Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Nghiên cứu khoa học: Kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản chủa chủ nghĩa Mac – Lênin cho sinh viên trường Đại học Sư Phạm Hà Nội (học phần I)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.68 KB, 86 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình toàn cầu hóa và trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
kinh tế nước ta đang có bước chuyển biến mạnh mẽ và phát triển nhanh chóng…
Để đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, nước ta phải đào tạo nguồn nhân lực trẻ,
hội tụ cả thể lực, trí lực, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, nhằm góp nên thành công của đất nước, đưa nước ta
vững tin sánh vai cùng các nước bạn trong khu vực và cả thế giới. Do đó yêu
cầu cấp bách nhất đối với nước ta hiện nay là phải phát triển nền giáo dục toàn
diện và giáo dục vẫn luôn là “quốc sách hàng đầu”.
Hiện nay, thực tế trong quá trình học tập của sinh viên các trường đại học,
cao đẳng cho thấy chất lượng học tập thấp, kết quả học tập không cao do thầy
vẫn còn duy trì PPDH truyền thống chưa vận dụng các PPDH hiện đại vào trong
giảng dạy nhằm khơi dậy niềm đam mê học tập của trò mà vẫn say sưa với
PPDH cổ truyền thầy đọc trò ghi, biến sinh viên thành kiếp con vịt bị nhồi nhét
thành kiếp con vẹt chỉ biết nói và làm theo những gì thầy giảng, chưa phát huy
được tính tích cực, tự giác và hứng thú học tập trong sinh viên nên dẫn đến tình
trạng trò rơi vào trạng thái bị động, gây tâm lý căng thẳng, ức chế, sợ học và
không hứng thú học tập. Đặc biệt là học phần I môn Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mac – Lênin, hầu hết các sinh viên đều sợ học, ngại học và có tư
tưởng không thích học mà chỉ học đối phó trong thi cử, học cho qua phần này vì
họ cho rằng phần này khô khan, khó học và hết sức trừu tượng. Chính thái độ
trông chờ, ỷ lại và thiếu nghiêm túc trong học tập, tư tưởng chưa thông suốt,
chưa hiểu biết và thực sự yêu thích và ham mê môn học mà dẫn đến kết quả học
tập kém. Hơn nữa, các giáo viên dạy phần này lại ngại đổi mới hoặc đổi mới
hoàn toàn – sử dụng các PPDH hiện đại một cách thái quá yêu cầu sinh viên tự
học, tự nghiên cứu mà không có sự hướng dẫn, chưa tìm được ra phương pháp
giảng dạy thích hợp để thu hút, tạo nên hứng thú học tập, phát huy tính tích cực,
tư duy độc lập, sáng tạo cho sinh viên.
1



Trong thực tiễn dạy học, không có một PPDH nào là vạn năng, không có
một PPDH nào tồn tại độc lập. Mỗi PPDH đều có những ưu điểm và hạn chế
nhất định, do đó trong mỗi quá trình dạy học cụ thể tùy theo mục đích và nội
dung dạy học mà giáo viên sử dụng phối hợp các PPDH khác nhau để người học
tự khám phá ra tri thức một cách sáng tạo. Kết hợp các PPDH truyền thống với
PPDH hiện đại một cách phù hợp sẽ giúp nâng cao chất lượng của mỗi giờ học.
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm tác giả chọn đề tài: “Kết hợp các
phương pháp dạy học truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại
trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản chủa chủ nghĩa Mac – Lênin cho
sinh viên trường Đại học Sư Phạm Hà Nội (học phần I)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học hiện nay luôn được ngành giáo dục cũng như toàn xã hội quan tâm nghiên
cứu. Kết hợp các phương pháp dạy học như thế nào vào bài giảng để thu hút sự
chú ý của sinh viên, khơi dậy ở họ niềm say mê học hỏi, tìm tòi và phát huy khả
năng sáng tạo của họ; giúp họ thoát khỏi trạng thái căng thẳng, thái độ học tập
thờ ơ, thiếu nghiêm túc trong học tập vẫn là câu hỏi lớn của ngành giáo dục. Bởi
họ quan niệm thầy giáo không còn là người truyền đạt kiến thức sẵn có mà là
người định hướng, đạo diễn cho học sinh tự khám phá ra chân lý, tự mình tìm ra
kiến thức. Xuất phát từ thực tế đó, ở Việt nam đã có một số tác giả nghiên cứu
về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, kết hợp các phương pháp dạy học hiệu
quả với quan điểm: dạy học lấy người học học làm trung tâm.
Trong sự nghiệp cách mạng của mình, Bác Hồ kính yêu, vị cha già của
dân tộc, đã có thời gian làm thầy giáo. Bằng kinh nghiệm từng trải cũng như sự
hiểu biết uyên thâm của mình về phương pháp dạy học nhằm phát huy trí tuệ,
tính độc lập sáng tạo và tích cực của người học, Người đã dạy: “Phải tuyệt đối
tránh nhồi sọ”, “Không nên dạy học thuộc lòng từng câu, từng chữ”, “Tuyệt đối
không nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”, “Phải đào sâu suy


2


nghĩ”, phải nêu cao tác phong học tập suy nghĩ chín chắn kỹ càng, mạnh dạn đề
xuất vấn đề và thảo luận cho thông suốt, phải “lấy tự học làm cốt”.
Trong cuốn kỷ yếu hội thảo khoa học Về đổi mới phương pháp dạy học
và phương pháp đánh giá đối với giáo dục phổ thông, Cao đẳng và Đại học Sư
phạm TS.Thái Văn Long cho rằng: Sản phẩm tốt trong giáo dục và đào tạo, đó là
đào tạo những con người lao động sáng tạo, công tác giáo dục không thể làm
theo một khuôn mẫu định sẵn, áp đặt mà phải phát huy được tư duy độc lập, tích
cực, chủ động sáng tạo của sinh viên làm cho sinh viên có khả năng tự giải
quyết vấn đề một cách chủ động sáng tạo.
Cũng trong cuốn sách đó, PGS.TS. Nghiêm Đình Vỳ đã chỉ rõ: ý tưởng
dạy học là phải tập trung vào người học để phát huy tính tích cực và chủ động
của người học để cá thể hóa dạy học đang trở thành hiện thực.
PGS.TS.Nguyễn Đức Trí cho rằng, phương pháp dạy học chính là đổi mới
phương pháp dạy học cũ bằng phương pháp dạy học mới, nhưng việc đổi mới
phương pháp dạy học không có nghĩa là ngay lập tức và hoàn toàn thay thế các
phương pháp dạy học truyền thống bằng phương pháp dạy học hiện đại mà là việc
tìm ra phương án sử dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học hiện đại có
theo những mô hình phù hợp với đối tượng, môi trường và điều kiện dạy học hướng
vào sinh viên, giúp học chủ động, tích cực và sáng tạo trong quá trình học tập.
Giáo trình Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy và nghiên cứu triết
học – Phùng Văn Bộ, NXB Giáo dục, 1990: Tổng quan về phương pháp dạy
học, các nguyên tắc giảng dạy triết học, phương pháp giảng dạy các khái niệm,
phạm trù, nguyên lý và quy luật triết học…
Trong luận văn thạc sĩ của Đào thị Cẩm Nhung (1999), nghiên cứu Biện
pháp nhằm phát huy tính tích cực của sinh viên trường Đại học Ngoại ngữ - Đại
học quốc gia Hà Nội… cũng đã phần nào làm rõ việc vận dụng nguyên tắc phát
huy tính tích cực của người học. Tác giả đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lí luận

cũng như đưa ra quy trình thực nghiệm của biện pháp (cải tiến, đổi mới phương
pháp học tập theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học). Đề tài đã góp
3


phần làm rõ hơn việc vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực của người học
trong quá trình dạy học.
Trong cuốn Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở trường
Trung học Phổ thông của Đinh Văn Đức và Dương Thị Thúy Nga, NXB Đại
học Sư phạm Hà Nội, 2011: Nêu khái quát về đổi mới phương pháp dạy học
môn Giáo dục công dân trong điều kiện hiện nay với các nội dung như định
hướng đổi mới phương pháp dạy học, mối quan hệ giữa đổi mới phương pháp
dạy học với quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm và một số yêu cầu
của đổi mới phương pháp dạy học.
Ngoài ra, vấn đề vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào trong quá
trình giảng dạy, đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính chủ động tích
cực học tập của sinh viên còn có nhiều tác giả như: Nguyễn Như Anh, Lê Khánh
Bằng, Phạm Minh Hạc, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Kỳ,…nghiên cứu với nhiều công
trình và một số bài báo khác nhau.
Các công trình nghiên cứu đó, hầu hết các tác giả đề cập tới vai trò, tầm
quan trọng của việc phát huy tính tích cực của người học trong quá trình dạy
học. Trong đó có PGS.TS.Nguyễn Đức Trí đã đề cập đến việc đổi mới phương
pháp phải kết hợp các PPDH truyền thống và các PPDH hiện đại một cách linh
động để phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo trong quá trình học tập
của học sinh. Tuy nhiên, kết hợp các phương pháp này cụ thể như thế nào trong
việc giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin học
phần 1 đối với sinh viên trường Đại học Sư phạm Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN)
thì chưa có một công trình nào nghiên cứu. Nhóm tác giả chọn đề tài này không
có tham vọng sẽ đưa ra nhưng giải pháp hữu hiệu nhất mà chỉ là một số ý kiến
mong được xem xét. Vì vậy, nhóm tác giả xin phép sẽ cố gắng đi sâu vào việc

thiết kế bài giảng theo hướng kết hợp phương pháp dạy học truyền thống và
phương pháp dạy học hiện đại, tiến hành thực nghiệm cho sinh viên trường
ĐHSPHN và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc kết hợp các
phương pháp dạy học cho sinh viên trường ĐHSPHN – những nhà giáo dục, nhà
khoa học trong tương lai.
4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, nhóm tác giả mong muốn tìm hiểu sâu
hơn về các phương pháp dạy học truyền thống và các phương pháp dạy học hiện
đại. Từ đó, xác định một số giải pháp để kết hợp có hiệu quả tối ưu nhất khi kết
hợp giữa hai phương pháp dạy học này cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài xác định 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, làm rõ cơ sở khoa học của việc kết hợp các PPDH truyền thống và
các PPDH hiện đại trong dạy học phần 1 môn Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Hai là, thiết kế bài giảng, tiến hành thực nghiệm giảng dạy theo hướng
kết hợp các PPDH truyền thống và các PPDH hiện đại cho sinh viên trường
ĐHSPHN.
Ba là, đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc
kết hợp các PPDH truyền thống và các PPDH hiện đại trong dạy học phần 1
môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin cho sinh viên trường
ĐHSPHN.
4. Đối tượng nghiên cứu
Kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống với các phương pháp dạy
học hiên đại trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản chủa chủ nghĩa Mac –

Lênin (học phần I) cho sinh viên trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
chủ nghĩa duy vật lịch sử, để thực hiện đề tài, nhóm tác giả sử dụng các phương
pháp sau:
5


- Phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa,
trừu tượng hóa, hệ thống hóa.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra khoa học, thực nghiệm
giảng dạy, quan sát, lấy số liệu.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần mục lục và danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài gồm 3 chương và 6 tiết.

6


NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở khoa học của việc kết hợp các PPDH truyền thống với các
PPDH hiện đại trong dạy học môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin (học phần I)
1.1. Cơ sở lí luận của việc kết hợp các phương pháp dạy học truyền
thống với các phương pháp dạy học hiện đại
1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học
Phương pháp
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “ Metodos” có nghĩa là

con đường, cách thức để đạt tới mục đích nhất định. Phương pháp là hình thức tự
vận động bên trong của nội dung, nó gắn liền với hoạt động của con người, giúp
cho con người hoàn thành được những nhiệm vụ phù hợp với mục đích đề ra.
Bởi vậy, phương pháp bao giờ cũng có tính mục đích, tính cấu trúc và
luôn luôn gắn liền với nội dung. Nội dung quy định phương pháp nhưng bản
thân phương pháp có tác dụng trở lại làm cho nội dung trở nên ngày càng hoàn
thiện hơn và được vận dụng vào ý thức của người học tốt hơn.
Còn theo nghĩa chung nhất, phương pháp là con đường, là cách thức mà
chủ thể sử dụng để tác động nhằm chiếm lĩnh hoặc biến đổi đối tượng theo mục
đích đã đề ra. Phương pháp là phạm trù có liên quan mật thiết với các phạm trù
chủ thể, đối tượng, mục đích, nội dung, hoạt động. Nếu không có phương pháp
tốt thì nội dung giáo dục không thể đến với người học để tiếp nhận và phát triển.
Dạy học
Theo ngôn ngữ giáo dục hiện đại được UNESCO sử dụng, dạy học là quá
trình dạy kiến thức, dạy kĩ năng và dạy thái độ cho con người. Cách diễn đạt
này, về thực chất vẫn đề cập tới ba nhiệm vụ cơ bản của quá trình dạy học là dạy
chữ, dạy hoạt động và dạy phương pháp làm người.
Dạy học tham gia tích cực vào quá trình nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài cho xã hội. Chính dạy học là điểm xuất phát, là cơ sở
7


cho mọi sự phát triển của xã hội. Dạy học nhất định dẫn đến sự phát triển trí tuệ
và muốn trí tuệ phát triển có thể tin cậy vào quá trình dạy học, vào quá trình học
tập chủ đạo tích cực và không mệt mỏi của chính bản thân người học.
Dạy học là hoạt động trí tuệ của thầy và trò, một quá trình vận động và
phát triển liên tục trong trí tuệ và nhân cách học sinh. Học tập bao gồm việc học
và tập. Học là quá trình nhận thức, nhằm tiếp thu những kinh nghiệm lịch sử, xã
hội. Tập là rèn luyện để có kĩ năng hoạt động và có thái độ tốt trong các mối
quan hệ xã hội. Việc học tập do học sinh thực hiện một cách có ý thức và chủ

động, học tập là con đường để mỗi người tự làm giàu kiến thức, như một
phương thức để tự biến đổi bản thân, là cơ hội đê trở thành người lao động tự
chủ và sáng tạo.
Như vậy, ta có thể hiểu dạy học là một khoa học, một kĩ thuật và một
nghệ thuật có tính kế hoạch và có tính mục đích. Dạy học giúp cho người học
nắm vững hệ thống kiến thức về thế giới và cuộc sống loài người để hình thành
cho họ thế giới quan và nhân sinh quan, vừa hiểu sâu, hiểu rộng, vừa biết vận
dụng chúng vào thực tiễn để hình thành kĩ năng hoạt động trí tuệ và thực hành,
tạo nên văn hóa cuộc sống, đó là cơ sở học vấn của con người.
Hay nói cách khác, dạy học là quá trình hoạt động của hai chủ thể. Trong
đó, giáo viên là chủ thể của hoạt động giảng dạy, người được đào tạo chu đáo về
nghiệp vụ sư phạm, người nắm vững kiến thức khoa học chuyên ngành, các quy
luật phát triển tâm lí, ý thức và hoạt động nhận thức của học sinh để tổ chức cho
họ học tập. Giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ tiến trình dạy học người xây dựng và thực thi kế hoạch trong giảng dạy bộ môn, người tổ chức cho
học sinh thực hiện hoạt động học tập với mọi hình thức, trong những thời gian
và không gian khác nhau, người điều khiển các hoạt động trí tuệ và hướng dẫn
thực hành của học sinh trên lớp, trong phòng thí nghiệm… Giáo viên là người
chỉ dẫn, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện, đồng thời là người kiểm tra uốn
nắn và giáo dục học sinh trong mọi phương diện.

8


Học sinh là chủ thể của hoạt động học tập - chủ thể có ý thức, chủ động,
tích cực và sáng tạo trong nhận thức và rèn luyện nhân cách.
Mọi hoạt động của con người nhìn chung đều phải có ý thức. Việc học tập
càng phải có ý thức. Người học phải xác định được mục đích học tập, có động cơ
và thái độ học tập đúng, có kế hoạch học tập chủ động và luôn tích cực thực hiện
tốt kế hoạch đó. Tính tích cực học tập thể hiện ở cả hai mặt: chuyên cần và tính
sâu sắc trong các hoạt động trí tuệ. Cách học tích cực thể hiện trong việc tìm

kiếm, xử lí thông tin và vận dụng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ học tập và
thực tiễn cuộc sống, thể hiện trong sự tìm tòi, khám phá vấn đề mới bằng phương
pháp mới, cái mới không phải là sao chép mà là sự sáng tạo của mỗi cá nhân.
Tóm lại, dạy học là một chỉnh thể thống nhất, ngoài hai nhân tố trung tâm
là giáo viên và học sinh còn có nhiều nhân tố khác tham gia. Các nhân tố đó là:
mục đích và nhiệm vụ dạy học, nội dung và các hình thức tổ chức dạy học,
phương pháp và phương tiện dạy học, cùng với môi trường văn hóa chính trị xã hội, môi trường kinh tế - khoa học – kĩ thuật của đất nước trong trào lưu phát
triển chung của thời đại.
Phương pháp dạy học
Nguyên cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã dạy: “ Trong nhà trường điều
chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn độn, tuy rằng
kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho học trò phương pháp suy
nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp diễn tả, rồi đến phương pháp nghiên
cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề. Ở nhà trường không
phải là rèn luyện trí nhớ mà là rèn luyện trí thông minh…”.
Như vậy, muốn việc dạy và học của cả thầy và trò đạt chất lượng tốt thì
giáo viên phải có cách dạy và học sinh phải có phương pháp học tập tốt.
Vậy phương pháp dạy học được hiểu là phương pháp hoạt động của người
dạy trong việc chỉ đạo, tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp người học tích
cực chủ động đạt các mục tiêu dạy học. Và muốn có sản phẩm tốt trong giáo dục
và đào tạo, đó là đào tạo ra những con người sáng tạo, công tác giáo dục không
9


thể làm theo những khuôn mẫu định sẵn, áp đặt mà phải phát huy được tư duy
độc lập tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, sinh viên làm cho học sinh,
sinh viên có khả năng tự giải quyết được vấn đề một cách chủ động sáng tạo.
Phương pháp dạy học chính là cách thức làm việc của chủ thể, cách thức này
tùy thuộc vào nội dung vì phương pháp là sự vận động bên trong của nội dung.
Phương pháp dạy học là thành tố hết sức quan trọng của quá trình dạy

học. Khi đã xác định được mục đích, nội dung chương trình dạy học, thì phương
pháp dạy và học của thầy và trò sẽ quyết định chất lượng quá trình dạy học.
Phương pháp dạy học được hiểu là cách thức hoạt động phối hợp thống
nhất của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và nhiệm vụ dạy
học. Như vậy, phương pháp dạy học là phương pháp của hai chủ thể: Phương
pháp giảng dạy của giáo viên và phương pháp học tập của học sinh. Hai phương
pháp này có mối quan hệ thống nhất và biện chứng với nhau, không thể tách rời
nhau. Nếu có phương pháp này mà thiếu đi phương pháp kia thì sẽ không tạo
thành quá trình dạy học. Bởi dạy điều khiển học, học phải tuân thủ dạy. Vì nếu
học tập mà không có giáo viên thì sẽ trở thành tự học, giảng dạy mà không có
học sinh thì sẽ thành độc thoại. Vì thế, việc học phải chủ động, cách học phải
thông minh và phương pháp học phải sáng tạo. Dạy tốt dẫn đến học tốt, học tốt
đòi hỏi phải dạy tốt. Chính vì vậy phương pháp dạy học được hiểu là tổ hợp các
cách thức phối hợp hoạt động chung của giáo viên và học sinh nhằm giúp học
sinh nắm vững kiến thức hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Xuất phát từ bản chất của
hoạt động dạy học, ta thấy phương pháp dạy học là phương pháp tổ chức các
hoạt động học tập, phương pháp điều khiển các quá trình nhận thức của học
sinh. Phương pháp học tập là phương pháp nhận thức và rèn luyện kĩ năng để tự
phát triển.
Phương pháp dạy học thể hiện trình độ nghiệp vụ sư phạm của giáo viên,
phương pháp dạy học có hiệu quả khi giáo viên ý thức được các quy luật khách
quan như: Quy luật nhận thức của học sinh, quy luật phát triển của bản thân
khoa học nhằm điều khiển trí tuệ của người học tuân theo nội dung nhận thức
10


tạo nên tính tích cực và tư duy sáng tạo trong học tập của họ và rèn luyện cho họ
có tinh thần tự giác và làm chủ tư duy, làm chủ tri thức khoa học của mình.
Phương pháp dạy học luôn gắn liền với mục đích dạy học. Phương pháp
dạy học phục vụ cho mục đích môn học, bài học. Giáo dục tính sáng tạo, lòng

kiên trì, thúc đẩy sự hứng thú học tập của học sinh. Trong phương pháp dạy học
chứa đựng những yếu tố của phương pháp giáo dục.
Việc dạy học bao giờ cũng được thực hiện theo nội dung. Nắm vững kiến
thức là mục đích học tập của học sinh. Nội dung dạy học quy định phương pháp
dạy học. Mỗi môn học, mỗi bài học, mỗi đơn vị kiến thức, mỗi loại kĩ năng đòi
hỏi những phương pháp dạy và học cụ thể.
Mỗi bài học sử dụng nhiều phương pháp, mỗi phương pháp bao gồm
nhiều thao tác, cho nên dạy học bao giờ cũng là sự phối hợp nhiều phương pháp,
với nhiều thao tác. Việc lựa chọn hợp lí và sử dụng nhuần nhuyễn các phương
pháp dạy học đó chính là nghệ thuật sư phạm.
1.1.2. Mối quan hệ giữa phương pháp dạy học truyền thống với phương
pháp dạy học hiện đại
Phương pháp dạy học truyền thống là phương pháp dạy học lấy người dạy
làm trung tâm, người học chỉ việc lắng nghe, ghi chép một cách thụ động những
kiến thức có sẵn do người dạy truyền đạt.
Hình thức truyền thụ chủ yếu vẫn là thuyết trình, vấn đáp có được sử dụng
nhưng mức độ không đáng kể và những câu hỏi nêu ra thường không kích thích
được tính tư duy sáng tạo của người học.
Ưu điểm của phương pháp dạy học này là dễ thực hiện, không đòi hỏi bất
cứ một phương tiện nào đối với giáo viên. Với cách diễn đạt lưu loát, rõ ràng, dễ
hiểu, phù hợp với logic nhận thức và trình độ học sinh, phương pháp thuyết trình
trong khoảng thời gian ngắn đã giúp giáo viên chủ động truyền tải tới học sinh
một khối lượng thông tin cần thiết, cô đọng theo một cấu trúc logic chặt chẽ,
phản ánh nội dung môn học mà giáo viên đã chắt lọc được từ kho tàng tri thức
của nhân loại. Khi sử dụng phương pháp thuyết trình tốt sẽ cung cấp cho học
11


sinh những thông tin cập nhật, chưa kịp trình bày trong sách giáo khoa từ những
nguồn tài liệu khác nhau mà học sinh phải mất nhiều thời gian, công sức mới

tìm hiểu và tổng hợp được. Thông qua thuyết trình, giáo viên có thể điều chỉnh
lại nội dung tri thức cho phù hợp với đối tượng học sinh và truyền cảm hứng, sự
nhiệt tình sáng tạo cho học sinh.
Tuy nhiên, phương pháp dạy học này cũng có rất nhiều hạn chế. Giáo
viên sẽ thu được ít thông tin phản hồi từ phía học sinh do thuyết trình là phương
pháp dạy học chủ yếu truyền thụ một chiều. Vì là độc thoại (thầy giảng, trò
nghe) nên học sinh dễ rơi vào trạng thái thụ động, phải cố gắng tập trung lắng
nghe để hiểu, ghi chép bài nên thần kinh bị ức chế dễ gây ra mệt mỏi. Phương
pháp này tạo cho học sinh thói quen thụ động, chờ đợi thầy giáo giảng, thích
nghe hơn là thích đọc, ngại tìm tòi, nghiên cứu và tất yếu không thể có chất
lượng học tập tốt được.
Do việc lạm dụng quá mức phương pháp thuyết trình, đặc biệt là sử dụng
nó mà không có sự kết hợp với các phương pháp dạy học khác có chăng thì cũng
rất hạn chế nên phương pháp dạy học truyền thống chưa phát huy được các ưu
điểm của phương pháp thuyết trình từ đó mà không kích thích được tính tích
cực, chủ động của người học, chưa thực sự mang lại hiệu quả giáo dục cao.
Phương pháp dạy học hiện đại là phương pháp dạy học lấy người học làm
trung tâm. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của người học,
chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học tập cá thể, phối hợp
với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của người
học. Người dạy tổ chức cho người học tự tìm tòi khám phá kiến thức một cách
chủ động, tích cực, xen kẽ vào trong các bài giảng.
Hay nói cách khác, phương pháp dạy học hiện đại là phương pháp mà
giáo viên không còn là người truyền đạt kiến thức có sẵn, mà là định hướng, đạo
diễn cho học sinh tự khám phá ra chân lí, tự mình tìm ra các kiến thức.
Trong phương pháp dạy học hiện đại, thuyết trình vẫn được sử dụng
nhưng không phải là phương pháp chủ yếu mà thay vào đó các phương pháp dạy
12



học như: Thảo luận nhóm, xêmina, đàm thoại, trực quan, nêu vấn đề, động não,
đóng vai lại là những phương pháp được sử dụng chủ yếu.
Ưu điểm của phương pháp dạy học hiện đại là nó kích thích được tư duy
độc lập của học sinh, lôi cuốn được học sinh vào môi trường học tập, tạo ra
được không khí sôi nổi trong học tập, phát triển cho học sinh kĩ năng thích ứng
trong các tình huống khác nhau tạo điều kiện cho giáo viên nhận được nhiều
thông tin phản hồi từ phía học sinh, thu được những tri thức kinh nghiệm qua
các ý kiến phát biểu có suy nghĩ và sáng tạo của học sinh.
Tuy nhiên, phương pháp dạy học hiện đại cũng còn nhiều hạn chế. Nó đòi
hỏi giáo viên phải có nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Nếu giáo viên tổ chức lớp
học không tốt sẽ dẫn tới mất rất nhiều thời gian, lãng phái thời gian học tập,
không đảm bảo truyền thụ đủ nội dung tri thức tới học sinh trong khoảng thời
gian được giới hạn, đôi khi sẽ làm phản tác dụng làm hạn chế sự phát triển năng
lực tư duy trừu tượng của học sinh.
Mối quan hệ biện chứng giữa phương pháp dạy học truyền thống và
phương pháp dạy học hiện đại
Phương pháp dạy học truyền thống lấy người dạy làm trung tâm còn
phương pháp dạy học hiện đại lấy người học làm trung tâm. Hai phương pháp
dạy học này có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Người dạy và người học là hai chủ thể của quá trình dạy học. Để quá trình
dạy học đạt kết quả cao đòi hỏi phải có sự kết hợp tương tác giữa người dạy và
người học. Trong đó, giáo viên là người tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động
học tập của học sinh, trên cơ sở đó học sinh phải tích cực, chủ động, sáng tạo
tiếp thu những tri thức khoa học.
Trên thực tế, mỗi phương pháp, mỗi kiểu phương pháp, mỗi nhóm
phương pháp đều có những ưu, nhược điểm riêng. Không thể có một phương
pháp nào, nhóm phương pháp nào là vạn năng. Vì vậy, chúng ta cần lựa chọn và
vận dụng phối hợp một cách khéo léo các phương pháp dạy học truyền thống
với các phương pháp dạy học hiện đại để phát huy những ưu điểm của mỗi
13



phương pháp này, đồng thời hạn chế tối đa những nhược điểm của những
phương pháp nhằm mang lại hiệu quả cao trong dạy học.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc kết hợp các phương pháp dạy truyền
thống với các phương pháp dạy học hiện đại
1.2.1. Thực trạng việc kết hợp giữa các phương pháp dạy học truyền
thống với các phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học môn nguyên lí cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một) của trường Đại học sư phạm
Hà Nội
Theo chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo, trường Đại học sư phạm Hà Nội
đã cho thực hiện giảng dạy môn triết học Mác – Lênin theo chương trình mới với
tên gọi môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một).
Giảng dạy theo giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin dành cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng không chuyên ngành
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà xuất bản chính trị quốc gia. Từ việc
nghiên cứu dạy học ở trường Đại học sư phạm Hà Nội đối với môn những
nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin chúng tôi có một số nhận xét bước
đầu như sau:
Thứ nhất, về đội ngũ giảng viên: Hầu hết đội ngũ giảng viên giảng dạy bộ
môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một) đều là
những thầy cô giáo có kinh nghiệm giảng dạy, khả năng chuyên môn vững vàng
và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, có một số giảng viên
phải kiêm nhiệm thêm các công việc khác, một số thầy cô đang đi học nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm nên kết quả giảng dạy còn có những
hạn chế nhất định.
Thứ hai, thời lượng môn học: Những năm gần đây số lượng tiết học dành
cho môn học này đã bị cắt giảm, nếu trước đây sinh viên được học 60 tiết thì
hiện nay chỉ còn 30 tiết song vẫn phải đảm bảo đầy đủ về mặt nội dung kiến
thức đã đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các giảng viên giảng dạy.

Chính vì vậy mà việc đảm bảo cho sinh viên hiểu đúng và sâu sắc một nội dung
14


kiến thức triết học là rất khó. Đồng thời nó cũng hạn chế việc sử dụng kết hợp
các phương pháp dạy học khác nhau trong quá trình giảng dạy.
Thứ ba, về phương pháp và phương tiện dạy học: Do số lượng sinh viên
đông từ 50 đến 70 thậm chí có những lớp lên tới hơn 100 sinh viên nên trong
quá trình dạy học giảng viên vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học truyền
thống – thuyết trình là chủ yếu. Việc vận dụng các phương pháp dạy học mới và
phương tiện hiện đại vào trong dạy học vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, cũng ảnh
hưởng nhiều đến hiệu quả dạy học cũng như kết quả học tập của sinh viên.
Thứ tư, thái độ đối với môn học: Với sự quan tâm của các cấp lãnh đạo,
của nhà trường, của Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường đồng thời sự đoàn kết,
khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của cán bộ,
giảng viên trong khoa, hơn nữa tinh thần học tập nghiêm túc của đại đa số sinh
viên, cho nên việc giảng dạy và học tập môn học đã đạt được kết quả ban đầu
quan trọng. Nhưng vẫn có những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng tới chất lượng giảng
dạy môn học, kết quả giảng dạy và học tập chưa cao. Có nhiều nguyên nhân làm
ảnh hưởng tới kết quả học tập của bộ môn như: Việc nhận thức lí luận còn hạn
chế, sự chậm chễ phát triển của những môn khoa học xã hội trong những năm
qua, trong đó có sự chậm trễ đổi mới về phương pháp giảng dạy bộ môn khoa
học chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, sự nhận thức
về thái độ thiếu khách quan về môn học này làm cho vị thế của bộ môn giảm
sút, có nhiều sinh viên chưa nhận thức đầy đủ về vị trí và vai trò của môn học,
cho rằng học chỉ để lấy được bằng, học cho xong, do đó không nghiêm túc trong
học tập hay học tập một cách chống đối, chiếu lệ…
Những điều này là một trong các yếu tố làm ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng môn học.
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một) là

môn bắt buộc trong các trường Đại học và Cao đẳng. Xuất phát từ chức năng,
nhiệm vụ của trường, xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của các môn học Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, trường Đại học sư phạm Hà Nội thường xuyên
15


quan tâm đến công tác giảng dạy của giảng viên. Cũng như các môn học khác,
học phần một những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng yêu cầu
phải đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng kết hợp các phương pháp dạy học
sao cho phù hợp và mang lại kết quả tối ưu.
Việc điều tra thực tế được tiến hành đối với 240 sinh viên năm thứ nhất của
trường ở các khoa: sư phạm Toán – Tin, sư phạm Vật lí, sư phạm Sinh học, sư
phạm Hóa học, sư phạm Giáo dục chính trị, sư phạm Ngữ văn, sư phạm Lịch sử.
Với câu hỏi 1: “ Môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
(học phần một) là môn học có ý nghĩa như thế nào?”. Có 158 sinh viên (65.8%)
cho rằng đây là môn học thiết thực và cần thiết; 62 sinh viên (25.8%) cho rằng
nó là môn học có cũng được mà không có cũng được; 20 sinh viên ( 8.3%) cho
rằng đây là môn học không thiết thực. Từ kết quả trên chúng ta thấy rằng, đa số
sinh viên đều nhận thức được tầm quan trọng của môn học. Tuy nhiên vẫn còn
một số sinh viên chưa nhận thức đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của môn học.
Điều này sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy môn những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Khi trả lời câu hỏi thứ hai: “ Thái độ học tập như thế nào đối với môn
những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một)?”. Có 47
sinh viên (19.6%) học tập rất hứng thú; 85 sinh viên (35.4%) có thái độ học tập
hứng thú; 95 sinh viên (39.6%) có thái độ học tập bình thường; 13 sinh viên
(5.4%) có thái độ học tập chán. Như vậy, kết quả thăm dò đã cho thấy nhận thức
của sinh viên về vị trí, vai trò của môn học này đối với sinh viên còn rất hạn chế.
Một bộ phận không nhỏ sinh viên chưa thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của
việc học tập bộ môn. Họ chưa hiểu được rằng việc học tập bộ môn có ý nghĩa

quan trọng trong quá trình nhận thức, nâng cao trình độ tư duy lí luận.
Từ sự nhận thức hạn chế về vị trí và ý nghĩa của môn học như vậy, một bộ
phận không nhỏ sinh viên có thái độ chưa thật sự tích cực trong giờ học tập học
phần một những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thái độ thiếu tích
cực trong học tập môn học này còn thể hiện ở tinh thần học tập thụ động, lười tư
16


duy, ỷ lại vào thầy cô và bạn bè trong quá trình học tập biểu hiện rõ trong nội
dung của câu hỏi thứ ba.
Với câu hỏi thứ ba: Khi hỏi “ Em thường có biểu hiện như thế nào trong
quá trình học tập môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học
phần một)?”. Có 32 sinh viên (13.3%) chọn phương án khát khao học; 105 sinh
viên (43.7%) chọn phương án tập trung chú ý; 58 sinh viên (24.2%) chọn
phương án hay nêu thắc mắc trong giờ học; 45 sinh viên (18.8%) chọn phương
án có biểu hiện khác. Từ số liệu ta thấy rằng: Việc kết hợp các phương pháp dạy
học nhằm mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học là rất cần thiết để tạo
được hứng thú cho người học.
Khi đặt câu hỏi thứ tư: “ Em cho biết ý kiến của mình về một số biện pháp
nhằm phát huy tính tích cực học tập bộ môn những nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin (học phần một), đề nghị xếp theo thứ tự mức độ quan trọng
của từng giải pháp” ( từ 1 tới hết và theo mức độ giảm dần).
Có 28 sinh viên (11.7%) sắp xếp theo thứ tự như sau:
1. Cải tiến phương pháp dạy học
2. Cải tiến phương pháp kiểm tra đánh giá kết qủa học tập
3. Có động cơ học tập đúng đắn
4. Giải pháp khác
Có 77 sinh viên ( 32.1%) sắp xếp theo thứ tự:
1. Có động cơ học tập đúng đắn
2. Cải tiến phương pháp dạy học

3. Cải tiến phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập
4. Giải pháp khác
Có 93 sinh viên ( 38.8%) sắp xếp như sau:
1. Cải tiến phương pháp dạy học
2. Có động cơ học tập đúng đắn
3. Cải tiến phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập
4. Giải pháp khác
17


Còn lại 24 sinh viên ( 10%) không có ý kiến gì.
Qua những số liệu về câu hỏi thứ tư chúng tôi thấy: Việc học tập của sinh
viên chưa tự giác, chưa tích cực, người học vẫn còn tâm lí ỷ lại.
Thực tế dạy học đã chứng minh rằng khi người học có hứng thú với môn
học thì kết quả học tập thường rất cao, bởi vì khi đó người học dồn hết tâm trí,
năng lực vốn có và cả sự nỗ lực của mình để tìm hiểu khám phá tri thức của môn
học. Ngược lại, nếu không tạo ra được hứng thú với môn học thì kết quả học tập
sẽ không đạt được như mong muốn.
Với câu hỏi thứ năm: Khi được hỏi “ Em có nhận xét gì về thực trạng
giảng dạy môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin (học phần
một)?”. Qua khảo sát thu được kết quả như sau: Có 70 sinh viên (29..29%) lựa
chọn giảng viên nhiệt tình giảng dạy; 15 sinh viên (6.25%) cho rằng giảng viên
chủ yếu dạy lí thuyết, ít vận dụng thực tiễn; 93 sinh viên (38.8%) cho rằng dạy
khô khan đơn điệu; số sinh viên có ý kiến khác là 62 sinh viên (25.8%).
Từ kết quả khảo sát ta thấy rằng: Trong giảng dạy giáo viên chưa thật sư
phát huy được hết những ưu điểm của các phương pháp dạy học, chưa phát huy
được tính tích cực của người học, biểu hiện là sinh viên chưa hứng thú với môn
học. Số sinh viên không hứng thú với môn học chiếm 25.8%. Điều này lí giải
một phần vì sao kết quả thi hết môn lại không cao.
Tóm lại, từ kết quả thu được cho thấy trong quá trình học tập môn những

nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin giảng viên trường Đại học sư phạm
Hà Nội đã cố gắng trong việc kết hợp, vận dụng nhiều phương pháp dạy học
trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực của người học vào dạy học
môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một), tuy
nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định. Để đạt được kết quả môn học đòi hỏi
trong quá trình giảng dạy giáo viên không ngừng tìm tòi, vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học, tạo sự hấp dẫn, phát huy được hết khả năng của người
học.

18


1.2.2. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học môn nguyên lí cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một)
Trên thực tế, lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một
thầy dạy cho một lớp đông học trò với trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên
khó có điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy “thông
báo – đồng loạt”. Giáo viên quan tâm trước hết tới việc hoàn thành trách nhiệm
của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách
giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên
giảng. Cách dạy này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy
nghĩ cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu
cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng này yêu
cầu giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học, phải biết kết hợp các phương
pháp giảng dạy để phát huy được hết những ưu điểm của chúng nhằm mang lại
hiệu quả cao cho hoạt động dạy học.
Bên cạnh đó, môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
(học phần một) là một khối lượng tri thức triết học tương đối lớn mang tính chất
trừu tượng và khái quát hóa cao, nó có mối liên hệ với tất cả các khoa học khác
đòi hỏi trong quá trình giảng dạy giáo viên không chỉ sử dụng phương pháp dạy

học truyền thống để truyền tải những nội dung trừu tượng đến với người học,
làm như vậy sẽ biến những tri thức triết học vốn dĩ trừu tượng lại càng trở nên
khó hiểu. Một thực tế trong việc giảng dạy môn những nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin (học phần một) là nếu giáo viên chỉ thuyết trình về các nội
dung bài học thì sẽ khiến cho người học cảm thấy mệt mỏi, nhàm chán và không
muốn học làm cho hiệu quả của quá trình dạy học không được đảm bảo.
Để có một giờ dạy thành công, trong quá trình dạy môn những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một) giáo viên phải tìm cách để
làm cho những tri thức triết học vốn dĩ rất trừu tượng trở nên gắn liền với thực
tiễn cuộc sống, làm cho người học dễ dàng tiếp thu được những tri thức đó. Để
làm được điều đó không có cách nào khác ngoài việc đổi mới phương pháp dạy
19


học, kết hợp các phương pháp dạy học trong quá trình dạy học, giáo viên phải
làm sao phát huy được tinh thần học tập cho sinh viên, kích thích được sự tìm
tòi, sáng tạo của người học làm cho giờ học trở nên sôi nổi, hào hứng, giúp
người học khắc sâu được tri thức một cách dễ dàng, có hiệu quả.
Mặt khác, thực tiễn cho thấy không có một phương pháp dạy học nào là vạn
năng có thể thay thế cho tất cả các phương pháp dạy học khác. Mỗi phương pháp
dạy học lại có những ưu điểm đồng thời cũng có những hạn chế nhất định. Nghệ
thuật sư phạm của người giáo viên là phải biết kết hợp các phương pháp dạy học
trong đó phải phát huy được những ưu điểm đồng thời khắc phục được những hạn
chế của các phương pháp dạy học đó để mang lại những giờ học hiệu quả.
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học môn những nguyên lí cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một) là một yêu cầu tất yếu trong thời đại
ngày nay.
Tóm lại, cơ sở khoa học của việc kết hợp các phương pháp dạy học truyền
thống với các phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học môn những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (học phần một) xuất phát từ chính những ưu

điểm cũng như những hạn chế của hai nhóm phương pháp dạy học truyền thống
và hiện đại, nó cho thấy rằng không có một phương pháp dạy học nào là vạn
năng. Trong quá trình dạy học cần thiết phải kết hợp các phương pháp dạy học
với nhau để phát huy được hết những ưu điểm đồng thời khắc phục tối đa những
hạn chế của các phương pháp dạy học này nhằm mang lại hiệu quả cao trong
dạy học. Bên cạnh đó, thực trạng giảng dạy phần một những nguyên lí cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin của các trường Đại học, Cao đẳng nói chung và
trường Đại học sư phạm Hà Nội nói riêng đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương
pháp dạy học để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục trong thời đại toàn
cầu hóa hiện nay.

20


Chương 2: Thiết kế bài giảng, tiến hành thực nghiệm bài giảng tại trường
Đại học sư phạm Hà Nội
2.1. Thiết kế bài giảng môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin học theo hướng kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống
và các phương pháp trong dạy học hiện đại
Mục đích thiết kế
Căn cứ vào nội dung của đề tài đó là việc kết hợp các phương pháp dạy
học truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học môn
những nguyên lý cơ bản của chư nghĩa Mác - Lênin học phần I. Vì vậy, để làm
sáng rõ hiệu quả của việc kết hợp đó chúng tôi cần tiến hành thực nghiệm giảng
dạy thử ở ba lớp trong đó có một lớp thực nghiệm và hai lớp đối chứng.
Để quá trình thực nghiệm đó đạt hiệu quả như mong muốn thì chúng tôi
cần sử dụng đến ba giáo án khác nhau (Đó là: giáo án theo phương pháp truyền
thống, giáo án theo phương pháp hiện đại và giáo án kết hợp các phương pháp
dạy học truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại). Vì vậy, mục đích
thiết kế ba giáo án ấy nhằm đảm bảo cho quá trình thực nghiệm có thể diễn ra

theo đúng quy trình và thứ tự.
Đồng thời, việc tiến hành thiết kế giáo án nhằm mục đích giúp cho người
giáo viên có sự chuẩn bị trước khi tiến hành giảng dạy và giúp các em sinh viên
có thể nhận thấy được tiết giảng nào đem lại hiệu quả học tập cao nhất cho các
em. Cho nên, thiết kế giáo án là một khâu không thể thiếu được trong quá trình
thực nghiệm.
Bài thiết kế
Bài thiết kế hay còn gọi là giáo án thiết kế. Đối với đề tài này, để tiến
hành thực nghiệm chúng tôi có thể tiến hành thiết kế với bất cứ nội dung nào
trong học phần một môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tuy nhiên, chúng tôi lựa chọn bài “ Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” để tiến hành thiết kế vì:

21


Thứ nhất: đó là bài nằm trong nội dung chương trình mà các em đang học
Thứ hai: đó là bài có tiết giảng gần nhất với thời gian chúng tôi tiến hành
thực nghiệm cho đề tài
Thứ ba: với kết cấu và nội dung của bài học này rất phù hợp với yêu cầu
của đề tài, nó tạo điều kiện thuận lợi cho người giảng viên trong quá trình thiết
kế giáo án cũng như là bài giảng của mình để có thể làm rõ và nổi bật sự khác
nhau giữa ba giáo án khi soạn cùng một nội dung.
Soạn bài
Giáo án đối chứng:
Chúng tôi đã lập kế hoạch bài dạy không có sự kết hợp các phương pháp
dạy học truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học phần
I môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac - Lênin. Tức là chúng tôi tiến
hành sử dụng đơn lẻ từng phương pháp và giáo án giáo án chỉ sử dụng các
phương pháp truyền thống trong quá trình giảng dạy được chúng tôi thể hiện

trong bài: “Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất về chất và ngược lại” như sau:
CHƯƠNG II: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại
A. Mục tiêu bài học
I. Về kiến thức
1. Giúp sinh viên hiểu được khái niệm quy luật và phân loại được các quy luật
2. Hiểu được các khái niệm cơ bản như chất, lượng, độ, điểm nút, bước
nhảy trong triết học
3. Nắm được quan hệ biện chứng giữa chất và lượng, ý nghĩa rút ra từ quy
luật
4. Biết được vị trí, vai trò của quy luật đối với sự phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên

22


II. Về kỹ năng
1. Sinh viên có được kỹ năng phân tích, đánh giá đúng đắn và toàn diện
sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên
2. Phân tích được rõ ràng 2 mặt lượng, chất của sự vật trong thực tiễn
III. Về thái độ
1. Tôn trọng quy luật khách quan về cách thức vận động của sự vật, hiện tượng
2. Nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, trung thực
3. Xem xét, đánh giá khách quan sự vật, hiện tượng, không vội vàng, chủ
quan dẫn đến sai lầm, không bảo thủ, trì trệ
IV. Tài liệu dạy và học
- Giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, NXB
Chính trị quốc gia, 2011.

- Tài liệu tham khảo: Triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 2006.
V. Phương tiện dạy học
- Giáo trình, sách tham khảo
- Bảng, phấn
VI. Phương pháp dạy học
Sử dụng phương pháp thuyết trình là chủ đạo,ngoài ra có sử dụng phương
pháp phát vấn.
B. Tiến trình lên lớp
GV: Dẫn vào bài
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu lên 3 quy luật phổ biến trong tự nhiên, xã
hội và tư duy, một trong 3 quy luật đó là quy luật chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại. Để hiểu rõ nội dung bài
học này cô và các em cùng vào bài hôm nay.

23


Nội dung cần đạt
1. Khái niệm quy luật

Hoạt động của giáo viên và học sinh
Để giảng nội dung này người giảng
viên chỉ sử dụng phương pháp thuyết
trình. Quá trình đó được mô phỏng

• Quy luật

như sau:

- Là những mối liên hệ khách quan, GV giảng: để hiểu được nội dung quy

bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi luật này trước hết chúng ta phải làm rõ
lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các “quy luật” là gì?
thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, GV giảng: bốn mùa xuân- hạ- thuhay giữa các sự vật, hiện tượng với đông hay quá trình sinh- lão- bệnh- tử,
nhau.

hiện tượng mặt trời mọc hướng đônglặn hướng

tây..chúng ta thấy điểm

tương đồng ở các sự vật, hiện tượng đó
là chúng đều có sự lặp đi lặp lại nhiều
lần. Theo quan điểm của chủ nghĩa
• Phân loại quy luật

Mác - Lênin thì những hiện tượng như
vậy được gọi là quy luật
GV: Căn cứ vào giáo trình chúng ta
thấy quy luật được phân loại như sau:
- Căn cứ vào mức độ của tính phổ
biến:
Quy luật riêng: tác động trong những
lĩnh vực riêng biệt của hiện thực.
Quy luật chung: tác động trong nhiều
loại sự vật, hiện tượng khác nhau.
Quy luật phổ biến: tác động trong tất
cả các lĩnh vực của tự nhiên, xã hội, tư
duy.
- Căn cứ vào lĩnh vực tác động:

24



2. khái niệm chất và khái niệm lượng Quy luật tự nhiên
Quy luật xã hội
a) Khái niệm chất

Quy luật tư duy

- Khái niệm chất: Chất dùng để chỉ tính Để giảng nội dung này thì người giảng
quy định khách quan, vốn có của sự viên chỉ sử dụng phương pháp phát
vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ vấn làm phương pháp chủ đạo. Quá
các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt trình đó có thể mô phỏng như sau:
nó với cái khác.

GV: nghiên cứu giáo trình anh (chị)

+ Tính quy định khách quan : Chất tồn cho biết chất theo quan điểm của các
tai trong sự vật không phụ thuộc vào nhà triết học được hiểu là gì?
nhận thức, ý muốn chủ quan của con SV: trả lời
người. Tức là bản thân sự vật khi sinh GV: nhận xét và kết luận câu trả lời
ra nó đã như vậy rồi.

của sv là đúng hay sai

+ Thống nhất hữu cơ các thuộc tính SV: Anh (chị) cho biết thuộc tính của
mỗi sự vật có nhiều thuộc tính và sự vật là gì?
thống nhất tất cả các thuộc tính ấy lại SV: suy nghĩ trả lời
thì nó tạo thành chất của sự vật.

GV: nhận xét và hỏi:


• Thuộc tính là gì?

- Anh (chị) hãy nêu những thuộc tính

- Thuộc tính là những tính chất, trạng cấu thành quả chanh và quả sấu?
thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó SV: nêu những đặc điểm, thuộc tính
là những cái vốn có của sự vật, nó bộc của 2 quả.
lộ thông qua sự tác động qua lại với GV: nhận xét và kết luận
các sự vật, hiện tượng khác nhau.

GV: Thuộc tính được chia làm 2 loại:
thuộc tính cơ bản và thuộc tính không
cơ bản. Thuộc tính cơ bản là những
thuộc tính được tổng hợp lại tạo thành
chất của sự vật. Chính chúng quy định

• phân loại thuộc tính:

sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển

+ thuộc tính cơ bản

của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi
25


×