ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN
---------------------
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN
---------------------
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
ĐẶC SẮC THỂ TÀI YÊU NGÔN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN
ĐẶC SẮC THỂ TÀI YÊU NGÔN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. VŨ TUẤN ANH
Thái Nguyên, năm 2007
Thái Nguyên, năm 2007
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
Phần mở đầu
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
I. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1
1. Nguyễn Tuân là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại.Sự
II. Lịch sử vấn đề
2
nghiệp sáng tác của ông trải ra trên hai chặng đường: Trước năm 1945 ông
III. Phạm vi nghiên cứu
3
là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu và sau năm 1945 ông đứng trong đội ngũ
IV. Phương pháp nghiên cứu
4
V. Đóng góp của luận văn
những nhà văn gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Sáng tác của Nguyễn Tuân
4
VI. Cấu trúc luận văn
4
Nội dung
Chương 1: Yêu ngôn - một thế giới nghệ thuật huyền kỳ
5
1.1. Một cõi riêng trong văn chương Nguyễn Tuân và văn chương
đương thời
5
1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù
thuộc nhiểu thể loại: tùy bút, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, phóng sự,
tự truyện, bút kí phê bình… Về truyện ngắn ông là cây bút xuất sắc. Vang
bóng một thời của ông được đánh giá như một tác phẩm “gần đạt đến độ
toàn thiện, toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Trong truyện ngắn Nguyễn Tuân tồn
tại một thể tài – thể tài yêu ngôn như cách ông đã từng định danh cho nó.
14
Đây là một thể tài đặc biệt, in đậm dấu vết sáng tạo của Nguyễn Tuân. Sau
19
một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới và từ những năm chín
2.1. Không gian - thời gian nghệ thuật của Yêu ngôn
19
mươi thế kỉ XX mới được tập hợp đầy đủ, được nhìn nhận như một mảng
2.1.1. Không gian nghệ thuật
19
2.1.2. Thời gian nghệ thuật
33
2.2. Thế giới nhân vật với số phận dị biệt và tính cách phi thường
37
Chương 2: Đặc trƣng thi pháp Yêu ngôn
tác phẩm có những nét riêng độc đáo trong toàn bộ sáng tác của ông.
2. Yếu tố kì ảo, chất huyền kì đang là một hướng đi, một hướng tìm tòi
2.3. Phương thức nghệ thuật tạo dựng thế giới Yêu ngôn
54
tạo nên những đột phá quan trọng của nghệ thuật tự sự đương đại. Chất kì ảo
2.3.1. Nghệ thuật trần thuật
54
quái dị từng làm nên một dòng truyện đặc sắc nửa đầu thế kỉ XX trong đó có
2.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật
66
Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đang được tiếp tục dòng chảy của nó vào văn
2.3.3. Giọng điệu
74
học đương đại, tạo nên sự khởi sắc của văn xuôi hôm nay.
Chương 3: Sự dung hợp, thăng hoa của cái đẹp và những giá trị
nhân bản
77
3. Chọn đề tài “ Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn
Tuân” luận văn mong muốn làm rõ một thế giới nghệ thuật độc đáo trong
3.1. Cái đẹp và những giá trị văn hoá
78
3.2. Triết lý nhân sinh, chiều sâu nhân bản
85
Phần kết luận
96
Thƣ mục tham khảo
100
văn Nguyễn Tuân, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, vốn được nhìn nhận chủ yếu ở thể tùy
bút cùng với thành tựu đỉnh cao của tập truyện ngắn Vang bóng một thời.
Đồng thời nghiên cứu Yêu ngôn cũng là để làm rõ những giá trị, những kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nghiệm và truyền thống của loại “truyện kỳ ảo” mà cây bút bậc thầy Nguyễn
hiện đại – dư ba của truyện truyền kì truyền thống (Bùi Thị Thiên Thai),
Tuân đã từng khai phá và sáng tạo đang tiếp tục được vận dụng trong văn
Nghiên cứu văn bản và đánh giá tác phẩm truyền kì Việt Nam (Phạm Văn
học đương đại, và cũng qua đó hiểu thêm và đánh giá đúng hướng đi này
Thắm), Huyền thoại , một điều thú vị (Trần Duy Châu) , Phương thức huyền
của văn học đương đại .
thoại trong văn học Việt Nam từ sau 1975 (Lê Thị Hường), Truyện thần linh
4. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên
cứu toàn diện hoặc nhiều khía cảnh nội dung, nghệ thuật tác phẩm Nguyễn
ma quái và vấn đề giáo dục con người (Vũ Ngọc Khánh), Ma và vô thức –
bức tranh sáng tối của hương hồn (Trần Thanh Ngoạn).
Tuân: quan điểm nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu,
Từ trước 1945, Nguyễn Tuân đã dự định in Yêu ngôn, một tuyển tập
đặc trưng kí, tùy bút. Tuy vậy, mảng truyện Yêu ngôn của Nguyễn Tuân cho
những đoản thiên có tính huyền bí nhưng chưa kịp làm. Nhiều năm sau khi
đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ như một chỉnh
Nguyễn Tuân qua đời, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm, giới
thể, một thể tài riêng với các khía cạnh nội dung và nghệ thuật có tính đặc
thiệu và cho in Yêu ngôn (Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1998).
thù. Do vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào hướng
Sau khi Yêu ngôn được xuất bản, đã có một vài bài của các nhà nghiên
cứu, phê bình đề cập đến tác phẩm: Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Như Mai,
khảo sát còn mới mẻ này.
Vương Trí Nhàn, Thụy Khuê, Trương Chính...ở những bài viết này thường
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Trong dòng chảy văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại,
yếu tố kì ảo đã góp phần tạo nên những nét độc đáo trong diện mạo văn học.
Trong giai đoạn 1930 – 1945 gắn liền với thực tiễn sáng tạo, vấn đề
truyện truyền kì, yếu tố kì ảo đã được đề cập đến trong phê bình văn học.
Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã có các bài phê bình tác giả, tác
phẩm Lan Khai , Tchya , Nguyễn Tuân…
Trong khoảng mười năm trở lại đây, song song với sự phát triển chất
kì ảo, truyền kỳ trong văn học đương đại cùng với việc in lại các truyện
tập trung nói về những nét độc đáo của một số truyện mà chưa có sự đánh
giá khái quát về toàn bộ những sáng tác có tính chất yêu ngôn của Nguyễn
Tuân. Lời giới thiệu Yêu ngôn của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng
chỉ dừng lại ở chỗ phác họa diện mạo cơ bản của yêu ngôn. Một số bài viết
của các nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài cũng chú ý tới một số vấn
đề trong Yêu ngôn. Nhìn chung mỗi người mỗi thế mạnh riêng, góp phần
dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nhưng
chưa hoàn toàn tập trung vào việc xem Yêu ngôn như một thế giới nghệ
thuật đặc thù trong văn chương Nguyễn Tuân.
truyền kì, ma quái (Đêm bướm ma, Chuyến xe ma quái, Hồn hoa trở lại,
Truyện không nên đọc vào lúc giao thừa…) đã có các bài giới thiệu, phê
bình loại truyện này.
Song song với sự phát triển chất kì ảo, truyền kì trong văn học
đương đại, đã có nhiều bài phê bình, luận án đề cập đến vấn đề này. Có thể
kể các bài viết chuyên sâu, các luận án đề cập đến vấn đề này: Truyện kì ảo
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Tập Yêu ngôn do Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm tuyển chọn-nhà xuất
bản Hội nhà văn, 1998, gồm tám truyện: Khoa thi cuối cùng, Trên
đỉnh non Tản, Đới roi, Xác ngọc lam, Rượu bệnh, Lửa nến trong
tranh, Loạn âm, Tâm sự của nước độc (tức Chùa Đàn).
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
- Một số truyện ngắn khác của Nguyễn Tuân gần gũi với Yêu ngôn (Tóc
chị Hoài, Bữa rượu máu, Vườn xuân lan tạ chủ…)
- Một số truyện của các tác giả khác thuộc thể loại này: Thần Hổ, Ai
hát giữa rừng khuya (Tchya), Suối đàn (Lan Khai)…
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thi pháp học thể loại:
Vận dụng thi pháp thể loại (các yếu tố không gian- thời gian nghệ thuật,
nhân vật, nghệ thuật và hình thức tự sự), để làm sáng tỏ thể tài Yêu ngôn.
2. Phương pháp phân tích tác phẩm:
Nhằm làm rõ nội dung và nghệ thuật trong các truyện Yêu ngôn
3. Phương pháp hệ thống:
Xem xét thể tài yêu ngôn như một hệ thống hoàn chỉnh với những đặc
điểm riêng như một thế giới nghệ thuật đặc thù trong văn Nguyễn Tuân.
4. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Các truyện Yêu ngôn sẽ được nhìn nhận và đánh giá trong sự so sánh
đối chiếu với nhau và với các loại truyện kỳ ảo đương thời của các tác giả
đương thời để làm rõ những đặc sắc riêng trong tương quan chung.
V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chương 1:
YÊU NGÔN - MỘT THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT HUYỀN KỲ
Huyền kì, kì ảo là những điều lạ lùng, huyền bí mà đặc trưng của
nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người
đọc. Vấn đề này đã hiện diện trong văn học nhân loại tự cổ sơ và “không hề
chết đi khi bước sang thế kỉ XX” [53, tr25 ].
Trong văn học hiện đại, kì ảo được hiểu như một phạm trù tư duy
nghệ thuật, một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh cuộc sống
nhằm mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định.
Thế giới nghệ thuật là “sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính, có
thể cảm thấy được của người nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong
chất liệu, vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của
mọi yếu tố đang dạng trong tác phẩm” [53, tr28]. Với tư cách là thủ pháp
nghệ thuật chủ đạo, yếu tố huyền kì, kì ảo đã tác động đến mọi phương diện
của truyện, mang lại cho nó những đặc trưng riêng tạo nên một thế giới nghệ
- Làm rõ đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của loại truyện yêu ngôn
trong sáng tác của Nguyễn Tuân, xác định những giá trị của nó trong sự
phát triển loại truyện truyền kì hiện đại.
- Từ việc khẳng định những đặc sắc của thể tài yêu ngôn trong sáng tác
của Nguyễn Tuân, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà văn
như một truyền thống hòa nhập vào văn xuôi đương đại.
VI. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
riêng, làm nên sự phong phú, đa dạng của đời sống văn học. Yêu ngôn của
Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài những đặc điểm ấy.
1.1. Một cõi riêng trong văn chƣơng Nguyễn Tuân và văn chƣơng
đƣơng thời
1.1.1. Tính riêng biệt độc đáo của Yêu ngôn trong loại truyện
truyền kì, ma quái đương thời
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được viết
theo 3 chương sau:
Yếu tố kì ảo không hề xa lạ với văn học Việt Nam từ xa xưa của
lịch sử cho tới bây giờ. Ngay từ lúc mới hiện diện, văn học Việt Nam đã gắn
Chương 1: Yêu ngôn – Một thế giới nghệ thuật huyền kỳ.
Chương 2: Đặc trưng thi pháp yêu ngôn.
không có kì ảo thì không thể có truyện dân gian vậy” [50, tr55]. Khả năng
Chương 3: Sự thăng hoa của cái đẹp và những giá trị nhân bản.
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
liền với kì ảo: “Kì ảo là một trong những đặc trưng của truyện dân gian,
tiềm tàng của thần thoại, cổ tích là dưỡng chất nuôi dưỡng nền văn hóa hiện
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đại. Với tư cách là “văn hóa gốc”, nguồn mạch dân gian bất tận suốt bao đời
Đỗ Huy Nhiệm, “Kim Ba chí dị” của Kim Ba, “Suối Đàn” và “Truyện
vẫn không ngừng nghỉ bồi đắp cho dòng chảy của văn học, đồng thời có vai
đường rừng” của Lan Khai…
trò quan trọng trong việc tạo nên tâm thức cộng đồng dân tộc: gần gũi và có
Truyện của Lan Khai chủ yếu hấp dẫn người đọc bằng màu sắc xứ
xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, biểu hiện thế giới quan thần
lạ phương xa, tạo cảm giác ghê rợn đối với người miền xuôi bằng một
linh, tư duy huyền thoại trong quan điểm của người sáng tác văn học mọi
không gian miền núi là rừng rú, là chốn sơn cùng thủy tận. Trong “Nhà văn
thời đại. Bên cạnh đó, đặc điểm của một xã hội nông nghiệp phương Đông
hiện đại”, Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Mặc dầu Lan Khai viết nhiều loại, từ
là nơi “tràn đầy những màu sắc lãng mạn thần kì”, cũng là môi trường thuận
trước đến nay, ông chỉ đáng được nổi tiếng về tiểu thuyết đường rừng hơn
lợi để yếu tố kì ảo này sinh, trường tồn. Những truyện kì lạ, hoang tưởng
cả” [47, tr298]. Những truyện của ông đều là những truyện khác thường,
còn được nâng cánh bởi cái nhìn thế giới với một niềm tin hồn nhiên là có
nếu không phải là hoang đường thì cũng là những việc, những người không
sự tương thông, tương giao giữa người sống và người chết, giữa thế giới
phải hàng ngày trông thấy. Chủ ý của nhà văn là “kích thích sự tò mò, trí
thực tồn và thế giới siêu nhiên. Người ta xem những chuyện quái dị, hoang
tưởng tượng của người đọc”, “khiến người ta ghê sợ về những cái bí hiểm
đường là có thật. Niềm tin mang tính chât tâm linh vào những lực lượng
của rừng núi”.
thần bí, siêu nhiên này đã góp phần tạo thành dòng tín ngưỡng ghi dấu ấn
Đi vào chốn non cao rừng thẳm của Lan Khai, ta gặp một thế giới
sâu đậm vào mọi hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động sáng tạo
hoang sơ kì thú của Suối Đàn – một dòng suối thơ mộng như mối tình của
nghệ thuật. Nghĩa là trong mỗi con người Việt Nam hiện đại vẫn tiềm ẩn
chàng trai thành phố với cô sơn nữ . Mối tình đẹp nhưng dang dở , người
một tâm hồn phương Đông cổ xưa, đây chính là cơ sở tạo ra “tầm đón đợi”
con gái chết âm thầm như bông hoa héo rũ, trong cái vắng lặng của núi
thuận lợi đối với bộ phận văn học tiếp cận cuộc sống bằng những yếu tố kì
rừng, để từ đó trong nỗi niềm thương nhớ não nùng, chàng trai luôn nghe
lạ, siêu nhiên nói trên.
thấy trong âm thanh của suối, của rừng có khúc đàn ai oán, phảng phất nỗi
Thời kì văn học 1930 – 1945 vẫn tiếp tục dòng chảy kì ảo của văn
niềm oan ức của người trinh nữ rừng xanh…
học truyền thống, với xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, với
Nếu Suối Đàn khiến người đọc tràn đầy cảm xúc về tâm hồn ngây
những câu chuyện li kì, ma quái. Trong văn chương hiện đại đã hình thành
thơ chất phác của người sơn nữ bao nhiêu, thì trong Truyện đường rừng Lan
một kiểu tư duy nghệ thuật về cuộc sống không phải bằng chất liệu hiện
Khai lại làm cho người ta ghê sợ về những cái bí hiểm của rừng núi bấy
thực quen thuộc mà bằng cái kì ảo, hư ảo. Mỗi nhà văn mỗi vẻ, bằng tài
nhiêu. Đó là chốn ma thiêng nước độc, người mandi còn ở lẫn với thú dữ và
năng và sự sáng tạo của mình đã làm nên sự phong phú, đa dạng ở thể tài
với… ma: nào là “Ma thuồng luồng”, nào là “Người hóa hổ”, nào là “Gò
này. Có thể kể tên những tác phẩm nổi bật: “Ba hồi kinh dị”; “Trại Bồ tùng
thần”,…, chỉ những cái tên đọc lên đã gợi sự rùng rợn, kì quái.
linh” của Thế Lữ , “Ai hát giữa rừng khuya” của Tchya , “Tiền kiếp” của
Nếu Lan Khai “đưa người ta vào tận rừng thẳm, dắt người ta một
cách thân mật vào các gia đình Thổ Mán, và cho người ta được thấy những
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tâm tính kì dị” [47, tr 298] thì truyện của Tchya Đái Đức Tuấn lại hấp dẫn
có số bị hổ vồ vào nanh vuốt thần Hổ để họ được sống cái đời ma độc lập,
bằng sự kì quái, ghê rợn với cốt truyện thần bí, phi thường: “Cái lối truyền
gần gụi với gia đình, với họ mạc.
kì của ông là một lối thần quái, một lối quái đản như những truyện trong
Cả truyện Thần Hổ và Ai hát giữa rừng khuya đều thuộc loại
“Liêu trai” trong “Truyền kì mạn lục”. Cái xã hội ma và xã hội người trong
truyện ma quái, truyền kì được xây dựng và hư cấu trên những mẩu chuyện
tiểu thuyết của ông chỉ là một …”[47, 319].
truyền kì ở miền núi. “Những tình tiết li kì trần tục xen lẫn sắc thái hoang
Thần Hổ và Ai hát giữa rừng khuya của Tchya chính là những tập
đường thần thoại, tao nên một câu chuyện kích thích mạnh trí tưởng tượng
“Liêu trai Việt Nam”, những tập viết riêng về vài loài yêu quái ở đường
và giác quan người đọc. Đằng sau câu chuyện li kì, bí hiểm và ghê rợn về
rừng đất Việt chứ không phải về tất cả các loài yêu ma như của Bồ Tùng
mối quan hệ người – mãnh thú, người – ma là dấu vết của một thế giới quan
Linh. Cái giống ma ở hai cuốn truyện thần quái của Tchya là ma trành và cái
thơ mộng và mông muội còn lưu giữ lại”. Tất cả đã tạo nên sự hấp dẫn riêng
loại thần trong đó là thần Hổ , những con hổ đã ăn thịt hàng trăm người,
trong những truyện đường rừng của Tchya.
trong tai nổi lên hàng trăm tia máu đỏ, nghe được ngàn dặm. Vị thần Hổ đây
Khác với truyện của Lan Khai, của Tchya hấp dẫn người đọc bằng
là con hổ xám, hổ vàng, khi họp hội đồng cơ mật dưới gốc cây đại thụ, vị
lối truyện đường rừng hoang sơ kì thú và bí hiểm, truyện của Nguyễn Tuân
thần Hổ thường trút bỏ bộ lông, biến thành một ông già đầu râu tóc bạc
lại cuốn hút độc giả bằng những nét lãng mạn riêng, giàu chất thẩm mĩ,
đường bệ. Bị hổ vồ là có số, những kẻ bị giống mãnh thú ấy ăn thịt là đã có
chất văn hóa, nhân bản: “Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng,
tên trong quyển sổ do thần Hổ giữ - định mệnh ấy không sao trốn thoát
cả về lối văn lẫn về tư tưởng” [47, tr 415]. Yêu ngôn là tác phẩm như thế.
được. Cái họ Đèo trong Thần Hổ mà tất cả con cháu phải làm mồi cho hổ
1.1.2. Một thể tài độc đáo trong toàn bộ sáng tác Nguyễn Tuân.
chỉ vì ông tổ của họ đã dám phạm đến một con hổ già, làm nó chột một mắt
Vang bóng một thời là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân được Vũ
và tuyệt đường duy trì nòi giống. Sự báo thù thật là ghê gớm, tất cả con cháu
Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ” [47, tr
họ Đèo khi đã sa vào nanh vuốt hổ, người nào cũng bị móc mất một mắt và
415].Vang bóng một thời khơi lại đống tro tàn của một quá khứ chưa xa, tác
cắn xé mất hạ bộ. Thần Hổ ra oai và gieo vạ cho cả dòng giống những người
phẩm thể hiện sự nuối tiếc cái đẹp với những con người, lối sống, thú chơi
đã dám phạm đến thần.
của một thời. Đó là các cụ nghè, cụ cử, cụ tú, lớp nho sĩ cuối mùa với những
Bọn ma trành phải hầu hạ thần Hổ rất khổ sở. “Ma trành là những
sinh hoạt cầu kì, những thú chơi tiêu dao, nhàn tản và qua đó tái hiện nhiều
thứ ma bất đắc kì tử, hoặc bị hổ ăn, hoặc bị dìm đuối hoặc vì thắt cổ, hoặc vì
nét văn hóa của người Việt. Ở tập truyện ngắn này, người ta đã thấy rõ tài
bị chẹt xe… Chết như thế thì linh hồn vất vưởng bị đầy đọa không đi đầu
năng và phong cách của Nguyễn Tuân: phóng túng-tài hoa-uyên bác.
thai được mà không được tự do. Nếu muốn thoát khỏi vòng kìm hãm, cũng
Đọc Yêu ngôn, có thể nhận thấy những nét quen thuộc, gần gũi
phải tìm kẻ thế cho mình. Nếu không thì mãi mãi, mình sẽ phải làm ma
trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân mà ta đã gặp trong Vang bóng
trành, đói khát khổ sở”. Muốn có kẻ thế chân mình, họ phải run rủi những kẻ
một thời và những tác phẩm về sau này. Vẫn là một Nguyễn Tuân nhạy cảm
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
với cái đẹp và nhìn sự vật nghiêng về góc độ thẩm mĩ, vẫn là những con
tận độ cá tính của mình” [63, tr 9]. Nhà văn tìm cách vượt, phóng thoát hoàn
người tài hoa nghệ sĩ như thuở một thời vang bóng: những người thợ mộc
toàn khỏi hiện thực bằng sự đẩy xa đến cùng sức tưởng tượng và cảm hứng
Chàng Thôn với đôi tay tài nghệ được chúa Ngàn Thiêng vời lên sửa đền ở
lãng mạn. Ông tìm đến một thế giới khác, một hiện thực khác để sống mãnh
chốn non cao thần tiên ( Trên đỉnh non Tản ); một Bá Nhỡ - kẻ dám đi đến
liệt hơn, thế giới của cõi âm, cõi ma, thế giới của Yêu ngôn.
tận cùng của nghệ thuật, dùng mạng mình để đổi lấy tiếng đàn đạt tới tuyệt
Không phải đến Yêu ngôn mà ngay trong một số truyện khác của Nguyễn
đỉnh nghệ thuật (Tâm sự của nước độc – Chùa Đàn ); một Bố Ô – vua lưu
Tuân đã mang màu sắc huyền kì. Trong tập Vang bóng một thời, các truyện
linh sống trong rượu và chết cũng trong rượu ( Rượu bệnh – Bố Ô )… Nếu
Trên đỉnh non Tản và Khoa thi cuối cùng ( Báo oán ) được tuyển chọn vào Yêu
trong Vang bóng một thời, ta gặp những nếp sinh hoạt và thú chơi cầu kì mà
ngôn bởi “có màu sắc huyền kì, ma quái” [3 ,tr 917]. Bên cạnh đó, các truyện
thanh đạm, tao nhã: uống trà, uống rượu Thạch Lan Hương, đánh thơ, thả
Tóc chị Hoài, Chém treo ngành, Vườn xuân lan tạ chủ đã có một chút màu sắc
thơ, chơi chữ… thì trong Yêu ngôn, vẫn là những lối sống, những thú chơi
kì ảo phi thường. Tóc chị Hoài (1942) “đứng riêng như một thử nghiệm tiểu
cầu kì tao nhã ấy: một người chủ đồn điền nhưng lại có cái “cốt tài tử” say
thuyết mới của Nguyễn Tuân những năm 1940” [54, tr7]. Chị Hoài là “một
mê những bức cổ họa, sẵn sàng bỏ ra rất nhiểu tiền để có được bức họa vẽ
nhân vật hư cấu hư không, chị có mà không, chị không mà có”. Như tất cả
tướng Hàn Kỳ ngồi đọc binh thư bên ngọn bạch lạp; anh em ông Đầu xứ
những nhân vật tiểu thuyết thông thường, “chị Hoài là một người chị tôi
Anh, Đầu xứ Em nổi danh về tài học vẫn mải miết với nghiệp đèn sách thi
mượn của cuộc đời bừa bộn những oan trái”, chị Hoài cộng hưởng những ảo
cử dẫu biết rằng có thể bị hồn ma báo oán giữa trường thi (Khoa thi cuối
ảnh đớn đau của người nghệ sĩ. “Chị Hoài, ảo ảnh vô hình, chị không có thật
cùng )…
nhưng hồn chị, tóc chị là thật. Chỉ có tôi đang nói chuyện với một mớ tóc
Đọc Yêu ngôn, vẫn gặp những cảnh sắc, những đồ vật quen thuộc
mây. Chỉ có hai ngón tay chị Hoài đang nói chuyện với những sợi chỉ tơ
của một thời: vùng Sơn Nam hạ mùa thi cử hoa hòe nở vàng ( Khoa thi cuối
thâm một mớ tóc xõa. Gian nhà có hai người, lặng mà không vắng. Thế rồi
cùng ), những cửa ô thân thuộc của chốn kinh kì ( Rượu bệnh ), những roi
trong cái hiu quạnh tay đôi ấy, khe khẽ nổi lên giọng kể chuyện Nhị Độ
chầu, đàn đáy, tiếng tơ tiếng trúc (Chùa Đàn)… có nghĩa là vẫn là văn
Mai, khẽ một cách rất mơ hồ thủ thỉ. Lòng tôi vụt trở nên thương nhớ thăm
Nguyễn Tuân, kiến thức Nguyễn Tuân, mảnh hồn Nguyễn Tuân in hằn một
thẳm gấp mấy giọng hát u hoài… Trong giây phút, đặt sách vào lòng, tôi
dấu triện riêng không thể lẫn.
thấy nhộn nhạo trong lồng ngực và ước muốn được làm ngay cái anh chàng
Là con người luôn thèm khát những cảm giác mới lạ và mãnh liệt
Mai Sinh kia” [56, tr 657]. “Chất huyền ảo của Nguyễn Tuân bắt đầu từ đây,
“Tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say của rượu
từ mái tóc lãng mạn của chị Hoài, trước khi rẽ sang ngả kinh dị của yêu
tối tân hôn”, những cảm giác ấy “Nguyễn Tuân không thể tìm được trong
ngôn” [14, tr 8].
cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông trong cuộc sống hàng ngày, phải đi tìm
Ở Bữa rượu máu, tác giả đã vẽ một cảnh rùng rợn của pháp trường.
một thế giới khác để được sống mãnh liệt, nồng nàn, cuồng nhiệt, phát huy
Bát Lê, tay đao phủ có tài chém người rất ngọt đang luyện lại đường đao
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
“chém treo ngành” trong vườn chuối với những lời hát vừa dữ dội, vừa ai
tượng cơn gió lốc kết thúc tác phẩm như một lời cảnh báo, dự báo về một sự
oán:
báo oán: những kẻ đang gieo gió kia hãy coi chừng cái thủ cấp của chúng.
“Trời nổi cơn lốc
Tính ám dụ của hình tượng như ký thác kín đáo thái độ căm phẫn của nhà
Cảnh càng u sầu
văn đối với bọn thực dân thống trị.
…
Trong Vườn xuân lan tạ chủ [55, tr135] có một quan án Trần phong
Sống không thù nhau
lưu, chủ nhân Túy lan trang. Ông có một niềm vui thích đặc biệt, thường sai
Chết không oán nhau
cô con gái yêu – cô chiêu Tần – đi mua thứ “rượu khê” ở làng Vĩnh Trị,
…
vùng cất rượu ngon có tiếng, về “bón hoa”. Vị hưu quan già đã không quan
Hãy ngồi cho vững
tâm đến vóc xương khô, mà chỉ lo cho hoa trong thời loạn khi mà “một mai
Cho ngọt nhát đao
lũ người ô hợp tràn đến”. Bên cạnh quan án là cậu ấm Hai giữa buổi loạn li
Hỡi hồn!
mà chỉ biết có ngón đàn, hiểu có hồn hoa, “tâm người tài tử, chọn lầm thế kỉ,
Hỡi quỷ không đầu!
buồn, tủi, cực đến dường nào”. Cảnh cô chiêu Tần mỗi sớm chèo thuyền đi
Bài hát phù thủy, chiêu hồn, giã oán, phân trần với chính mình, với
oan hồn, với trời đất.
lấy rượu trên sông Mã, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Cả ba tạo nên một
đời sống thanh khiết thoát tục. Nhưng rồi kinh hoàng xảy đến: Túy lan trang
Rồi cảnh pháp trường, Bát Lê mặc áo trắng, thắt khăn điều, khai
bị đốt cháy, cô chiêu Tần bị thuyền cướp mang đi, quan án Trần phẫn uất
đao hành quyết như một nghệ nhân múa một vũ khúc thảm khốc. Trảm xong
mà chết, và “giống cỏ quý kia cũng quyết tạ theo tri kỉ, thề không ở lại với
mười hai người, áo không vấy máu. “Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba
thế gian”. Giai nhân khuất bóng, thuật cất “rượu khê” bên Vĩnh Trị cũng
tiếng chiêng. Dứt mỗi hồi chiêng mớm thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một
thất truyền và “làng men” mất đi một phong vị. Lan đã biết tạ chủ, các loài
thể xác. Tùng! Bili! Bili!”. Cảnh hành hình dữ dội đã diễn ra, nhà văn đã kết
cây cỏ khác ở Túy lan trang cũng “đều ủ rũ để tang người thiên cổ”. Vườn
thúc bằng một bầu không khí ma quái u hiển bao trùm cả pháp trường, khí
xuân lan tạ chủ với không khí thần kì, thoát tục vài năm sau sẽ có dịp biểu
lạnh như thấm vào hơi văn: “Lúc quan công sứ ra về, khi lướt qua mười hai
lộ rõ hơn trong Yêu ngôn.
cái đầu lâu còn dính vào da cổ người chết quỳ, sân pháp trường sắp giải tán
Như vậy không phải đến Yêu ngôn, yếu tồ kì ảo mới xuất hiện
bỗng nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trận gió xoắn, giật, hút cát bụi
trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Trên cái đà có sẵn ấy, trí tưởng
lên xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang ra về. Cái mũ
tượng của ông đã đẩy xa hơn thành hẳn một thể tài – thể tài Yêu ngôn. Ông
trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lộn
đã đắm mình trong thế giới nghệ thuật mà mình sáng tạo nên và tạo được
mấy vòng. Mọi người liếc trộm hai quan thủ hiến và thì thào… Bấy giờ vào
những cảnh tượng kì thú, mê hoặc mà người đọc khó phân biệt được là âm
khoảng giữa giờ thân …”. Với lối viết “lạnh” Nguyễn Tuân sử dụng hình
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hay dương, là ma hay người… và đây chính là điều mới mẻ của Yêu ngôn so
với các tác phẩm khác của chính ông.
“Mặt đất sáng hơn nền trời. Cuộc tế trường như đang lắng chờ một
sự biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt
1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù:
khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn trên bàn tam sinh. Nền trời
Sự pha trộn, hòa lẫn thực và ảo, âm và dương… là những yếu tố cấu
phương Đông đáng lẽ đã phải hửng lên rồi. Thế mà ở đây chỉ rặt một thứ
thành phương thức tư duy nghệ thuật của Yêu ngôn.
mây đục đùn lên những hình quỷ Đông. Phía Tây, một cái cầu vồng cụt một
1.2.1. Phản ánh hiện thực không phải là sao chép hiện thực mà là
chân, tô lên tạo vật những màu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt. Trong cảnh
âm dương không chia biệt rõ, quan chánh chủ khảo trường Hà Nam hợp thi
sự sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm tạo ra hiện thực.
Hiện thực ở đây được hiểu không đồng nghĩa với tính có thậ, giống
khoa Mậu Ngọ đang tế cáo giời, đất, vua, thần và thánh, xuýt xoa khai xong
như thật. Điều này là một chân lý quen thuộc trong sáng tạo nghệ thuật.
tên, tuổi, quê, quán, ngài khấn to: “… Báo oán giả, tiên nhập ; báo ân giả,
Nhưng với cái nhìn huyền ảo, huyền hoặc thì khái niệm hiện thực ở đây
thứ nhập…”. “Một thứ gió u hiển thổi thốc vào bãi trường, nghe lào xào như
cũng trở nên vô bờ bến. Hiện thực, đặc biệt là trong cách tư duy huyền thoại
có tiếng các hồn oan hồn lành chen chúc và ùa vào choán chỗ. Những cây
được tạo nên bởi cái phóng túng của tưởng tượng. Ở đây cái huyễn hoặc, hư
nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết”. Với những cành huống ngược đời:
ảo không còn là yếu tố gây hoang mang cho người tiếp nhận mà trái lại càng
mặt đất sáng hơn nền trời ( lẽ ra mặt đất tối hơn ), gió không muốn thổi ( lẽ
kích thích trí tưởng tượng bay bổng của người đọc, tạo ra sự đa dạng, mới
ra là gió thổi ), sáp không lung lay ( lẽ ra là ngọn sáp lung lay ), khói bốc
mẻ cho tác phẩm văn học. Nó cho phép con người vi phạm các quy tắc của
thẳng ( lẽ ra là khói ngoằn ngoèo )… tác giả đã thể hiện một trạng thái bất
lý trí, nhân danh một thứ ánh sáng siêu việt không chỉ thuộc về tri thức mà
bình thường làm toát lên không khí dị thường, lạnh gáy với đám sĩ tử, với cả
còn thuộc về số mệnh. [67,755]. Việc xuất hiện cái ảo trên nền cái thực này
người đọc bởi không biết đó là cõi dương gian hay nơi âm thế? Không khí
cũng là nỗ lực khai thác tầng sâu của hiện thực, là một hình thức để người
ấy thật thích hợp để cho những hồn ma hiện về, rũ tóc mà báo oán những
đọc nhận thấy các chiều khác nhau của hiện thực. Nói cách khác, đây chính
oan khiên tiền kiếp.
là cách để nhà văn mở rộng biên độ phản ánh, chuyển tải một phạm vi đời
Trong Chùa Đàn nhân vật Mợ Lãnh không xuất hiện trực tiếp nhưng
sống khác lạ vào tác phẩm, đồng thời thể hiện một phía nào đó của niềm tin,
là đầu mối dẫn dắt cốt truyện. Mợ Lãnh là người vợ chết yểu của Lãnh Út –
của tâm hồn phía sau những gì đã nghe và thấy. Bằng trí tưởng tượng,
chủ trại. Lãnh Út, kẻ tài tử chỉ đam mê người vợ yêu, và khi nàng hóa người
Nguyễn Tuân đã tạo nên một thế giới siêu thực với những con người, những
thiên cổ bởi một tai nạn hoả xa - một công cụ của văn minh cơ khí, Lãnh Út
cảnh tượng khơi gợi những cảm giác mới lạ nơi người đọc. Đây là cái cảnh
không còn lẽ sống trở nên cuồng dại trong niềm thương nhớ và trở thành kẻ
chánh chủ khảo tế thi hương trong Khoa thi cuối cùng ( Báo oán ) mà các
thù của cơ khí văn minh. Hình ảnh còn lại của Mợ Lãnh chỉ là một bức tranh
oan hồn được mời vào trường thi để trả ân, báo oán trước thí sinh:
đẹp và buồn “một người đàn bà áo trắng đang ngồi chép sách trên một cái
đôn màu cốm, bên một khung cửa sổ có mấy tàu lá chuối già lọt vào. Màu
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xanh tái của tranh gia thêm xa lạnh vào khí buồng rộng quạnh và đổ thêm
giai đoạn văn học. Đó là cố gắng không mệt mỏi để nhận thức thế giới của
buồn lên vẻ nhớ vợ của người ngắm tranh”.
con người.
Mợ Lãnh là người hay ma? Khó có thể gọi tên cho chính xác. Nàng
Mạch truyện Yêu ngôn đã hình thành trong văn Nguyễn Tuân từ khá
không tên, chỉ để lại tập thơ di cảo và bóng hình kiều mĩ trên bức họa tuyệt
sớm: “vào khoảng năm 1943 , người ta thấy xuất hiện trên tờ Thanh Nghị và
vời. Phải chăng nàng là thơ, là hoa đang sống trong vườn địa đàng thuở
Trung Bắc chủ nhật một số đoản thiên của Nguyễn Tuân viết theo lối Liêu
hồng hoang mê thảo?
Trai của Bồ Tùng Linh. Toàn là những truyện ma quỷ hết sức kì quái hoang
Sự đan xen mộng – thực, mộng – tưởng tượng, mộng – ma trong
đường. Cùng một lúc, cũng trên những tờ báo ấy, người ta thấy quảng cáo
Yêu ngôn đã tạo thành một vũ trụ âm dương không ngăn cách, ma chính là
một đầu sách của Nguyễn Tuân có tên là Yêu ngôn” [63, tr6]. Có thể nói
người, ma ăn ở với người…Tất cả những yếu tố này là điều mới mẻ của Yêu
đây là một thể tài đặc biệt, và lối định danh cho thể tài này cũng in dấu
ngôn tạo nên sức hấp dẫn biến ảo dị kì.
“bản quyền” riêng của nhà văn. Từ trước 1945, Nguyễn Tuân đã dự định in
1.2.2. Hiện thực còn đƣợc tạo nên thông qua lăng kính của huyền kì:
những đoản thiên huyền bí, kỳ ảo và ma quái ấy nhưng chưa kịp làm và sau
Truyền kỳ, kỳ ảo là những điều lạ lùng, huyền bí mà đặc trưng của
một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới. Nhiều năm sau khi
nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người
Nguyễn Tuân qua đời, Yêu ngôn mới có dịp xuất hiện như một tác phẩm
đọc. Vấn đề này đã hiện diện trong văn học nhân loại tự cổ sơ và “không hề
trọn vẹn, một chân dung thể tài hoàn chỉnh với công phu sưu tầm, biên soạn,
chết đi khi bước sang thế kỉ XX”.
giới thiệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, nhà xuất bản Hội nhà
Trong văn học hiện đại, kì ảo được hiểu như là một phạm trù tư
văn, 1998.
duy nghệ thuật, một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh cuộc
Như vậy, hiện thực trong Yêu ngôn là một hiện thực khác, một thế
sống nhằm mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định. Cội
giới khác – một thế giới vừa thực vừa ảo, cõi âm hòa vào cõi dương. Ở thế
nguồn của sự tưởng tượng li kì vẫn là những điều hiện thực của thế giới này.
giới ấy toàn là những chuyện kì quái, rùng rợn. Một kẻ nghiện rượu đến nỗi
Nhà văn sử dụng yếu tố kì ảo để “lạ hóa” trạng thái hiện thực, đôi khi xáo
cả thân xác biến thành một khối men bốc lửa: “Ngọn lửa xanh lè vờn lấy
trộn hiện thực để kích thích, mở rộng trí tưởng tượng của người đọc. Nhờ
mình ông già đang say mềm. Xác Bố Ô nứt đến đâu là mùi thịt thui ấy thơm
những đặc điểm trên đây, mỗi tác phẩm kì ảo xuất hiện ở từng giai đoạn
lừng như mùi cá mực nướng bằng rượu không có chút gì là hôi khét cả. Và
khác nhau của lịch sử đều có được khuôn mặt riêng dù có những điểm tương
lúc mà lửa đã hoại xong cái xác kia thì cỗ xương ấy bệch ra như thạch cao ải
đồng nhất định xuất phát từ đặc trưng thể loại. Cũng chính những đặc trưng
vụn trông trắng nhỏ không khác gì thứ bột để luyện những hòn men. Ngửi
này đã tạo ra sự gần gũi nhất định giữa các nền văn học kì ảo trên thế giới
cái vụn xương vô tư ấy, lại thấy thơm và ngây ngất nữa” (Rượu bệnh ).
dù mảnh đất sinh thành và phát triển của chúng không hoàn toàn đồng nhất.
Văn học huyền kì, kì ảo là bông hoa lạ mọc lên trong tất cả các dòng, các
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đó là một cái chết khác thường, chết rượu, chết cháy, xác cháy
trong hơi rượu, cũng thơm, cũng ngông ngạo như người.
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cảnh đánh cây gạo cổ thụ ở Suối Vầu (Chùa Đàn ) cũng chẳng
những điều ông tin như thế thật và nhìn thấy như thế thật. Dưới góc độ ấy
khác gì một cảnh trảm tấu khiến người ta rợn tóc gáy. “Cây gạo xiêu dần
mọi vật cho ta cái nhìn khác, là một thứ “lửa nến trong tranh” lung linh, kì
xuống rồi vật mạnh xuống như một kẻ chiến tranh bị trúng độc kế ở mặt
ảo hơn- một thế giới huyền kì.
trận, làm tung bắn lên những thân hình người đang oằn oại trên những
đoạn luồng già dùng làm bẫy cắm chèn vào kẽ gốc. Suối Vầu tung nước.
Rừng Vầu vang lên một tiếng quật gốc già. Đầu rễ cái gốc gạo nhựa rỉ tuôn
tợ máu phun”.
Chương 2
ĐẶC TRƢNG THI PHÁP YÊU NGÔN
Đọc Yêu ngôn người đọc như bị mê hoặc, bị cuốn hút vào những
cảnh, những người kì ảo. Một cây dó cổ thụ thành tinh, có người con gái áo
2.1. Không gian – thời gian nghệ thuật của Yêu ngôn
chàm từ gốc cây đi ra dạo chơi thơ thẩn trong rừng và cất tiếng hát “u hiển”,
2.1.1. Không gian nghệ thuật.
giọng hát khi thì “bi tráng khê nồng của người khách hiệp gặp đường cùng”,
Trong sáng tác văn học, không gian nghệ thuật như là “một phương
khi thì “trong trẻo như pha lê và vui như tiếng thông reo giữa rừng nổi gió”,
thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư
lúc lại “rờn rợn như lối ma Hời đưa võng ru con”. Cô Dó ấy – vị Thần Dó –
tưởng thẩm mĩ ” (Trần Đình Sử). Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại
quê ở thượng ngàn, trót yêu người họ Chu làm giấy, nàng theo chồng xuống
của thế giới nghệ thuật. Không có hình tượng nghệ thuật nào không có
trung châu, ngày ẩn hồn trong phiến đá đêm trở lại làm người, giúp chồng
không gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó. Không
nàng thổi cho giấy dó một linh hồn…
gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện con
Một người thiếp tài hoa bị phụ bạc mà hiện hồn báo oán giữa
người và thể hiện một quan niêm nhất định về cuộc sống.
trường thi (Khoa thi cuối cùng ), một hồn ma nghệ sĩ còn nặng lòng trần
Nguyễn Tuân là nhà văn của những không gian phong phú: “Văn
luôn tìm cơ hội bằng mọi giá để được tái sinh ( Chùa Đàn )… Tất cả những
xuôi nghệ thuật của Nguyễn Tuân thường chứa đựng những hình tượng
không gian, những cảnh vật, con người ấy đều huyễn hoặc phi thực. Nguyễn
không gian nghệ thuật đa dạng, những mô hình không gian đặc sắc mang mĩ
Tuân có ý thức gia công nhiều vào cái phía thần kì, quái đản của nhân vật,
quan độc đáo của nhà văn” [11, tr 129]. Trong Yêu ngôn, yếu tố kì ảo đã chi
cảnh vật, tình tiết, chi tiết, tạo nên không khí ma quái của truyện. Để viết
phối trực tiếp việc xây dựng không gian nghệ thuật, đã khắc họa nổi bật
được những trang như thế, Nguyễn Tuân phải thực sự sống với thế giới nghệ
những hình tượng không gian sau đây.
thuật mà mình tạo nên, sống thật sự với những hồn ma kia, những cảnh vật
2.1.1.1. Không gian quá vãng.
huyền hồ kia để quan sát, cảm xúc và ngẫm nghĩ. Nhờ thế ông đã có thể tạo
Cũng như trong Vang bóng một thời, không gian quá khứ, không
ra được những cảnh tượng mà người đọc khó phân biệt được là âm hay
gian của một thời vang bóng là loại không gian có tính chất bao trùm
dương, là người sống hay người chết, là thế giới ông tưởng tượng ra hay
trong Yêu ngôn. “Đây là loại không gian mang bóng hình quá khứ được
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dựng lên bởi hoài niệm, kí ức, hồi tưởng và cả tưởng tượng nữa” [11, tr
quả nghệ thuật của thế giới Yêu ngôn . Từ những cảnh vật quen thuộc của
129].
quê hương đất nước, vào trang viết của Nguyễn Tuân, qua bút pháp huyền
Tất cả cảnh tượng, cảnh quan đều nằm trong vùng không gian rộng
kì, tất cả bỗng trở nên lung linh hơn, đậm hồn dân tộc hơn. Đây là cảnh xứ
lớn khái quát mang những nét đặc trưng lịch sử một đi không trở lại. xét đến
đồng chiêm Sơn Nam hạ vào mùa mưa nước ngập mênh mang “làng mạc
cùng không gian nghệ thuật trong Yêu ngôn vẫn là cuộc sống con người, và
vùng quê Nam Định nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo
dù sẽ được nhuốm màu sắc ma quái, huyền kỳ, trước hết vẫn là cuộc sống
xanh một màu hoang vu”, người ta đi về bằng những con đò đồng li ti nhiều
trần thế gần gũi. Bằng một vốn từ cổ phong phú có chọn lựa, Nguyễn Tuân
như tre rụng lá mùa thu (Khoa thi cuối cùng). Phải am hiểu và gắn bó lắm,
đã khéo dựng cảnh, dựng việc, tạo không khí, đưa người đọc vào cái không
Nguyễn Tuân mới miêu tả có hồn như thế về một vùng quê đồng bằng Bắc
gian cổ kính ấy. “Những cái đó quý giá như một tập tranh cổ” [11, tr 130].
Bộ. Sự quan sát tinh tường khiến tác giả còn nắm bắt và thu vào tầm mắt
Bởi thế, phảng phất ở những trong viết của Yêu ngôn là linh hồn
của mình một thoáng chuyển động của “Con đò đầy cựa quậy, bốc nhẹ, rồi
ngàn xưa đất nước qua những cảnh núi non sông nước, cảnh phố phường
trườn mình ra xa. Trời bắt đầu nổi gió rét. Mưa thu lộp độp gõ xuống áo tơi
chợ búa, kẻ chợ kinh kì, cảnh những làng nghề thủ công… Đó là những
nón lá của một chuyến đò đầy” (Khoa thi cuối cùng). Từ cái không gian rất
khung cảnh quen thuộc, thân thương, gần gũi với mỗi tâm hồn Việt, qua
gợi không khí ấy, sẽ là cái nền để xuất hiện cảnh sĩ tử lều chõng đi thi và
ngòi bút của Nguyễn Tuân đã hiện lên với tất cả những gì gọi là đặc trưng,
cuộc “báo oán” ghê rợn giữa chốn thi trường hoang lạnh. Trong Khoa thi
tiêu biểu nhất.
cuối cùng hình ảnh “hoa hòe nở vàng” đất Sơn Nam hạ “hòe hoa hoàng, cử
Ở trên đã nói, không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
tử mang”là một chi tiết thực mà giàu chất thơ. Thấy “dặm hòe ngả màu
người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất
vàng, lòng những người có chữ bắt đầu bận bịu” bởi màu vàng của hoa
định về cuộc sống, do đó không thể quy nó về sự phản ánh giản đơn không
khiến lòng người mơ tưởng đến sự hiển đạt công danh. Nếu không xuất thân
gian địa lí hay không gian vật lí, vật chất nào! Trong tác phẩm ta thường bắt
trong một gia đình có truyền thống Nho học, không am hiểu sâu sắc truyền
gặp sự miêu tả con đường, dòng sông, căn nhà… nhưng bản thân các sự vật
thống hiếu học của cha ông, chắc Nguyễn Tuân khó viết được những “trang
ấy chưa phải là không gian nghệ thuật. Chúng chỉ được xem là không gian
hoa” như thế. Và còn đây nữa là những cảnh buôn bán đi về tấp nập từ bến
nghệ thuật trong chừng mực chúng biểu hiện mô hình thế giới của tác giả.
Bồ Đề qua Ô Quan Chưởng vào kẻ chợ, đất kinh kì, những cô bán hàng ở
Chẳng hạn dòng sông, nhà ga, bến tàu… là không gian địa lí. Nhưng đi vào
làng cất rượu ngon nổi tiếng vùng tả ngạn sông Nhĩ Hà, với gánh rượu trên
thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nó lại ứng với những chuyến đi, gắn
vai, mỗi sáng lại kĩu kịt gánh vào các cửa ô của đất kinh kì qua, những phố
với lòng đam mê tìm kiếm những chân trời – đã được mệnh danh là chủ
phường: “Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Giấy, ÔYên Phụ, Ô Quan Chưởng, Ô Đống
nghĩa xê dịch. Nó cũng là không gian của thú ngao du giang hồ lãng tử. Ở
Mác, Ô Cầu Rền…” (Rượu bệnh), những cái tên chỉ đọc lên thôi đã đủ gợi
Yêu ngôn ta có thể thấy rõ điều này để càng thấy rõ nét riêng biệt và hiệu
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xao xuyến, rung động trong lòng người – nhất là những ai từng gắn bó với
hóa tinh thần dân tộc. Đó là diện mạo, là hồn thiêng sông núi được chiếu
đất Thăng Long.
sáng, được tôn vinh qua bút pháp huyền diệu của Nguyễn Tuân.
Viết về những làng nghề thủ công, có lẽ khó ai am hiểu sâu hơn
Nguyễn Tuân. Ở Xác ngọc lam là làng Hồ Khẩu bên Tây Hồ chuyên nghề
2.1.1.2. Không gian huyền kì: Sự pha trộn thực - ảo, âm - dương,
không gian mộ địa
làm giấy, có “nhà họ Chu làm giấy nổi tiếng đến mấy mươi đời liền”. Họ
Đây là không gian không tồn tại trong thực tế. Đó là một thế giới
không làm giấy moi bao giờ, “chỉ làm toàn giấy lụa và giấy lệnh hội để viết
mà bản nguyên của chúng chỉ có trong thần thoại, cổ tích… nghĩa là ở
bằng, viết sắc”, và tới lúc có khoa thi “thì nhà ấy mới làm thứ giấy để học
những thể loại sáng tác dân gian xuất hiện từ giai đoạn thô sơ nhất của tư
trò đóng quyển”. Giấy nhà họ Chu, người sành sỏi dẫu nhắm mắt lại, chỉ cần
duy con người, trong đó đặc trưng nổi bật là yếu tố tưởng tượng thần kì.
lấy tay sờ cũng nhận diện được bởi “nó nhẵn mặt mà không cứng mình, mà
Chính vì thế, không gian nghệ thuật trong thần thoại, cổ tích thường có tính
chất lại dai và lắm tờ khổ rộng mình dầy thế mà bắc đồng cân lên thì nặng
chất linh thiêng. Những đặc trưng này cùng xuất hiện trong văn xuôi kì ảo
chỉ đến như cái lông ngỗng… Vuốt vào mặt giấy, người ta có cảm tưởng
hiện đại nói chung, trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân nói riêng.
được sống là một điều dễ chịu ; mùa nực, rờ vào giấy thấy mát cả lòng tay
Là thế giới chỉ có trong trí tưởng tượng, nên không gian huyền kì
và về tiết đông ấp tay vào giấy nhà Chu, thấy nó âm ấm như có sinh khí.
của Yêu ngôn mang tính nguyên sơ, hoang dã: một không gian cõi tiên, một
Đưa lên mũi tờ giấy đượm hơi thơm của một thức mùi thảo mộc còn tươi
không gian cõi âm, một không gian trong tranh… Cách viết Trên đỉnh non
sống, thật là một vật quý trên thế gian”. Tờ giấy quen thuộc giản dị ấy là
Tản hướng nhiều về những chất liệu dân gian với một không gian thoát tục
tinh hoa, tinh tuý của của Rừng Dó, của bàn tay con người.
nhằm tạo ra không khí huyền thoại, huyền bí, linh thiêng. Xứ Ngàn Thiêng
Trên đỉnh non Tản có thể được coi là một truyện nối dài cổ tích – lại
ấy là mảng sáng đẹp nhất trong Yêu ngôn được tạo ra bởi một trí tưởng
đưa người đọc về với làng Chàng Thôn tỉnh Đoài chuyên nghề thợ mộc “Cái
tượng phong phú của nhà văn. Đúng như nhận xét của Thạch Lam “ớ nơi ấy
tràng cái đục của dân Chàng Thôn không những được người trần biết đến
tác giả cho ta thấy cái sức hút thấm thía vào linh hồn của những vật vô tình
mà thỉnh thoảng cứ dăm bảy năm, lại có người tiên trên núi hạ sơn cầu đến”.
cỏ cây và đá núi , tác giả như đem vào một cuộc sống riêng” [27, tr230].
Đôi tay tài hoa của họ khiến những thớ gỗ trở nên có hồn “những đầu kèo
Đỉnh non Tản là một thế giới bí mật, huyền ảo. Sau mỗi trận dâng
vai và câu đầu, đều chạm tứ quý tứ linh. Bức trần gỗ thì cham bát bửu cổ đồ.
nước của Thủy thần, Đền Thượng lại bị hư hỏng và đám thợ mộc Chàng
Nét chạm tỉ mỉ công phu gấp mấy lần công thợ điêu khắc ở các đền đài khác
Thôn lại được Sơn thần gọi lên chữa đền. Khung cảnh núi Tản trong cái
ở khơi dưới núi…”
nhìn của kíp thợ mộc vừa huyền ảo, vừa kì thú, vừa thần tiên vừa quái dị. Ở
Có thể thấy tình cảm sâu đậm với quê hương đất nước thấm đượm
chốn non tiên ấy toàn những cái êm, dịu, trong sáng, thơm, lành, đó là nơi
qua mỗi trang viết của Nguyễn Tuân. Con người say mê cái đẹp ấy chính lại
“ngày tháng thì dài… hoa quả lành và thơm như hết thảy những cái gì không
rất nặng lòng với quê hương đất nước, với những giá trị thẩm mĩ, giá trị văn
phải là trần hủ sống gửi ở mặt đất cõi trần”. Hình tượng một cõi Thiên Thai,
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
một chốn Bồng Lai trong cổ tích và trong văn chương Việt có dịp sống lại
Nguyễn bàng bạc phong vị và hình ảnh của Từ Thức tiên hôn lục và Tản
đầy thơ mộng trong văn Nguyễn Tuân. Cảnh vật cỏ cây trên này thật đẹp và
viên từ phán sự lục”. Không chỉ có vậy, người ta có thể nhận thấy ở đây cả
lạ. Núi non thì có hình thù núi đội mũ với những “vách đá cao, trên mỗi
“sự hồi đáp tư tưởng và nghệ thuật đối với những áng văn quá khứ” [30, tr
chỏm nhọn màu xanh cánh chả lại có mây trắng mây vàng đánh đai lấy”.
117]. Khi cầm bút viết Trên đỉnh non Tản, “Nguyễn Tuân chưa hề tới Tản
Dòng suối Tịch Mịch – cái tên chỉ nghe đã có cảm giác thoát tục – là một
viên Ba Vì !” [27, tr 572].
dòng suối mơ . “Tiếng nước róc rách chân đèo nghe gần mãi lại. Lúc đến bờ
Khác với không gian thần tiên thoát tục ở Trên đỉnh non Tản, Loạn
suối có lều cỏ bồng dựng sẵn thì dòng nước suối Tịch Mịch nín bặt. Nó lửng
âm là cuộc hội ngộ hàn huyên giữa hai người bạn cũ, một ông quan Kinh
lơ trôi ốm yếu và lững lờ. Nó trong như pha lê gọt. Nó hiền lành”. Thức ăn
dịch trên trần và một ông quan Ôn dưới âm được Diêm Vương cử về trần
bốn mùa trên sơn thượng mới thật lạ lùng, thú vị. Đoạn văn miêu tả cõi tiên
mộ phu xuống âm phủ. Quan ôn Lương – vốn là anh khóa Lương – “tư chất
đầy những chi tiết kỳ thú, chỉ có trong những giấc mơ. Loài cây ăn quả,
thông minh, lại thêm có sĩ hạnh”, do thác oan mà được Diêm Vương cho
nhiều nhất hai bên suối tiên là giống hồ đào, giống đào rợ Hồ màu vàng nhạt
làm quan “giữ về việc kiều lương đạo lộ”. Quan Ôn Lương giữa đêm đến
và xanh hay chín, trái nào cũng có má hồng, nhân hột có dáng cái thai đứa
thăm thế huynh họ Trịnh, tiết lộ danh sách nạn nhân sẽ bị bắt làm phu đinh ở
trẻ gục đầu ngủ quên. Rớt xuống thảm cỏ, hột hồ đào hóa thành luống cúc
cõi âm. Lương muốn trả cái ơn xưa với thầy học, mật hỏi Kinh Trịnh xem
tần có bảy lá mốc”. Ở nơi đây, người ta không phải nhọc nhằn lo sự mưu
có muốn cứu vớt thân thích nào trong số những người đã bị liệt kê trong
sinh, bởi cơm gạo chốn này thì nhiều vô kể. “Cứ những hòn cuội kia đập vỡ
danh sách nọ. Kinh Trịnh ngay thẳng đã khước từ bởi không muốn gây lụy
ra là lúa gạo. Cuội xanh là lúa tẻ, cuội vàng là lúa nếp”. Điều lạ lùng là
cho quan Ôn. Cuối cùng nể tấm lòng thịnh tình của quan Ôn, Kinh Trịnh đã
không cần phải nấu nướng gì, những thứ nhân đá xanh vàng kia, cứ đập rời
xin tha cho tên tiểu bộc hầu hạ mình. Người đọc Loạn âm dễ dàng nhận ra
ra, bốc bỏ mồm là đủ hương vị: một hạt cơm, một hạt xôi. Cõi ấy dùng tên
những thủ pháp nghệ thuật nhằm khơi gợi tưởng tượng của các giác quan,
vàng để bắn chim, dùng tên bạc mà bắt cá, chim, cá xiên vào mũi tên tự biến
tạo ra không gian thâm u, quái đản, chuẩn bị cho sự xuất hiện của quan Ôn
thành xiên chả, thơm phưng phức. Muốn uống rượu “thì đập vỡ cuội trắng
Lương: Đó là một đêm hè vắng vẻ, tiếng chó sủa vang khắp các lối xóm
ra, lấy nhân đá trắng hòa vào với nước suối mà uống… thấy ngà ngà mà say,
“tiếng gió lùa qua lỗ tre là một thứ thanh âm đủ những cung bực quái đản
lâng lâng và khuây vợi lòng tha hương”… Thật là những cảnh những vật êm
của một thứ nhạc huyền bí tấu từ một thế giới u linh nào lạc về. Thêm vào
dịu và thần tiên, vậy mà từ vốn tri thức uyên bác, phong phú, nhà văn đã
ngón sáo ma quái ấy, ngoài hiên, đợt gió lả lay mỗi lúc đổi chiều lại ru cái
dùng trí tưởng tượng vẽ nên được một thế giới mà mỗi chi tiết đều kỳ lạ và
ống bơ sắt văng vào thành cong nước đầy. Cái ống bơ nổi lềnh bềnh trên
kỳ thú như chỉ có trong giấc mơ. Ở đây, lại một lần nữa thấy nền tảng văn
mặt nước lại bị gió xô quanh thành ang có những tiếng rụt rè lén lút. Đêm
hoá truyền thống dân tộc luôn có sức nâng đỡ cho những sáng tạo của
quạnh hiu lẻ bóng, nghe mà thêm rợn. Nghe nó cứ như ma múc nước trộm
Nguyễn Tuân: ngoài chất cổ tích đậm đà “truyện Trên đỉnh non Tản của
và nghịch cái gáo ấy”. Đúng lúc Kinh Trịnh mệt quá thiếp đi thì bóng ma
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
quan ôn Lương xuất hiện, cuộc gặp gỡ diễn ra vừa trang nghiêm vừa rờn
cho người đọc nhiều suy nghĩ. Loạn âm chính là sự phản chiếu của “loạn
rợn, để sau đó là cảnh tang tóc thê lương của ngôi làng sau cơn lốc tàn hại,
dương”, nói cách khác, kiếp sống con người quả là mong manh, và cái ranh
nghiệt ngã của đội quân ôn: “màu khăn tang trắng xóa cả chợ làng. Chợ làng
giới giữa cõi dương và cõi âm là hết sức mong manh, mơ hồ. Đọc Loạn âm
vắng hẳn đi… Nhưng buồn và lạnh ghê lắm vì trong số người gồng gánh có
của Nguyễn Tuân “hẳn cũng nên được đọc với lời căn dặn từ “Truyền kì
mặt ở đấy thì đến quá nửa là chít khăn trắng. Có người, trên đầu đeo ba bốn
mạn lục”: không nên lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị
cái tang dồn trong một lúc. Ở chỗ đám đông, số khăn trắng tăng mãi. Trông
đoan mà dìm mất cái hay” [30, tr 119]. Có khi trí tưởng tượng của Nguyễn
xa cứ như là cò đậu. Người sống họp chợ thì cứ vợi dần mà ma mới thì cứ
Tuân không dừng ở đấy, mà được đẩy đi xa hơn nữa, tạo nên một không
thêm mãi. Chết nhiều quá! Sau cùng đến cả những người đội khăn trắng
gian đặc biệt mơ hồ: Không gian trong lòng đá. Ở Xác ngọc Lam, có một nữ
cũng chết”. Ghê rợn hơn, đến một lúc thì “chợ làng đến ba phần tư là ma
thần Dó, ngày dấu mình ẩn thân trong đá, đêm hiện ra là người con gái đẹp,
họp”, bởi “từ ngày có việc loạn âm, ma quỷ được dịp nhiễu nhương dương
giúp chồng và gia đình nhà chồng làm ăn thịnh vượng. Câu chuyện có dáng
gian cả giữa ban ngày”. Những người bán hàng liền sinh ra cái tục thử tiền
dấp gần gũi với một truyện dân gian nổi tiếng của Hà Nội: Bích Câu kì ngộ.
của người mua vào chậu nước, đồng nào chìm thì mới đếm, còn những đồng
Truyện này gắn với Bích Câu đạo quán hiện còn phế tích ở phố Cát Linh.
nổi thì là tiền ma. Có người “chết ngất” đi vì suốt buổi họp chợ chỉ nhận
Đầu thế kỉ XVIII, Đoàn Thị Điểm trong sách Truyền kì tân phả bằng chữ
được những đồng tiền nổi thôi. Chốn dương gian đã hoàn toàn biến thành
Hán đã viết truyện về cuộc kì ngộ ở Bích Câu. Đến thế kỉ XIX, Vũ Quốc
nơi âm thế, đến lúc chợ làng không còn ai họp nữa, đường đi lối lại không
Trân – người ở phường Đại Lợi – đã diễn ca thành truyện thơ cùng tên. Câu
có bóng người, chỉ có lũ chó đói khát “cụp đuôi lưỡi lè” vẩn vơ đi tìm bóng
chuyện kể về thư sinh tên Tú Uyên, ngụ ở phường Bích Câu, một hôm đi
chủ cũ. Không gian quạnh quẽ và thê thảm vô cùng, đâu đó “Chốc lại vang
chợ Cầu Đông mua được một bức tranh Tố Nữ, đem về treo ở nhà và dần
về ít tiếng vọng âm u những hơi thở của vong hồn oan khổ”…
dần sinh lòng yêu người đẹp trong tranh vốn là tiên nữ. Hàng ngày chờ lúc
Loạn âm kết thúc với việc giữa đêm hè oi ả, quan Ôn Lương trở lại,
chàng đi vắng, người thiếu nữ trong tranh mới bước ra dọn dẹp, làm mọi
cùng với áo mão Diêm Vương phong tặng cho Kinh Trịnh làm Chánh Tuyển
việc trong nhà. Tú Uyên lấy làm lạ vì nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, cơm
Quan. Kinh Trịnh được tại thế mà đương nhiệm điểm phu và soát sổ bộ chứ
canh ngon ngọt được chuẩn bị sẵn sàng. Một hôm chàng giả vờ đi vắng, nấp
không phải đi nhận chức ở âm cung. Quan Ôn Lương thoắt đến thoắt đi, để
ở chỗ kín đáo và nhìn thấy người đẹp bước ra từ trong tranh. Tú Uyên biết
Kinh Trịnh ngẩn ngơ trước áo bào, mũ đuôi cá, đôi hia và ngọn đèn thổ hà
đó là tiên nữ. Hai người lấy nhau, sinh được một con trai. Rồi Tú Uyên sinh
đã lụi một con bấc. Ngọn đèn hao ấy cuối cùng cũng tắt ngấm vì “một con
ra đam mê rượu chè, nàng tiên bỏ đi mất, Tú Uyên đau khổ hối hận. Nàng
thiêu thân bay ập xuống”, dập nốt chút ánh tàn còn lại. Cái lễ “tấn phong”
tiên quay về, rồi cả hai vợ chồng cùng đứa con bay lên cõi tiên. Tuy cùng
thầm lặng nọ diễn ra sau khi Kinh Trịnh đã trải nghiệm sự tàn khốc của
mô típ có dáng dấp kì ảo giống nhau: đó là những mỹ nhân không hoàn toàn
thảm sát ôn dịch vô tình, lạnh lùng gieo màu tang trắng khắp thôn làng, gợi
là con người của cuộc đời trần thế, vì tình yêu, họ sẵn sàng từ bỏ thế giới
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thần tiên, sống cuộc đời trần tục bên người họ yêu. Nhưng mỗi chuyện lại
giờ đạt đến, nhưng không làm cho không gian trở thành cõi vô thực, hoang
vẫn mang dáng vẻ riêng. Nếu người tố nữ trong Bích câu kỳ ngộ có thể từ
đường mà chỉ là chất kết dính hai không gian này, tạo nên màu sắc hư ảo,
trong tranh bước ra ngoài đời thực, trở thành người thiếu nữ đẹp của cuộc
hấp dẫn cho truyện.
đời, đem lại hạnh phúc thần tiên cho chàng Tú Uyên si tình, thì nàng Dó
Bằng hư cấu, tưởng tượng độc đáo, Nguyễn Tuân đã dựng nên
trong Xác ngọc Lam lai có một kết cục thật bi thương: chồng chết, nàng sa
trong Yêu ngôn một không gian kinh dị, hoang đường, ma quái tạo nên
vào tay kẻ phàm tục rồi chết và biến thành một khối ngọc toàn bích.. Chính
những ấn tượng, những cảm giác khi thì thích thú, lúc lại rờn rợn, sợ hãi bởi
điều đó làm cho không gian của câu chuyện vừa xa xôi lại vừa gần gũi, sự
những ám ảnh ma mị.
vật tưởng như có thể với tay là chạm tới được, vậy mà hết sức biến ảo, khó
Chùa Đàn thực sự quái dị. Không khí ma quái bao trùm tất cả. Từ
nắm bắt, tạo cho người đọc cảm giác bất ngờ nhưng cũng đầy thú vị bởi liên
cái ấp Mê Thảo đến cái mả rượu “tửu phần”, rồi cây đàn quái đản nơn hồn
tưởng được mở rộng đến vô cùng.
ma Chánh thú đã nhập vào… Mê Thảo xuất hiện như một cái ấp ma ở vùng
Như vậy không gian ảo với tính không cản trở đã tạo ra cho thế
rừng thiêng nước độc mà người trại chủ Lãnh Út hóa dại, đã đoạn tuyệt với
giới nghệ thuật mà nhà văn xây dựng nên có khả năng biểu đạt đến vô cùng,
đời sống “văn minh”, cơ khí, chỉ còn là một xác chết vật vờ sống, sau khi
lấp lánh nhiều tầng ý nghĩa và mở rộng cõi nhìn ra ngoài dương thế.
người vợ yêu quý tử nạn trong một tai nạn hỏa xa. Ấp Mê Thảo còn còn tên
Đối với con người hiện đại, không gian vừa như một thực thể hữu
tục là ấp Thảo. “Thảo trong “Mê Thảo” chính là cách đọc chệch của “Tháo”
hình, vừa tồn tại như một thực tại tinh thần trong tâm tưởng. Con người
– tháo bỏ mê lầm mông muội” [30, tr 126], tháo bỏ “một cảnh địa ngục mà
cùng một lúc có thể sống với hai chiều không gian thực – ảo, âm – dương
lính canh là rượu, là hát, là kỉ niệm, là sự nhớ tiếc người vợ chết” (Chùa
mà ranh giới của nó nhiều lúc bị “mờ hóa” đi. Kiểu không gian này xuất
Đàn). Ấp Mê Thảo có một cái gò chôn rượu mang tên là huyệt rượu, mả
hiện khá nhiều, nhất là với truyện truyền kì. Tuy nhiên trong văn học hiện
rượu, tửu phần. Nơi ấy Bá Nhỡ - người quản gia – ghi ngày tháng từng lứa
đại, cái ảo thường đưa con người vào một thế giới phi thực, để từ đó nhận
rượu và “đặt tên cho từng mẻ rượu”, những cái tên chỉ nghe thôi đã thấy não
thức về cái thực ở nhiều chiều, sinh động hơn.
nùng: “Vô cố nhân”, “Mê Thảo Hầu”, “Thuần Hoành Quận Chúa”, “Ức Sấu
Những đặc trưng thường thấy của kiểu không gian nghệ thuật này
Viên” … Đến cái tên sau cùng này chính là tâm sự trong lòng chủ ấp “chữ
là tính chất nhạt nhòa, gây ấn tượng và cảm xúc mạnh, tính đa nghĩa và khái
Sấu Viên là tên hiệu riêng của mợ Lãnh lúc làm thơ”. Mợ qua đời rồi, thấy
quát cao, góp phần chuyển tải một cách thú vị, hấp dẫn mà không kém phần
cậu Lãnh nhớ vợ quá, Bá Nhỡ bèn đặt vào một cái tên rượu. “Đêm đêm nhớ
sâu sắc nội dung hiện thực của truyện. Đó là một thế giới nơi cái thực được
vợ, chủ ấp lại uống hàng chục chén và có khi hàng vò “Nhớ con vượn gầy”
hư hóa, cái hư được thực hóa. Với không gian này, nhân vật trong truyện cứ
– người mợ Lãnh vốn gầy và hai tay rất dài. Gợi cảm thay! Và cũng tốn
mặc sức đi về giữa hai thế giới âm – dương, trời – đất. Yếu tố ảo, yếu tố kì
nước mắt thay khi uống đến thứ nước say ấy. Chính cậu Lãnh đã ốm nhiều
lạ là thế giới lí tưởng mà trong cuộc đời thực nhân vật khó hoặc không bao
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trận vì những đêm suông bên cạnh vò sành “Ức Sấu Viên”, tiếng khóc vượt
đầy huyệt mộ và bóng ma, thế giới của tủy xương và máu. Mỗi người đều
qua mấy lần nương dâu trĩu sương cành”.
chất chứa qua đó ngụ ý khác nhau. Cái nhìn của Chế Lan Viên siêu hình, cái
Ở một trong những truyện ngắn sớm nhất viết theo mạch yêu ngôn:
nhìn của Nguyễn Tuân là sự pha trộn các yếu tố hiện thực và hoang
Vườn xuân lan tạ chủ, Nguyễn Tuân cũng đã làm say lòng người đọc trước
đường… là phong cách mang nét tài hoa, uyên bác và độc đáo Nguyễn
vẻ diễm ảo của một “Túy lan trang”. Vườn lan có tên ấy vì lẽ giống lan quý
Tuân” [11, tr130].
gốc tích tận Yên Tử Sơn, đòi hỏi kì công chăm bón: “Mỗi bận xuân về, sớm
Gắn liền với thế giới kì ảo là không gian đêm – bóng tối. Bóng đêm
sớm, chủ nhân lại phải cho cả vườn “Túy lan trang” say với hương rượu thời
như là cái nền hữu hiệu để triển khai truyện, vừa như là màn hình huyền
cái vương giả hương ấy mới còn ở với người thế gian. Ngày xuân phải bón
thoại để thế giới bí ẩn hiện lên sống động hơn. Mọi thứ như khuất xa như ảo
lan bằng hương rượu” [55, tr 138]. Rượu trong Vườn xuân lan tạ chủ được
ảnh, bám riết, mê hoặc người đọc. Bên trong bóng tối huyền ảo là cái lõi
thi vị hóa, trở thành nguồn sống cho túy lan, đến Chùa Đàn, rượu – thứ
hiện thực với biết bao điều khiến người đọc phải day dứt, trăn trở. Không
nước thứ nước trong suốt vô tri mà ướp men nồng ấy – trở thành thứ “nước
gian bóng đêm đã nhiều lần xuất hiện trong Chùa Đàn, trong Trên đỉnh non
thần tiên” làm tươi tốt, hồi sinh cả cây cỏ.
Tản, trong Loạn âm và trong Xác Ngọc lam.
Cũng vẫn cái không khí ma quái toát lên trong Chùa Đàn mà ở đó
Xác Ngọc lam có nhân vật cô Dó – vị thần Dó – quê ở thượng ngàn.
không còn ranh giới giữa âm và dương, Nguyễn Tuân đã miêu tả cây đàn
Trót yêu người họ Chu làm giấy, nàng theo chồng xuống Trung Châu, ngày
quái đản thành đàn nhễ nhại đổ mồ hôi và thùng đàn phát ra những tiếng thở
thì ẩn thân trong phiến đá, đêm lại hiện hình giúp chồng nàng thổi cho giấy
dài quái gở, có lúc lại vẳng ngân một tiếng cuồng loạn, cây đàn giết người
dó một linh hồn. Không gian thơ mộng của vợ chồng nàng bấy giờ là “lấy
ấy ai sờ vào là mất mạng; những sợi dây đàn đứt phựt rỏ máu đọng thành
đêm làm ngày”, bởi nàng “thuộc chất âm” ít chịu được ánh sáng của mặt
giọt lóe tia xanh lạnh… Trong cuộc đàn, hồn Chánh Thú – một tay đàn cự
trời, hơn thế nữa, bóng đêm sẽ giúp nàng “mai danh ẩn tích” tránh để lộ tấm
phách xứng với tiếng hát tuyệt vời của cô Tơ và dù chết vẫn ghen với những
hình hài cho người ngoài thấy. Và từ khi nàng Dó xuất hiện ở quê chồng, “ở
người dám bén mảng đến gần vợ - hiện ra cười sặc sụa từ buồng thờ, rồi Bá
ven Hồ Tây, giờ cảnh đêm đông không còn lặng lạnh như mọi khi nữa.
Nhỡ gục xuống sau khi chỉ còn là một cái bóng trên vũng máu tươi, cây đàn
Trong sương, đùng đục những dịp tiếng chày nhà cậu Năm giã dó và lắm
trên tay tự tan vụn ra từng mảnh. Tiếp theo là cuộc mai táng Bá Nhỡ - người
buổi lại còn lẫn một thứ tiếng hát, âm thanh lơ lớ và nhịp lúc thưa, lúc mau
tự nguyện đổi mạng sống để lấy phút sống thăng hoa của tiếng đàn, câu hát,
như khổ dựng giọng nhà tơ và lúc thưa thì giống hệt lối ngâm thơ Thiên
biến thành con ma tài hoa muôn thuở. Cùng lúc là sự phát hỏa của gò rượu
Thai rồi ngân dần dần lên và lại dần dần ngân và xuống đúng như hơi hát
từ cái lênh láng trên miệng huyệt rượu như sự giải thoát của những ma men.
cung bắc lúc đổ con kiến. Đêm đêm, cậu Năm làm giấy và cô Dó cũng lách
“Tạo ra một không gian đặc hiệu như vậy có thể so sánh với sự sáng tạo một
mình ra khỏi đá, nghè giúp chồng”. Bóng đêm làm cho mối tình của người
khách thể lạ trong Điêu tàn của Chế Lan Viên. Đó là thế giới ma quái chứa
sơn nữ thần và cậu Năm thêm thơ mộng, huyền ảo. Bóng đêm cũng khiến cô
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dó khôn nguôi nhớ rừng cũ và tiếng hát của cô càng khắc khoải, huyền diệu
nhiều hình nhiều vẻ với những sắc màu riêng biệt, tạo nên những âm vang
hơn. Rồi khi cậu Năm “trăm tuổi đi rồi”, đêm đêm cô Dó ra ngồi ở ven Hồ
huyền bí trong lòng người đọc.
Tây, ven sông Tô, nhớ thương gửi vào những khúc hát buồn. Chồng chết,
2.1.2. Thời gian nghệ thuật: Thời gian quá vãng và thời gian vĩnh hằng.
nàng Dó giúp con cháu nhà chồng được năm đời rồi bị lưu lạc vào tay phàm
Không một vật chất nào có thể tồn tại ngoài thời gian. Nghệ thuật
tục. Thần Dó chết, di hài nàng đã biến thành ngọc – Xác Ngọc Lam, để từ
là một dạng tồn tại đặc thù, cũng có thời gian riêng. “Thời gian nghệ thuật là
đó người đời mãi lưu truyền câu chuyện về một mối tình đẹp, một số phận
thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính
huyền bí của vị nữ chúa rừng xanh – linh hồn của nghệ thuật làm giấy.
liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời
Trong Yêu ngôn, việc pha trộn những yếu tố không gian này chính
gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật do được sáng tạo
là sự tìm kiếm những thực đơn mới cho cảm giác ở một không gian lạ, ngoài
nên mang tính chủ quan, gắn với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút
thế giới thực tại, nhưng quan trọng hơn “đó là sự kiếm tìm của con mắt nhìn
ngắn thời gian thực tế. Nó có thể đảo ngược hay vượt tới tương lai (Trần
mang tính chất mĩ học” [11, tr 129]. Ta biết Nguyễn Tuân là người mê Liêu
Đình Sử).
trai chí dị. Đắm mình vào dòng văn học cổ điển phương Đông và văn học
Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học, bởi văn
dân tộc, Nguyễn Tuân có thể còn tìm cảm hứng từ những truyện lạ đầy yếu
học là nghệ thuật thời gian. Đó là hình thức cảm nhận thế giới của con người
tố hoang đường của Nguyễn Dữ qua Truyền kì mạn lục. Nghĩa là loại truyện
với một quan niệm nhất định về thế giới. Cũng giống như không gian nghệ
Yêu ngôn của Nguyễn Tuân ắt hẳn chịu ảnh hưởng của những truyện truyền
thuật, sự hiện diện và chi phối của yếu tố huyền kì đã đem đến cho thời gian
kì, chí quái rất phát triển thời trung đại. Tuy nhiên, người xưa viết truyện
nghệ thuật của Yêu ngôn những đặc trưng riêng góp phần tạo ra thế giới hình
thần tiên ma quỷ thì cũng là để tải đạo, để răn đời. Nguyễn Tuân viết Yêu
tượng lạ lẫm, đầy mê hoặc.
ngôn chắc không ngoài mục đích ấy: trong Yêu ngôn hiện lên nội dung đạo
2.1.2.1. Thời gian huyền kì và thủ pháp hư hóa thời gian thực.
lí, luân lí khá rõ. Nhưng Yêu ngôn trước hết phải là yêu ngôn – phải tạo
Khác với thời gian khách quan, ở đó các mốc thời gian được xác
dựng được cái không khí ma quái, khiến người đọc sống trong những cảm
định rõ ràng, thời gian nghệ thuật là sản phẩm của sự sáng tạo. Trong thời
giác – ít thì rờn rợn, nhiều hơn là sợ hãi và thích thú, mê say trước một “hiện
gian huyền ảo quá khứ, hiện tại và cả tương lai hoàn toàn trộn lẫn – đó là
thực khác” của trí tưởng tượng. Sự pha trộn các yếu tố không gian hiện thực
thời gian thực được mơ hồ hóa, tạo nên tính chất hư ảo, vô thủy vô chung.
và hoang đường của Yêu ngôn vẫn hoàn toàn mang nét phong cách Nguyễn
Nó có thể lùi sâu về quá khứ rồi đột ngột hướng vào hiện tại hoặc nhìn về
Tuân: tài hoa – uyên bác - độc đáo.
tương lai. Những đơn vị thời gian cụ thể (nếu có) cũng bị “hư hóa” tạo thành
Có thể nói không gian trong ý thức nghệ thuật của Nguyễn Tuân
nói chung, trong Yêu ngôn nói riêng là một không gian nghệ thuật đẹp,
thế giới mờ ảo, lung linh.
Việc hư hóa thời gian thực tế để tạo ra thời gian huyền kì thường
được thực hiện qua những cách thức: hoặc là tạo ra những trạng thái thời
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
gian thiêng, mà rõ nhất là khoảnh khắc giao thoa giữa ngày và đêm khi cõi
câu chuyện, làm cho khoảng cách giữa người đọc và nhân vật bị xóa nhòa,
âm và cõi dương còn đang nhòa lẫn, hoặc là do sự mơ hồ không chính xác
nhân vật như vừa bước ra từ cuộc sống, cất lên tiếng nói của cuộc sống.
trong các đơn vị chỉ báo thời gian đã tạo được thời gian huyền kì. Đó là
Nhân vật Bá Nhỡ trong Chùa Đàn là tiêu biểu cho sự khắc hoạ sâu sắc tâm
khoảnh khắc có thể nắm bắt được cái đẹp mong manh như sương khói của
trạng nhân vật. Bá Nhỡ vốn là con người tài hoa nhưng “trăm sự lỡ làng, lạc
con người hoặc nhận thức được trọn vẹn thế giới linh thiêng của sự vật.
phách”. Vì can dự vào một vụ giết người ở Trung Châu, Bá Nhỡ bị kết án tử
Trong Chùa Đàn, thời gian này xuất hiện với tần số cao: đó là trong kì giỗ
hình. Nhờ có chút quan hệ họ hàng với Mợ Lãnh, Bá Nhỡ được vợ chồng
hết mợ Lãnh, cậu Lãnh bắt dân ấp Thảo đánh chuyển cây gạo từ suối Vầu về
Lãnh Út lập cho một lý lịch giả và đào thoát lên ấp Thảo. Nặng ơn cứu tử,
trồng trước nhà, vào lúc “quá đêm” chỉ vì một lí do duy nhất “vào giờ này,
Bá Nhớ dốc lòng thành, tận tâm tận lực làm quản ấp giúp Lãnh Út. Cảm
chuyến hỏa xa ấy lật úp xuống vực gần hầm Sen” – nơi mợ Lãnh xấu số đã
động trước tấm lòng chung tình tới mức mê lầm của Cậu Lãnh với người vợ
bỏ mạng. Rồi tiếng khóc não nùng của cậu Lãnh cất lên khiến loài chim ăn
quá cố, Bá Nhỡ tâm niệm: “Ta muốn trở nên một chút ánh sáng, ta muốn trở
sương – chim cú vùng Mê Thảo cũng tắt tiếng cầm canh. Một không khí
nên một cái đốm lửa để làm bừng dậy lòng con người tê dại này”. Và Bá
tang thương thảm rợn khắp vùng Mê Thảo. Rồi cảnh vào cái đêm đào những
Nhỡ đã không hề từ nan bất cứ điều gì. Chỉ vì một mong muốn Lãnh Út tình
hũ rượu chôn dưới tửu phần trở nên quái đản “khách qua đường đêm vắng,
cờ bày tỏ trong cơn say, Bá Nhỡ lặn lội đi tìm cô Tơ, người ca nương tài sắc
tưởng đấy là một vụ chôn của hoặc là đào mả trộm”, bởi không khí ở “tửu
mà Lãnh Út thèm nghe tiếng hát. Bá Nhỡ luyện lại ngón đàn, sẵn sàng ôm
phần” chẳng khác gì mơi mộ địa lạnh lẽo thê lương. Cái đêm “gần về sáng”
cây đàn định mệnh vào cuộc chơi tuyệt mệnh với sự thôi thúc của tâm
khi cô Tơ “nửa thức nửa ngủ chờn chợn nghe thấy tiếng người rón rén đi từ
nguyện. “Ta học nghề đàn, ta phải đánh lên thành tiếng, dẫu rằng đời chơi
buồng thờ ra… ông Chánh Thú đứng sững đấy” khiến cô khiếp đảm trước
đàn của ta chỉ vẳng được lên có một lần, trong một trường hợp đặc biệt…
“cái hồn mặc đồ vải trắng bệch ấy”, để rồi lời nguyền của Chánh Thú đã ứng
Cầm cái đàn ma quái ấy mà gảy để cô Tơ hát , để cậu Lãnh đánh trống !... Ý
vào Bá Nhỡ, tạo nên một kết cục vừa bi thương, vừa tuyệt đẹp – sự thăng
nghĩ của Bá Nhỡ lúc này cũng là một ý nghĩ trả nợ đời và đời y lúc này chỉ
hoa của tâm hồn người nghệ sĩ dám sống hết mình cho nghệ thuật.
là một sự rút ruột con tằm. Có còn vương được tơ nữa về sau hay không thì
2.1.2.2. Thời gian tâm trạng và thủ pháp thực hóa thời gian ảo.
chưa biết, nhưng rồi đây cầm đến cây đàn Chánh Thú ấy mà đánh lên thì cái
Đây là dòng thời gian gắn với từng khoảnh khắc đổi thay trong tâm
thác của đời tằm nào mà chẳng là say sưa. Nhả cái tơ lòng ấy ra, đánh lên
lí nhân vật mà đặc trưng thường thấy là nhu cầu đối tượng tự nhận thức, sám
cái tơ ấy cho dội vang lên một giây phút của thời gian rồi mà hết luôn với cả
hối. Ở đó thời gian chủ yếu được cấu thành dòng tâm trạng phức tạp của
chung quanh! Bá Nhỡ muốn cười to một tiếng”. Để trả ơn, con người ấy đã
nhân vật. Việc đưa trực tiếp người kể vào hoạt động và dòng tâm trạng của
hi sinh cả mạng sống của mình. Không còn gì là ma quái rùng rợn chỉ còn
nhân vật khiến khoảng cách thời gian và không gian giữa người kể và thế
thấy ngôn từ và lòng người rung lên những nốt nhạc tha thiết cuối cùng của
giới chuyện kể hòa nhập làm một, góp phần tạo nên tính chất hiện tại của
cái đẹp và sự hy sinh.
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trong Chùa Đàn, Lãnh Út là người chủ ấp trẻ tuổi – luôn mê đắm
Như vậy, nếu việc ảo hóa thời gian để tao ra tính huyền kì, đưa
với những gì đã mất. Lãnh Út triền miên trong những cơn say, “uống để kéo
người đọc vào một thế giới mơ hồ, xa xăm, thì việc thực hóa thời gian ảo,
dài đời mình ra bằng sự nhớ thương một cái bóng trăng trắng”. Nguyễn
đặt nhân vật vào thời gian tâm trạng đồng nghĩa với đặt người đọc vào tình
Tuân đã dùng nhiều hình tượng khác nhau để miêu tả những diễn biến nội
thế đồng thời với hiện tượng, với dòng chảy suy nghĩ đang diễn ra tự nhiên
tâm phức tạp của Lãnh Út sau cái chết của người vợ trẻ. Xót thương người
giống như thật để sống hết mình với những gì đang vận động trong thế giới
bạn lòng, Lãnh Út uống rượu, nghe đàn hát, khóc…, lại có lúc ngừng tất cả
nghệ thuật của nhà văn.
các trò ấy, ngày đến ngồi sững trước bức họa người vợ bạc mệnh, “dáng
Sự kết hợp, lồng ghép, hòa phối cả không gian và thời gian nghệ
điệu như nhà sư nhập định, mắt không nhắm, miệng không mở lấy một
thuật huyền kì trong Yêu ngôn đã khiến cái huyền ảo và cái đời thường thẩm
tiếng” với cõi lòng trì trệ, u ám. Có lúc cái tâm u uất của Lãnh Út trở nên
thấu lẫn nhau, cái kì ảo nhoè lẫn vào thế giới thực, từ đó tạo ra sự ám ảnh,
khốc liệt, biến thành hành động dữ dội, mê muội. Bá Nhỡ chính là người đã
mê hoặc cho bức tranh cuộc đời mà nhà văn đã dày công tái tạo. Đó là
lay tỉnh, cứu rỗi Lãnh Út. Khi điệu Hòa mã hát chưa hết một phần ba thì Bá
những đặc trưng nổi bật góp phần tạo ra thế giới hình tượng lạ kỳ, mê hoặc
Nhỡ gục chết khô kiệt, cung đàn tắt bặt. Cái im lặng đột ngột ấy đã đánh
của Yêu ngôn.
thức Lãnh Út; Cô Tơ òa khóc ôm xác Bá Nhỡ, cây đàn rơi xuống vỡ tan trên
lớp máu khô. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, nước mắt Lãnh Út “vận
chuyển hết vào nội tâm thành một niềm tư tưởng im vắng ghê lạnh” và rồi
2.2. Thế giới nhân vật với số phận dị biệt và tính cách phi thƣờng.
Nguyễn Tuân bước vào nghề văn dường như là để minh họa cho
hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ:
Lãnh Út “ngây sững như tượng đất nung, ngủ ngồi ngay giữa chân xác chết
“Trời đất cho ta một cái tài
mắt một nửa phần đêm và lan sang nửa ngày sau, mắt mở to, mi không chớp
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi”.
lấy một lần”. Lãnh Út ngủ ngồi để rồi thức giấc – hay là hồi sinh – thu nhặt
Hồi ấy – những năm trước cách mạng – Nguyễn Tuân coi cuộc
hài cốt Bá Nhỡ về chôn cất nơi ấp Thảo. Cũng trong đêm ấy Lãnh Út hỏa
sống chỉ là một cuộc rong chơi, có điều thú chơi của ông là chơi tài, chơi
thiêu “tửu phần”, lắp bắp nói giữa một giấc chiêm bao không ngày tháng:
nghệ thuật. Đọc Nguyễn Tuân, thấy người xưa nói đúng: Văn chương quả là
“Sau một cái tử biệt, giờ ta phải tính đến một nỗi sinh ly khác. Đối với đàn,
có cái ma lực của nó. Có những sự vật, những hiện tượng, dường như nhỏ
hát từ bây giờ ta nguyện làm một người điếc, một người cô đơn, một người
nhặt tầm thường, đối với cây bút khác, có lẽ chẳng có gì đáng nói, đáng viết,
phản bội, và trước vong linh Bá Nhỡ, ta thề độc là không bao giờ cầm đến
nhất là từ đấy mà lại tạo nên được “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”.
một cái chén nào của cuộc đời này”. Lời khấn hứa thề đoạn tuyệt với đàn,
Vậy mà Nguyễn Tuân đã khai thác được chúng như những thể tài mới lạ,
hát và rượu, tức là đoạn tuyệt với quá khứ. Mồ rượu bị đốt cháy – hủy diệt –
phong phú, tạo nên những trang văn rất đỗi tài hoa, đầy sức hấp dẫn . Có
để có một Lãnh Út hoàn toàn khác trước – tái sinh.
lần, khi bàn về thơ – theo cái nghĩa rộng là văn chương – Nguyễn Tuân đã
khẳng định “Thơ là mở ra được cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó,
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vẫn như là bị phong kín” (Thời và thơ Tú Xương). Văn Nguyễn Tuân cũng
đến cái đẹp, cái phi thường, kỳ lạ là một đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn
vậy: nó mở ra bao điều mới mẻ, kỳ lạ trong số phận những con người, làm
thì văn Nguyễn Tuân, nhất là ở Yêu ngôn đã đẩy đến xa nhất đặc trưng này
cho người đọc không thôi ngạc nhiên về sự phong phú của con người và
trong văn học lãng mạn trước 1945.
cuộc đời. Quả là Nguyễn Tuân có một quan niệm hết sức sáng rõ về văn
2.2.1. Yêu ngôn và thế giới của cái phi thường, những kì nhân, kì vật.
chương: nghệ thuật là sự sáng tạo, sáng tạo ra cái mới mẻ, độc đáo, hấp dẫn.
Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân dù ở thể tài nào cũng đều là
Hơn bất cứ lĩnh vực nào, nghệ thuật, trong đó có văn chương yêu cầu rất cao
những con người dị biệt phi thường. Có thể nói đối với con người, Nguyễn
ở người nghệ sĩ năng lực sáng tạo thẩm mĩ. Đó là phong cách nghệ thuật của
Tuân rất trọng nhân cách đẹp, tâm hồn đẹp, thậm chí tâm linh đẹp.
một nhà văn chân chính. Không có sáng tạo, người nghệ sĩ tự xóa bỏ mình.
Trong Vang bóng một thời có hơn một chục truyện, mỗi truyện tập
Phong cách trước hết thể hiện ở cái nhìn độc đáo, mới mẻ đối với hiện thực,
trung nói về một cái tài, một kiểu ăn chơi phong lưu của lớp nhà nho tài hoa
nó thể hiện chiều sâu của sự cảm nhận và khám phá đời sống của nhà văn.
bất đắc chí. Đó là cụ Kép làng Mọc (Hương cuội) có cái thú uống rượu
Cùng thời với Nguyễn Tuân, trong khi Nguyễn Công Hoan nhìn đời
thưởng hoa cầu kì, khác người: uống rượu nhắm với đá cuội tẩm kẹo mạch
như một tấn trò đời thì với Vũ Trọng Phụng, đời là một sân chơi quái đản,
nha trong mùi lan thoang thoảng khắp vườn. Sở thích ấy da diết đến nỗi cụ
ồn ào, con người quái gở, vô hồn, vô nghĩa, vô giá trị; Xuân Diệu thì lại
sẵn sàng nguyện đem quãng đời xế chiều của một nhà nho để “phụng sự lũ
nhìn cuộc đời với con mắt khát khao, vồ vập, đam mê. Còn Nguyễn Tuân,
hoa thơm cỏ quý và rượu thạch lan hương”. Đó là cụ Sáu (Những chiếc ấm
ông vừa khinh ghét những cái xấu xa tầm thường của xã hội thực dân phong
đất) chỉ uống trà pha bằng nước giếng trên chùa Đồi Mai. Cụ không bước
kiến lại vừa tha thiết với cuộc sống, với quê hương đất nước mình. Có người
chân đi đâu xa được vì không đem theo được nước giếng chùa và thề rằng:
cho rằng văn ông mới lạ trong ý tứ; người thì thích chữ nghĩa của ông giàu
Giếng chùa mà cạn thì sẽ lập tức cho không người nào muốn xin bộ đồ trà
có, biến hóa, ẩn chứa vô số bất ngờ; có nhà nghiên cứu lại thú vị trước
quý báu và cụ dám cả gan đánh đổi sản nghiệp lấy một chén trà ngon. Đó là
những trang viết phóng khoáng, vượt khuôn phép của ông; người lại yêu cái
người hành khất sành trà Tàu, sau khi đã “ăn mày” được một ấm trà, ung
tài hoa, uyên bác, thâm thúy trên mỗi dòng văn của ông… Đặc biệt, với cái
dung uống như một kẻ quý phái. Với ông ta thú uống trà đã đạt tới cực điểm
đẹp, ông lại là người suốt đời săn lùng và tìm kiếm để tôn thờ và phụng sự
của một nghệ thuật tinh hoa. Đó là nghệ thuật sống của giới giang hồ trộm
nó. Một phương diện nổi bật của cái đẹp mà Nguyễn Tuân say mê khám phá
cướp (Ném bút chì) với lối phóng dao, phóng mai thượng đẳng – họ là
là vẻ đẹp của một thời còn vang bóng. Đó là những phong tục đẹp, những
những kẻ nhúng tay vào tội ác nhưng vẫn còn lương tri – một hạng anh hùng
thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh, tao nhã, tinh tế của người xưa…mà tất cả
lai trộm cướp, hảo hán Lương Sơn Bạc thế kỉ XX… Có thể thấy các nhân
được thể hiện thông qua thế giới nhân vật đặc biệt trong sáng tác của
vật của Nguyễn Tuân đều là những nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của
Nguyễn Tuân. Một điều dễ nhận ra, những nhân vật ấy đều là những con
mình. Yêu ngôn cũng không nằm ngoài đặc điểm ấy, có điều nó được đẩy
người với số phận dị biệt và tính cách phi thường. Có thể nói nếu như tìm
lên tới mức phi thường, xuất chúng, “không hiểu nổi”.
38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Tuân sáng tác Rượu bệnh để kính viếng vong linh người
rượu quẩy vào chợ tỉnh”. Rồi đến khi tất cả các cô gái bán rượu đều nhận ra
bạn rượu Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Nhân vật Bố Ô, “kì nhân không biết
cái trò “nếm rượu chằng” tinh quái của ông già – nếm thử để rồi không bao
đói nhưng chỉ thấy khát rượu” là một loại hành khất cao sang rất gần gũi với
giờ mua thật cả - họ lại tự nguyện “mỗi buổi mai cấp cho ông già đầy một
nhân vật người hành khất sành uống trà trong Những chiếc ấm đất. Với nghệ
chén gỗ rượu”. Và cái tên Bố Ô do các cô hàng rượu gọi đùa ông có từ ngày
thuật nếm rượu độc nhất vô nhị: mỗi buổi sớm lúc trời đất còn lờ mờ, ông cụ
đó. Viết Rượu bệnh, Nguyễn Tuân có nói tới một thói tật - rượu bệnh,
đã ngồi sẵn ở các cửa ô Hà Nội, đồ vật đem theo chỉ vỏn vẹn có một cái ghế
nhưng cũng lại gắn nó với một nghệ thuật, một thú thưởng thức cao sang:
gỗ và một cái chén gỗ to gần bằng cái lồng gỗ mít đóng oản của nhà chùa.
trông Bố Ô uống rượu ngon tệ, cứ ngọt sớt đi thôi… Uống đẹp quá”. Nhân
Ông cụ ngồi đấy “để đón rượu, thứ rượu làm ở bên kia sông. Thứ rượu ngon
vật Bố Ô quả là một hình tượng độc đáo trong thế giới nhân vật của Nguyễn
cất ở tả ngạn sông Nhĩ, đưa qua bán bên đất Kinh đô” do các cô gái vùng Bồ
Tuân. Và cũng quả là tài tình ngòi bút Nguyễn Tuân: ông đã tạo ra một độ
Đề qua đò ngang ghé vào lối Ô Quan Chưởng. Mỗi khi có gánh rượu nào đi
nhoè của hình tượng cho nhân vật chập chờn giữa hư và thực, tiên hiện hình
qua là “Ông già cử động rất trịnh trọng… cả người ông cụ lúc bấy giờ là sự
và kẻ phàm tục, nghèo hèn và cao sang
vui sướng hồn nhiên”. Với gánh rượu nào cũng câu gọi: “Có rượu ngon, cho
Trong sáng tác của mình, Nguyễn Tuân viết khá nhiều về ca nương.
lão mua vài cân”, rồi liền đưa cái chén gỗ cho cô hàng rót đầy vào để nếm
Nhân vật Cô Tơ trong Chùa Đàn là nhân vật ca nương đẹp nhất được xây
thử, nếm xong kêu nhạt, chê khê xua tay cho cô hàng đi… Cứ như thế “một
dựng trong tác phẩm của Nguyễn Tuân với những phẩm chất đáng ngưỡng
cô hàng rượu, hai cô hàng rượu, dăm bảy cô hàng rượu đã qua đều đều. Mỗi
mộ: chung thủy, nhân ái và tài nghệ ca ngâm trác tuyệt. Bởi yêu thương và
cô là một chén rượu gỗ nếm thử. Mỗi lần nếm thử thứ rượu cất các thứ nồi
chung thủy với chồng mà sau cái chết của Chánh Thú, Cô Tơ thề độc sẽ
nấu khác nhau không phải trả tiền”. Và Bố Ô thực sự là một nhân vật độc
không buông tiếng hát nào cho người đời nghe và “không cho tai mình
nhất vô nhị trên đời này trong cách uống rượu: lão nhắm rượu với một cái
nghe” bất cứ tiếng đàn của người đàn ông nào trong thiên hạ, trừ khi có
đinh. “Cái đinh đóng thuyền chấm vào chén rượu mút đánh chụt một cái rất
người dám cầm cây đàn oan nghiệt sát nhân của chồng để lại. Vì cảm phục
gọn” đến khi đủ chếnh choáng “để giác quan thừa sức mà nhầm lộn về cuộc
tấm lòng thành và tài hoa của Bá Nhỡ mà cô không nỡ để Bá Nhỡ chết, cô
đời thực tại quanh mình”. Khi đủ ấm bụng, ông già lại chập chững trở về, và
đã thắp hương, gieo âm dương xin chồng tạm gác lời nguyền, tha mạng cho
cả ngày cả tối ấy, đố phố phường có nhìn thấy mặt ông nữa. Ngày qua ngày,
người đàn ông chẳng quản đời mình để mưu cầu cuộc sống cho một con
bao giờ cũng chỉ có thế, “một cái chén gỗ lớn, một cái ghế gỗ con, phục sức
người khác. Những khẩn cầu của cô đã không làm xoay chuyển được tình
chưa tã rách nhưng cũng đã quá tàu tàu, ông ngồi thu hình trên nền đất lạnh
thế. Những kiếp tài hoa, tài tình thương lấy nhau để chịu cảnh oan nghiệt.Cô
của buổi tinh mơ, rình những gánh men lướt trong màn sương… chơi chơi
Tơ buộc phải chấp nhận cuộc hòa âm định mệnh mà cô đã biết trước cái kết
thật thật cứ y như là tiên hiện hình xuống để thử lòng những người đi qua”
cục thê thảm. Đoạn văn miêu tả cuộc giao hòa âm nhạc của bộ ba: Cô Tơ
mà thực chất là “để đánh thuế rất khéo vào những gánh hàng của các cô bán
vừa hát vừa gõ phách, Bá Nhỡ đàn, và Lãnh Út điểm chầu, là những trang
40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viết xuất sắc mà mọi miêu tả âm thanh và hình ảnh được đẩy đến cực điểm,
dữ dội của Bá Nhỡ khi mà biết rằng “chỉ một chốc nữa thôi” mình sẽ kí vào
cũng ở đấy, tài năng và tấm lòng của người đào nương này được vẽ nên
bản án tử hình chính mình. “Mấy đầu ngón tay Bá Nhỡ sưng vù và bật máu.
bằng những gam màu đẹp nhất, tinh tế nhất và cũng huyền ảo nhất. Tiếng
Bá Nhỡ đang chịu một nhục hình bá đao tùng xẻo… Bá Nhỡ say sưa trong
hát cô Tơ “vượt qua những đỉnh nhọn của thế giới âm thanh. Tiếng hát mọc
cái nhận thức là mình đang chết dần giữa đàn hát và mỗi một tiếng trúc tiếng
cánh, thăm thẳm trong trắng tinh khiết quá pha lê gọt. Cô đang gọi nước
tơ đánh thêm lên là mình lại càng lả dần về cõi chết. Có người tử tự tử bằng
suối đá ngọt ngào dâng lên”. Tiếng phách trúc của cô “díu dan như cô đúc
mùi hoa ngát, có người tự tử bằng hơi nhạc. Người đang luyện phím khảo
lại được muôn điệu của muôn giếng chim. Có những tiếng tre đanh thép, sắc
dây bỗng nở một nụ cười héo sững trên hai môi tái”. Bá Nhỡ chọn cuộc chơi
bén đến cái mực cắt đứt được sợi tóc vô tình nào bay qua khoảng nơi phách
tuyệt mệnh không chỉ để trả ơn, mà còn để tìm một kết cuộc ý nghĩa cho
đang bốc cao vươn mình dựng dậy như vách thành”, nó rót vào tai người
cuộc đời nhỡ nhàng của mình. Kiểu nhân vật này không phải chỉ xuất hiện ở
nghe “cả một rừng chim và cả một suối thủy tinh”. Cô Tơ hát không chỉ
Chùa Đàn. Nhân vật Chiêu Hiện trong Xác ngọc lam cũng là một kẻ giang
bằng tài năng, mà còn bằng cả tấm lòng, cả trái tim hướng đến người gảy
hồ khí phách. Chiêu Hiệu quê vùng Phủ Quốc xứ Bắc, bỏ xứ vào Nam với
đàn – Bá Nhỡ - bởi cô biết rằng tắt bản đàn, là cuộc đời Bá Nhỡ cũng kết
giấc mơ thành đạt, trên đường li hương đã thề độc rằng: chẳng ngồi xe ngựa
thúc. Bởi thế cô Tơ “cố bắt buông từng chữ cho thật chín nục để kẻ sắp hết
thì không về qua chiếc cầu này. Giống như Bá Nhỡ, Chiêu Hiện mắc vào
làm người kia đem đi cho thật đầy đủ cái dư âm của cõi sống”. Khi Bá Nhỡ
một vụ cướp có án mạng, nhưng nhờ có Huyện Khỏe bao che, cưu mang mà
gục chết khô kiệt, cô Tơ òa khóc ôm xác Bá Nhỡ. Cô Tơ không chỉ là ca
Chiêu Hiện thoát án. Mang ơn cứu mạng ấy, Chiêu Hiện tâm nguyện tìm
nương nức tiếng. Cô còn là biểu tượng tổng hòa của nghệ thuật đàn hát, là
cách trả ơn, “lúc nào cũng nghĩ đến việc đi tìm báu vật cho ân nhân”. Bằng
tiếng lòng, là tình người, là sự hội tụ tuyệt đỉnh của tài và tình.
mánh khóe, Chiêu Hiện đánh tráo được tảng đá nghè giấy của nhà họ Chu ở
Cũng trong Chùa Đàn, gây ấn tượng đặc biệt và gợi nhiều xúc
làng Hồ Khẩu về làm tặng vật cho chủ. Trong phiến đá quý ấy có Nữ thần
động cho người đọc là nhân vật Bá Nhỡ, người quản gia của Lãnh Út, đồng
Dó ẩn mình, đêm đêm nàng cất tiếng khóc chồng khiến ai cũng phải nhỏ lệ.
thời cũng là một anh kép đàn bất đắc dĩ mà hết sức tài hoa. Vì muốn hồi sinh
Một lần, trong cơn nguy kịch, Chiêu Hiện phải cam tâm đập vỡ phiến đá
cho ông chủ – cũng đồng thời là ân nhân của mình, Bá Nhỡ có một tâm
hòng cứu cô Dó, nhưng không kịp bảo toàn sự sống cho cô. Nữ thần Dó
nguyện “muốn trở nên một chút ánh sáng, trở nên một cái đốm lửa để làm
chết, Chiêu Hiện đau buồn, hối lỗi nhận phần trách nhiệm trước cái chết của
bừng dậy trong lòng con người tê dại này”. Bá Nhỡ quyết đem mạng sống
cô. Cũng từ đây, Chiêu Hiện đã nhận ra chân tướng của kẻ trọc phú. Ôm xác
của mình “rút ruột con tằm mà nhả cái tơ lòng”, chọn lấy “cái thác của đời
cô Dó, Huyện Khỏe sung sướng vì có được một khối thúy ngọc toàn bích.
tằm” để đánh đổi lấy mấy giây phút tuyệt vời, vinh quang của anh hoa phát
Và Huyện Khỏe tính toán rất nhanh rằng “bán đi thì có thể thu về được cơ
tiết, mấy giây phút tuyệt vời của niềm giao cảm giữa những con người biết
man là tiền bạc” hoặc “đem làm vật tạ lễ một vị quan thầy”. Những lời cuả
phụng thờ cái đẹp của tình người. Nguyễn Tuân đã tả cái tâm trạng giằng xé
Huyện Khỏe khiến Chiêu Hiện sửng sốt, hóa ra “từ bao nhiêu lâu nay ông đã
42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
thờ nhầm phải một người có nhân cách đê hạ quá”. Thái độ thực dụng trắng
trợn của tên bạo phú khiến Chiêu Hiện chấn động và ngay đêm đó bỏ đi. Trở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Làm phong phú, đa dạng thêm chất huyền kì, không thể không nói tới
thế giới nhân vật ma của Yêu ngôn.
về chốn cũ, lòng đầy ân hận vì “đã giết chết mất ngọc biết nói”, càng ân hận
Trong văn học kì ảo xưa nay, truyện về các hồn ma bóng quỷ vô
hơn là nhà họ Chu “từ khi bị đánh tráo phiến đá nghè, nhà ấy làm ăn mỗi
cùng phong phú. Theo thời gian, loại truyện này không già cỗi đi mà trái lại,
ngày một xuống và giấy Chu Hồ bây giờ đã là một câu chuyện gần như cổ
trở thành một dòng chủ đạo của bộ phận văn học kì ảo. Trong Yêu ngôn, ma
tích, một câu chuyện chỉ còn thuộc về lịch sử của nghìn xưa”, Chiêu Hiện đã
và người dường như không có khoảng cách, ma là sự hiện hình của những
“ngủ luôn một giấc để lũ con đưa ra một cánh đồng tỉnh Sơn Tây”. Với cách
người đã khuất, ma vẫn nặng lòng với cuộc sống trần gian, ma ăn ở với
ứng xử ấy, Chiêu Hiện thực sự là một tay giang hồ tài tử đầy nhân cách.
người, ma trở về cõi trần mà vẫn trong hình dạng con người. Họ hiện về
Những nhân vật của Yêu ngôn dù trong cảnh sống khốn cùng, dẫu
dương gian với những mục đích khác nhau: hoặc nâng đỡ cho con cháu đời
nghèo nhưng không hèn. Bố Ô (Rượu bệnh) một mình dám xông vào tận
sau để không mất đi danh tiếng làm nghề truyền thống; hoặc kiếp trước chịu
dinh quan Thượng – kẻ “quyền trấn một góc trời, lấy đầu người trị hạ cứ dễ
nhiều oan trái trở về báo oán trả thù; hoặc đam mê giọng hát tiếng đàn mà
như bỡn” – la hét huyên náo đòi thả một cô gái quê bị cậu ấm con quan bắt
hồn phách vẫn không chịu rời bỏ chốn kĩ viện… Và dù họ là ma thì cũng là
vào hãm hại. Ấm Đới (Đới Roi) – kẻ lãng tử đã tiêu cả cơ nghiệp vào tiếng
ma tài hoa, ma tài tử, ma của thế giới Yêu ngôn Nguyễn Tuân.
đàn giọng hát – dù đã rơi vào hoàn cảnh bần cùng, ngày ngày phải chuốt roi
Đới Roi (Đới Roi) nguyên là cậu ấm Đái, con cụ Bố Nam quất roi
chầu đi bán, vậy mà vẵn khẳng khái tới mức cố chấp, thắt cổ chết làm con
chầu lừng danh một thời trong chốn ăn chơi tài tử. Khi sa cơ lỡ vận không
ma tài tử, chứ không chịu nhận tình thương bố thí của một đào nương. Ông
thể sống nhờ lòng thương hại của giáo phường, Đới Roi đã chọn cái chết.
Kinh Lịch họ Trịnh kia (Loạn âm) không vì tình riêng mà chữa lại mệnh trời
Khi còn ở dương gian ham mê tiếng tơ tiếng trúc, tiêu cả cơ nghiệp vào
– tức là xin xóa tên những người thân trong cuốn sổ bắt phu của Diêm
giọng hát tiếng đàn, vậy mà thác xuống âm thế, “cái người trai không vợ ấy
Vương – bởi “trong cái đời liêm chính của tôi, chưa lúc nào tôi có làm điều
đã trở thành một ông mãnh rất thiêng thường hiện ra để quấy những nhà cô
gì khuất tất trong lòng”… Họ là những con người có cả tài lẫn tình. Cuộc
đào ở Khâm Thiên dám vô lễ với vong hồn mình vẫn oán kết gần quanh kĩ
đời họ nếu có đau khổ bất hạnh thì cũng chỉ vì trót đắm đuối trong bể tình,
viện”, đêm đêm vẫn đánh trống chầu trên những mái nhà có hát. Quả thực
dù là kẻ phàm trần như Ấm Đới (Đới Roi) hoặc Lãnh Út (Chùa Đàn), hay
Ấm Đới là kẻ thuộc “nòi tình”, cuộc đời đắm đuối trong bể tình bể nhạc để
người thần người tiên như cô Dó (Xác ngọc lam), hoặc là hồn ma như
rồi trở thành một con ma nghệ sĩ tài tử.
Chánh Thú (Chùa Đàn)… nhưng bao giờ cũng biết bảo toàn nhân cách đẹp
Trong Yêu ngôn, có kiểu nhân vật “ma yêu”. Đó là cô Dó – linh
đẽ của mình bằng cái chết hoặc trong những thời khắc chọn lựa nghiệt ngã
hồn của nghệ thuật làm giấy (Xác ngọc lam). Vốn là nữ thần của chúa ngàn
nhất.
cao cả, vì tình, nàng đã theo chồng về làng giấy Hồ Khẩu bên Hồ Lãng Bạc.
Yêu chồng, nâng niu cả một dòng họ làm nghề giấy, nàng đã thổi cho giấy
2.2.2. Thế giới nhân vật ma
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dó một linh hồn, để từ đấy, lò chế giấy nhà cậu Năm họ Chu làng Hồ Khẩu
sẽ bị bắt đi phu ở cõi âm, tỏ ý xem Kinh Trịnh có muốn cứu vớt thân tính
biết một kỉ nguyên mới – giấy tự nhiên thơm đẹp lên và bỏ xa sự cạnh tranh
nào trong số họ thì sẽ chiếu cố. Không chỉ có vậy, Quan Ôn Lương còn xin
của nghìn vạn người sống bằng vỏ dó. Khi cậu Năm qua đời, nàng Dó
Diêm Vương ban phẩm hàm cho Kinh Trịnh. Kinh Trịnh được tại thế mà
không nỡ bỏ về “quê hương cũ muôn năm xanh vui của mình”, nàng ở lại
đương nhiệm chức Chánh Tuyển Quan, trông coi việc điểm phu và soát sổ
giúp con cháu nhà chồng làm ăn phát đạt. “Thương lũ trẻ, đêm đêm cô lại
bộ.
hiện ra, hà ít hơi mình vào giấy và lấy tay vuốt từng tờ một. Giấy Chu Hồ vì
thế vẫn giữ được vẻ quý riêng”.
Những kiểu nhân vật ma này trong Yêu ngôn có vẻ như trái ngược
nhau nhưng thực sự lại thống nhất với nhau, làm nên sự đầy đặn, hoàn hiện
Trong Yêu ngôn, nếu “ma yêu” khêu gợi lòng hướng thiện, nhân
trong chân dung nhân vật, bởi ma cũng là “kiếp cõi âm” của con người cũng
hậu, nhân tính thì “ma báo oán” lại là sự răn đe, cảnh tỉnh. Hai anh em ông
tồn tại song hành hai cực của tình cảm: biết căm ghét và biết yêu thương.
Đầu Xứ trong Khoa thi cuối cùng nổi tiếng học giỏi nhất tỉnh Nam lều
Thực chất, cõi âm ở đây cũng chính là âm bản của thế giới trần tục và hệ
chõng đi thi với bao nhiêu hi vọng. Nhưng hết anh rồi đến em, khi nào vào
thống nhân vật ma không chỉ gợi sự li kì mà còn giữ vai trò như chiếc cầu
chốn trường thi đều bị hồn ma quấy nhiễu. “Một người đàn bà trẻ, xõa tóc,
nối hai thế giới, để từ đó nhà văn gửi gắm những quan niệm, suy tư, trăn trở
ẵm con, hiên ngay dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu khóc giữ rịt lấy mớ
về cuộc đời, đồng thời cũng là sự đối sánh hai thế giới để con người trần thế
tóc xõa quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên. Lại cười sằng sặc, lấy nghiên mực
sống tử tế, xứng đáng hơn với danh hiệu con người.
hắt vào quyển của ông …”. Kết cục là cả ông Đầu xứ Anh và ông Đầu Xứ
2.2.3. Những cảnh những vật lạ kì.
Em đều hỏng thi. Hóa ra lúc sinh thời, cụ Huấn, ông cụ thân sinh ra hai anh
Trong thế giới Yêu ngôn không chỉ có những con người kì lạ, khác
em đã phạm vào việc thất đức, cụ “đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái
thường, mà cả những vật, những cảnh cũng hết sức đặc biệt. Đây chính là
chết của một người nàng hầu tài hoa nổi tiếng một thời”. Người thiếp ấy khi
một yếu tố tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút đầy thú vị đối với người đọc.
chết có mang được sáu bảy tháng. Cái oán sinh tử ấy cứ theo đuổi họ, nếu
Ai đã đọc Chùa Đàn hẳn đều có một ấn tượng lạ lùng về cái “tửu
họ còn lều chõng ở cửa trường thi: “Nó còn đi thi, cô còn báo mãi... cô
phần” – một mả rượu có chôn vô số cái hũ rượu trong ấp Mê Thảo với
muốn, cô muốn nó phạm húy, cho nó bị tội cả nhà kia…”. Đấy là lời người
những cái tên lạ lùng . Đó là một cái gò con. Chỏm gò phất phơ toàn một
thiếp lúc ốp vào con đồng đã nói. Thế là cả hai anh em, người khóa trước, kẻ
giống thạch sương bồ. Sườn gò, đây đó ít gốc rền tía. Gò ấy, chính là huyệt
khóa sau đều đã trải qua sự thất bại ê chề của khoa thi cuối cùng, để rồi đã
rượu. Bá Nhỡ chôn cơm men và rượu cất ở mả rượu ấy. Ngoài Bá Nhỡ ra,
phải sống “một đêm dài nhất trong một đời người”.
cấm dân ấp không được ai lai vãng đến tửu phần. Tửu phần đã phân ra từng
Có “ma báo oán” thì cũng sẽ có “ma báo ân”. Vị Quan Ôn (Loạn
khu đông tây nam bắc và chia từng hàng luống như ở một nghĩa trang thôn
âm) được Diêm Vương cho làm quan trông coi việc kiều lương đạo lộ.
sơn. Trên các khu và các luống tửu phần, có những thẻ tre sơn vôi trắng, viết
Muốn trả cái ơn xưa với thầy học cũ, Quan Ôn đã tiết lộ danh sách nạn nhân
chữ đen và sơn đỏ, có thể lẫn với bài bùa phù thủy. Ấy là Bá Nhỡ ghi ngày
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tháng từng lứa rượu và đặt tên cho từng mẻ rượu, lắm thứ tên những nghe
Yêu ngôn nói nhiều đến cái chết, mỗi cái chết mỗi vẻ. Bá Nhỡ chết
không thôi mà đã muốn đem cái vui cái buồn trong lòng ra gửi ngay vào
vì cây đàn định mệnh để hồi sinh cho Út Lãnh, Bố Ô chết bởi rượu, Nữ thần
đấy. Một hầm rượu – với những người khác nó có thể chỉ gợi về sự say sưa,
Dó chết vì nặng tình và bởi sự tham lam ô trọc của người đời, Đới – Roi treo
nhưng với Nguyễn Tuân, cái hầm rượu ấy đã là một nghĩa địa, bởi gò chôn
cổ để bảo toàn nhân cách… Họ đều là những con người tài tử, muốn trong
rượu đã mang tên “huyệt rượu”, đám “mả rượu” đã là những “tửu phần”…
đời một lần thực hiện được kiệt tác của đời mình, và muốn thực hiện kiệt
tất cả đều gợi về cõi chết, cái chết dần dần chán chường trong tuyệt vọng
tác, người nghệ sĩ phải lấy chính máu thịt mình để đánh đổi, để nhào nặn
của Lãnh Út, chủ nhân ấp Mê Thảo.
nên tác phẩm nghệ thuật. Xác ngọc lam là cái chết thơ mộng, đau thương và
Trong Khoa thi cuối cùng, cảnh trường thi Nam Định đâu còn là
đầy ý nghĩa của Nữ thần Dó khi nàng bị lưu lạc vào tay phàm tục. Khi sống
chốn uy nghiêm đầy văn hóa để các sĩ tử thi tài. Trong cảnh âm u mà âm
nàng ẩn thân trong phiến đá, giúp chồng và con cháu nhà chồng làm ăn phát
dương không chia biệt, trường thi đã trở thành pháp trường mà các âm hồn –
đạt, khi chết hồn đá chẻ ra làm hai… có một người đàn bà rất xinh bé đang
các loại ma lành, ma báo oán – có chỗ ngồi danh dự bởi được quan chủ tế
nằm ngủ. Nàng mặc một cái áo lam, xiêm cũng màu lam. Cô Dó đã trở nên
mời vào trước và bài vở thí sinh bị “ma duyệt” trước khi nộp quyển.
người thiên cổ. “Cô Dó đã thành người của một thế giới khác, của một thế
“Báo oán giả tiên nhập;
giới ngọc đá muôn năm. Cái màu xanh ở tấm áo đã đậm và bóng hẳn lên
Báo ân giả thứ nhập;
thành một thứ ngọc lam trong sáng. Một khối ngọc toàn bích”. Thần Dó chết
Sĩ tử thứ - thứ nhập”.
đi, di hài nàng và đá biến thành ngọc – thành xác ngọc lam. Cái chết của
(Những hồn báo oán vào trước;
nàng đẹp và bi thương như một bài thơ.
Những hồn báo ân vào sau;
Bên cạnh xác thơ ngọc lam là xác rượu Bố Ô (Rượu bệnh), một cái
Các thầy khóa vào sau rốt)
chết khác thường. Con người ấy lúc sống thì sống bằng rượu, trong rượu,
Chính vì được mời vào trước, có quyền báo oán hoặc trả ân, nên
cơm là rượu và rượu là cơm, “miếng gì ăn cũng thổ ra hết, bụng dạ lão chỉ
hồn ma của “người đàn bà xõa tóc, ẵm con” đã phá bằng được bài thi của
còn chịu được cái chất ngũ cốc dầm trong nước men thôi. Mỗi lúc tỉnh bữa
hai anh em ông Đầu Xứ, biến những sĩ tử tài hoa thành kẻ hỏng thi. Nếu như
rượu trước, thấy khát thì lại đem luôn rượu của bữa sau ra mà giải khát”.
ở Lều chõng, ngòi bút của nhà văn cựu học nghiêm cẩn đã vẽ ra quang cảnh
Đến lúc chết, Bố Ô cũng chết rượu, chết cháy, xác cháy trong hơi rượu cũng
trường thi với tất cả bút lực của một nhà văn hiện thực, thì với Khoa thi cuối
thơm, cũng ngông như người. Thì ra nhà Bố Ô phát hỏa vì một hôm có một
cùng, Nguyễn Tuân đã góp thêm vào bức tranh thi cử thời xưa một khung
tên dân cày nọ đem nùn rơm vào cái nhà lạnh vắng này mà thổi lửa để châm
cảnh khác, đầy sức ám ảnh. Cảnh tượng trường thi lạ lùng ấy, ngoài Nguyễn
một điếu thuốc lào, lửa bén vào những khí rượu ở miệng mũi tửu đồ phì ra,
Tuân, chắc khó có ai có thể hình dung, tưởng tượng và sáng tạo được như
ở những đồ dùng bằng vải của tửu đồ đã tẩm chất nước men khô đóng lại.
vậy.
Không khí túp lều gianh của Bố Ô đặc sệt những hơi men đã gặp tia lửa và
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đốt cháy. “Ngọn lửa xanh lè vờn lấy mình ông già đang say mềm. Xác Bố Ô
mặt”. Đó là “cái tảng đá xanh màu núi mùa thu và vuông mỗi chiều hai
nứt đến đâu là mùi thịt thui ấy thơm lừng như mùi cá mực nướng bằng rượu
thước ta”, nó thân thuộc và gắn bó với nhà họ Chu đến sáu bảy đời. Nó câm
không có chút gì là hôi khét cả. Và lúc mà lửa đã hoại xong cái xác kia thì
lặng mà phụng sự và người ta quý nể nó như là nương nhẹ một người lão
cỗ xương ấy bệch ra như thạch cao ải vụn ra trông trắng nhỏ không khác gì
bộc, không nỡ nặng tay những khi nghè mặt dó giấy. Tuy vậy, người ta cũng
thứ bột để luyện những hòn men. Ngửi cái vụn xương vô tư ấy, lại còn thấy
chỉ thấy đá là một viên đá mà thôi. Thế nhưng …“hòn đá ấy vốn có một đời
thơm và ngây ngất nữa…”.
sống thuộc về tâm hồn”. Cái tảng đá nghè giấy vô tri quen thuộc của một
Trong thế giới Yêu ngôn, không ít những vật, đồ vật kì dị và giàu
làng nghề bỗng thành có hồn, thành biểu tượng ngưng kết trong đó số phận
hàm nghĩa như thế; Đó là ngọn nến có thể thắp sáng trong tranh (Lửa nến
và tiếng tăm của một dòng họ. Nó gắn với thiên tình sử lãng mạn của cậu
trong tranh) mà bức tranh cổ vẫn còn nguyên vẹn. Tranh vẽ một ông tướng
Năm – người con trai của dòng họ Chu – và Nữ thần Dó. Mối tình thắm
và một ngọn nến soi xuống cuốn sách mở. Ngọn nến ấy nếu đánh diêm
thiết giữa người tiên với người trần đã đưa cô Dó về quê chồng – làng Hồ
châm vào thì nến sẽ cháy sáng như một ngọn nến của cuộc đời thật, và chỉ
Khẩu ven hồ Lãng Bạc. Muốn giữ bền hạnh phúc, cô Dó phải mai danh ẩn
có nến cháy thôi, còn tranh nguyên vẹn, lửa nến sáng “không làm hại gì đến
tích và lòng đá xanh chính là nơi ẩn thân của nàng. Lúc cậu Năm qua đời
đời vật chất của tranh”. Muốn cho tranh trở lại vẻ bình thường thì chỉ việc
phiến đá xanh bỗng hóa thành trắng toát – màu trắng nàng Dó để tang
thổi tắt ngọn nến. Tất cả giá trị của bức tranh chính là vẻ huyền ảo của ngọn
chồng. Về sau, khi nàng lưu lạc vào tay kẻ phàm tục, thứ ngọc sống ấy biến
nến, nến cháy lên làm cho vị tướng Hàn Kỳ trong tranh như là người bằng
thành một khối ngọc toàn bích – xác ngọc lam. Và cũng từ khi phiến đá có
xương bẳng thịt.
nàng Dó bị đánh tráo, thì sự làm ăn của nhà họ Chu đã ngày một sa sút. “Để
Thứ giấy dó của nhà họ Chu Hồ cũng là một kỳ vật, báu vật của thế
duy trì cái sống hàng ngày, nhà họ Chu bây giờ cũng làm giấy, nhưng là
gian. Nó “đượm hơi thơm” của một thứ mùi thảo mộc còn tươi sống, bởi
giấy moi …”. Linh hồn của nghệ thuật làm giấy đã chết, cũng đồng nghĩa
được bàn tay ngát hương của Nữ thần Dó chạm vào. “Nó nhẵn mặt mà
với cái chết của một nghề truyền thống.
không cứng mình mà chất lại dai, bắc đồng cân lên thì nặng chỉ như đến cái
Cây đàn đáy quen thuộc của bất cứ một kỹ viện nào, khi vào đến
lông ngỗng. Mặt giấy xốp, nghiêng giấy ra ánh sáng mà nhìn chất cát dó thì
Chùa Đàn, đã trở thành một cây đàn quái đản - cây đàn ma. Là một tay đàn
nó như làn da má trinh nữ phẳng đượm chất tuyết của lớp lông măng. Nó
cự phách xứng với tiếng hát tuyệt vời của cô Tơ, Chánh Thú là chủ nhân của
đẹp đến nỗi mọi người đều yên trí rằng dẫu đứa thất phu có cầm cây bút vẽ
cây đàn ma ấy. Đó là một cây đàn mà “tang đàn làm bằng nắp ván thôi gỗ
bậy vào đấy thì những nét lếu láo ấy cũng vẫn cứ thành được hình chữ”.
quan tài một người con gái đồng trinh… Cứ vào những đêm tối giời… thành
Việc dùng giấy dó nhà họ Chu Hồ “đã thành một lối biểu dương của một
đàn đổ mồ hôi cứ vã như tắm và thùng đàn phát lên những tiếng thở dài và
phái quý tộc trong làng văn mặc”. Nói đến lịch sử làm nghề giấy của nhà họ
vật mình vật mảy với bức vách”. Cây đàn ấy ai sờ vào là mất mạng bởi một
Chu, không thể không nhắc tới “cái tảng đá” dùng để “nghè giấy cho nhẵn
lời thề độc. Chánh Thú chết nhưng vẫn ghen với những kẻ dám bén mảng
50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đến đàn cho vợ mình hát. Bởi thế, cây đàn ma của Chánh Thú sẽ giết những
Đàn. Đó là ngôi chùa để tưởng nhớ Bá Nhỡ. Trong chùa, sau bát hương có
tình địch tương lai và đó cũng là cách để tìm người thế mạng xuống âm ti
tạc “một cây đàn đáy với những nét chính của nhạc khí”, cứ vào hai buổi
đàn thay cho Thú tái sinh về trần. Bá Nhỡ dù biết bí mật của cây đàn vẫn
chuong chiêu mộ, tảng gỗ thờ đó lại “đổ ít mồ hôi dầu và xê động khỏi chỗ”.
không sợ, muốn thử, muốn đạt đến tuyệt đỉnh tiếng tơ dù chỉ một lần với cây
Dẫu ấp Thảo cuối cùng bị sang tay cho người ngoại quốc, Chùa Đàn cũng
đàn ma ấy. Và một cảnh tượng nghê rợn đã diễn ra: “Ba sợi dây tiểu dây
không bị mất mà mãi gắn bó với con người ở đấy. Hình ảnh cây đàn đáy đặc
trung dây đại ở đàn đáy kế tiếp nhau mà cùng đứt. Một con đom đóm vờn
trưng của nghệ thuật ca trù được hương khói trong chùa - một tượng đài tôn
bay trên cây đàn nhễ nhại mồ hôi. Trên nền tang đàn gỗ ngô đồng, có những
vinh nghệ thuật. Tác phẩm điện ảnh phóng tác từ Chùa Đàn tiếc thay không
đốm lân tinh lập lòe… đấy là máu của cây đàn đứt. Đầu các dây còn rung
có chỗ cho ngôi chùa này, và hình ảnh cây đàn cũng mờ nhạt, xuất hiện
lên, ruột sợi tơ rỉ tuôn ra một thứ nước đặc sệt như máu con giời leo và xanh
thoáng qua ở đoạn đầu rồi bị thay bằng cây đàn nguyệt trong suốt phần còn
đục như ruột bọ nẹt. Chất ấy đọng thành giọt ở các đầu dây và lóe tia xanh
lại của phim. Tuy nhiên Mê Thảo thoát thai từ Chùa Đàn nhưng có đời sống
lạnh lên dưới cái sáng chờn vờn của lửa con đóm”.
riêng của nó. Tiểu thuyết Chùa Đàn được đánh giá là đỉnh cao trong một
Tạo nên những cảnh vật lạ lùng, thậm chí quái dị như thế suy cho
giai đoạn sáng tác của Nguyễn Tuân, là sự hun đúc bút lực và tài hoa của
cùng cũng xuất phát từ quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân – nhà văn
một con người từng khinh bạc đặt tên Yêu ngôn cho tác phẩm của mình, rồi
của những cảm giác mạnh, ông ghét những gì mờ nhạt, lưng chừng, lỡ cỡ.
Chùa Đàn lại bị chính tác giả của nó phủ nhận và vắng bóng gần 40 năm.
Trong con mắt ông, sự vật đã đẹp phải đẹp tuyệt vời, đã dữ dội phải đặc biệt
Được tái bản, Chùa Đàn hồi sinh thu hút người đọc. Đặc biệt, khi bộ phim
dữ dội… Đó là chất dưỡng sinh không thể thiếu để nuôi dưỡng cảm hứng
Mê Thảo được xây dựng, do ấn tượng mạnh của bộ phim, nhiều người xem,
mãnh liệt của nhà văn. Nhà văn đã đưa tinh thần và cảm hứng lãng mạn chủ
chưa đọc Chùa Đàn mới tìm đọc tác phẩm này. Đây cũng là một cơ sở để
nghĩa đi xa nhất trong văn xuôi 1930 - 1945. Phải chăng ở khía cạnh này,
đánh giá sự thành công của phim Mê Thảo.
Nguyễn Tuân là người đã đẩy đến tận cùng cái khát vọng của chủ nghĩa lãng
mạn, sự ca ngợi tôn sùng cái kỳ vĩ, phi thường của cuộc sống con người.
Có thể nói, thế giới những kì nhân, kì vật ấy trong Yêu ngôn là sản
phẩm của một trí tuệ mẫn tiệp, óc tưởng tượng phong phú và tài năng sáng
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Đọc văn bản văn học là quá trình
tạo kì diệu của Nguyễn Tuân, con người luôn nhạy cảm với cái đẹp, luôn
hiển thị hoá những gì kể trong văn bản, nó khiến trí tưởng tượng của con
nhìn sự vật nghiêng về góc độ thẩm mĩ, luôn có cảm hứng dào dạt trước
người được phát huy cao độ, đến với những bến bờ vô cùng vô tận, thậm chí
những cảnh tượng đặc biệt đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ. Tất cả những
vượt ra khỏi đường biên những thông điệp mà nhà văn muốn chuyển tải đến
yếu tố này tạo cho Yêu ngôn một sức hấp dẫn biến ảo kì lạ, kích thích được
người đọc. Phải chăng vì thế nên sẽ là khó khăn cho các nhà làm phim khi
trí tưởng tượng của người đọc .
chuyển thể Chùa Đàn thành bộ phim Mê Thảo - Thời vang bóng. Ở phần kết
thúc Chùa Đàn Nguyễn Tuân đã dựng nên hình ảnh một ngôi chùa - Chùa
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.3. Phƣơng thức nghệ thuật tạo dựng thế giới Yêu ngôn:
tài năng sáng tạo của mình đã làm nên một thế giới Yêu ngôn “một mình một
“Cái kỳ ảo tạo ra cách phản ánh riêng biệt” (Tôđôrốp), bởi năng lực
cõi”, không giống ai.
sáng tạo hướng về nó sẽ tìm ra một hình thức nghệ thuật phù hợp, tương
Ở dòng truyện dân gian, truyện kỳ ảo cổ đại thường gắn với thần thoại,
ứng với chất liệu. Sự hiện diện của nó làm cho tác phẩm mang những nét
truyền thuyết, cổ tích… xa xưa. Cái kỳ ảo cổ đại gắn với niềm tin chất phác
đặc trưng về hình thức khiến người đọc dễ nhận diện và tạo ra những ấn
ngây thơ và tuyệt đối của con người vào các thế lực siêu nhiên, bất khả giải,
tượng mới lạ. Ở trên luận văn đã có dịp tìm hiểu về yếu tố huyền kỳ, kỳ ảo
thể hiện nhu cầu nhận thức ở mức độ sơ khai, đơn giản “muốn cải thiện số
với việc xây dựng không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, nhân vật. Đó
phận mình bằng phép lạ và muốn giải quyết cuộc đấu tranh thiện, ác nơi trần
chính là tiền đề để chúng tôi đi vào khảo sát những tác động của yếu tố này
thế bằng sức mạnh của những bà tiên, ông thánh hiền từ” [53, tr 109]
đối với phương thức nghệ thuật tạo dựng thế giới Yêu ngôn ở các phương
diện: nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ nghệ thuật, giọng điệu.
Văn học kỳ ảo thời này là sự hoà điệu giữa con người với vũ trụ và giữa con
người với những thế lực siêu nhiên tạo thành một môi trường hoà hợp và hoàn
toàn tinh khiết, một thế giới đại đồng tương thông, tương giao, tương cảm.
2.3.1. Nghệ thuật trần thuật
Việc khai thác tối đa thế mạnh của kỳ ảo cũng chính là cơ sở tạo ra
những chuyển biến đáng kể trong phương thức trần thuật của Yêu Ngôn.
Một trong những truyện cổ tích vào loại xa xưa của người Việt là
truyện Tấm Cám. Cô Tấm từ trong quả thị bước ra để trở về với đời, thành
2.3.1.1. Phương thức xây dựng truyện:
nàng Tấm đảm đang, khéo léo và thủy chung, thể hiện sinh động quan niệm
Sự pha trộn các mô típ truyện truyền thống với cách trần thuật hiện đại.
của nhân dân về công bằng xã hội và hạnh phúc, người lao động không chờ
Các nhà nghiên cứu, phê bình đã nhận xét rất đúng: Văn Nguyễn Tuân
đợi hạnh phúc đẹp và mơ hồ cõi nào khác, mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự
vừa có vẻ trang nhã, cổ kính, vừa sắc sảo, hiện đại. Điều này có thể nhận
ngay trên mảnh đất mình gắn bó ở nơi trần thế. Ở Xác ngọc lam của Nguyễn
thấy rất rõ, qua nhiều sáng tác của Nguyễn Tuân, trong đó có Yêu ngôn.
Tuân, người đọc cũng có thể thấy sự gần gũi giữa cô Dó và cô Tấm. Cô Dó
Phương thức kể trong Yêu ngôn có sự pha trộn những mô típ truyện dân
không xuất thân từ làng quê, cô là linh hồn của Ngàn Thiêng. Để được sống
gian Phương Đông và yếu tố hiện đại phương Tây, tính chất hư ảo đan xen
bên người mình yêu, cô Dó đã dời chốn rừng xanh về quê chồng và ẩn mình
giữa mộng và thực, con người - ma quái của văn hoá dân gian truyền thống
trong phiến đá. Ngày là đá vô tri, đêm lại hiện ra thành người, giúp chồng
kết hợp với tư duy huyền thoại phương Tây.
thổi cho giấy Dó một linh hồn và tạo ra hạnh phúc của lứa đôi đằm thắm
Truyền thống kỳ ảo trong văn học Việt Nam đã có từ mấy ngàn năm, và
trong cần lao. Nếu cô Tấm giành và giữ hạnh phúc ngay ở cõi trần của cô,
phương thức kỳ ảo hoá hiện thực cũng chính là “cái có sẵn trong nhà” ngay
thì cô Dó - người thần, người tiên - lại sẵn sàng chấp nhận từ bỏ chốn Bồng
từ thời xa xưa của người Việt. Nguyễn Tuân đã kế thừa nguồn mạch của văn
Lai để tìm hạnh phúc nơi trần thế, dù có phải trả giá. Họ đều là những con
học dân gian, văn học trung đại, văn học kỳ ảo đầu thế kỷ XX, đồng thời
người hiện thân cho đức hy sinh, cho tình yêu chung thuỷ.
tiếp thu một cách chọn lọc dòng chảy của nền văn học kỳ ảo thế giới, bằng
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Con đường tiêu biểu của văn học kỳ ảo thế giới trong đó có văn học
nhưng động tiên đã khép, lối về đã vĩnh viễn không còn, giấc mộng đã biến
Việt Nam là một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại. Có thể nhận
mất. Từ một truyện trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tạo lại để gửi gắm
thấy khá rõ cả dấu vết cổ tích lẫn văn chương bác học trung - cận đại trong
những triết lý nhân sinh của thời đại mình. Nhà văn đã mượn không gian cõi
nhiều câu truyện Yêu ngôn. Dòng truyện kỳ ảo trung - cận đại dù vẫn còn
tiên để bầy tỏ thái độ quay lưng lại thực tại xã hội xấu xa đương thời. Như
mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đã in
vậy, khi sáng tạo nên thế giới Bồng Lai tiên cảnh ấy nhà văn cũng như
đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự ý thức của con người đối với
người đọc không đặt trọn niềm tin vào nó, nó chỉ là sức mạnh của một cảm
hiện thực và không còn tính chất nguyên sơ thuần khiết buổi đầu. Cái kỳ ảo
hứng nghệ thuật. Điều này có thể thấy rõ trong Trên đỉnh non Tản của
trong dòng truyện này mang tư cách của một cái nhìn thế giới, chọn cho
Nguyễn Tuân. Từ ngọn nguồn xa xôi của cổ tích Sơn Tinh - Thuỷ tinh,
mình một phạm vi, một chỗ đứng khác so với thế giới thường ngày và “đăm
truyện Trên đỉnh non Tản tiếp tục mô típ về “cõi tiên” trong Từ Thức gặp
chiêu nhìn vào thế giới bên kia”. Đó là một thế giới với những loài vật, đồ
Tiên để trình bày cả một quang cảnh kỳ thú, cuộc sống hạnh phúc ở nơi tiên
vật được nhân hoá, thần kỳ hoá - một thế giới mà không bao giờ con người
cảnh. Những người thợ mộc Chàng Thôn mỗi khi được thần non cao vời
có thể thực sự đặt chân đến. Cái kỳ ảo xuất hiện ở đây nằm trong thế giới
lên sửa đền trên đỉnh non Tản, họ lại được sống những ngày vui vô tận, tha
đối lập với xã hội có lý tính. Chính điều này không cho phép người ta đặt
hồ thưởng thức của ngon vật lạ, ngắm nhìn thoả thích những kỳ hoa dị thảo
trọn niềm tin vào nó, đồng nhất mình với nó như đối với kỳ ảo cổ đại, trái
của cõi tiên. Nhưng phần sau của truyện là sự đột ngột chuyển hướng tạo để
lại, cố gắng “giải thiêng, giải ảo” nó và sáng tạo nó. Nó đã bị lý trí tác giả
ra một chủ đề mới. Khi công việc đã hoàn thiện, họ lai buồn rầu nghĩ đến
và người xem tước bỏ để chỉ còn lại sức mạnh của một cảm hứng nghệ thuật
ngày phải xuống núi, họ sẽ không còn được bàn tán đến những cái lạ của
[53, tr 111]. Truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm đã làm
Ngàn thăm thẳm, không dám khoe người đời về cái thần bí trên chốn xanh
hoàn chỉnh thể loại truyền kỳ, được đánh giá là kiệt tác, là thiên cổ kỳ bút.
tươi và buồn hơn là mỗi lần xuống khỏi là không tìm lại được đường lên.
Tập truyện thường sử dụng yếu tố kỳ ảo làm phương thức nghệ thuật chủ
Với họ, giấc mơ tiên cảnh chỉ trong giây lát, chợp mắt tỉnh giấc, họ lại trở về
đạo để phản ánh cuộc sống. Truyện Từ Thức gặp tiên là một trong những
với hiện thực thường nhật đầy nhọc nhằn, lo sợ. Và cả nỗi ám ảnh về sự
truyện tiêu biểu trong tập Truyền kỳ mạn lục. Từ Thức một nho sinh tài hoa,
trừng phạt khốc liệt của chính cõi tiên: sẽ là nỗi lo sợ thường trực về một cái
học hành thi cử đỗ đạt, con đường công danh thênh thang. Một lần ngao du
chết bất thần và đau đớn nếu họ dám hé lời kể về những gì đã thấy.
vãn cảnh gặp tiên nữ, Từ Thức đem lòng yêu say đắm. Kết quả của tình yêu
Nếu như Xác ngọc lam, Trên đỉnh non Tản giàu yếu tố truyền thống thì
đẹp ấy là chàng đã từ bỏ tất cả, theo người tiên và hưởng hạnh phúc ở chốn
Lửa nến trong tranh lại mang màu sắc hiện đại khá rõ. Ở truyện kỳ ảo hiện
tiên cảnh. Cuộc sống viên mãn ở cõi tiên không làm chàng nguôi ngoai nỗi
đại yếu tố kỳ ảo dù vẫn còn hình thức ma quỷ như trong kỳ ảo truyền thống
nhớ quê hương nơi trần thế. Từ Thức trở về cõi trần nhưng trở thành kẻ lạc
nhưng đã hướng sâu vào môi trường thành thị, mang không khí của văn
lõng, bơ vơ ngay trên quê hương mình. Chàng lại tìm đường lên cõi tiên,
minh công nghiệp, vào thế giới nội tâm của con người hiện đại. Cái kỳ ảo do
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vậy không chỉ hiện diện ở bên ngoài, trên bề mặt câu chữ mà nó còn chìm
được một thế giới những biểu tượng mang những hàm nghĩa sâu xa về thiên
sâu vào không gian nội tâm. Nghệ thuật biểu hiện của dòng truyện kỳ ảo
nhiên, cuộc sống con người, văn hoá, lịch sử… một cách sâu sắc trong các
hiện đại vẫn có sự âm thầm tiếp nối truyền thống, nhưng giờ đây yếu tố kỳ
tác phẩm của ông. Ở những sáng tác gắn liền với cảm hứng xê dịch, ta gặp
ảo không đơn thuần chỉ là công cụ nhận thức, khám phá thế giới, một cái
hàng loạt những hình ảnh con sông, nhà ga, bến tàu, va ly…, chúng xuất
nhìn thế giới mang tính nghệ thuật, mà hơn thế, nó trở thành một thủ pháp
hiện trở đi trở lại và trở thành biểu tượng cho những chuyến đi, cho khát
nghệ thuật đắc lực để văn học tích cực nắm bắt mọi biểu hiện của đời sống,
vọng đam mê, tìm kiếm những chân trời. Gặp những không gian như ca lâu,
khái quát thành những vấn đề có tính xã hội và nhân sinh sâu sắc. Truyện
hàng viện, tiệm hút trong văn Nguyễn Tuân, người ta nghĩ ngay tới những
Lửa nến trong tranh thể hiện rõ điều này. Một người yêu tranh cổ, sẵn sàng
cuộc đời, những thú vui của đời sống truỵ lạc…
tiêu cả cơ nghiệp, bán cả đồn điền của mình vào thú chơi tranh. Khi có được
Đọc Yêu ngôn, người đọc có thể đi từ những thú vị này đến thú vị khác
một bức họa mơ ước thì oái oăm thay, nó chỉ còn cái vỏ, phần ruột đã bị
bởi thế giới những hình tượng biểu trưng hàm nghĩa dày đặc mà Nguyễn
đánh tráo. Người nghệ sĩ sành tranh cổ ấy không tiếc món tiền lớn đã bỏ ra
Tuân đã sáng tạo nên.
để mua tranh, mà chỉ tiếc cái đẹp đã tuột mất khỏi tay mình. Để cho cái đẹp
Trước hết, có thể nói các biểu tượng được tạo nên từ một thế giới mà
không biến mất hoàn toàn ông quyết định đem bức tranh quý ấy ra thí
đồ vật mang tính chất biểu trưng: phận vật - phận người. Một cái chén uống
nghiệm, đốt cháy cho mọi người đều được thưởng thức, thế nhưng trái với
rượu của người hành khất (Bố Ô), một vật dụng thô sơ tưởng như chẳng có
lòng đam mê của ông, những người đến xem tranh quá ít và chính họ -
gì để nói về nó: chất liệu bằng gỗ, kích thước gần bằng cái lồng gỗ mít đóng
những kẻ dửng dưng với nghệ thuật phải chịu lấy “sự hình phạt nặng nhất là
oản của nhà chùa. Tất cả chỉ có vậy, và nếu chỉ quan sát thoáng qua, người
suốt đời chỉ là những người thô tục”. Rõ ràng đây là con người, suy nghĩ,
ta rất dễ bỏ qua bởi nó quá tầm thường. Nhưng là con người ưa quan sát tỉ
tâm trạng của con người ở thời hiện đại và yếu tố kỳ ảo góp phần biểu đạt
mỉ, hay ngẫm ngợi, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy biết bao điều về cuộc đời từ
thế giới nội tâm của con người một cách sinh động và sâu sắc.
cái vật quá đỗi bình thường ấy. Khi chủ nhân của chiếc chén gỗ bị chết cháy
Có thể nói, phương thức kể với sự pha trộn những mô típ truyện dân
trong một trận hoả hoạn, tất cả đồ vật đều cháy rụi thành tro, thậm chí cả
gian phương Đông, dòng truỵện kỳ ảo trung - cận đại và yếu tố hiện đại
thân xác Bố Ô cũng tan thành bột như bột men, thì duy nhất chỉ có chiếc
phương Tây, kết hợp với sự sáng tạo tài hoa của Nguyễn Tuân đã làm nên
chén gỗ không bị bén lửa, dẫu cả đời nó đã đầm mình trong rượu, thậm chí
một thế giới Yêu ngôn lạ lẫm, mê hoặc, đầy hấp dẫn.
lửa còn tráng lên toàn thân chén một lần men khói bóng. Chén được người
2.3.1.2. Hình tượng biểu trưng, hàm nghĩa
đời tiện thành một bộ khuy áo và người có nó luôn đem theo để đề phòng
Biểu tượng nghệ thuật là chìa khoá kỳ diệu của văn hóa con người, biểu
việc hoả hoạn. Từ chiếc chén gỗ thành bộ khuy áo, cuộc đời, số phận của
hiện cụ thể thế giới với những giới hạn trong cảm nhận thế giới không gian,
chiếc chén ấy cũng dài, cũng ly kỳ như cuộc đời của Bố Ô trong nó kết đọng
thời gian và con người trong các hình tượng văn học. Nguyễn Tuân đã tạo
lại bao buồn vui, thăng trầm của một đời người. Bố Ô đã hoá thân vào cát
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
bụi, song cái phần tinh tuý nhất vẫn sống giữa cuộc đời. Và phải chăng đó là
đàn cũng chính là phận người, gấp trang sách lại rồi mà người đọc vẫn nặng
một nén tâm hương Nguyễn Tuân thắp lên để tưởng nhớ vong linh của Tản
lòng, vẫn trăn trở về lẽ nhân sinh mà nhà văn đặt ra trong Chùa Đàn. Cũng
Đà - một người bạn thơ - người có một cuộc đời gần gũi với Bố Ô, cũng
vẫn ở cái thế giới nghệ thuật mang đầy biểu trưng, hàm nghĩa ấy, người đọc
nghèo, cũng ngông, cũng là đệ tử của ma men, cũng đầy nhân cách và một
gặp ở Xác ngọc lam một số phận vật khác- phận đá. Một tảng đá vốn chỉ có
sự nghiệp mà vượt qua sự thử thách của thời gian vẫn là một ngọn núi thơ
công dụng nghè giấy cho phẳng mặt, là vật câm lặng, vô tri của thế giới tự
giữa nền thơ ca dân tộc.
nhiên. Nhưng từ khi nàng Dó ẩn mình trong phiến đá ấy thì đá đã có một
Một cây đàn, một tiếng hát, thường gợi về nghiệp cầm ca, với Nguyễn
sinh mệnh. Lòng đá là nơi bao bọc, che chở, vỗ về nâng giấc cho vị nữ thần
Tuân, không chỉ có vậy. Là người sành âm nhạc, say mê âm nhạc ông nhìn
của ngàn xanh. Và từ khi phiến đá của dòng họ nhà Chu có nàng Dó thì
cây đàn mà như thấy trong nó có cả một linh hồn. Trong Chùa Đàn, nhà văn
nghề làm giấy của họ đã lên ngôi, đẹp và sang trọng hẳn lên. Rồi khi phiến
miêu tả cây đàn của người nghệ sĩ Chánh Thú bằng những nét quái đản, lạ
đá chẳng may lưu lạc, sa vào tay kẻ bạo phú đê hạ, thứ ngọc sống biết nói
lùng: thân đàn được tạo nên bởi nắp ván áo quan của một cô gái đồng trinh,
ấy, chết và biến thành xác Ngọc lam - một khối ngọc toàn bích quý giá, kết
vào những ngày trở trời thành đàn đổ mồ hôi như tắm và thùng đàn phát lên
tụ tất cả những yêu thương, vui buồn của một cuộc đời kỳ lạ. Sống ở rừng,
những tiếng thở dài, vật mình, vật mẩy. Khi Chánh Thú chết và để lại một
nàng Dó gửi hồn trong lòng cây; về xuôi theo chồng, nàng ẩn mình trong
lời nguyền, cây đàn càng trở nên đáng sợ. Nó đòi lấy mạng của người nào
lòng đá, khi “trăm tuổi” nàng hoá thành ngọc không tì vết, thành bảo vật quý
dám động đến nó. Khi có một người nghệ sĩ dám đi đến tận cùng của nghệ
giá của cuộc đời. Những sự hoá thân của nàng đều vì cuộc đời, đẹp và thơ
thuật, bất chấp lời nguyền để mong cứu vãn một mạng sống, cầm lấy cây
mộng, khơi gợi ở người đọc những rung động sâu xa về sự bao dung, vị tha,
đàn định mệnh ấy, thì một tiếng đàn là “một miếng thịt được lấy ra. Máu
nhân hậu.
trong cơ thể người chơi đàn cứ tuôn ra, thấm ra ngoài đến lúc chỉ còn là một
Đọc Vang bóng một thời, có người ví tác phẩm như “nén tâm hương
cái xác khô, thì cây đàn tan vụn thành mảnh nhỏ và trên bàn thờ hồn ma
nguyện cầu cho cái đẹp cổ truyền Việt Nam” [27, tr249], bởi nhà văn đã dày
Chánh Thú hả hê cất tiếng cười sằng sặc… Hoá ra đằng sau cây đàn ấy
công xây dựng cả một không gian văn hoá trong quá khứ của dân tộc: uống
cũng là cả một cuộc đời, hay nói đúng hơn, cây đàn là sự hoá thân của
đẹp, nhắm đẹp, chơi đẹp, ứng xử đẹp, hoa tay đẹp, tài nghệ đẹp, nhân cách
những cuộc đời. Một người con gái đồng trinh chẳng may yểu mệnh, hồn
đẹp…. Những cảnh tượng đất trời và đời sống ấy là “những cảnh đặc Việt
nàng vẫn vướng vít với cuộc đời và ván quan được dùng đã tạc nên cây đàn
Nam” [27, tr 38]. Cũng có thể nhận xét như thế về Yêu ngôn. Người đọc có
bằng gỗ ấy. Cây đàn đã từng ở trong tay Chánh Thú và gắn bó với cuộc đời
thể tìm thấy quá khứ đậm màu sắc văn hoá của cha ông xưa: truyền thống
nghệ sĩ tài hoa này. Khi Chánh Thú chết, hồn ma nghệ sĩ vẫn nặng nợ với
hiếu học của một đất nước có hàng nghìn năm văn hiến, truyền thống yêu
cõi trần đã bằng mọi giá để đầu thai ngay tại kiếp này. Khi lời nguyền được
nghệ thuật, thưởng thức nghệ thuật của một dân tộc có đời sống tinh thần
thực hiện, hồn ma đã hả hê, thì cây đàn cũng đi hết số phận của nó. Phận
thanh cao, tinh tế… Điều đáng nói là những truyền thống văn hoá lâu đời ấy
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
được nhà văn gửi gắm qua những biểu tượng độc đáo. Đó là giấy lịch Bưởi,
tượng của nghệ thuật ca trù. Cái roi chầu của Ấm Đới (Đới Roi) là thứ roi
mực Hoàng Tam Xương, bút Tảo Thiên Quân lông trắng (Khoa thi cuối
quý “đánh đến một nghìn bài Thét Nhạc rồi mà đời cái roi vẫn cứ lành vẹn”.
cùng). Nói tới cái nghiên, cái bút là nói tới phần đáng tự hào nhất trong nền
Chiếc roi chầu vừa rắn, vừa dẻo, âm tròn và đĩnh đạc ấy đã theo suốt cuộc
văn hiến của cha ông, nó hiện thân cho truyền thống hiếu học, trọng tri thức
đời người nghệ sĩ, nó thay người nghệ sĩ nói lên bao vui buồn, uẩn ức của
- cái làm nên nguyên khí của một quốc gia. Hình tượng nghiên bút quý giá
một kiếp rong chơi tài tử. Nguyễn Tuân cũng thật là tài tình khi miêu tả
đã đi vào tên núi, tên sông, đi vào thơ ca của dân tộc với “núi Bút, non
tiếng đàn của Bá Nhỡ. Với cây đàn đáy định mệnh, Bá Nhỡ nắn phím đàn,
Nghiên” (Thơ Nguyễn Khoa Điềm). Trong Loạn âm, anh Khoá Lương sau
“đã bấm đến tiếng nào thì tiếng ấy cứ chín nục đi, không một tiếng nào
khi thác oan, được Diêm Vương bổ làm quan trông coi việc kiều lương đạo
sượng”. Hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật ca trù thì có lẽ không chỉ riêng
lộ ở dưới âm phủ, dù âm dương cách biệt nhưng tri ân tấm lòng của người
Nguyễn Tuân, nhưng “tinh thông làu bậc”, đến thế thì ít ai hơn được
thầy cũ vẫn trở về dương gian báo đáp. Lễ vật được dâng tặng là “một cái
Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân, dân tộc mình đâu chỉ có anh hùng, dân tộc
nghiên bút bằng đá đen và một cái thuỷ trì cắm bút nho cũng bằng đá đen”.
mình còn rất lãng mạn, rất nghệ sĩ nữa.
Thứ đá làm nghiên và thuỷ trì lấy ở lòng sông Hắc Thuỷ, nó có cái đức tính
Có thể nói, thế giới biểu tượng trong sáng tác của Nguyễn Tuân nói
là ướt quanh năm, chẳng cần cho nước mà lúc nào mài mực cũng được, chỉ
chung, trong Yêu ngôn nói riêng vô cùng phong phú và gợi nhiều ám ảnh,
cần đổ nước mà lúc nào cắm bút vào ngòi cũng mềm dẻo. Người học trò
mang đậm tính nghệ thuật và triết lý. Đó không chỉ là kết quả của sự hiểu
nghèo này ngày xưa vốn ham học, muốn trả nghĩa, báo đáp thầy học bằng sự
biết và vốn văn hoá uyên bác, của lối sống lịch lãm của Nguyễn Tuân. Nó
học hành, thi cử rạng rỡ. Nhưng chẳng may không được làm người nữa thì
còn chứng tỏ ông là con người sống sâu sắc cuộc sống này, luôn biết đặt cả
thác rồi mà vẫn còn “vương tơ” với nghiệp sách đèn, đã gửi gắm nỗi niềm
tâm hồn mình vào đối tượng, sự vật mà ông miêu tả, khám phá. Đó cũng là
của mình vào cả trong nghiên kì, trong bút lạ kia. Hình ảnh này gợi nên
nét đặc sắc trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân.
nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu xa.
2.3.1.3. Tính phóng đại đặc tả
Nguyễn Tuân là người say mê âm nhạc. Từ nhỏ nhà văn đã đắm mình
trong bầu không khí âm nhạc của dân tộc: “Tôi vốn là một người hay la cà
đắm đuối với tất cả những cái gì là đàn, sáo, ca hát… Tôi đã đem một phần
đời văn sĩ của tôi mà đặt vốn vào đàn hát” (Chùa Đàn). Sinh ra trên một đất
nước giàu truyền thống âm nhạc, kết hợp với niềm say mê tự thân, phải
chăng vì thế mà Nguyễn Tuân miêu tả rất sinh động, rất có hồn những họat
Tính phóng đại đặc tả là đặc trưng nổi bật của bút pháp lãng mạn: say
mê cái dị biệt, độc đáo, phi thường. Nguyễn Tuân là nhà văn của chủ nghĩa
lãng mạn, bằng trí tưởng tượng bay bổng và cảm hứng ông đã triệt để sử
dụng nghệ thuật phóng đại để đặc tả cái thế giới bí ẩn, huyển kỳ trong Yêu
ngôn.
động sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật. Và in hằn trên những trang viết ấy là
Trong Rượu bệnh nhà văn xây dựng hình tượng một “kì nhân” không
những hình ảnh đàn đáy, roi chầu, tiếng tơ, tiếng trúc đã trở thành biểu
biết đói, chỉ thấy khát rượu mà thôi. Một người say rượu, khát rượu là kiểu
62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nhân vật quen thuộc trong văn chương: những thi tiên như Lý Bạch, Phạm
biệt, phi thường. Ở Yêu ngôn cũng vậy, những giây phút cuối cùng của Bá
Thái, Tản Đà những hình tượng nhân vật như Tự Lãng; Chí Phèo… nhưng
Nhỡ (Chùa Đàn) khi ôm cây đàn và tấu lên khúc nhạc định mệnh, dường
đến như cái say của Bố Ô thì có một không hai, bởi cái say đã được đẩy đến
như bao nhiêu sức mạnh và tinh hoa của Bá Nhỡ đều dồn vào từng phím
tận cùng. Đến những ngày cuối cùng của cuộc đời, khi bụng dạ Bố Ô chỉ
đàn, mỗi nốt nhạc như đang rứt đi từng miếng thịt trên thân thể Bá Nhỡ và
còn chịu được cái chất ngũ cốc dầm trong nước men, thì Bố Ô triền miên
khi tiếng đàn đạt tới tuyệt đỉnh của nghệ thuật thì cũng là lúc mà máu trong
trong những cơn đói rượu, khát rượu, “mười chén, ba mươi chén, chén nào
cơ thể thấm ra ngoài khiến bộ quần áo trắng của người nghệ sĩ “vụt trở nên
Bố Ô cũng chỉ làm có một hơi, nhanh và ngon như kẻ khát đường vớ được
vóc đại hồng” - một tấm lụa hồng rực rỡ của người phục sức để ăn thượng
nước suối rừng, vục nón xuống mà múc lấy múc để”. Rượu vào đến đâu là
thọ. Hình ảnh uy nghi ấy là hiện thân cho đức hy sinh, bao dung cao cả của
chân lông ông già lại đẫm tuôn mồ hôi ra đến đấy, nhiều dòng nước trắng cứ
một thứ nghệ thuật vì con người.
theo mỗi chân tóc mà tuôn mạnh ra. Đến một lúc, rượu còn làm biến đổi cả
Đọc Yêu ngôn, có thể gặp rất nhiều những kỳ nhân, kỳ vật như thế và
thân hình Bố Ô: “mặt Bố Ô bị rượu chuốt theo hình một cái hũ, cằm dài ra
tất cả đều được Nguyễn Tuân thể hiện bằng bút pháp phóng đại đến tận
đúng đường lượn của cổ hũ, bụng chửa uốn lên như dáng choé và hai cái
cùng. Những hòn cuội có nhân ở suối tiên (Trên đỉnh non Tản) mà nhân ấy
chân thời thật là một đôi nậm… những đường cong,có bao nhiêu đường
là gạo, là cơm, là rượu; những tờ giấy chỉ cần có bàn tay cô Dó chạm vào là
cong nơi thân thể con rượu đều dập đúng những đường lượn của những đồ
có hương thơm và trở nên sang trọng quý giá (Xác ngọc lam); ngọn nến có
vật bằng sứ thuỷ tinh vốn dùng vào việc đựng rượu xưa nay”. Thậm chí, khi
thể thắp sáng trong tranh mà tranh vẫn nguyên vẹn (Lửa nến trong tranh); là
trên người Bố Ô nổi lên những khối ung thư quái dị to bằng quả trứng
cái bóng của Lãnh Út in hằn vào tường bởi ngồi bất động hàng năm trời
ngỗng, lúc vỡ ra thì phì ra thứ nước trắng, cay mà ruồi nhặng hút vào là
thương nhớ vợ, đến nỗi lấy vôi đặc quét lên cũng không xoá đi được…
“đều say ngất đi như bị thuốc mê, cánh cụp lại và chân cẳng co ngửa lên
Chính bút pháp phóng đại đã góp phần tạo nên thế giới hoang đường, quái
giời rụng ngã xuống mặt chiếu”. Nếu Chí Phèo của Nam Cao triền miên
dị, làm cho thế giới không hiểu nổi ấy trở nên lung linh kỳ ảo hơn.
trong những cơn say, cơn say này tràn sang cơn say khác, say vô tận… thì
Bố Ô của Nguyễn Tuân cái say còn khủng khiếp hơn nhiều. Khi bị hoả
hoạn, xác Bố Ô cháy và biến thành một khối men lớn - thứ bột men ấy
Luận văn xin được dừng ở những số liệu cụ thể khảo sát qua tám truyện
của Yêu ngôn.
có thể luyện thành những hòn men để ủ rượu. Đọc những dòng này, phi
Nguyễn Tuân ra, chắc khó có ai có thể tạo được ấn tượng mạnh mẽ đến
như vậy.
Trong văn học kỳ ảo, các nhà văn thường dựng nên những sự hoá thân
lạ kỳ, đó cũng là một cách để tạo nên một hiện thực khác của thế giới dị
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tuân, các nhà nghiên cứu đều giành những lời rất xác đáng để đánh giá: “Sự
1
Khoa thi cuối cùng
Sử dụng yếu tố
phóng đại
x
2
Trên đỉnh non Tản
x
8
Có thể nói quan niệm về cái đẹp, chủ nghĩa duy mỹ, cái ngông của
3
Đới Roi
x
2
người nghệ sĩ, sự chú trọng cáo độc đáo phi thường… đã được cụ thể hoá
4
Xác ngọc lam
x
7
bằng sự chọn lọc, gọt giũa kỹ lưỡng, sử dụng hữu hiệu, vận dụng sáng tạo
5
Rượu bệnh
x
10
ngôn ngữ trong quá trình sáng tác khiến Nguyễn Tuân trở thành người nghệ
6
Lửa nến trong tranh
x
2
sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa.
7
Loạn âm
x
4
Nhà văn là nghệ sĩ của ngôn từ. Nhưng ngôn từ trong tay Nguyễn Tuân
8
Tâm sự của nước độc
x
8
lại có thứ công năng quyền năng riêng, có thể vừa làm kinh động tâm trí
Tác phẩm
TT
Số lần xuất hiện
3
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy tất cả các truyện trong Yêu ngôn đều sử
dụng yếu tố phóng đại, ít nhất là hai lần, nhiều lên tới hàng chục lần. Điều
đó chứng tỏ Nguyễn Tuân rất chú ý tới bút pháp nghệ thuật này để tạo dựng
nên một thế giới Yêu ngôn -một thế giới nghệ thuật đặc thù.
2.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật
“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki). Ngôn ngữ chính
là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng nên tác phẩm, bởi văn học là nghệ
thuật ngôn từ. Nó không chỉ là phương tiện để chuyển tải nội dung mà còn
là nơi người nghệ sĩ thể hiện phẩm chất tư duy cũng như khả năng sáng tạo
của mình. Ngôn ngữ nghệ thuật cũng là con đường trực tiếp để người đọc đi
vào tác phẩm, nắm bắt cho được những thông điệp mà nhà văn muốn gửi
đến bạn đọc.
Trong các nhà văn hiện đại, Nguyễn Tuân không phải là người đi đầu
quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà, nhưng lại có vai trò tích cực
trong việc kế thừa, khẳng định và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Ông là người
say mê tiếng Việt, luôn yêu quý, trân trọng và tìm cách làm giàu có thêm thứ
chín đẹp của văn tài Nguyễn Tuân” (Vương Trí Nhàn); “Nguyễn Tuân là
bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam”. (Mai Quốc Liên)…
con người, vừa gợi cảm đến nao lòng, vừa sắc sảo, biến hoá, vừa lấp lánh
trí tuệ tài hoa. Ông luôn cố gắng khám phá cái linh diệu đáng quý, đáng yêu
của tiếng Việt, biết sử dụng mặt mạnh của ngôn ngữ nhiều ngành nghệ thuật
để làm giàu có thêm tiếng nói cổ truyền của mình, làm cho ngôn ngữ văn
xuôi Việt Nam hiện đại, tinh tế và linh hoạt hơn, khiến những trang viết của
ông có sức hấp dẫn riêng.
Ngôn ngữ nghệ thuật của Yêu ngôn nổi lên những đặc điểm cơ bản sau:
2.3.2.1. Vốn từ giàu giá trị tạo hình, tạo cảnh, gợi không khí.
Nguyễn Tuân là người có biệt tài trong việc gây không khí, dựng bối
cảnh, “phục chế” lại sắc thái phong vị một thời, một lĩnh vực đặc thù bằng
kho từ ngữ giàu có của mình. Hãy xem nhà văn tả một con thuyền chở thợ đi
trong một ngọn suối thần: “Hai con thuyền thoi đi êm như trườn xuống dốc
một ngọn thác mà lòng thác đều lót đầy một lớp rêu tơ nõn.
Ban nãy, lườn áp bến không có một tiếng động róc rách như là khẽ lách
mặt nước mà ngoi từ dưới lên. Bây giờ hai con thuyền thoi đi trong một giấc
mơ thần. Gió sớm nổi lên, mùi nhàn nhạt của nước nguồn, mùi ngai ngái
ngôn ngữ mà ông tự hào gọi là tiếng ta. Nhận xét về ngôn ngữ của Nguyễn
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
của cỏ bồng ải rũ phả mạnh vào mũi thuyền thoi như xuyên cắm sâu mãi
trang văn tuyệt bút. Dự báo cái chết của Bá Nhỡ - người nghệ sĩ dám đặt
vào cái động đặc của mùi sơn lam. (Trên đỉnh non Tản).
cược cả mạng sống của mình vào một cuộc đàn cảm tử, Nguyễn Tuân dùng
Hàng loạt những từ Nguyễn Tuân đã huy động để đặc tả cái không khí
nhiều lối nói khác nhau mà không lời nào tỏ ra non lép, gượng gạo: kẻ sắp
thần tiên thoát tục của chốn thiên thai trong buổi sớm mai tinh khôi: êm,
phải trả nợ đời, kẻ sắp hết làm người, người đang tiêu những giây phút
trườn, lớp rêu tơ nõn, giấc mơ thần, mùi nhàn nhạt, mùi ngai ngái,cỏ bồng,
cuối, những nương dâu xanh um mà mắt người ấy sẽ không được ngó đến
mùi sơn lam…
nữa, những lứa tằm chín như hổ phách mà tay người ấy sẽ không được động
Còn đây là cái chốn Ngàn Thiêng, quê hương của Nữ thần Dó, lúc tiễn
đến nữa… Để làm hiển hiện trước mắt người đọc hình tượng nhân vật Lãnh
cô Dó đi lấy chồng: “Con suối bạc cảm động quá ngừng hẳn lại, không chịu
Út - Lịnh 2910, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra những ngôn từ hiếm thấy trong
chảy xuôi nữa. Lòng suối im ả như gương tàu phản chiếu không nhoè lấy
văn học; người chủ ấp trẻ tuổi gãy gánh tình, lòng kẻ chung tình ấy, người
một đường viền nào… Chúa Rừng cho nổi một con gió nóng tiễn đưa cô Dó
tửu đồ tình chung, người đã được cuộc sống phong lưu bỏ tù vào cái vỏ cá
ra cửa ngàn, con hươu đực đang vươn cổ cao nhìn cô Dó xuống đồng bằng,
nhân tự cưng dưỡng của mình, người đã đem tuổi hoa niên cầm cố cho ma
mỗi lúc một bé dần. Nó quật sừng nó vào cái cây đại có những cành ngang
men, suýt chết vì rượu, người đã chết lây kẻ khác bằng đàn hát sở thích,
và lá to làm bận mắt nó. Cái chấm áo chùm người sơn thần nữ vu quy đã
người đã ốm những trận thập tử nhất sinh vì những cảm giác ma tuý, người
tan lẫn vào cái xanh lớn lao của ngàn già. Bữa ăn chiều ấy, hươu đực ngốn
đã sa đoạ và sám hối, người say cái đẹp, cái say, người tình nhân của cách
tấc cỏ thấy chát đắng. Nương Dó mất giếng hát từ đấy… gốc Dó Thần đổ
mệnh, người tượng trưng cho đời tù của trí thức, say đắm cùng công cuộc,
vật”… Một hệ thống những từ ngữ miêu tả không gian của núi rừng và biểu
vướng lụy vì hoài bão, người đưa cách mệnh lên thành một tôn giáo… Qua
lộ sự gắn bó của nàng Dó với rừng xanh: con suối bạc, Chúa Rừng, cửa
hàng loạt những ngữ nghệ thuật được tung ra ào ạt, người đọc không chỉ
ngàn, Con hươu, ngàn già, chấm áo chàm, nương Dó, gốc Dó thần…
hình dung được lai lịch, hành trạng, quá trình lột xác của một nhân vật mà
Không chỉ tài hoa trong dựng cảnh, Nguyễn Tuân còn có biệt tài tả
người. Đây là ánh mắt của người con gái chèo thuyền trên đỉnh non Tản:
còn cảm thấy rõ giọng điệu ngưỡng mộ của nhà văn đối với nhân vật, dẫu
con người ấy lắm tài nhiều tật. [16,tr 18-23].
“Một cô con gái mắt sắc như dao cau và lạnh như chất kim, lạnh hơn cái
Những nét độc đáo, lạ hoá trong ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã tạo
gây gấy của núi rừng buổi sớm mai dày đặc sương mù”. Đôi mắt sắc và
nên những cảnh tượng, những chân dung rất riêng, không ai có thể bắt
lạnh ấy đâu phải của người trần gian mà là ánh mắt của tiên nữ trên núi
chước. Điều đó tạo nên sức hấp dẫn mãnh liệt đối với người đọc.
Thần, nó khiến người ta nể sợ mà phục tùng.
2.3.2.2. Ngôn ngữ của Yêu ngôn giàu âm nhạc
Nguyễn Tuân có cả một kho chữ nghĩa phong phú và mỗi khi có cảm
Người xưa nói: Trong thơ (văn) có nhạc, có hoạ. Văn của Nguyễn Tuân
hứng mãnh liệt trước sự vật, hiện tượng hoặc con người nhà văn liền dốc
là như vậy. Là người say mê âm nhạc, Nguyễn Tuân không chỉ có biệt tài tả
hết kho chữ nghĩa ấy để chạy đua cùng tạo hoá và kết quả là để lại những
68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tiếng đàn, giọng hát mà ông còn thổi nhạc vào câu văn, tạo nên những trang
khiến người đọc có hứng thú nỗ lực vượt qua những trùng vi ngôn từ để mà
văn xuôi tràn đầy tính nhạc.
nắm bắt cho được cái lõi của sự vật, hiện tượng, để rồi thú vị bất ngờ với
Miêu tả tiếng hát của cô Dó - tiếng hát của thần cây, Nguyễn Tuân viết:
những gì mà nó mang đến. Ở những đoạn văn như thế, nhạc tính được bộc
“điệu hát cô Dó mang máng như lối trong giáo phường đọc phú và nhiều
lộ rất rõ. Hãy xem đoạn văn sau: “Tiếng đàn hậm hực, chừng như không
khúc thì lại có cái âm luật xốc vác của thơ cổ phong năm chữ ngâm bằng
thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kết cái u uất vào tận
giọng bi tráng khê nồng của người hiệp khách gặp đường cùng. Đến một
bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó
đọan sau thì dài hơn, trong trẻo như pha lê và vui như tiếng thông reo giữa
là một nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở
trời nổi gió. Có rờn rợn chăng thì là cái đoạn chót của bài hát. Nó lơ lớ ấm
của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm tức sinh lý của một sự giao hoan
ế, ôi a như cái lối ma hời đưa võng ru con… ”. Tiếng hát của nàng Dó là
lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó
thanh âm của chốn non cao rừng thằm, hoang vu thê lương có, náo nức rộn
là cái dư ba của bể chiều đứt chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành
rã có. Nguyễn Tuân tỏ ra am hiểu sâu sắc về cỏ cây rừng núi. Còn đây là
thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cữ cuối thu dầm dề mưa
những trang tuyệt bút miêu tả cuộc hoà âm chưa từng có của chiếu hát mà
ẩm và nhức nhối xương tuỷ. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành. Nó là
trong đó cô Tơ vừa hát vừa gõ phách, Bá Nhỡ đánh đàn và Lãnh Út điểm
cái lê thê của nấm mồ vô danh hiu hiu ngọn vàng so le. Nó là cái oan uổng
chầu. Ở những trang này, mọi miêu tả âm thanh và hình ảnh được đạt đến
nghìn đời của cuộc sống, thanh âm. Nó là sự khốn đốn của chỉ tơ con phím.
cực điểm của độ chín ngôn từ. Tiếng hát cô Tơ “vượt qua những đỉnh nhọn
Nó là một chuỵện vướng vít nửa vời”. Đây có thể coi là một đoạn văn xuất
của thế giới âm thanh … mọc cánh, thăm thẳm trong trắng tinh khiết quá
thần miêu tả tiếng đàn đầy tâm sự của Bá Nhỡ. Nó độc đáo ở cách tổ chức
pha lê gọt, gọi nước suối đá ngọt ngào dâng lên”. Và tiếng phách của cô
ngữ âm để thể hiện tiếng đàn, ở phép so sánh với những liên tưởng lạ lẫm:
“díu dan như muôn điệu của giống chim”. Tiếng trống của người chủ ấp trẻ
từ những hình ảnh rất xa, rất khác biệt (dư ba của buổi chiều đứt chân sóng,
tuổi thì thật sát phạt, nghe trong đó như “có tiếng đổ nhào của ngói gạch vụn
con gió chẳng lọt mành thưa, là nhức nhối xương tuỷ, là chiếc lá nhào bỏ
rời”. Còn tiếng đàn của Bá Nhỡ thì nghẹn ngào, quằn quại, máu ở đầu ngón
lìa cành…), chúng được nối với nhau bằng những kênh liên tưởng xa lạ,
tay tuôn ra theo nhịp đàn. Bộ ba ấy lẫn vào nhau trong một giao hoà âm
ngoắt ngéo và vẫn hài hoà.. Hình ảnh so sánh đã lạ lùng, thêm vào đó là
nhạc “tựa như thể hiện ba mặt của một quá trình nghệ thuật: nghệ thuật với một
nhiều từ được dùng rất mới khiến cho những câu văn mở ra biết bao liên
đích đến nhân sinh (Cô Tơ), sáng tạo nghệ thuật với nỗi hoan lạc tự thân (Lãnh
tưởng mà trước đó người đọc không ngờ tới. Đoạn văn viết về tiếng tơ, tiếng
Út), và tâm huyết dồn vào cuộc sáng tạo ấy (Bá Nhỡ)” [ 30, tr14 - 144]
trúc tuyệt với của người nghệ sĩ tài hoa trác tuyệt, lại được Nguyễn Tuân
Đọc văn Nguyễn Tuân, độc giả luôn bị kích thích bởi những câu chữ
kiến tạo thành hình ảnh so sánh trong kênh liên tưởng của âm nhạc, đọc lên
mới mẻ, lạ lùng của ông. Dường như nhà văn không thoả mãn với lối diễn
mà như lắng nghe được nỗi tức tưởi, nghẹn ngào, u uất của một cuộc ra đi
đạt thông thường, giản dị, ông tìm tòi những cách thể hiện độc đáo, tân kỳ
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mãi mãi bằng thanh âm. Những câu văn của Nguyễn Tuân như có nhạc là
ca trù “về những con người vừa trầm luân trong hôn ái, đàn ca, và rượu, lại
thế. Nó làm chúng ta tự hào về cái thanh địêu phong phú của tiếng Việt.
vừa khát khao vượt thoát ra ngoài cõi mê ấy” [30, tr 114 - 144]. Quả thực
2.3.2.3. Tạo lớp từ chuyên biệt phong phú
Nguyễn Tuân xứng đáng được tôn vinh là “bậc thầy về ngôn ngữ” “thầy
Có thể nói Nguyễn Tuân là người có cách đặt tên, đặt từ mới và tạo lớp
chữ Nguyễn Tuân” “chuyên gia tiếng Việt”.
từ chuyên biệt rất đặc biệt mà cách nào cũng thông minh, hóm hỉnh, sắc
2.3.2.4. Lớp từ Hán Việt tạo không khí cổ kính:
nhọn, gây ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Mọi vật qua cách miêu tả của
Có nhà nghiên cứu đã nhận xét: Những khi người ta chỉ hạ những chữ
Nguyễn Tuân không chỉ được nhìn theo con mắt của người nghệ sĩ mà còn
thông thường, thì ông trương lên những chữ thật hiếm gặp, những chữ gốc
được gọi tên riêng theo cách của nhà văn nữa. Hãy xem Nguyễn Tuân đặt
Hán mà phải loại bặt thiệp, thông thái lắm mới biết dùng. Quả thực, trong
tên cho các thứ rượu chuyên dùng của “người tửu đồ tình chung” Lãnh Út.
Văn Nguyễn Tuân, từ Hán Việt chiếm tỷ lệ rất cao, hơn thế nữa, đó lại toàn
Đúng là “lắm thứ tên nghe không thôi đã muốn đem cái vui, cái buồn trong
là những từ khó hiểu, lạ tai, nghĩa của chúng chưa phổ cập trong ý thức số
lòng gởi ngay vào đấy”. Đó là những cái tên: Vô Cố nhân, Mê Thảo Hầu,
đông người Việt. Tuy nhiên, lớp từ Hán Việt được sử dụng đúng lúc, đúng
Thuần Hoành Quận Chúa, Ức Sấu Viên. Không cần hiểu tên những thứ
chỗ tạo không khí cổ xưa trang trọng. Tả không khí chốn tường ốc xưa, thì
rượu kia có nghĩa là gì, cứ đọc câu văn lên, “đã nghe lòng đó cái âm hưởng
không gì thú vị hơn là dùng từ Hán Việt. Đoạn văn sau đây đã đưa người
khác lạ, vang, buồn, bí hiểm, kì dị, cổ kính, sang trọng”. [ 16, tr 18-23]
đọc vào nghi thức của trường thi: “tại khu trường thi Nam Định, các quan
Những từ ngữ Nguyễn Tuân sử dụng mang đậm phong cách Nguyễn
làm lễ tiến trường. hai chiếc lọng vàng nghiêng phủ xuống lá cờ và tấm
Tuân. Khi tả tiếng đàn đáy của Bá Nhỡ, ông dùng hàng loạt từ của nhà trò
biển có đề chữ “phụng chỉ” “khâm sai”, bốn cây lọng xanh ghé thấp tịt
miêu tả động tác đánh đàn: vê, chụp, lẩy, vuốt, nhấn, những tiếng thoảng,
xuống một cái đầu bạc đại khoa. Mùi nghi vệ phảng phất ít hôm trước thì
những tiếng xoè…. Miêu tả cảnh hoả thiêu tửu phần trong đêm Lãnh Út
sớm nay đã nổi dậy trên khắp một mảnh đất mà mọi khi chỉ có gió chạy trên
quyết sinh ly với đàn hát, với rượu, đoạn tuyệt với quá khứ, Nguyễn Tuân
hoa cỏ may hiu hắt từng cơn”.
viết: “Đêm phóng hoả tửu phần, thảo mộc chim muông vùng Mê Thảo bị
Tạo nên một không gian âm u, quái đản miêu tả cuộc gặp giữa Kinh
một trận say lây, cây cành cỏ lá đều miên man rũ rượi, rầu nhũn. Thú ngàn
Trịnh và Quan ôn Lương, những người vốn xuất thân nơi của Khổng sân
rống to lên như cảnh động rừng. Chim bị say cánh cụp cứng lại mà lìa khỏi
Trình, Nguyễn Tuân đã sử dụng một cách đắc địa những từ Hán Việt:
tổ, rụng xuống đất như quả chín rời cành mẹ”. Từ cái mồ rượu bị hoả thiêu,
“Quan lớn có thương yêu kẻ thôn dã áo vải này được điều gì trong đức
nhà văn dùng hàng loạt những từ cùng trường nghĩa say: say lây, miên man,
hạnh liêm cẩn hoặc trong tính tình cao khiết mà giáng lâm để luận đàm
rũ rượi, rầu nhũn, say cánh cụp cứng, quả chín rời cành mẹ… để thấy muôn
đôi chút. Về lời chư sư chư hiền nơi cổ thư vào lúc tĩnh, vắng đây thì kẻ
vật, cả đất trời bị một phen say mềm đến thế nào. Ngay cả cái kết cấu ba
thất phu tôi xin được hầu chuyện và kể cũng đã là may lắm rồi. Còn như
phần của Chùa Đàn đã là một bản ca trù có cả dựng, cả mưỡu cuối, một bài
chuyện quan lớn nhận cho là có tình ruột thịt thì trong họ tôi đây, cả bên nội
72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
lẫn bên ngoại thực cũng ít người có chữ mà được điều hiển đạt” (Loạn
Trong “Yêu ngôn”, Nguyễn Tuân đã tìm được giọng điệu phù hợp
riêng để thể hiện chủ âm giọng điệu trữ tình.
âm).
Có thể nói, không ai dùng từ Hán Việt tài như Nguyễn Tuân cũng chưa
Trong sáng tác văn chương, các nhà văn nhà thơ thường sử dụng
có cây bút nào vượt được Nguyễn Tuân trong việc gợi không khí cổ kính.
phương thức trữ tình để bày tỏ những trạng huống tình cảm, tâm hồn mình
Đó là kết quả của sự khổ công tìm tòi mà nhờ đó, nhà văn có thể bộc lộ
trước thế giới, tạo vật. Trữ tình là phương thức “phản ánh đời sống bằng
rõ nhất tính cách, văn khí, tình điệu, sở trường của mình trong một giọng
cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy
riêng khó lẫn.
mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế
2.3.3. Giọng điệu
giới và nhân sinh [10, tr 136].
Giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác
Trữ tình là giọng điệu nghệ thuật cơ bản được Nguyễn Tuân sử dụng
phẩm. Nếu như trong đời sống, ta thường chỉ nghe giọng nói là nhận ra con
trong suốt quá trình sáng tác mà nổi bật là ở tậpYêu ngôn. Trân trọng, nâng
người, thì trong văn học cũng vậy, giọng điệu giúp ta nhận ra tác giả. Có
niu những giá trị văn hoá cổ truyền của cha ông xưa, viết về một thời vang
điều giọng điệu ở đây “không đơn giản là một tín hiệu âm thanh có âm sắc
bóng, giọng địêu của Nguyễn Tuân đầy vẻ lắng sâu, da diết. Đây là cái
đặc thù để nhận ra người nói, mà là một giọng điệu mang nội dung tình
không gian gợi nhiều ấn tượng cho những nho sinh còn mê mải nghiệp đèn
cảm, thái độ ứng xử trước các hiện tượng đời sống” (Trần Đình Sử). Trong
sách “Hoè hoa hoàng, cử tử mang. Thấy dặm hoè ngả màu vàng, lòng
tác phẩm văn học, giọng điệu nghệ thuật giữ vai trò hết sức quan trọng. Mỗi
những người có chữ bắt đầu bận bịu. Dưới mảnh trời sụt sùi, hoè vàng nở
nhà văn có giọng địêu riêng. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, tình
đều làm ấm lại lòng người sĩ tơ tưởng đến sự hiển đạt về sau này. Màu vàng
cảm, thái độ, thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò to lớn trong việc tạo
của sắc hoa nơi dặm hoè dài đã nhắc bao nhiêu học trò vùng Sơn Nam hạ
nên phong cách mỗi nhà văn. Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo
nghĩ đến cái màu vàng một tấm giấy cáo trục phong tặng hoặc là phần
của nhà văn. Vị thế của nhà văn cũng tạo ra giọng điệu. Nhà văn đặt mình ở
hoàng mai sau cho hai đấng sinh thành”. Những câu văn nhiều thanh bằng,
vị thế nào thì sẽ có giọng điệu thích hợp với vị thế đó. Nếu nhà văn có cảm
đọc lên mà như lắng nghe, cảm nhận được những xúc động sâu lắng trong
hứng chính luận phê phán thí thì sẽ có giọng điệu lên án, tố cáo. Truyện đau
tâm tưởng một con người quá gắn bó với những gì thuộc về thời xa xưa ấy.
thương đòi hỏi giọng buồn, ngậm ngùi, truyện hài hước thì giọng đùa vui,
Đọc Yêu ngôn, những trang viết về cảnh núi non sông nước hay cảnh
phố phường chợ búa, những gì là linh hồn của ngàn xưa đất nước bao giờ
giễu cợt…
Nguyễn Tuân là nhà văn được “trời phú” cho rất nhiều khả năng trong
giọng văn Nguyễn Tuân cũng trĩu nặng yêu thương và tự hào. Đó là những
việc bộc lộ giọng điệu. Có giọng trào phúng, có giọng trữ tình và đặc biệt là
cửa ô thân quen của đất kinh kỳ: “Ông cụ không bỡ ngỡ với một cửa ô nào
giọng khinh bạc… mỗi giọng điệu ở mỗi thời điểm có những biểu hiện khác
cả, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Giấy, Ô Yên Phụ, Ô quan Chưởng, Ô Đống Mác, Ô
nhau nhằm hướng tới một mục đích nghệ thuật.
Cầu Rền, cửa ô nào đối với ông già cũng đều là một cái quê hương”. Câu
74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
văn liệt kê những cửa ô nhưng không là phải đếm cho đủ, mà liệt kê bằng
Còn đây là niềm xót thương trước người nghệ sĩ đang đổi mạng sống
một giọng đầm ấm xúc động những địa danh đã góp phần làm nên bản sắc,
của mình để lấy tiếng đàn: “Bá Nhỡ ngồi trước mặt kia, sinh mệnh chỉ còn
diện mạo của mảnh đất nghìn năm văn hiến.
dính vào cuộc đời bằng một vài khổ đàn nữa thôi. Tắt bản đàn là cuộc đời
Là nhà văn luôn tôn thờ cái đẹp, luôn khát khao vươn tới cái đẹp,
người đang xuống cái đầu gẩy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn. Hơi tơ thiểu
Nguyễn Tuân say mê và thích thú khi khám phá cái thế giới bí mật của ngàn
não như lời gửi gấm giối giăng. Nó buồn rộng ra nhoè quá một tiếng lên
xanh - đỉnh non Tản - và tô đậm hơn cái màu sắc huyền ảo vốn có của
đường. Thôi thì đây cũng là những tiếng cuối cùng của đời”. (Chùa Đàn).
truyền thuyết xưa: “Thần núi và vị hoàng tử Nước kia đã là hai tình địch,
Có thể nói Yêu Ngôn với giọng địêu trữ tình là giọng chủ đạo đã mang
một thiên tình sử thoát phàm trong cái mơ hồ vô tận ở tít trên một chỏm non
vẻ đẹp riêng trong phong cách của Nguyễn Tuân. Khác với các tùy bút, các
xanh, ở tít tận dưới đáy thủy cung. Hai kẻ tình thù mỗi lúc đánh ghen nhau
truyện khác thường có giọng khinh bạc, sâu cay hoặc trào phúng giễu nhại,
thì muôn ngàn sinh linh đồ thán. Mỗi một kỳ đánh ghen, nước các vùng lại
Yêu ngôn có giọng điệu chủ yếu là giọng trữ tình ấm cúng đôn hậu, bắt
đổ về như thác và dâng cao mãi lên, đỉnh non Tản muốn cho khỏi ngập dưới
nguồn từ sự xúc động của nhà văn về con người, cảnh vật, biểu hiện những
làn nước ghen oán, lại có dịp để ngoi cao thêm nữa, thêm mãi. Trời, bao giờ
tình cảm đã được lắng sâu, chiêm nghiệm, thích hợp để tạo một không khí
cho nàng công chúa đẹp kia mất tích hẳn đi để Nước ấy và Núi kia được trở
Liêu trai huyền kỳ và sự luyến tiếc những vẻ đẹp xưa cũ.
lại với sự yên nghỉ muôn thuở ”. Say đắm trước vẻ đẹp của tạo vật, giọng
văn Nguyễn Tuân vang ngân như một bài thơ đẹp tràn đầy cảm xúc.
Ở Yêu ngôn thế giới nhân vật phần nhiều là những con người dị biệt,
Chƣơng 3
độc đáo khác thường. Với những con người tài hoa, nghệ sĩ nhất là những
SỰ DUNG HỢP THĂNG HOA CỦA CÁI ĐẸP
người lận đận trong cuộc đời, bao giờ Nguyễn Tuân cũng giành cho họ tình
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN
cảm trân trọng nhưng mang đầy nỗi niềm day dứt buồn thương. Nhà văn
mượn tâm trạng của nhân vật ông khách để ngậm ngùi trước cuộc đời Ấm
Đọc tác phẩm Nguyễn Tuân, điều dễ nhận thấy là ông hết sức nâng
Đới - một kiếp tài tử đa truân: “Lòng ông khách đi chi tiền hát cũ ra về, giờ
niu, trân trọng và khao khát cái đẹp. “Ông luôn muốn mỗi ngày sống, mỗi
mới thấy ngậm ngùi cho cuộc sống của làng chơi lúc xế chiều, tiền hết sức
trang đời của mình cũng là một trang nghệ thuật. Đó là thái độ thẩm mĩ đặc
khoẻ hết, cái tài hoa còn giữ lại được thì cũng chỉ là thừa. Ông nghĩ hộ cho
biết riêng của ông đối với cuộc sống” [27, tr 534]. Giới nghiên cứu phê bình
người, ông nghĩ luôn thể về riêng ông. Ông thấy rằng ca và nhạc và cái
đã dành những lời trân trọng nhất để đánh giá về điều này trong sáng tác của
thanh sắc ở người đàn bà là cái thực đấy, nhưng đã có bao giờ những cái ấy
Nguyễn Tuân: “ Một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp” (Thạch Lam);
có thể trở nên một cái bền tốt cho một đời sống của tình cảm. Ở đấy gió giời
“Nguyễn Tuân người đi tìm cái đẹp, cái thật” (Nguyễn Đình Thi); “ Nguyễn
chúa hay giở mặt, nước nông mà lại hay có sóng ngầm ” (Đới Roi).
Tuân, nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa” (Hoài Anh); “ Phong
76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có yếu tố bao trùm và là yếu tố bất biến từ
Vào nhà ông “ người ta tưởng đấy là một nhà bảo tàng chứa tranh Tầu”.
trước đến sau cách mạng tháng Tám: đó là tư tưởng suốt đời săn tìm cái
Tiền của mỗi vụ cà phê thu về rất nhiều nhưng ông đều cho đi mua tranh
đẹp của con người” [27, tr194]... Trân trọng, chắt chiu cái đẹp trong
hết, đến nỗi “ người ta ngờ việc mở đồn điền chỉ là một cái cớ và mục đích
cuộc sống cũng như trong nghệ thuật- Con người tôn thờ Nghệ Thuật
muốn đạt được thì phải là một bảo tàng Viện cổ họa Trung Quốc kia”. Đã từ
với hai chữ viết hoa đó đã có những phát hiện hết sức mới mẻ, vừa tinh
rất lâu rồi, ông ao ước được sở hữu một bức tranh quý, “nó vẽ một ông
tế vừa hấp dẫn về cái đẹp nhiều khi khuất lấp và mơ hồ trong cuộc đời.
tướng già đang ngồi xem sách đêm trong quân trướng. Trên án sách có một
Đặc điểm này thể hiện phong phú và luôn sống động trong nhiều sáng
ngọn nến cháy trên đế son. Góc phải bên án, có vẽ một thanh bảo kiếm tuốt
tác của Nguyễn Tuân trong Yêu ngôn.
trần ghếch lên cái hộp tướng ấn...”. Và lần này, để thỏa nguyện, ông cho
3.1. Cái đẹp và những giá trị văn hóa:
người đi lùng bằng được bức tranh dù phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn. Khi
3.1.1. Trân trọng tài hoa và cái đẹp:
bức cổ họa được đưa về, niềm hạnh phúc tràn trề của ông lại bị thay bằng
Là người say mê cái đẹp, Nguyễn Tuân luôn bày tỏ lòng ngưỡng mộ
nỗi thất vọng bởi bức tranh không còn nguyên bản, nó đã bị đánh tháo mất
những cốt cách tài hoa nghệ sĩ, những con người có tư thế sang trọng bởi
ruột, nghĩa là cái chỗ quý giá nhất đã không còn. Ông không tiếc tiền mà “
sinh ra trong một đất nước có hàng nghìn năm văn hiến. Ngay từ thưở Vang
chỉ hận tiếc mình đã chẳng có duyên với vật báu”. Và để cho bức tranh cổ
bóng một thời , Nguyễn Tuân đã đi vào những chủ đề thách đố đối với văn
họa được một lần cháy sáng, ông đã chấp nhận sự hi sinh, đem tranh Hàn
chương mà ít nhà văn dám bước vào: nghề ăn chơi, nghề đao phủ, nghề trộm
Kỳ ra “ châm lửa nến thí nghiệm” để cho công chúng một phen được thưởng
cướp, nghề uống trà, nghề thả thơ, nghề đánh thơ, nghề sống... và Nguyễn
thức cái lạ kỳ của bức cổ họa đó. Người chủ đồn điền quả thực là con người
Tuân đã nâng tất cả những ngành nghề ấy lên hàng nghệ thuật. Gắn với
có lối tiêu khiển trang nhã, một lối sống văn hóa tuyệt vời thanh cao. Qua
những nghề ấy là những con người dù họ trong sạch, thanh cao hay tăm tối,
hình tượng này, Nguyễn Tuân dạy người ta nghệ thuật sống để tận hưởng
mê lạc, tội lỗi, dù họ là ông Huấn Cao, cụ Kép làng Mọc, cụ Sáu hay là Bát
cái ý vị tinh túy, sâu sắc của cuộc sống.
Lê, Lý Văn, Phó Kình..., thì những con người ấy đều có một điểm chung,
Những nhân vật chính diện trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đều là
chung nhau chữ nghề, họ là những tay nghề, những nghệ sĩ trong nghề của
những con người hiện thân cho sự phong nhã, thanh cao, “ những con người
mình, trung thành với cái đẹp. Tiếp tục quan niệm ấy đến Yêu ngôn, những
tài hoa, nhiều tình cảm, kinh lịch nhiều, sống kỹ lưỡng, sống rộng rãi không
con người tinh hoa độc đáo, tài hoa nghệ sĩ cùng các thú chơi, lối sống của
bao giờ chịu gò bó vào một khuôn khổ nào nhất định” [27, tr 54]. Người ta
kẻ mang phong vận kỳ tài vẫn là những nhân vật lí tưởng của Nguyễn Tuân.
có thể nghĩ đến một chủ đề về văn hoá nhân cách, rải khắp những trang văn
Người chủ đồn điền trong Lửa nến trong tranh là một con người đặc
Nguyễn Tuân và ngay cả trên những trang kỳ dị Yêu ngôn. Ấm Đới (Đới
biệt. Có một sản nghiệp đáng giá nhưng niềm đam mê của ông không phải là
Roi) có một cuộc đời đậm chất tiểu thuyết. Thuở trai trẻ phong lưu, Ấm Đới
việc làm giàu. Ông có một cái “cốt tài tử”, đó là thú ham sưu tầm tranh cổ.
nặng lòng với chữ tình. Cậu say cô Tám như điếu đổ. Để làm đẹp lòng tình
78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nương, Ấm Đới đã lấy bộ chén ngọc liệu của nhà thờ họ chuyên dùng vào
các cây bút đương thời. Ông chia thế giới nhân vật của mình theo tiêu chí
việc giỗ kỵ, “đem bán đắt bán rẻ đi sắm giường Hồng Kông” để cô Tám ngủ
thẩm mỹ. Tất cả những nhân vật chính diện được ông mô tả như những tâm
cho đỡ đau lưng, còn bao nhiêu thì “uống sâm- banh dần với tình”. Con
hồn nghệ sĩ tài hoa. Còn những nhân vật phản diện hiện lên như những kẻ
người ấy cũng thật tài hoa trong làng chơi: đánh trống, chơi đàn...Cái gì
phàm phu tục tử, thô lỗ, ngu độn, dốt nát, chỉ biết phụng sự đồng tiền.
cũng hay. Rồi cuộc sống đến lúc xế chiều, tiền hết, sức khỏe hết, cái tài hoa
Những nhân vật có tâm hồn tài hoa nghệ sĩ được ông thể hiện rất phong phú,
còn giữ lại được thì cũng chỉ là thừa, “tài tình như thế cũng hóa ra hão
sinh động, đa dạng. Họ rất đẹp, nhưng luôn khiến người đọc bị ám ảnh bởi
huyền”, Ấm Đới lâm vào cảnh cùng đường, “giờ sống bằng nghề chuốt roi
cảm giác mong manh, dễ đổ vỡ, dễ tan biến. Đó phải chăng là sự bạc mệnh
chầu và vót gọng ô nan hoa xe đạp làm tiêm bán cho các tiệm”. Tên gọi Đới
muôn đời của tài hoa . Những vẻ đẹp ấy như được bao bọc bởi một màn
– Roi từ đấy mà ra. Cái tên ấy cũng thực xứng với cái tài chuốt thứ roi chầu
sương mờ ảo có thể tan biến bất cứ lúc nào, và khi đó nó chỉ còn để lại chút
quý. Ấm Đới có đôi roi chầu mà “ đánh đến một nghìn bài Thét Nhạc rồi mà
vang bóng một thời.
đời một cái roi vẫn cứ lành vẹn”. Đôi roi được tạo nên “ một cây bằng gỗ
3.1.2. Tái hiện những khung cảnh sống, những nét đặc thù văn hóa.
Khổng, một cây bằng gỗ Nguyệt Quế. Roi gỗ Khổng khắc cả một bài Hữu
Nguyễn Tuân sinh ra tại phố Hàng Bạc, giữa nơi ba mươi sáu phố
Sở Tư chữ lệ và riêng mấy câu “ mỹ nhân hề mỹ nhân – Bất chi vi mộ Vũ hề
phường nghìn năm của Hà Nội. Quê ông ở ngoại thành, làng Mọc, một vùng
vi chiêu vân – Tương tư nhất dạ...” thì viết theo lối hành thư. Roi gỗ Nguyệt
đất quê nổi tiếng của nhiều danh nho đời cũ. Thân sinh của ông là một nhà
Quế khắc một câu Thiên Thai Thanh đào bạch thạch dĩ thanh trần”. Đó là
nho tài hoa đậu khoa thi Hán học cuối cùng. Từ nhỏ ông đã được sống trong
những nét khắc tinh xảo, là cái tình với đàn, với trống với kỹ viện của Ấm
nền văn hóa dân tộc, với những cảnh sắc, phong tục, nền nếp, với cách ăn ở
Đới. Khi sa cơ, gặp người khách biết cái giá trị của đôi roi chầu, Ấm Đới
vui chơi từ một thời xưa đang tàn dần. Có thể nói Nguyễn Tuân là một tài tử
cũng chỉ bán đi một cây, còn một cây giữ làm kỷ niệm cho cái đời đàn hát
nhà nòi, đã sống thật chín cái cái nếp sống của một thời vang bóng kia và cái
của mình. Ấm Đới có thể chuốt loại roi chầu gỗ găng tầm thường kém giá trị
hồn dân tộc, cái chất văn hóa truyền thống của dân tộc đã ngấm vào máu thịt
để kiếm sống, nhưng lại không chịu sống bằng lòng thương hại của người tri
nhà văn. Điều đó đã tạo nên một Nguyễn Tuân luôn biết trân trọng cái đẹp,
kỷ. “ Đới – Roi hiểu Vy thương mình lắm. Nhưng gắn cái thân mình vào đời
cái quý của văn hóa. Khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê
Vy chàng thấy là buộc một quả chì vào đời người ta để rồi mà chịu ơn đời
hương đất nước hay những cái có thể tưởng tượng nhớ đến quê hương đất
đời. Mà từ sau phút này, từ chối Vy nữa, chàng thấy sống là một sự hết cả
nước, ông viết tinh vi và sâu sắc” (Vũ Ngọc Phan). Những giá trị tích cực
vui”. Người nghệ sĩ cùng đường ấy đã chọn cái chết để chấm dứt cuộc sống
nhất của sáng tác Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám là tinh thần dân
vô vị, để nguyên vẹn một nhân cách. Cái cốt cách sang trọng ấy cũng có thể
tộc biểu hiện qua việc khai thác và gìn giữ cái đẹp truyền thống.
thấy ở Bá Nhỡ (Chùa Đàn), ở Bố Ô (Rượu bệnh). Qua hàng loạt nhân vật
Cái phong vị thắm đượm trên nhiều trang viết của Nguyễn Tuân là
trong Yêu ngôn, có thể thấy Nguyễn Tuân quan niệm về con người khác hẳn
tấm lòng gắn bó máu thịt ân tình với văn hóa dân tộc – từ cảnh vật, không
80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
khí của quê hương đất nước cho đến nếp sống, điệu cảm quen thuộc với mỗi
nghệ thuật, nếu chưa phải là trà đạo thì chí ít cũng phải là nghệ thuật của ẩm
người Việt Nam.
thực; một nét chữ được viết ra sao để nó không chỉ là nghệ thuật thư pháp
Nguyễn Tuân là một nhà văn “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc
mà nét chữ ấy còn là nét người, là cái chí, cái hoài bão tung hoành của đời
Phan) và chính ông cũng tự “ cảm thấy lòng tôi vẫn là một tấm lòng An
người; cách ra chữ để đố một câu thơ, làm sao để chữ ấy có thần nhất, tài
Nam hoàn toàn giữa một ngày 29 tết” [55, tr 286].
hoa nhất...Tất cả những kiến thức ấy là hồn dân tộc, là chất Việt Nam, văn
Tinh thần dân tộc ở Nguyễn Tuân là nội lực chủ yếu giúp ông hồ hởi
hóa Việt Nam, đến Yêu ngôn không hề vơi cạn đi mà ngược lại vẫn hết sức
“ lột xác”, là mãnh lực níu ông lại trên triền dốc xê dịch ăn chơi để giữ mình
đậm đà và có thêm những diện mạo phong phú hơn. Ý thức dân tộc, lòng
khỏi thành sa đọa. Thẳm sâu trong ông thắm đượm tình cảm với từng chút
yêu nước ở Yêu ngôn thể hiện bằng tình yêu cái đẹp quá khứ hiện diện trong
hương xưa của đất nước. Trong văn chương Việt Nam, Nguyễn Tuân là
không gian, thời gian, cảnh vật, con người, đời sống quá khứ, từ Xác ngọc
người đầu tiên làm sống lại thời cũ với những vẻ đẹp riêng, cũng là người
lam, Trên đỉnh non Tản, Khoa thi cuối cùng, Rượu bệnh. Trong Rượu bệnh
luôn quan tâm đến những giá trị văn hóa cả vật chất lẫn tinh thần thuần túy
nhà văn đã tái hiện một khung cảnh Hà Nội xa xưa mà rất đỗi quen thuộc
dân tộc như vậy. Những trang đượm phong vị Việt Nam ấy, như giáo sư
với những cửa Ô, cảnh buôn bán tấp nập trên bến dưới thuyển, cảnh những
Hoàng Như Mai nhận định, đã “ bảo tồn, lưu truyền những tinh hoa của dân
cô gái gánh hàng rong đi bán khắp phố phường, những người hành khất nay
tộc... là phong độ, là lối sống của con người Việt Nam từ nghìn xưa mà
cửa ô này mai cửa ô khác sống nhờ vào lòng thương của người đời mà cốt
nghìn sau có trách nhiệm phải thừa kế, tài bồi”.Ở những trang tuyệt bút của
cách vẫn rất hào hoa, để rồi khi vắng bóng họ thì phố phường chợt trở nên
Yêu ngôn nhà văn luôn nung nấu thiết tha một nỗi niềm dân tộc. Dẫu Gốc
hoang vu lạnh lẽo, thiếu sinh khí... Ở Khoa thi cuối cùng nhà văn giúp ta
Dó thần đã kết tinh thành nàng tiên ngọc (Xác ngọc lam) thì nàng tiên ngọc
biết cách chọn một tờ giấy, một cây bút, một thỏi mực thật đúng cách cho sĩ
ấy vẫn cần ăn chất vỏ dó, cần được sưởi ấm bằng chất đó quê hương: “ Hồn
tử và trường thi: bút lông phải là thứ bút “ Tảo Thiên Quân lông trắng”; mực
đá này phải ăn chất vỏ dó”, thiếu dó thì dẫu có là thần tiên thì cũng sẽ chết
viết phải là “ thỏi Hoàng Tam Xương vàng” giấy phải là “ giấy lịch Bưởi”...
khô. Tinh túy của cái đẹp là gì nếu không phải là đã kết tinh từ cội nguồn
Nhà văn không chỉ tỏ ra am hiểu sâu sắc về giấy bút mực nơi trường ốc mà
văn hóa dân tộc. Văn hóa là một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại.
còn như đặt cả tâm hồn mình vào những tên gọi xa xưa đầy chất văn hóa ấy!
Với Nguyễn Tuân, quá khứ là nơi hội tụ những tinh túy của tâm hồn Việt,
Và không chỉ có vậy Khoa thi cuối cùng còn tài tình biết bao khi dựng
văn hóa Việt. Trong “ Vang bóng một thời” người đọc được đón nhận bao
không khí một mùa thi với sự náo nức, tất bật của sĩ tử. Năm nay nhà nước
nhiêu kiến thức văn hóa tinh tế: pha một ấm trà như thế nào để có được một
lại mở khoa thi, có những ông đồ già râu tóc đã ngả màu vì sự đùa nhả của
chén trà ngon, để trong chén trà ấy có sự kết đọng của trời, của đất, của
công danh đánh lừa suốt mấy phen, chuyến này cũng cố chen ra hồ vớt lấy
sương đêm, của hương hoa...và đặc biệt là cả tấm lòng, cả tâm hồn của
một chút phấn hương cuối chầu của triều đình. Trường Hà Nam hợp thi
người pha trà, để uống trà không chỉ là chuyện ăn uống mà trở thành cả một
khoa Mậu Ngọ còn nhộn nhịp gấp mấy khoa Ất Mão trước và đây là cảnh
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trường thi vô cùng quen thuộc người đọc từng gặp trong thơ Tú Xương, thơ
Đó chính là văn hóa Việt, tâm hồn Việt mà Nguyễn Tuân biết kế thừa
Nguyễn Khuyến, trong “ Lều chõng” của Ngô Tất Tố. Đây là cảnh tượng
khai thác, phát huy để làm nên cho Yêu ngôn một thế giới nghệ thuật riêng,
trong Khoa thi cuối cùng: khi tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh,
rộng dài hơn rất nhiều chủ đề huyễn tưởng ma mị vốn là một kiểu tư duy
thân hình các nho sinh “chỉ là một thân cột cứng đờ mà sự thi cử đã mắc vào
nghệ thuật đặc thù của Yêu ngôn.
đấy biết bao nhiêu thứ múi, dây lòng thòng, dây lều, dây chõng, dây buộc bộ
gọng, ống quyển...”
3.2. Triết lý nhân sinh, chiều sâu nhân bản:
Văn học nhận thức và phản ánh cuộc sống con người, thể hiện tư
Làm nên một đất nước Việt Nam cổ kính, không thể không nhắc tới
tưởng tình cảm, ước mơ và khát vọng của nhà văn. Tác phẩm văn học là nơi
những làng nghề thủ công truyền thống. Trong Yêu ngôn thấy hiện lên khá
nhà văn kí thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mĩ.
dồi dào “bách nghệ trong nước” lừng danh thiên hạ không chỉ bởi cái đẹp
Những tác phẩm văn học có chiều sâu luôn dành cho người đọc những điều
mà còn bởi sự tài hoa của bàn tay con người, bởi sự “lành nghề” của một
mới mẻ để phát hiện, chiêm nghiệm, suy ngẫm bởi đó là “thông điệp thẩm
dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến. Có thể nói làm nên linh hồn những
mỹ” mà tác giả gửi đến cho bạn đọc. Với Yêu ngôn, các vấn đề văn hóa, lịch
trang viết tài hoa nhất của Nguyễn Tuân là một tình cảm dân tộc thiết tha
sử, số phận con người mà Nguyễn Tuân đặt ra đã đạt tới tầm triết lý nhân
gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của đất nước mà tổ tiên ông bà
sinh, tới chiều sâu nhân bản. Cả tám truyện của Yêu ngôn đều thể hiện sâu
đã gửi gắm lại. Nguyễn Tuân xứng đáng được gọi là nhà văn của một dân
sắc điều đó và điều này góp phần không nhỏ vào việc tạo nên tính chất đặc
tộc có văn hóa, có thẩm mĩ.
biệt “một mình một cõi” của tác phẩm.
Không chỉ ở Vang bóng một thời mà trong Yêu ngôn dù là truyện ma
Trên đỉnh non Tản đưa người ta vào một chốn Thiên Thai – cõi tiên
thì vẫn là truyện ma của một thời đã lùi vào quá vãng, cái thời còn có những
kỳ ảo- mà con người được chiêm ngưỡng, được tận hưởng trong một dịp
anh khóa văn hay chữ tốt nhưng trời không cho đỗ đạt nên bị hồn ma báo
hiếm hoi. Đó là thế giới của ngọt ngào huyền diệu, của sự bất tử vĩnh hằng
oán; cái thời mà các lò giấy làng Hồ Khẩu chuyên chế loại giấy ngự chỉ tiến
mà muôn đời con người vẫn mơ ước. Những người thợ mộc Chàng Thôn
vua và đóng quyển thi cho các sĩ tử, cái thời mà sách vở thánh hiền còn in
với đôi tay tài hoa của họ đã từng chạm tới cái đẹp vĩnh hằng ấy như trong
bản gỗ, bìa đánh cây, gáy sơn son và người có chữ nghiêm trang ngồi đọc
một giấc mơ để rồi khi tỉnh lại thì giấc mơ ngọt ngào biến mất. Họ trở về
bên chiếc lư trầm tỏa làn khói nhạt; cái thời mà sơn thần Tản Viên thường
cuộc đời thực với bao nuối tiếc và đối diện với những bất trắc của số phận.
xuống cõi trần gọi thợ lên sửa đền trên đỉnh Ba Vì sau mỗi lần đụng độ dữ
Giấc mơ chốn bồng lai tiên cảnh là một ảo ảnh luôn chập chờn trước mắt họ,
dội của hai kẻ tình địch. Mượn câu chuyện người thợ được thần núi Tản
tưởng như gần đấy mà lại khó nắm bắt, nó giống như những hòn cuội có
triệu lên dựng đền, Nguyễn Tuân cho độc giả thấy các sức mạnh bốn nghìn
nhân trên thế giới bí mật của non Tản, khi “ đem thả vào bát nước mưa...lấy
năm của dân tộc, khí thiêng sông núi vẫn còn đó, vẫn lẫm liệt uy nghi.
thìa múc uống thấy say ngát vô cùng”, nhưng khi đã “hạ sơn” đã “ăn cơm hạ
giới” thì người ta chỉ “còn phảng phất mà thôi”.
84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Giấc mơ bao giờ cũng đẹp, còn đời thực thì lại quá đỗi bình thường,
Gần gũi với triết lý sống ấy, truyện Loạn âm đặt ra vấn đề lối sống ân
thậm chí ẩn chứa đầy bất trắc. Mỗi người thợ mộc khi đã hạ sơn đều đem
nghĩa, có trước có sau. Cũng là một hồn ma hiện về dương gian nhưng quan
theo trong mình một lời đe doạ của Thần Non cao- một con dao bằng lá trúc
ôn họ Lương không đi tìm kẻ đã khiến mình bị thác oan để báo thù. Khi “
có phép thuật kết liễu cuộc đời kẻ nảo dám tiết lộ bí mật của ngàn xanh. Và
hành hạt” về dương thế tuyển lính bắt phu, quan ôn Lương muốn tìm cơ hội
thế là giấc mơ mãi mãi chỉ là giấc mơ, đẹp đấy nhưng không bao giờ con
để đền đáp ân tình lòng thương của thày học cũ, đã tiết lộ danh sách “ nạn
người nắm giữ được.
nhân sẽ bị bắt làm phu đinh ở cõi âm”, ngỏ ý muốn giúp Kinh Trịnh – con
Với Khoa thi cuối cùng (hay là Báo oán) người đọc có thể thấy câu
trai của thày học, cũng là bạn đồng môn cứu vớt thân thích của ông. Khi
chuyện đậm màu sắc triết lý của dân gian về sự quả bảo “đời cha ăn mặn,
kinh Trịnh chối từ, quan Ôn Lương đã phật ý, coi đó như hành vi gián tiếp
đời con khát nước”. Một người thiếp tài hoa bị chết oan uổng, kẻ “thất đức”
đoạn giao, định rũ áo bỏ đi. Trước tình thế ấy, Kinh Trịnh đành nhượng bộ,
đã khiến lòng nàng chất chứa đầy oán giận, muốn “ cho nó bị tội cả nhà”.
chỉ xin cho kẻ tiểu bộc hầu hạ mình, bởi “ cố nhân gia ơn cho mà không
Nỗi hận ấy nàng trút vào cả hai người con trai của chồng: Đầu Xứ Anh và
nhận thì thật là lỗi với đạo bằng hữu”. Như vậy trong Loạn âm, Nguyễn
Đầu Xứ Em. Hai nho sinh tài hoa, tuấn tú, giỏi giang chữ nghĩa, vậy mà cả
Tuân còn đặt ra vấn đề “ quan hệ con người trong gia ân và thụ ân” [30, tr
anh và em hễ bước chân vào chốn trường thi là bị những cơn đau tối tăm
114 - 144]. Người được nhận ơn thì không muốn “ chuyện ẩn nặc có thể gây
mặt mũi, trời đất thì đảo điên và oan hồn của người đàn bà hiện lên quấy
lụy” cho quan Ôn Lương lúc thừa hành công vụ, sự từ chối xuất phát từ cái
phá. Họ đều trở thành những kẻ hỏng thi trong kì thi cuối cùng - Điều ấy
tâm của kẻ sĩ, không để tư tình can dự và hủy hoại đạo trời (mà cũng là đạo
đồng nghĩa với sự chấm dứt của một danh gia vọng tộc bởi con đường duy
người, dẫu cho tư tình ấy ở mức cá nhân – thân thích hay ở cấp độ cộng
nhất để một nam tử lập thân chỉ có thể là con đường khoa bảng. Một khi sự
đồng). Con người gia ân thì chỉ một tâm nguyện: khi có cơ hội thì thi ân là
thi cử thất bại thì con đường hiển đạt cũng đóng lại trước họ. Thế là chỉ vì
điều nên làm, bởi “ cái thế tôi có thể làm được thì mới nói”. Tấm lòng của
việc làm sai quấy của người cha mà hậu quả “ kẻ khát nước”, “kẻ gặt bão”
quan ôn Lương thật thiết tha, sâu nặng, làm cảm động Kinh Trịnh con người
lại chính là thế hệ sau của họ. Có lẽ chính vì ý nghĩa sâu sắc của truyện mà
liêm chính chưa bao giờ “ làm điều gì khuất tất trong lòng”. Người đọc Loạn
Khoa thi cuối cùng còn có tên gọi là Báo oán, cái ân oán dai dẳng của hồn
âm có thể nhận ra một sự hư cấu rất thú vị: Nguyễn Tuân hình dung và lí
oan đòi được báo thù. “Ân đền, oán trả”, là triết lý sống muôn đời của nhân
giải việc nhân gian chịu cảnh tang tóc thê thảm (vốn do thảm sát ôn dịch –
dân với mơ ước về một lẽ công bằng ở đời nhưng qua trí tưởng tượng của
bệnh dịch tả) là bởi dưới âm phủ thiếu phu đắp đường, “ giao thông ở dưới
Nguyễn Tuân, triết lý ấy trở nên đượm màu sắc ma mị, huyền hồ, khiến
âm bây giờ bận rộn lắm. Các oan hồn thác xuống nhiều quá, không tiêu tan
người đọc “ không thể hiểu nổi” đâu là thực, đâu là hư cấu mà nhà văn sáng
hết... nên ngày đêm họ nhan nhản trên đường” Để mở thêm đường Diêm
tạo nên.
Vương tuyển lính và bắt phu của dương thế. Sự tưởng tượng thật chất phác
hồn nhiên như dân gian nhưng lại giàu chất hiện thực: những đại dịch gieo
86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
rắc cái chết tàn khốc cho con người vốn không ít trong lịch sử. Có thể nói
dỗi cả với những vật dụng cần thiết hàng ngày do đời cơ khí chế tạo ra”.
những chi tiết như thế in đậm dấu ấn tài hoa trong bút pháp của Nguyễn
Một tuần sau tang lễ vợ, Lãnh cho dựng chòi canh quanh ấp, ai vào ấp “ đều
Tuân.
bị dân hàng ấp giữ lại khám xét rất kĩ xem có giắt theo vật dụng gì có tính
Tác phẩm văn chương vốn đa nghĩa. Tính đa nghĩa phức tạp của Yêu
cách máy móc không”. Khi nghe tin người Pháp sẽ mở rộng đường sắt men
ngôn được bộc lộ đậm nét trong Xác ngọc lam, trong Chùa Đàn và ngay cả
theo chân ấp Mê Thảo, Lãnh Út mất ngủ đến nửa tháng và định sẽ bán rẻ ấp
trong Đới Roi hoặc Lửa nến trong tranh cũng vậy. ở Đới Roi nhân vật Ấm
rồi lùi vào rừng. Thái độ phản ứng của Lãnh Út có phần tiêu cực, bởi đâu
Đới đã tiêu cả sự nghiệp vào giọng hát tiếng đàn để rồi trở thành kẻ sa cơ lỡ
phải tất cả những gì là thành tựu của văn minh cơ khí đều xấu mà ngược lại
vận, kiếm sống bằng nghề chuốt roi chầu. Phải chăng qua cuộc đời của con
nó thúc đẩy sự phát triển của xã hội, thời đại. Tuy nhiên, về một phương
người này, Nguyễn Tuân muốn nói tới sự tha hóa của một kiếp rong chơi tài
diện nào đó, thái độ của Lãnh Út cũng có thể được người đọc cảm thông
tử? Và cái chết dữ dội của Ấm Đới chính là tiếng nói cuối cùng của lòng tự
chia sẻ. Câu chuyện muốn nhắc nhở rằng, văn minh cơ giới, ở mặt trái của
trọng để trở thành một trang nam nhi coi trọng tình người. Ấm Đới thà chọn
nó cũng gây nên những đau khổ cho con người (vợ Lãnh Út chết bởi tai nạn
cho mình một kết cục bi kịch là cái chết chứ không muốn trở thành gánh
xe hỏa là một ví dụ). Vấn đề đặt ra là làm thế nào để dung hòa cân bằng
nặng của người khác, không muốn sống trong sự thương hại của người đời-
giữa cuộc sống tự nhiên với văn minh cơ giới.
dẫu người đó có là hồng nhan tri kỷ. Cái chết của Ấm Đới đã hoàn trả cho
Nhưng điều Nguyễn Tuân muốn gửi gắm qua bi kịch của Lãnh Út
chàng một nhân cách chính trực, khẳng khái, để ở cõi âm chàng là một hồn
không chỉ có thế. Nỗi đau mất vợ không chỉ khiến Lãnh Út quay lưng lại với
ma tài hoa tài tử vẫn nặng lòng với nhịp trống tiếng đàn.
những tiến bộ của thời đại văn minh cơ khí. Nội tâm trầm uất đã dẫn Lãnh
Cùng với Vang bóng một thời, Chùa Đàn được đánh giá là tác phẩm
Út tới những hành động bạo ngược, trở thành kẻ “ tai ngược”, “gàn dở”,
văn xuôi độc đáo, có cấu trúc nghệ thuật toàn bích. Người đọc có thể tìm
thành một “ bạo chúa” trong con mắt dân ấp Thảo. Dân phu nhọc nhằn ca
thấy trong Chùa Đàn những thông điệp sâu sắc, đó là sự tương đố và tương
thán: “chơi lạ chỉ có Chúa Trịnh ngày trước mới như thế”. Những người dân
giao giữ cuộc sống tự nhiên và văn minh cơ khí; bi kịch và phục sinh; bế tắc
ấp vốn trước đây trọng sự hào phóng trong đối đãi của chủ, thì giờ đây họ là
và lối thoát, cá nhân ích kỷ và cộng đồng...
nạn nhân hứng chịu mọi sở thích quái gở, thất thường của chủ ấp. Lãnh chúa
Bi kịch của Lãnh Út khởi đầu từ “ tai nạn đoàn hỏa xa lật úp xuống
ấy đã cơ hồ mất cả nhân tính, trở nên bạo ngược. Đoạn văn tả đoàn người
vực gần hầm Sen ga Liên Chiểu” khiến người vợ trẻ của Lãnh Út tử nạn. Sự
theo lệnh của Lãnh Út còng lưng đánh cây gạo cổ thụ từ suối Vầu qua sông
kiện thảm khốc ấy đã khiến Lãnh Út trở nên “ một kẻ thù ghê gớm của thời
Tấm về ấp vào ngày giỗ của vợ chủ đã thể hiện đầy đủ sự ngông cuồng
đại cơ khí” . Phản ứng của Lãnh Út với văn minh cơ giới là sự phản ứng
trong con người này: những trai tráng lực lưỡng là thế mà phải oằn người,
quyết liệt: Đầu tiên, Lãnh Út quay lưng với tiến bộ: “Thời đại khoa học phát
xiêu vẹo “như xống ngọn cỏ bị gió lùa mau”, mồ hôi nhễ nhại và mình đầy
sinh ra được máy móc nào là Cậu ngoảnh mặt đi đến đấy. Thậm chí Cậu dằn
thương tích, để đưa được thứ cây chẳng có giá trị gì về trồng trước nhà, chỉ
88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
để thỏa mãn một kiểu giỗ vợ quái lạ của Lãnh Út. Như vậy vấn đề nhà văn
tình yêu vẻ đẹp cuộc sống, vẻ đẹp của những nghề truyền thống cũng là một
đặt ra ở đây còn là vấn đề con người cá nhân ích kỷ và cộng đồng. Lãnh Út
chủ đề nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Đó là những nhà nho cũ đã
thực sự trở thành kẻ mê lầm, mông muội, thành kẻ thù của cộng đồng cần
lui về với vườn tược, hàng ngày “ phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý”, lấy cái trí
được thức tỉnh và cứu rỗi. Chính Bá Nhỡ đã gánh lấy cái trách nhiệm ấy để
cái tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng kia
Chùa Đàn hiển lộ một chủ đề khác: bi kịch và phục sinh, bế tắc và lối thoát.
(Vang bóng một thời). Con người nồng hậu ân cần nâng niu hoa bởi hoa là
Khi người chủ trại như hóa dại sau cái chết của vợ, Bá Nhỡ muốn chủ
báu vật là tinh túy của trời đất: tưới rượu cho hoa, đánh đàn thập lục trước
“ tục huyền với đời sống” bằng cách thỏa mãn tất cả với ước muốn dù là vô
những giò lan nở... Đến khi chủ gặp gia biến thì lan cũng tạ chủ, cả cỏ cây
lý nhất của chủ: bồi rượu, bình cổ văn, ngâm thơ Đường, diễn tuồng, hát
Túy lan trang cũng đều một loạt ủ rũ để tang cho người (Vườn xuân lan tạ
chèo, đóng đủ loại vai, “sắm hết vai nam lại sắm qua vai nữ, một mình
chủ). Con người và thiên nhiên có mối giao hòa của tình tri kỷ. Đến Xác
không làm vui nổi cho cậu Lãnh thì Bá Nhỡ nhờ đến đoàn thể chuyên
ngọc lam thì vấn đề mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, tình yêu vẻ
nghiệp, dựng nhà rạp rồi tìm phường ca công...Lúc chủ ấp thôi tất cả những
đẹp cuộc sống với tư cách một triết lý nhân bản nhất lại được Nguyễn Tuân
trò ấy, cả thể xác và tâm hồn “ đã đến cái bực lì”, thì hậu quả thật thê thảm.
bao phủ trong lớp khói sương huyền ảo thơ mộng của mối tình lãng mạn
“Thân hình cậu Lãnh khô sắt chẳng khác gì thân hình kẻ vận hỏa tâm ra để
giữa một đôi trai tài gái sắc, mối tình của nàng Dó – linh hồn của ngàn
tự diệt mình...còn cả khối óc thì hình như đã trót cầm cho Rượu và cho
thiêng cao cả - với cậu Năm, người con trai của dòng họ Chu chuyên làm
Tương Tư, cầm lâu ngày quá đến không chuộc được về rồi”. Để thức tỉnh
nghề giấy ở làng Hồ Khẩu bên Hồ Tây. Say mê thanh sắc và tiếng hát huyền
Lãnh Út lúc này, cần phải có một chấn động mạnh mẽ, và Bá Nhỡ quyết
hồ của cô Dó, cậu Năm đã quyết đi tìm lên đến chỗ cỏ cây muôn năm xanh
định liều mình, cầm cây đàn định mệnh vào cuộc chơi mà biết chắc phải trả
tươi, đòi gặp bằng được người con gái của rừng xanh. Cảm động trước tấm
giá bằng sinh mạng của mình. Lựa chọn sự phục sinh cho Lãnh Út tức là
chân tình của người con trai vùng xuôi, cô Dó đã từ biệt rừng xanh, theo cậu
phải chọn cái chết cho mình. Bá Nhỡ đã trải qua sự trăn trở dữ dội đến bạc
Năm xuống núi, về với nước Hồ Tây và đá phiến làng Hồ Khẩu “lấy cái
trắng cả mái đầu và cuối cùng trở thành người nghệ sĩ mà tài hoa chỉ sáng
xanh của nước thay tạm cho cái xanh của lá, lấy cái lành vững của đá thay
lên một lần rồi tắt lịm, chỉ là sự hy sinh cuối cùng vì sự sống của một người
cho cái mềm lạnh của cây” . Người sơn nữ thần vu quy, nương Dó mất tiếng
khác. Chính cái chết đẹp – chết vì nghĩa tình ấy của Bá Nhỡ đã hồi sinh
hát, gốc Dó Thần đổ vật. Cái đẹp đã ra đi, đất này trơ lại những héo sầu,
Lãnh Út, kéo Lãnh Út ra khỏi cái chết từ từ, quyết định “ sinh ly” với đàn
nhưng mà từ nay ven Hồ Tây và trên dòng sống Tô Lịch lại có tiếng cô Dó
hát, cắt đứt nguồn “ nước độc” đoạn tuyệt với quá khứ, trở thành “ người
bây giờ xuống hát dưới đồng bằng. Hát riêng cho cậu Năm nhà họ Chu
tình nhân của cách mạng”.
nghe thôi. “Ái tình và cần lao” khiến vợ chồng cậu Năm vui vẻ. nói khôn
Nhiều trang viết của Nguyễn Tuân tạo cho người đọc niềm thích thú
nên lời. Ở ven Hồ Tây, cảnh đêm đông không còn lặng lạnh nữa. Đêm đêm
trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên,
cậu Năm làm giấy và cô Dó cũng lách mình ra khỏi đá nghè giấy giúp
90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
chồng.Từ đấy lò chế giấy nhà cậu Năm trở nên nổi tiếng, giấy thơm và đẹp
Thương tiếc cho cái đẹp vốn mong manh là một chủ đề truyền thống
lên. Biết đó là cái công ơn của người vợ hiền đã nhiều đêm cần cù vì mình,
của văn chương Đông Tây kim cổ. Trong Yêu ngôn, đây là vấn đề xuyên
cậu Năm “đê mê vì chân hạnh phúc và thú cần lao”. Niềm hạnh phúc lứa đôi
thấm qua nhiều tác phẩm, từ Xác ngọc lam, Chùa Đàn, Lửa nến trong tranh,
bền vững trong cuộc đời lao động đã tạo nên những điều kỳ diệu, khiến giấy
Trên đình non Tản... Như vậy, chiều sâu nhân văn trong Yêu ngôn, đó còn
nhà họ Chu lên ngôi với phẩm chất sang trọng, quý phái bởi ở đó hội tụ tất
là sự tôn vinh cái đẹp, đồng thời cũng là những cảm nhận tinh vi của tác giả
cả những gì là tinh hoa nhất của thiên nhiên, của con người. Đến khi nàng
về sự mong manh của cái đẹp trên đời.
Dó sa vào tay kẻ vụ lợi, “đê hạ”, sự tham lam ô trọc đã giết chết nàng. Thần
Ông Tây già Lê Bích Xa – bậc thầy chơi đồ cổ ở truyện Lửa nến
Dó chết thì linh hồn của nghệ thuật làm giấy cũng ra đi theo nàng. Dù Nàng
trong tranh khao khát có đựoc bức tranh cổ vẽ tướng Hân Kỳ bên ngọn bạch
Dó có là thần tiên thì sự sống của nàng vẫn không thể thiếu được chất dó
lạp. Thưở còn đương chức, muốn giữ sự trong sạch của lương tâm, ông đã
của quê hương. Nghề làm giấy của dòng họ Chu sa sút dần và rồi trở thành
từ chối tặng vật chính là bức tranh này. Giờ đây ông đã có được báu vật, báu
câu chuyện cổ tích. Tình yêu cuộc sống, yêu vẻ đẹp của những nghề truyền
vật đã ở trong tay ông một cách đàng hoàng, chính đáng, cái đẹp đã thuộc về
thống và sự am hiểu sâu sắc cái hồn của dân tộc của dân tộc đã khiến
ông, ông là chủ nhân của cái đẹp toàn bích đang trong tay ông, trong tầm
Nguyễn Tuấn viết nên những trang văn thấm đẫm chất thơ. Từ câu chuyện
mắt ông. Nhưng sự đời thật oái oăm, cái đẹp tưởng như đã nắm bắt trong tay
này, Nguyễn Tuân đã gửi đến người đọc một thộng điệp thiết tha: hãy nâng
lại bất ngờ tuột đi mất. Bức tranh đã bị tháo mất ruột bởi một kẻ sành chơi
niu trân trọng thiên nhiên, hãy đối xử với thiên nhiên một cách có văn hóa;
tranh nào đó và dẫu có muốn cũng chẳng biết nó lạc vào đâu mà săn tìm.
một khi con người phũ phàng, tàn bạo với thiên nhiên (như hành động vô
Cuộc đời là như thế, cái đẹp mong manh, khó nắm bắt, nó chập chờn tưởng
tình của Chiêu Hiện hay hành động cố tình của Huyện Khỏe) thì thiên nhiên
như gần đấy mà hóa ra lại hư ảo, xa xôi. Và sự săn đuổi cái đẹp là một trò ú
sẽ dời bỏ con người, từ chối nâng đỡ con người và kết cục sẽ là hậu quả bi
tim không có hồi kết. Khúc Vĩ thanh lơ lửng ấy như khích lệ, như giục giã
thảm mà con người phải gánh chịu. Triết lý nhân sinh này đâu chỉ có ý nghĩa
con người tham gia vào một hành trình đầy gian nan, mà cũng vô cùng háo
một thời đó còn là vấn đề của muôn đời.
hức thích thú. Cũng ở Lửa nến trong tranh, nhà văn cũng rất tinh tế đề nghị
Nghệ sĩ là người say mê cái đẹp. Chính sự nhạy cảm với cái đẹp và
với người đọc về một thái độ văn hóa đối với nghệ thuật. Người chủ đồn
cách nhìn sự vật nghiêng về góc thẩm mỹ ấy đã góp phần tạo nên một
điền tài tử, sau khi đã hi sinh một cách không xứng đáng bức tranh quý cho
Nguyễn Tuân “ khao khát cái đẹp trong trời đất và muốn được thấy một tí
một công chúng tầm thường, chỉ biết quý những cái thiết thực quá, đến nỗi
đẹp ấy ngay trong lòng mình, trong một ngày hằng sống và tin tưởng”. Khát
gần như dửng dưng với nghệ thuật, đã khẳng định: “Họ phải chịu lấy sự
vọng mà nhà văn muốn vươn tới và thể hiện trong tác phẩm của mình là cái
hình phạt nặng nề nhất là suốt đời chỉ là những người thô tục”. Đó chính là
đẹp và chỉ cái đẹp mà thôi. Suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Tuân
tiếng nói tôn vinh giá trị của nghệ thuật và ý nghĩa của thưởng thức nghệ
khao khát vươn tới cái đẹp, tôn thờ cái đẹp.
thuật trong cuộc sống con người.
92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nếu Lửa nến trong tranh là sự săn đuổi cái đẹp không có hồi kết thì
“trước hát cho dăm bảy kẻ nghe trong một khung cảnh ích kỷ, ốm yếu, giờ
Chùa Đàn lại đi liền với một triết lí: Cái đẹp có khi hiện lên rõ và sáng nhất
hát cho cả một quê hương đang vi vu gió mới và lồng lộng một trời cao rộng
ngay trong bi kịch để rồi sau sự huỷ diệt, nó lại tái sinh trong một hình hài
chói lòa”. Triết lý sống ấy cũng thể hiện một thái độ quyết liệt của nhà văn
khác. Khi Bá Nhỡ ôm cây đàn bước vào cuộc chơi tuyệt mệnh cũng là lúc vẻ
trong việc “diệt hết những con người cũ” trong bản thân mình và kêu gọi
đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ tỏa sáng rực rỡ. Có nét gì đó thật gần gũi
một thái độ sống mới, thể hiện sự hào hứng tin tưởng đón chào cách mạng.
giữa Bá Nhỡ và Huấn Cao (trong truyên Chữ người tử tù) trong giây phút
Đó là tấm lòng của Nguyễn Tuân với cuộc đời.
cuối cùng của cuộc đời. Họ cùng sáng tạo ra cái đẹp vào khoảnh khắc mà
Nói về thân phận mong manh của cái đẹp, Yêu ngôn cũng nói nhiều
cái chết đang đến trong từng giây phút. Bá Nhỡ đánh đàn, mỗi âm thanh
đến cái chết của những kiếp tài hoa tài tử (tài tử nào rồi cũng chuốc lấy cái
vang lên đều như được rứt ra từ xương thịt của Bá Nhỡ. Người nghệ sĩ ấy đã
chết, cái chết của họ dường như tiền định). Xét đến cùng, nói đến cái chết,
đi đến tận cùng của khát vọng dâng hiến cho cái đẹp. Hành trình thác sinh
cách chết cũng là để dựng lại một kiếp sống, một thân phận và một cách
trong nghệ thuật quả là một hành trình bí mật, đầy huyền hoặc, đam mê.
sống ở đời. Một thứ triết lý nhân sinh thầm lặng cất tiếng qua những cái chết
Cái đẹp chào đời, người nghệ sĩ đã thoát xác để đạt tới cực điểm nghệ thuật,
của nhân vật Yêu ngôn. Nguyễn Tuân xem đó là cách để chiêm nghiệm các
thì cũng là lúc họ ký vào bản án tử hình của chính mình. Ở phương diện
giá trị đích thực, ý nghĩa của cuộc sống. Giữa sống, chết, tình yêu và nghệ
này, Chùa Đàn có thể được xem như một tượng đài tôn vinh nghệ thuật, tôn
thuật tồn tại một mối liên hệ kín đáo khiến tác phẩm mang màu sắc huyền
vinh cái đẹp. Một ngôi chùa mọc lên một năm sang ngày Bá Nhỡ mất. Chùa
ảo, hấp dẫn.
dựng lên để tưởng nhớ người quản ấp nọ. Chùa chưa kịp có tượng Phật thì
Là một nghệ sĩ tài năng, với kiến thức uyên bác và tâm hồn nhạy cảm,
ở sau bát hương đã đặt “một tảng gỗ đẽo có ngọn vút lên”, trông xa như một
Nguyễn Tuân đã làm nên một thế giới nghệ thuật riêng trong Yêu ngôn mà ở
gốc trầm, lại gần nhìn kỹ thì là cả một cây đàn đáy với những nét chính của
đó thiên nhiên, con người, tâm hồn dân tộc, văn hóa, lịch sử, số phận con
nhạc khí tạc vào gỗ mộc. Chính vì thế mà dân ấp gọi đấy là Chùa Đàn. Chùa
người... đặt ra trong tác phẩm của ông đã đạt tới tầm triết lý nhân sinh, tới
không chỉ để tưởng nhớ một con người đã hết lòng vì nhân sinh mà còn là
chiều sâu nhân bản. Đó chính là cái gốc bền vững làm nên sức sống cho
tượng đài tôn vinh cái đẹp. Cái đẹp có thể bị huỷ diệt nhưng cái đẹp luôn bất
sáng tác của Nguyên Tuân giúp tác phẩm của ông sống đời sống của cái
tử, bởi chính sự hy sinh này của Bá Nhỡ đã phục sinh cho một kiếp mê lầm.
đẹp một cách mãnh liệt và tinh tế.
Lãnh Út thề độc không bao giờ còn nghe đàn hát và cầm lấy một chén rượu
nào trong cuộc đời này. Anh ta bỏ ấp, xuất dương, tìm con đường cách
mạng. Con người đã từng sống trong cái vỏ cá nhân, từng suýt chết vì rượu
vì đàn hát nay đã hướng vào cái Đẹp, cái Say khác để thành người “tình
nhân” của cách mạng. Đó là cái đẹp của đấu tranh, của phụng sự, để hát –
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
PHẦN KẾT LUẬN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thực gần gũi. Là một nhà văn thèm khát những cảm giác mới lạ, mãnh liệt,
ông đã tìm cách phóng thoáng khỏi cái ranh giới hiện thực quen thuộc để tạo
nên một thế giới khác - thế giới Yêu ngôn. Đó là thế giới của những cảnh
1. Nói đến Nguyễn Tuân, người ta nghĩ ngay đến thể tuỳ bút mà ông
làm chủ và ngự trị như một thể văn đặc sắc của đời văn ông. Nhưng Nguyễn
Tuân còn là một cây bút truyện ngắn đặc sắc. Tập truyện ngắn Vang bóng
một thời với tư cách là tác phẩm đầu tay của ông đã được Vũ Ngọc Phan tác giả Nhà văn hiện đại đánh giá là “một tác phẩm gần đạt tới độ toàn thiện,
toàn mỹ”. Trong văn nghịêp Nguyễn Tuân còn có một mảng truyện đặc biệt,
chúng kết hợp và hình thành nên một thể tài riêng - thể tài Yêu ngôn với những
truyện đặc sắc như: Khoa thi cuối cùng, Rượu bệnh, Đới Roi, Xác ngọc lam,
Loạn âm, Lửa nến trong tranh, Trên đỉnh non Tản và đặc biệt là truyện vừa
Chùa Đàn - một tác phẩm xứng đáng được xếp vào hàng kiệt tác của văn xuôi
nước nhà.
tượng kỳ thú mê hoạch, của sự nhoà lẫn hai cõi âm - dương, của sự chung
sống chuyện trò vui buồn giữa ma và người.
Đây cũng chính là phương thức tư duy nghệ thuật đặc thù của Yêu
ngôn. Với phương thức ấy, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
trong Yêu ngôn cũng mang những nét độc đáo. Đó có thể là một không gian
quen thuộc của một làng nghề, một trường thi, một cửa ô Thăng Long xưa…
Cũng chính ở đây người ta thấy được những khung cảnh thân quen của làng
quê Việt Nam, tâm hồn Việt Nam. Đồng thời các chất liệu hiện thực ấy
được lọc qua lăng kính huyền kỳ để trở thành quái dị hơn, ám ảnh hơn. Thời
gian nghệ thuật cũng được xây dựng bằng những thủ pháp nghệ thuật để trở
thành hư ảo, vĩnh hằng và cũng là thời gian chất chứa đầy tâm trạng.
Chọn đề tài “Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn
Tuân”, luận văn mong muốn làm rõ một thế giới nghệ thuật độc đáo trong
văn Nguyễn Tuân, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, vốn được nhìn nhận chủ yếu ở thể tùy
bút cùng với thành tựu đỉnh cao của tập truyện ngắn Vang bóng một thời.
Đồng thời nghiên cứu Yêu ngôn cũng là để làm rõ những giá trị, những kinh
nghiệm và truyền thống của loại “truyện kỳ ảo” đang tiếp tục được vận dụng
trong văn học đương đại, qua đó hiểu thêm và đánh giá đúng hướng đi này
của văn học đương đại.
Yêu ngôn mở ra cả một thế giới nhân vật dị thường với những tính cách
phi thường. Đó là những con người tài hoa nhưng lận đận, những con người
thân phận nghèo hèn mà cốt cách nghĩa khí thuỷ chung. Thế giới nhân vật
ma của Yêu ngôn cũng đặc biệt có sức ám ảnh, nó đóng vai trò như chiếc
cầu nối giữa hai thế giới âm dương và chính nó cũng là cái bóng phản quang
của cuộc đời và số phận con người. Cũng nằm trong xu hướng đẩy mọi sự
vật, hiện tượng đến chỗ khác thường, dị biệt của chủ nghĩa lãng mạn và của
tư duy nghệ thuật Nguyễn Tuân, trong Yêu ngôn người ta còn gặp những
cảnh, những vật dị kỳ. Những kỳ nhân, kỳ vật ấy là sản phẩm của trí tưởng
2. Với Yêu ngôn, Nguyễn Tuân đã thực sự tạo ra một cõi riêng trong
loại truyện ma quái, kỳ ảo đương thời và một cõi riêng ngay trong văn
chương của ông. Những trang tuỳ bút Nguyễn Tuân dù dài, rộng không
tượng phong phú, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của Yêu ngôn.
Nhiều truyện của Yêu ngôn là sự nối dài, mô phỏng truyện dân gian và
truyền kỳ của văn học truyền thống, nhưng lại rất hiện đại trong cách kể
gian, phức tạp lòng người thì vẫn là những gì quen thuộc, vẫn là những hiện
96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên