Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

BẢO VỆ TRẺ EM BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.05 KB, 23 trang )

XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH
SÁCH NHẰM BẢO VỆ TRẺ EM BỊ XÂM HẠI
TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM
Mở đầu.
1.

Tính cấp thiết của đề tài

“Trẻ em như bút trên cành/ biết ăn biết ngủ biết học hành là
ngoan” – Hồ Chí Minh. Trẻ em là chủ nhân tương lai của mỗi quốc gia
và dân tộc. Là đối tượng cần được quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ và
những gì tốt đẹp nhất. Tuy nhiên không phải bất kì trẻ em nào sinh ra
cũng được thừa hưởng những quyền lợi căn bản đó, trong sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta hiện nay đã dẫn tới nhiều hệ quả trong
sự phân hóa giàu nghèo, người lao động di cư tới các khu đô thị lớn tìm
việc, sự xâm nhập và làm xói mòn đạo đức lối sống gia đình truyền
thống,… đã làm cho tỷ lệ trẻ em bị bỏ rơi, quên lãng, bị lạm dụng và bị
bóc lột ngày càng cao. Đặc biệt trẻ em bị xâm hại tình dục ngày càng
diễn ra hết sức phức tạp trong xã hội hiện nay.
Theo ước tính của Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội năm 2007 có
hơn 2,5 triệu trẻ em sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chiếm gần
10 (%) tổng số trẻ em ở Việt Nam, trong đó có hơn 850 trẻ bị lạm dụng
tình dục. Đến cuối năm 2010 con số trẻ em sống trong hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn được giảm xuống còn hơn 1,5 triệu trẻ em chiếm 6,5 (%)
số trẻ em ở Việt Nam, nhưng số trẻ bị lạm dụng tình dục lại tăng hơn
1000 trẻ. Các vấn đề như khai thác tình dục trẻ em vì mục đích thương
mại và hành vi cưỡng hiếp tình dục trẻ em cũng đang ở mức độ nghiêm
trọng song chưa có số liệu cụ thể do không có nguồn số liệu đáng tin
cậy. Như vậy, mặc dù sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên
Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1990 và ban hành luật quy định về bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em dựa trên căn cứ vào Hiến pháp nước


Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã cho thấy sự cam kết
mạnh mẽ của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghiã Việt Nam trong sự


nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đảm bảo cho mọi trẻ em
được đối xử bình đẳng, có điều kiện thuận lợi nhất để phát triển thể chất
và trí tuệ, được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, được
hưởng các quyền cơ bản và làm tròn bổn phận của mình đã khẳng định
hơn nữa những quyền và nghĩa vụ cơ bản của xã hội đối với trẻ em, đặc
biệt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Nhưng qua con số thống kê
trên cho thấy tỉ lệ này trẻ có hoàn cảnh đặc biệt có giảm nhưng lại tỉ lệ
nghịch với trẻ bị xâm hại tình dục, thực sự đã trở thành con số đáng báo
động và cần có nhiều biện pháp tích cực của pháp luật và chính sách
nước ta, sự đồng nhất từ mọi cấp, mọi người dân hơn nữa sao cho phù
hợp. Để phát huy hơn nữa vấn đề này đã có rất nhiều đề tài tham gia
vào việc nghiên cứu và đưa ra bàn luận trong các cuộc họp, hội thảo
nhằm góp phần nâng cao vai trò của hệ thống pháp luật, chính sách.
Nhưng vấn đề này vẫn còn rất mới và chưa phổ biến rộng rãi tới mọi
mặt của đời sống xã hội, chưa có sự quyết liệt của cơ quan chính có
thẩm quyền, trách nhiệm, hệ thống phát luật còn lỏng lẻo chưa đi sâu.
Cho nên, được sự hướng dẫn của giảng viên Khoa Nhà Nước – Pháp
Luật, học viện Báo chí – Tuyên truyền qua môn học Lí luận về Nhà
nước – pháp luật tôi quyết định chọn đề tài này để nghiên cứu.
2.

Tình hình nghiên cứu.

Tình hình nghiên cứu vấn đề bảo vệ trẻ em đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu được công bố như: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em
của nhiều tác giả được nhà xuất bản Phụ nữ xuất bản năm 1987. Đề tài

nghiên cứu bảo vệ quyền trẻ em bằng hệ thống tư pháp hình sự ở Việt
Nam – tiến sĩ Lê Thị Nga giảng viên đại học Xã hội và Nhân văn. Bảo
vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam – Nguyễn Đức Giao, Hoàng
Thế Liên…
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

Mục đích của đề tài nghiên cứu này nhằm làm rõ và nâng cao hơn
nữa tính pháp lí của hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay, tạo nên sự


đồng nhất của các cơ quan chức năng có trách nhiệm và trong toàn cộng
đồng xã hội.
Đề tài bao gồm 3 nhiệm vụ: Nhiệm vụ thứ nhất là làm rõ cơ sở lí
luận, nhiệm vụ thứ hai đánh giá những thành tựu đã đạt được và những
mặt hạn chế của hệ thống pháp luật. Nhiệm vụ thứ ba là một số giải
pháp trong hệ thống pháp luật nhằm phát huy hơn nữa tính cấp thiết của
pháp luật ở nước ta.
4.

Phương pháp nghiên cứu.

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử - lôgic: Phương pháp này
cho phép đi sâu phân tích sự biến đổi, phát triển của GCND trong
những năm vừa qua, đánh giá, nhận xét được ưu, khuyết điểm của
GCND hiện nay.
Phương pháp điều tra, khảo sát và tổng kết thực tiễn về GCND; sự

lãnh đạo xây dựng GCND của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Phương pháp so sánh: So sánh với tính chất, quy mô, cơ cấu, bản
chất và các giải pháp xây dựng GCND của các nước, các khu vực… Từ
đó rút ra những đặc điểm chung, phổ biến và đặc thù, tìm kiếm những
giá trị tham khảo cho nghiên cứu tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối
với việc xây dựng GCND ở Việt Nam.
Phương pháp thống kê và một số phương pháp mang tính bổ trợ
khác (khoa học kinh tế, khoa học pháp lý, khoa học quản lý,…)
5.

Kết cấu.


Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu, 3 chương thể hiện các nội
dung nghiên cứu thì còn phần mục lục, tên đề tài và các tài liệu tham
khảo.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1

Hệ thống khái niệm:

Trẻ em: theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt
Nam năm 2004, khẳng định ở điều 1: Trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Trong Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, trẻ em lại được xác định là
người dưới 18 tuổi. Do đó, “trẻ em” trong đề tài nghiên cứu này được
xác định trẻ em là người dưới 16 tuổi theo Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em.

Trẻ em có nguy cơ: Được xác định là trẻ em chưa hoàn toàn rơi
vào hoàn cảnh đặc biệt nhưng có nhiều nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc

biệt, do có xuất hiện một số nguy cơ trong gia đình và cộng đồng, trong
đó bao gồm: trẻ em từ các gia đình khó khăn, trẻ em sống trong gia đình
khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ, trẻ em khuyết tật chậm phát triển, và
trẻ em từ vùng các dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Khoản1, Điều 3, Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em quy định là trẻ em có hoàn cảnh không bình
thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện
quyền cơ bản và hoà nhập với gia đình, cộng đồng.
Trẻ em bị xâm hại tình dục: bao gồm trẻ em bị lạm dụng tình dục,
bị cưỡng hiếp, hoặc bị lạm dụng bởi các hành vi dâm ô...; trẻ em bị bóc
lột tình dục vì mục đích thương mại, thực hiện hành vi giao cấu, xâm
hại đến thể chất và tinh thần.


1.2

Phân loại và khái niệm cụ thể về trẻ em bị xâm hại tình
dục:

Trẻ em bị xâm hại tình dục là một khía cạnh trong khái niệm trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt được quy định tại Điều 40. Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em như sau: “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn
tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS;
trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại;
trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại
tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật”.
Trong luật Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em không định
nghĩa rõ và cụ thể khái niệm trẻ em bị xâm hại tình dục, thuật ngữ này

đã bị sử dụng một cách không thống nhất trong một số luật và quy định.
Nhưng bằng một số văn bản pháp luật của Việt Nam và các tổ chức bảo
vệ trẻ em bị xâm hại tình dục được chia thành các khái niệm nhỏ như
sau:
1. Trẻ em bị xâm hại tình dục: bao gồm trẻ em bị lạm dụng tình
dục; bị cưỡng hiếp; hoặc bị lạm dụng bởi các hành vi dâm ô; trẻ em bị
bóc lột tình dục vì mục đích thương mại; bị mua chuộc để thực hiện
hành vi giao cấu, xâm hại đến thể chất và tinh thần.
2. Trẻ em phải lao động trong môi trường độc hại và nguy hiểm:
là trẻ em phải lao động trong điều kiện môi trường độc hại và nguy
hiểm, những công việc mang tính chất gây hại cho sức khỏe, sự an tòan
và đạo đức của trẻ em. (trong đó có hoạt động mua bán mại dâm có sự
tham gia của trẻ em…)
3. Lạm dụng tình dục theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới:
“sự tham gia của một đứa trẻ vào hoạt động tình dục mà đứa trẻ đó
không có ý thức đầy đủ, không có khả năng đưa ra sự chấp thuận tham


gia, hoặc hoạt động tình dục mà đứa trẻ đó chưa đủ phát triển cả về mặt
tâm sinh lý để tham gia và không thể chấp thuận tham gia, hoặc hoạt
động tình dục trái với các quy định của pháp luật hoặc các thuần phong
mỹ tục của xã hội”.
4. Mua bán tình dục đối với trẻ em là hành vi thương mại bao gồm
việc lôi kéo đứa trẻ đó vào các hoạt động mại dâm, khiêu dâm bất hợp
pháp, hành vi bóc lột trẻ em trong các hoạt động mại dâm và các hoạt
động tình dục, hành vi bóc lột trẻ em trong việc biểu diễn và thực hiện
các tài liệu khiêu dâm. Bộ luật Hình sự không quy định riêng hẳn một
tội danh về “mại dâm trẻ em”. Tuy nhiên, Điều 256 của Bộ luật Hình sự
về “mua dâm với người chưa thành niên” quy định những người có
hành vi mua dâm với người chưa thành niên (ví dụ người dưới 18 tuổi)

sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. “Mua dâm” được định nghĩa là hành
vi của một người mua chuộc một trẻ chưa thành niên bằng lợi ích vật
chất để trẻ đồng ý với hành vi giao cấu. Do bản chất và mức độ nghiêm
trọng của mại dâm trẻ em và mại dâm người lớn là khác nhau nên bất
kỳ hành động tổ chức, môi giới, bảo kê, hoặc cung cấp gái mại dâm là
người chưa thành niên đều bị coi là vi phạm hình sự nghiêm trọng
5. Hiếp dâm trẻ em Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định đó là bất
kỳ hành vi giao cấu và dâm ô với trẻ em.
1.3

Quan điểm chính sách của Đảng và Nhà Nước ta hiện
nay trong việc bảo vệ trẻ em, đặc biệt trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã từng bước
xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam để
đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, hài hoà với pháp luật quốc tế, sự tin
cậy và ứng phó kịp thời với những mối quan hệ xã hội mới, cũng như
hội nhập một cách vững chắc vào các tiêu chuẩn luật pháp quốc tế. Do


đó, hệ thống luật pháp ngày càng được hoàn thiện này có thể được coi
là đặt nền tảng cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo
điều kiện cho các em phát triển toàn diện, đảm nhận sứ mệnh là chủ
nhân tương lai của đất nước.
1.3.1

Các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đã
xây dựng trong thời gian qua.


Có rất nhiều những văn bản quy phạm pháp luật đã được xây
dựng và giới thiệu nhằm giải quyết những khía cạnh khác nhau trong
vấn đề bảo vệ trẻ em đặc biệt trẻ em bị lạm dụng tình dục. Những
nguyên tắc, vai trò và trách nhiệm cơ bản của hệ thống bảo vệ trẻ em đã
được quy định trong khung pháp lý và chính sách phòng chống bạo lực
trên cơ sở giới, bảo vệ nạn nhân và trừng phạt các hành vi bạo lực được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua thể
hiện tại : Hiến pháp (2013), Luật Bình đẳng giới (2006), Luật phòng,
chống bạo lực gia đình (2007), Pháp lệnh dân số (2003), Pháp lệnh
phòng, chống mại dâm (2003)… Bên cạnh đó một số các chương trình
đã được xây dựng và triển khai nhằm giúp đỡ một số đối tượng trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt nói chung, trẻ em bị xâm hại tình dục nói riêng
như:
Chương trình bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 19992002 (được phê duyệt bởi Quyết định số 134/1999/ QĐ-TTg, ngày
31/5/1999).
Năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Nghi định thư bổ
sung cho Công ước quốc tế về quyền trẻ em về buôn bán trẻ em, mại
dâm trẻ em, và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em.
Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang


thang, trẻ em bị xâm hại tình dụng và trẻ em phải lao động nặng nhọc,
trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010.
Quyết định 65/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Đề án “Chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em
bị bỏ rơi, trẻ em tàn tật nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học
và trẻ em nhiễm HIV/AIDS”.
Ngày 14 tháng 01 năm 2005, Bộ LĐTB&XH đã ban hành Công
văn số 120/BLĐTB&XH-PCTNXH hướng dẫn việc thực hiện Dự án

Phòng ngừa lạm dụng tình dục trẻ em theo Quyết định 19.
Kế hoạch Quốc gia về phòng, chống tội phạm giai đoạn 20052010 (bao gồm các điều khoản về các hành vi phạm tội do trẻ em thực
hiện và tội phạm chống lại trẻ em).
Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ban hành Quy chế tiếp nhận và
hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ và trẻ em bị buôn bán từ
nước ngoài trở về. Chính phủ Việt Nam đã xác định lạm dụng tình dục
trẻ em, trong đó có mại dâm trẻ em, là một vấn đề ưu tiên trong.
Quyết định số 267/ QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia bảo
vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015
1.3.2. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan thi hành
thực thi pháp luật nhằm bảo vệ trẻ em, đặc biệt trẻ em
bị xâm hại tình dục.
Trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em đươc quy định tại điều 8 trong Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em. Bộ LĐTBXH hiện nay có trách nhiệm chính trong
việc quản lý nhà nước đối với vấn đề bảo vệ trẻ em, có trách nhiệm
phối kết hợp và điều phối việc thực hiện các chương trình kế hoạch cho
trẻ em chính thay cho Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trước đây


đảm nhiệm. Tuy nhiên trong hệ thống pháp luật hiện nay vẫn chưa quy
định và giao nhiệm vụ cho một cơ quan đầu mối hoặc chủ trì chịu trách
nhiệm chung về tất cả các khía cạnh của công tác bảo vệ trẻ em trên
toàn quốc. Trách nhiệm thực hiện các lĩnh vực khác nhau trong công tác
bảo vệ trẻ em lại được giao cho nhiều bộ, ngành khác nhau, dựa theo
chức năng của các bộ, ngành này cũng như việc phân loại đối tượng trẻ
em. Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nghị định số
36/2005/NĐ-CP hướng dẫn việc thực hiện luật, có quy định trách nhiệm
như sau:
* UBDSGĐ&TE: Quản lý nhà nước đối với các vấn đề về trẻ em,

trong đó có việc xây dựng luật pháp và chính sách về trẻ em, tổ chức
thực hiện các chương trình về bảo vệ và chăm sóc trẻ em thiệt thòi, điều
phối hoạt động giáo dục và nhận thức về bảo vệ trẻ em, quản lý nhà
nước về các cơ sở hỗ trợ trẻ em với nhiều thành phần khác nhau, thu
thập và phân tích số liệu về bảo vệ trẻ em, ban hành các tiêu chuẩn,
nguyên tắc, hướng dẫn về bảo vệ trẻ em và các cơ sở trợ giúp trẻ em.
* Bộ LĐTB&XH: có trách nhiệm ban hành cơ chế và chính sách
đối với trẻ em khuyết tật, tàn tật, trẻ em mồ côi, và trẻ em đường phố,
quản lý nhà nước đối với các cơ sở bảo trợ xã hội, các cơ sở điều trị cai
nghiện, các cơ sở dạy nghề, ban hành luật pháp về lao động trẻ em và
thanh tra việc thực thi luật pháp này. Theo Chương trình 19,
BLĐTB&XH chịu trách nhiệm chính về các kế hoạch ngăn chặn và giải
quyết tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em, sử dụng lao động trẻ em làm
các công việc nặng trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
BLĐTB&XH cũng chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức giáo dục
dạy nghề, hỗ trợ việc làm, tái hoà nhập cộng đồng cho phụ nữ và trẻ em
từng bị buôn bán qua biên giới nay đã trở về.
* Bộ Công an: Có trách nhiệm áp dụng các biện pháp phòng ngừa
và đấu tranh với các hành vi xâm phạm quyền trẻ em, giáo dục và cải


tạo người chưa thành niên vi phạm pháp luật; phối hợp thực hiện
Chương trình hành động quốc gia về phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ
em và Chương trình đấu tranh phòng, chống mại dâm.
* Bộ Tư pháp: Hỗ trợ pháp lý cho trẻ em thiệt thòi, trẻ em trong
hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có trẻ bị xâm hại tình dục, quản lý việc
nhận con nuôi (trong nước và nước ngoài), tăng cường nhận thức và
giáo dục về luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
* Bộ Y tế: trách nhiệm cải thiện chất lượng điều trị y tế cho trẻ em
bị xâm hại tình dục nói riêng, những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói

chung.
* Bộ Giáo dục và đào tạo: Trách nhiệm xây dựng các chương
trình nâng cao nhận thức và giáo dục về bảo vệ trẻ em, thực hiện chính
sách về miễn giảm học phí, áp dụng những biện pháp phù hợp để hòa
nhập trẻ quay trở lại trường học, phối hợp với Bộ LĐTB&XH để xác
định những chương trình giáo dục cho những trường lớp có trẻ em
khuyết tật, xác định các chương trình giáo dục trong các trường giáo
dưỡng.
* Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Xây dựng kế hoạch bảo vệ trẻ em, đưa
nội dung kế hoạch vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, huy
động nguồn lực trong nước và quốc tế cho công tác bảo vệ trẻ em.
* Bộ Tài chính: Hướng dẫn các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân
các cấp trong việc đưa ra dự trù ngân sách hàng năm và dài hạn cho
hoạt động bảo vệ trẻ em, đề xuất chính sách huy động nguồn lực tài
chính chọn công tác bảo vệ trẻ em.
1.3.2

Các tổ chức xã hội và các quỹ hỗ trợ tham gia
bảo vệ trẻ em ở nước ta hiện nay.


Hiện nay Việt Nam có 54 trung tâm chữa bệnh, giáo dục lao động xã
hội do Bộ LĐTB&XH quản lý. Trong số những trung tâm này, 4 trung
tâm chuyên cho gái mại dâm và 50 trung tâm có đối tượng gái mại dâm
và nghiện ma tuý. Trong số 4 trung tâm cho gái mại dâm, hai trung tâm
đặt ở thành phố Hồ Chí Minh, một ở Hà Nội và một ở thành phố Hải
Phòng. Thống kê cho thấy trong năm 2004, có tổng cộng 3,575 đối
tượng, trong đó 124 em (chiếm 3%) là dưới 18 tuổi.
Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tại Việt Nam.
Tổ chức trẻ em Rồng Xanh tổ chức tại Hà Nội.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA HÀNH VI XÂM PHẠM
TÌNH DỤC Ở TRẺ EM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1

Những con số thống kê về tình trạng xâm hại tình dục
ở nước ta trong những năm qua.

Trong những năm qua, mặc dù Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan
Trung ương, các cấp chính quyền địa phương ở nước ta đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhiều chính sách, chương trình, dự
án nhằm thực hiện quyền trẻ em, giải quyết tình trạng bạo lực, xâm hại
đối với trẻ em, nhưng qua các con số thống kê của UBDSGĐ&TE vấn
đề trẻ em bị bạo lực và lạm dụng vẫn rất nhức nhối, số lượng không
những chưa giảm mà còn tăng với số lượng lớn qua các năm, tính chất
xâm hại cũng tăng mạnh bởi mức độ tàn bạo, nguy hiểm lớn hơn trước
rất nhiều.
Mặc dù tỉ lệ tội phạm chung có giảm nhưng năm 2014 số vụ liên quan
đến xâm hại tình dục trẻ em lại tăng 6,3% so với năm 2013. Theo số
liệu thống kê của Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (Bộ LĐTBXH) năm
2011 cho thấy, cả nước có 1.453 trẻ bị xâm hại tình dục, tính trung bình


5 năm gần đây thì mỗi năm có khoảng gần 1.000 trẻ bị xâm hại tình
dục. Trong số đó, số trẻ em bị hiếp dâm chiếm đến hơn 65%, số trẻ bị
xâm hại tình dục nhiều lần chiếm hơn 28%. Số vụ trẻ em bị hiếp dâm
hiện nay không chỉ đa phần là trẻ em nữ, mà số trẻ em bị lạm dụng tình
dục ngày càng tăng cao qua các năm, con số này chiếm khoảng 25 –
30%, trẻ em nam bị xâm hại tình dục chủ yếu là trẻ em lang thang
đường phố, làm việc nặng nhọc, không có nơi nương tựa, sống trong

các gầm cầu, làm nghề đánh giầy, bán hàng rong… Đặc biệt tính chất
của các vụ xâm hại trẻ em ngày càng trở nên nghiêm trọng với những
hành vi suy đồi đạo đức như: hiếp dâm tập thể, hiếp dâm trẻ em dưới 5
tuổi, hiếp dâm rồi giết trẻ em… Nguy hại hơn nữa, có tới 70% nạn nhân
bị xâm hại bởi người quen, thậm chí là chính người thân, máu mủ, ruột
rà. Đáng lo, thủ phạm lại chính là những đối tượng có quan hệ huyết
thống “không ai ngờ tới” như: bố, dượng, anh trai,… của các nạn nhân.
Mức độ còn trở nên nguy hiểm hơn gấp nhiều lần, thậm chí còn tinh vi
có thể qua mắt cơ quan chức năng 1 cách dễ dàng. ... Một số có quan hệ
với trẻ qua điện thoại và mạng Internet, trong khi thông tin và người
quen trên mạng có tốt có xấu nhưng trẻ không đủ kỹ năng để phân biệt
và bị lợi dụng. Đồng thời, thời gian gần đây còn nảy sinh loại hình “du
lịch tình dục” của trẻ em với khách nước ngoài, cho nên nó mang lại lợi
ích kinh tế rất lớn cho người đứng ra giao dịch mua bán dâm và cho trẻ
em.
Những con số đã qua thống kê trên chỉ là một phần thực tế bởi con số
trên 1453 vụ xâm hại tình dục trẻ em là những vụ được phát hiện và sau
đó thì chỉ có 40% số vụ bị mang ra xét xử hình sự, số còn lại đều bỏ
trốn hoặc nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
2.2
2.2.1

Nguyên nhân và những ảnh hưởng của xâm hại tình
dục ở trẻ em.
Nguyên nhân của những hành vi xâm hại tình dục


Thứ nhất, là do từ ý thức bản thân của trẻ em, trẻ em
được xác định là nhóm đối tượng trong độ tuổi dưới 16 tuổi cho nên
đây là độ tuổi chưa đủ nhận thức về hành vi về việc làm của mình. Độ

tuổi này chưa được trang bị đầy đủ về kiến thức, chưa có sự kháng cự
chống lại hành vi đúng mức. Trẻ em rất dễ mua chuộc và dụ dỗ cho nên
hành vi xâm hại tình dục ngày các đối tượng được thực hiện và che đậy
một cách tinh vi, dễ lọt qua vòng lưới gia đình của các em và cơ quan
nhà nước.
Thứ hai, nguyên nhân từ phía gia đình. Do gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, sự nghèo đói, lạc hậu, không có điều kiện để chăm
sóc con cái, không có đủ điều kiện để quan tâm, giáo dục kiến thức và
phương pháp cho trẻ. Sự buông lỏng, thiếu giáo dục và quan tâm chỉ là
một phần của nguyên nhân này, trường hợp khi trẻ bị xâm hại tình
dục, gia đình bị hại thiếu hiểu biết, khi con em mình bị nạn không đem
đi trình báo, giám định ngay nên thiếu bằng chứng cụ thể để buộc tội kẻ
xấu; do tâm lý của người Việt Nam quá trọng tình, đôi khi nhẫn nhịn,
nhìn con đau đớn nhưng không dám tố giác vì sợ mất tình cảm, mặt
khác sợ mang tiếng, nghĩ là chuyện đã rồi nên chỉ thoả thuận bồi
thường thiệt hại về mặt vật chất là xong. Chính vì thế, điều này đã vô
tình tiếp tay cho xâm hại tình dục cơ hội tiếp cận gây án, thoát tội và
tiếp tục gây án về sau.
Thứ ba, nguyên nhân xã hội. Công tác quản lý các loại
hình dịch vụ, băng đĩa đồi trụy, văn hóa phẩm không đúng chuẩn mực
xã hội; nhiều bộ phim, sách, truyện bạo lực khiêu dâm gây nên sự hứng
thú và kích thích cho đối tượng xâm hại và trẻ bị xâm hại được lưu bán
trên thị trường. Do lối sống buông thả, sự phát triển của xã hội, sự xâm
nhập văn hóa của các quốc gia trên thế giới vượt quá sự kiểm soát và do
dục vọng của cá nhân muốn giải quyết nhu cầu nhằm thỏa mãn “tính
thú” của con người. Sự phát triển của kinh tế xã hội khiến con người


chạy theo đồng tiền, mạng xã hội phát triển khiến trẻ em dễ tiếp xúc gần
hơn với các đối tượng có mục đích gây án. Bên cạnh đó các tình trạng

mù chữ, thất học, không có việc làm, sự yếu kém về tính răn đe của
pháp luật không đủ gây sức ép dẫn đến sự coi thường.
Thứ tư, nguyên nhân từ công tác tuyên truyền giáo dục
ý thức, pháp luật, giáo dục giới tính. Công tác tuyên truyền giáo dục về
phòng chống xâm hại tình dục ở nước ta còn có những sự buông lỏng,
chưa đạt hiệu quả ở từng cấp cơ sở, đa phần còn mang tính hình thức,
không thường xuyên cho nên không đạt hiệu quả trong việc nâng cao
nhận thức của cộng đồng. Chưa có sự kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, mạnh
mẽ giữa tuyên tuyền của cơ quan chức năng, gia đình, nhà trường và xã
hội
Suy cho cùng, số vụ bị xử lý hình sự là quá ít nên chưa đủ sức răn đe
đối với những kẻ suy thoái về đạo đức, lối sống nhân cách, thích ăn
chơi, đua đòi, hưởng thụ, dục vọng thấp hèn và thiếu hiểu biết pháp
luật. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến tội phạm xâm hại
tình dục ngày một gia tăng, gây bức xúc trong dư luận.
2.2.2

Những ảnh hưởng của xâm hại tình dục ở trẻ em.
Ảnh hưởng tới sự phát triển toàn diện của trẻ. Xâm hại
tình dục có thể lâu dài để lại những hậu quả về thể xác lẫn tinh thần.
Nạn nhân bị xâm hại tình dục nếu không được chữa trị, hỗ trợ, tham
vấn giáo dục kịp thời trong từng giai đoạn đến khi trưởng thành sẽ có
thể tự ti, sống khép kín, sợ hãi hoặc trở thành mầm mống tội phạm sau
này về mua bán mại dâm. Vấn đề này sẽ có thể tái diễn, mở rộng theo
cơ chế lây lan và tiêm nhiễm vào các đối tượng khác có trình độ kém
hiểu biết, cho kẻ phạm tội không biết hành vi phạm tội của mình.
Ảnh hưởng về phạm vi đạo đức xã hội với lối sống
vượt ngưỡng truyền thống của dân tộc, đến luân thường đạo lý, đến văn



hóa nhân văn của dân tộc. Xâm hại tình dục còn ảnh hưởng đến tâm lí
chung của xã hội, cảm giác sợ hãi, coi thường, khinh bỉ, xa lánh. Ngoài
ra Nhà nước, gia đình và xã hội còn phải chịu gánh nặng về vật chất lẫn
tinh thần đối với việc phục hồi nhân phẩm và sức khỏe cho trẻ bị xâm
hại tình dục.
Ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Tới mục tiêu
lâu dài của quốc gia, nền an ninh, trật tự xã hội chung của cộng đồng.
Trẻ bị xâm hại khó có thể đủ sức khỏe lẫn tinh thần để học tập, tham gia
lao động để đáp ứng yêu cầu của đất nước.
2.3

Những mặt hạn chế trong hệ thống pháp luật của Việt
Nam về bảo vệ trẻ em bị xâm hại tình dục.

Như những thống kê đã cho thấy số vụ xâm hại tình dục trẻ em ở nước
ta liên tục tăng qua các năm, ví dụ như giai đoạn 2006 – 2010 trẻ em bị
xâm hại tình dục chiếm 58,8% tổng số vụ xâm hại trẻ em, tăng 6,4% so
với giai đoạn 2001-2005. Sự bó hẹp về giới hạn của pháp luật, sự yếu
kém trong khâu quản lí, giám sát bảo vệ trẻ em chính là nguyên nhân
lớn nhất đã tiếp tay cho một phần gây án của tội phạm.
2.3.1

“Văn bản một đàng và thực tiễn một kiểu”

Đây chính là sự yếu kém cơ bản của việc giải quyết các vấn đề
phạm tội. Các chính sách pháp luật về phòng chống bạo lực ở nước ta
còn quy định chưa đúng, chưa rõ chưa cụ thể và rải rác trong nhiều văn
bản quy phạm pháp luật, chưa hệ thống. Chưa có định nghĩa, quy định
chi tiết về các biểu hiện cụ thể của hành vi bạo lực trên cơ sở giới.
Xác định độ tuổi trẻ em trong Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em

là 18, nhưng một số văn bản pháp luật của Việt Nam có thể là 16 hoặc
18 cho nên rất khó áp dụng đúng vào xử lí. Việc thiếu vắng các định
nghĩa rõ ràng dẫn đến khó áp dụng quy định của pháp luật trong xử phạt
và tạo ra nhiều lỗ hổng cho kẻ gây án có thể chót lọt hoặc nhởn nhơ
khinh thường hệ thống pháp luật của nước ta


Luật pháp hiện nay của Việt Nam chưa có định nghĩa chính thức
về “lạm dụng tình dục trẻ em”, thuật ngữ này đã bị sử dụng một cách
không thống nhất trong một số luật và quy định. Do đó, thuật ngữ “lạm
dụng tình dục trẻ em” cần phải được luật hóa, làm cơ sở cho việc hiểu
đúng và sử dụng thống nhất thuật ngữ này trong tất cả các văn bản quy
phạm pháp luật; …)
Luật pháp về lĩnh vực này chưa mạnh bằng lĩnh vực truy tố thủ
phạm. Quy định xử phạt trong khung hình phạt vi phạm của Luật phòng
chống bạo lực gia đình còn rộng; Hiện nay là ở nước ta chưa có văn bản
pháp luật nào quy định việc xử lý đối tượng lạm dụng tình dục trẻ em
nam, do các quy định pháp luật về phòng chống mại dâm, pháp luật
hình sự đều coi mua bán dâm là giao cấu giữa nam và nữ, chưa có quy
định bảo vệ trẻ em nam trên 16 tuổi bị lạm dụng.
Hiện tượng “lạm dụng tình dục xuyên quốc gia” hay “du lịch tình
dục” của các du khách nước ngoài đến Việt Nam chưa có văn bản pháp
luật cụ thể, cũng rất khó xử lý đối tượng do khách du lịch vì họ có thể
rời đi các thành phố hoặc quốc gia khác sau khi mua dâm/lạm dụng
tình dục trẻ em. Vấn đề này nếu không có chế tài và biện pháp ngăn
chặn thì có khả năng bùng nổ như từng xảy ra ở một số nước láng
giềng.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là luật pháp chưa quy định rõ ràng
rằng gái mại dâm là trẻ em dưới 18 tuổi cần phải được đối xử như nạn
nhân, và không bị áp dụng một chế tài nào cho hành động của mình.

Đối với gái mại dâm là trẻ em cần phải được hỗ trợ để phục hồi và tái
hòa nhập, việc chăm sóc và phục hồi này được cung cấp dưới hình thức
chăm sóc gia đình, hơn là chăm sóc trong cơ sở tập trung, và không nên
tước đoạt tự do của trẻ em. Những biện pháp áp dụng chế tài hành chính
hiện nay đối với trẻ em gái mại dâm là vi phạm với tiêu chuẩn quốc tế
về lĩnh vực này, cụ thể là khi trẻ em bị đặt trong các trung tâm phục hồi
và bị giam trái với ý muốn của các em.
Chính sách phúc lợi xã hội nói chung và hướng tiếp cận bảo vệ trẻ
em nói riêng chủ yếu vẫn mang nặng tính “nhân đạo” chứ không mang


tính dựa trên quyền. Việc cung cấp các dịch vụ xã hội cho những nhóm
trẻ em dễ bị tổn thương vẫn phụ thuộc chủ yếu vào những nố lực tình
nguyện và những tổ chức phi lợi nhuận, hơn là dựa vào đội ngũ cán bộ
chuyên nghiệp được đào tạo và được trả lương.

2.3.2

Còn thiếu và yếu đội ngũ cán bộ và các bộ
phận giám định, kiểm tra.

Thực tế cũng cho thấy, năng lực đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên, cộng tác viên cơ sở còn hạn chế cả về số lượng và
chất lượng. Số lượng cán bộ hiểu luật và áp dụng luật để áp dụng chế
tài xử phạt còn chưa cao, cơ quan thi hành nhiệm vụ điều tra còn thiếu
và yếu về năng lực và trang thiết bị. Đồng thời sự hợp tác giữa các ban
ngành có liên quan còn chậm, thiếu sự đồng nhất, thống nhất để nhanh
chóng giải quyết vấn đề này. Bên cạnh đó, luật phát nước ta chưa có tổ
chức nào liên quan đến việc xây dựng tâm lí an tâm cho trẻ em bị xâm
hại tình dục, mà trong quá trình điều tra thậm chí làm trẻ sợ hãi, không

có sự phối hợp giữa cơ quan điều tra và người bị hại.
Trên cả nước, hằng năm con số được mang ra xét xử
hình sự chỉ chiếm 40%. Đó là một nguyên nhân của sự lỏng lẻo trong
pháp luật và cũng là do sự kết hợp giữa cá nhân trẻ bị hại, gia đình có
trẻ bị hại, tội phạm gây ra hành vi hiếp dâm với trẻ bị hại và cơ quan
chức năng còn yếu kém. Trong khi có pháp luật thì gia đình bị hại lại
thiếu hiểu biết, khi con em mình bị nạn không đem đi trình báo, giám
định ngay nên thiếu bằng chứng cụ thể để buộc tội kẻ xấu; do tâm lý
của người Việt Nam quá trọng tình, đôi khi nhẫn nhịn, nhìn con đau đớn
nhưng không dám tố giác vì sợ mất tình cảm, mặt khác sợ mang tiếng,
nghĩ là chuyện đã rồi nên chỉ thoả thuận bồi thường thiệt hại về mặt vật
chất là xong. Số vụ bị xử lý hình sự là quá ít nên chưa đủ sức răn đe đối
với những kẻ suy thoái về đạo đức, lối sống nhân cách, thích ăn chơi,


đua đòi, hưởng thụ, dục vọng thấp hèn và thiếu hiểu biết pháp luật. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân khiến tội phạm xâm hại tình dục
ngày một gia tăng, gây bức xúc trong dư luận.
Chương 3: GIẢI PHÁP CHUNG
3.1 Xây dựng hệ thống pháp luật và chính sách nhằm bảo vệ
trẻ em bị xâm hại tình dục.
Ở Việt Nam, từ khi vấn đề Quyền trẻ em Việt Nam tham gia
kí kết về Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1990 thì
vấn đề này mới được đặt ra và thực hiện một cách nghiêm túc, từ đó
khái niệm lạm dụng trẻ em mới được nhắc đến và xem xét với từ nhiều
phương diện. Do đó, vấn đề lạm dụng trẻ em gần đây mới nhận được sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, ngoài những nghiên cứu
trường hợp, những nghiên cứu mang tính thăm dò, chưa có một nghiên
cứu mang tầm cỡ quốc gia về lạm dụng trẻ em ở Việt Nam. Mặc dù vậy,
những kết quả thu được từ các cuộc nghiên cứu này cũng phần nào cho

thấy tình trạng lạm dụng trẻ em ở nước ta đang là vấn đề nóng hổi cần
được sự quan tâm sâu sắc của toàn xã hội. Cho nên, đưa ra một giải
pháp phù hợp đối với hệ thống pháp luật là rất cần thiết với thực tiễn.
3.1.1. Thành lập Tòa Án bảo vệ quyền trẻ em.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới trẻ bị xâm hại kể trên
là do các chế tài trong lĩnh vực này còn bất cập, chưa đủ răn đe vi
phạm. Văn bản pháp luật lại không quy định rõ quyền hạn của các cơ
quan liên quan để thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra các hành vi
xâm hại trẻ em. Đa phần trong những đơn của cử của gia đình có trẻ em
bị xâm hại tình dục, khi tiếp nhận thông tin, tố cáo về trẻ em bị xâm hại,
cơ quan quản lý nhà nước cũng chỉ có quyền xác minh sự việc, kiến
nghị với cơ quan công an để tiến hành điều tra.


Đối với các trường hợp trẻ em bị chính người thân trong gia đình thực
hiện hành vi xâm hại tình dục thì dường những các biện pháp ngăn chặn
của cơ quan chức năng chỉ dừng lại ở việc hạn chế quyền của cha mẹ,
gửi trẻ cho các cá nhân hoặc cơ sở chăm sóc, chứ chưa có chế tài về
tước quyền nuôi con, hình thức xử lí hình sự mạnh đối với những cha
mẹ ngược đãi, bạo lực, xâm hại con mình. Nhiều vụ việc do không
được ngăn chặn kịp thời đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Một số luật sư và diễn đàn đã bàn luận về việc sửa đổi, bổ xung Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 để điều chỉnh các hành
vi, quan hệ xã hội, để trẻ em được bảo vệ tốt hơn. Trong đó, cần quy
định thành lập Tòa án trẻ em ở cấp tỉnh và Trung ương. Tòa án dành
riêng cho trẻ em sẽ cung cấp đủ cán bộ tư pháp nắm được các nguyên
tắc xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Vì vậy,
trong quá trình hỏi cung và điều tra, cán bộ có thể nắm bắt tâm lí trẻ em
dễ dàng hơn, có giải phát để trẻ em hợp tác trong quá trình điều tra, làm
giảm tình trạng sợ hãi, không dám nói của trẻ em. Khi đó vụ hiếp dâm

trẻ em sẽ không phải phải hoãn lại nhiều lần, nhanh chóng có đủ chứng
cớ, không phải hỏi cung nhiều lần, khi tòa còn triệu tập cả nạn nhân và
đối tượng gây án mà không khiến cho trẻ bị hại tổn thương thêm.
3.1.2 Sửa đổi, bổ xung một số điều trong các văn bản, pháp
luật ở nước ta.
Để đảm bảo tính công bằng và bảo vệ trẻ em an toàn trong
hệ thống pháp luật của nước ta thì cần đưa ra một số kiến nghị để hoạt
động xâm hại tình dục ở trẻ em đạt hiệu quả như: khi trẻ bị xâm hại cần
có chính sách quan tâm các nạn nhân; khi bị cáo có luật sư bào chữa thì
trẻ em dưới 16 tuổi cũng cần được quy định vè việc được mời luật sư
bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho nạn nhân.


Quyền trẻ em cần được quan tâm và cụ thể hoá hơn nữa góp
phần ngăn chặn những hành vi không những vi phạm luật pháp mà còn
đi lệch với chuẩn mực văn hoá, truyền thống dân tộc. Khi sửa đổi Luật
Hình sự thì cần chú ý đến đối tượng xâm hại tình dục đối với trẻ em
nam. Bời vì, tình trạng trẻ em nam bị xâm hại tình dục cũng diễn ra
ngày càng tăng qua các năm, điều đó gây nên ảnh hưởng xấu hơn đối
với các bé gái bị xâm hại cho xã hội và đất nước về sau.
Quy định các cơ quan truyền thông không quá đưa bài chi
tiết về nạn nhân để tránh gây ra tâm lí xã hội ảnh hưởng đến nạn nhân,
tránh tạo dư luận xã hội gây sức ép đối với nạn nhân, điều đó có thể xảy
ra hậu quả đáng tiếc.
Tính đồng bộ giữa cơ quan điều tra, cơ quan thi hành, nhằm
nhanh chóng giải quyết vấn đề này tránh để xảy ra tình trạng kéo dài,
phải triệu tập nhiều lần, hỏi cung nhiều lần, hoãn nhiều lần… gây sức
ép đối với trẻ em.
Nâng sức ép đối với khái niệm về hiếp dâm trẻ em. Theo
điều 112 bộ luật Hình sự quy định: “tuổi đồng thuận tham gia vào hoạt

động tình dục là 13, bất kỳ một hành vi tình dục nào đối với trẻ em dưới
độ tuổi đó đều bị coi là là hiếp dâm, bất kể là trẻ có đồng ý hay không”.
Với mức độ này bảo vệ bộ phận hẹp trẻ em về độ tuổi, gây cho các đối
tượng vi phạm không có sức ép lớn. Cho nên, cần nâng độ tuổi coi là
hiếp dâm trẻ em lên 16 tuổi, khi đó mức phạm tội sẽ giảm bởi mức răn
đe của pháp luật lớn.
3.1.3 Kết hợp hệ thống pháp luật Việt Nam với các quốc gia
khác.
Hiện nay Việt Nam vẫn chưa ký kết Hiệp ước dẫn độ song
phương với các quốc gia khác, cụ thể là các quốc gia trong khu vực
sông Mê Kông. Việt Nam mới chỉ đã ký kết các hiệp ước tương trợ tư


pháp với 11 quốc gia, trong đó có Nga, Mông Cổ, Hungary, Bun-ga-ry,
Ba Lan, Cuba, Trung Quốc, Lào... Ký kết Biên bản ghi nhớ về Buôn
bán người trong tiểu vùng sông Mê Kông cùng Căm pu chia, Trung
Quốc, Lào, Myanmar và Thái Lan. Và đã đồng ý tham gia vào chương
trình hành động đấu tranh chống nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em trong
tiểu vùng sông Mê Kông. Nhưng điều đó là chưa đáp ứng với yêu cầu
của thực tiễn xã hội hiện nay, bởi vì các tội phạm xuyên quốc gia hiện
nay là các khách du lịch có nhu cầu thỏa mãn tình dục theo văn hóa của
nước họ mà pháp luật nước ta lại chưa quy định rõ. Nói chung, Bộ luật
Hình sự của Việt Nam chỉ áp dụng với những tội danh hình sự được
thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam,(Điều 5, Điều 6 của Bộ luật Hình sự,
Điều 172 của Bộ luật Tố tụng Hình sự). Nếu việc này không nhanh
chóng được đưa ra thảo luận sẽ nhanh chóng gây ra một số điểm xấu
như các nước láng giềng.
3.1.4 Mở rộng các trung tâm bảo trợ xã hội phục hồi và tái
hòa nhập cho nạn nhân trẻ em bị lạm dụng tình dục.
Chính sách pháp luật của Nhà nước cần tham gia xây dựng

các chương trình mở rộng nguồn vốn từ các tổ chức phi chính phủ, các
tổ chức xã hội, nhà hảo tâm, các tổ chức quốc tế xây dựng nhà ở, trung
tâm phục hồi nhân cách và nhân phẩm cho trẻ bị xâm hại tình dục giúp
trẻ hòa nhập với cuộc sống xã hội. Trở thành những con người có ích
cho xã hội, tham gia vào phát triển kinh tế, học tập bồi dưỡng kiến thức,
trang bị khả năng tự vệ, đồng thời loại bỏ những tệ nạn đang ngày càng
diễn ra trong xã hội.
3.2 Chung tay cộng đồng đẩy lùi tệ nạn xã hội nói chung, xâm
hại tình dục ở trẻ em nói riêng.
Sức mạnh của hệ thống pháp luật chưa đủ sức răn đe và
ngăn chặn các hành vi xâm hại tình dục ở trẻ em. Cho nên, sự chung tay


của cả cộng đồng là yếu tố cần thiết nhất đảm bảm cho trẻ được an toàn
thu hưởng một cuộc sống hạnh phúc, no đủ, có điều kiện để trẻ phát
triển toàn diện cả về thể lực lẫn tinh thần. Đó là sự thống nhất của gia
đình, nhà trường và xã hội, đảm bảo giáo dục cho trẻ em đầy đủ mọi
kiến thức trang bị về sức khỏe giới tính. Sự chung tay còn tạo nên làn
song ngăn chặn lớn đối với những đối tượng có động cơ gây án, làm
xóa bỏ những nhu cầu tính thú, lật đổ các tổ chức buôn bán, mại dâm
trẻ em.
Mặt khác, cần tố giác ngay khi phát hiện có sự xâm hại tình
dục ở trẻ em, phổ biến sâu rộng hơn nữa về quyền của trẻ em để chính
các trẻ nhận thức được tầm quan trọng và sự cấp thiết trong vấn đề bảo
vệ chính bản thân trước những cái xấu, độc hại. Đồng thời, gia đình và
xã hội cần trang bị kiến thức của trẻ em, khuyến khích trẻ tố cáo những
kẻ xâm hại. Tránh trường hợp trẻ em bị lạm dụng nhiều lần, nhiều năm
mà vẫn không bị phát giác. Gia đình cần quản lý con cái chặt chẽ hơn,
đặc biệt là người mẹ. Trong gia đình, người mẹ vừa là mẹ vừa là bạn
với con, việc quan tâm, gần gũi, quản lý chặt chẽ của mẹ sẽ giúp tạo ra

hàng rào bảo vệ con cái từ xa.
Đồng thời các tổ chức xã hội cần làm công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật, tránh tình trạng nhiều gia đình biết con mình bị xâm
hại nhưng không tố cáo tội phạm vì sợ chuyện riêng tư gia đình bị nhiều
người biết, sợ xấu hổ, sợ rắc rối nên họ im lặng cho êm chuyện. Những
suy nghĩ thiếu đúng đắn đó vô hình đã trở thành tấm lá chắn che đậy tội
ác của những tên yêu râu xanh đội lốt những bậc làm cha, làm chú.
Đào tạo cán bộ cơ sở có trình độ, có năng lực, có tâm huyết
với công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em để làm cầu nối cung cấp các dịch
vụ, thực hiện các chính sách an sinh xã hội đối với trẻ em nhất là trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt. Xây dựng đội ngũ cán bộ tham vấn chuyên
nghiệp, có thể tham vấn đặc biệt cho nạn nhân bị lạm dụng/bóc lột tình


dục, hỗ trợ các em phục hồi cả thể chất lẫn tinh thần. Tăng cường công
tác kiểm tra, đánh giá, phối kết hợp giữa các ngành, đoàn thể có liên
quan trong việc triển khai thực hiện các mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ
em.

Như vậy, để hạn chế tình trạng tội phạm xâm hại tình dục trẻ em ngày
càng gia tăng với những hậu quả khôn lường chúng ta cần tiến hành xây
dựng và hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng các biện pháp tuyên
truyền, giáo dục ý thức cảnh giác, phát hiện sớm, tự phòng ngừa các
hoạt động xâm hại tình dục và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết là một
biện pháp cần làm. Khi bị xâm hại tình dục, nạn nhân và gia đình phải
trình báo ngay cho cơ quan công an để được hỗ trợ tư vấn, giải quyết
tránh để lọt tội phạm.




×