu quả. Xuất phát từ
thực tiễn trên, tơi ln ln tìm tịi các phương pháp dạy học phù hợp để giúp cho
học sinh hứng thú với bộ môn và tiếp thu bài một cách tốt nhất. Tuy nhiên đây mới
chỉ là những kinh nghiệm bước đầu được áp dụng vào thực tế giảng dạy bộ môn
giáo dục công dân ở trường THCS nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong
sự góp ý của các thầy cơ giảng dạy và hướng dẫn viết đề tài tiểu luận để bản tiểu
luận được hồn thiện hơn. Tơi xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Những tài liệu được thầy cơ cung cấp trong q trình học tập lớp bồi dưỡng kiến

thưc pháp luật.
2.Những nội dung cơ bản của hiến pháp năm 1946, 1959, 1980;1992 và những điểm
sửa đổi, bổ sung trong hiến pháp 2013 so với hiến pháp 1992.
3. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS.
4.. Phương pháp lấy người học làm trung tâm Nguyễn Kỳ. Nhà xuất bản giáo dục.
5

Thiết kế bài giảng GDCD 6, 7, 8, 9

6

Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD 6, 7, 8, 9;

21


22



×