Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC ĐỊA DANH THUỘC HUYỆN VÕ NHAI (THÁI NGUYÊN) TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.64 KB, 64 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------

TRƢƠNG THỊ MỲ

ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC ĐỊA DANH
THUỘC HUYỆN VÕ NHAI (THÁI NGUYÊN)
TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ

TRƢƠNG THỊ MỲ

ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC ĐỊA DANH
THUỘC HUYỆN VÕ NHAI (THÁI NGUYÊN)
TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC

MÃ SỐ: 60 22 01

MÃ SỐ: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC TỒN

THÁI NGUYÊN - NĂM 2009

THÁI NGUYÊN, NĂM 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1




LỜI CẢM ƠN

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong
bất cứ công trình nào.

Luận văn này hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của của PGS. TS
Nguyễn Đức Tồn. Em xin gửi đến thầy lời cảm ơn sâu sắc.
Luận văn là kết quả của một quá trình học tập. Vì vậy em xin bày tỏ
lòng biết ơn đến những người Thầy, người Cô đã giảng dạy các chuyên đề
Cao học cho lớp Ngôn ngữ khóa 2007-2009.

Tác giả luận văn


Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp, đặc biệt là các
em học sinh các trường THPT và nhân dân huyện Võ Nhai (Thái Nguyên),
những người đã giúp đỡ tôi nhiệt tình trong quá trình thực hiện luận văn.

Trương Thị Mỵ
Tác giả luận văn

Trương Thị Mỵ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................. 8
I. TÍNH THỜI SỰ CỦA ĐỀ TÀI ................................................................................... 8
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGIÊN CỨU ............................................................. 9

1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 9
2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 9

III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ .................................................................................. 10
1. Tình nghiên cứu địa danh trên thế giới ............................................... 10
2. Tình hình nghiên cứu địa danh ở Việt Nam ....................................... 12
3. Vấn đề nghiên cứu địa danh của Võ Nhai .......................................... 15
IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................ 15
1. Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................ 15
2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 16
V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN .................................................................. 16
VI. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................... 16
VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN ................................................................... 17
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH DANH VÀ
ĐỊA DANH HỌC .....................................................................................................18
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊNH DANH NGÔN NGỮ ................................. 18
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH ........................................ 21
1.2.1. Định nghĩa về địa danh ................................................................ 21
1.2.2. Phân loại địa danh theo tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên ......... 22
1.2.3. Vị trí địa danh học trong ngôn ngữ học ........................................ 23
1.2.4. Hƣớng tiếp cận và phát triển khi nghiên cứu địa danh Việt Nam . 24
1.3.ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊNH DANH NÓI CHUNG VÀ ĐỊA DANH NÓI RIÊNG ..... 24
1.3.1. Về nguồn gốc của các định danh .................................................. 24
1.3.2. Về kiểu ngữ nghĩa của các định danh ........................................... 25
1.3.3. Cách thức biểu thị của các định danh ........................................... 26
1.4. TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ......................................................................... 29
Chƣơng 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA ĐỊA DANH
VÕ NHAI ....................................................................................................................31
2.1. VẤN ĐỀ TƢ LIỆU THỰC TẾ CỦA ĐỊA BÀN, ĐỊA DANH VÕ NHAI ........... 31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4




2.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện Võ Nhai ............................ 31
2.1.2. Phân loại địa danh Võ Nhai theo tiêu chí tự nhiên- không tự nhiên . 37
2.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA CÁC ĐỊA DANH THUỘC VÕ NHAI ............ 39
2.2.1. Xét theo nguồn gốc ngôn ngữ .......................................................... 39
2.2.2. Đặc điểm của các địa danh thuộc Võ Nhai xét theo kiểu ngữ
nghĩa của chúng ........................................................................................ 43
2.2.3. Đặc điểm của các địa danh thuộc Võ Nhai xét theo cách thức biểu thị
của chúng .................................................................................................. 44
2.2.4 Đặc điểm việc chọn đặc trƣng làm cơ sở cho việc đặt các địa danh
thuộc Võ Nhai ............................................................................................ 51
2.3. KIỂU MÔ HÌNH CẤU TẠO PHỨC THỂ ĐỊA DANH VÕ NHAI ................... 53
2.3.1 Mô hình cấu trúc phức thể địa danh Võ Nhai ................................... 53
2.3.2. Phân tích thành tố chung trong phức thể địa danh Võ Nhai ............ 55
2.4.2. Đặc điểm một số kiểu cấu tạo của địa danh Võ Nhai do các
phƣơng thức định danh chi phối ................................................................ 70
2.5. TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ......................................................................... 75
Chƣơng 3: ĐẶC TRƢNG VĂN HOÁ CỦA ĐỊA DANH VÕ NHAI ...............79
3.1 MỘT VÀI VẤN ĐỀ VỀ VĂN HOÁ VÀ NGÔN NGỮ .................................. 79
3.2. ĐẶC TRƢNG VĂN HOÁ THỂ HIỆN TRONG ĐỊA DANH VÕ NHAI ............ 82
3.2.1. Đặc trƣng văn hoá đƣợc thể hiện qua thành tố ngôn ngữ ................. 82
3.2.2. Sự thể hiện các dạng tồn tại của văn hoá trong địa danh Võ Nhai ... 87
3.3. MỘT VÀI NHẬN VỀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA DANH VÕ NHAI SO VỚI
BẮC KẠN ................................................................................................... 96
3.4. TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ......................................................................... 99

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 108
PHỤ LỤC.................................................................................................................. 113


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5




DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1. Quy ƣớc về cách viết tắt trong địa danh các xã, thị trấn
- BL: Bình Long

- PT: Phú Thƣợng

- ĐC: Thị trấn Đình Cả

- PG: Phƣơng Giao

- DT: Dân Tiến

- SM: Sảng Mộc

- LH: La Hiên

- TS: Thần Sa

- LT: Lâu Thƣợng

- TN: Thƣợng Nung


- LM: Liên Minh

- TX: Tràng Xá

- NT: Nghinh Tƣờng

- VC: Vũ Chấn

2. Quy ƣớc về cách viết tắt trong loại hình địa danh

DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả thu thập địa danh huyện Võ Nhai
Bảng 2.2. Kết quả thống kê theo nguồn gốc ngôn ngữ các yếu tố
Bảng 2.3. Kết quả thống kê cấu tạo của thành tố chung trong địa
danh Võ Nhai
Bảng 2.4. Kết quả thống kê sự phân bố của thành tố chung khi chuyển
hóa thành các yếu tố trong địa danh
Bảng 2.5. Thống kê địa danh Võ Nhai theo kiểu cấu tạo
DANH MỤC CÁC MÔ HÌNH SƠ ĐỒ

- ĐDCTGT: Địa danh các công trình giao thông

Mô hình 2.1. Sự phân bố các loại hình ở địa danh Võ Nhai

- ĐDCTXD: Địa danh các công trình xây dựng

Mô hình 2.2. Số lƣợng các loại hình địa danh theo nguồn gốc ngôn ngữ

- ĐDCTNT: Địa danh các công trình nhân tạo


Mô hình 2.3.Mô hình cấu trúc phức thể địa danh Võ Nhai

- ĐDĐHTN: Địa danh địa hình tự nhiên

Mô hình 2.4. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh khi thành tố chung

- ĐDĐVDC: Địa danh đơn vị dân cƣ

chuyển hóa thành yếu tố thứ nhất trong địa danh

- ĐVDCHC: Địa danh các đơn vị dân cƣ do chính quyền hành chính đặt
- ĐVDCPK: Địa danh các đơn vị dân cƣ có từ thời chính quyền phong kiến

Mô hình 2.5. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh khi thành tố chung
chuyển hóa thành yếu tố thứ hai trong địa danh

- SD: Sơn danh
- TD: Thủy danh
- ĐDVĐN: Địa danh các vùng đất nhỏ phi dân cƣ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6



7





nói riêng, qua đó có thể hiểu thêm đƣợc sự phát triển của tiếng Việt trong mối

MỞ ĐẦU

quan hệ vơí các tiếng địa phƣơng thuộc các lĩnh vực ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp qua các thời kì, giai đoạn khác nhau.

I. TÍNH THỜI SỰ CỦA ĐỀ TÀI

1.Mỗi sự vật hiện tƣợng trong thế giới khách quan đều có tên gọi cụ

4. Võ Nhai là một vùng quê cách mạng nên rất cần tìm hiểu về lịch sử,

thể, đó có thể là tên làng, tên núi, tên sông, tên những vật dụng….những tên

văn hoá của địa phƣơng nơi đây nhằm giới thiệu và giáo dục lòng yêu nƣớc

gọi đó đều do con ngƣời đặt tên và mỗi tên gọi của đối tƣợng này phải có giá

và tinh thần cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau. Hiện

trị khu biệt nó với những cái khác. Những tên gọi đó là những tên riêng, mà

nay chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có

việc nghiên cứu về chúng đã hình thành nên một chuyên ngành riêng gọi là

hệ thống về địa danh Võ Nhai dƣới góc độ ngôn ngữ - văn hoá. Do tầm quan


Danh xƣng học. Danh xƣng học nghiên cứu tên ngƣời đƣợc gọi là Nhân danh

trọng, ý nghĩa của vấn đề, luận văn đã chọn đối tƣợng địa danh của Võ Nhai

học, còn nghiên cứu tên gọi của đối tƣợng địa lí thì là Địa danh học. Nghiên

để nghiên cứu.

cứu địa danh là một lĩnh vực quan trọng và cần thiết trong ngôn ngữ học

II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGIÊN CỨU

truyền thống cũng nhƣ trong ngôn ngữ học hiện đại. Việc nghiên cứu địa danh

1. Mục đích nghiên cứu

nói chung, các địa danh của một địa phƣơng nói riêng, sẽ giúp chúng ta hiểu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu những đặc điểm của địa

đƣợc ngôn ngữ của một dân tộc nói chung, ngôn ngữ đƣợc sử dụng ở một

danh Võ Nhai về các phƣơng diện khác nhau: ngôn ngữ, văn hoá, lịch

vùng miền nói riêng.

sử,v.v…, nhằm làm nổi bật những đặc điểm về phƣơng thức định danh từ góc

2. Nghiên cứu địa danh cũng là một trong những bộ môn Ngôn ngữ học

góp phần nghiên cứu văn hoá một vùng lãnh thổ, một trong những vấn đề

độ ngôn ngữ - văn hoá, qua đó làm sáng tỏ truyền thống lịch sử - văn hoá của
địa phƣơng.

quan trọng đang đƣợc đặt ra hiện nay. Nghiên cứu địa danh của một ngôn ngữ

Việc nghiên cứu đặc điểm của hệ thống địa danh Võ Nhai cũng nhằm

cũng nhƣ của một địa phƣơng đồng thời cũng giúp hiểu đƣợc đặc điểm văn

góp phần xây dựng bộ môn địa danh học vốn chƣa đƣợc phát triển ở

hoá - lịch sử của một dân tộc hoặc của công đồng cƣ dân địa phƣơng nhƣ lớp

Việt Nam, đồng thời phục vụ cho việc viết cuốn dƣ địa chí, sổ tay địa danh

trầm tích đọng lại trong các địa danh của họ. Chẳng hạn, nếu một địa danh có

của huyện.

nguồn gốc Môn – Khơme hoặc Tày - Thái thì chủ thể xa xƣa của vùng đất ấy

2. Nhiệm vụ nghiên cứu

là cộng đồng ngƣời Môn – Khơme hoặc ngƣời Tày - Thái …và kèm theo đó

Để đạt đƣợc mục đích đã nêu, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ

là những đặc điểm văn hoá của họ đƣợc thể hiện qua chất liệu ngôn ngữ của


nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lí thuyết về định danh, danh học nói chung, về

vùng này.
3. Nghiên cứu địa danh Võ Nhai góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ

địa danh nói riêng, và vấn đề đặc trƣng văn hoá của địa danh để làm cơ sở cho

giữa văn hoá và ngôn ngữ trong một vùng lãnh thổ nói chung và của Võ Nhai

việc nghiên cứu tiếp theo;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8



9




- Tiến hành điều tra điền dã, khảo sát thực tế, thu thập tất cả các địa

địa điểm hay sự minh hoạ có tính nguyên lai về lịch sử, dân tộc học và địa lí


danh thuộc các loại hình, đối tƣợng địa lí khác nhau đƣợc phân bố và tồn tại

học” (1864) của I ssac Taylor; cuốn “Địa danh học” (1872) của J.J. Egli; cuốn

trong phạm vi địa bàn huyện Võ Nhai;

“Địa danh học” (1903) của J. W. Nagh.

- Thống kê, phân loại và phân tích, miêu tả hệ thống địa danh Võ Nhai

Từ đầu thế kỉ XX có thêm nhiều công trình nghiên cứu đi sâu về địa

theo các tiêu chí danh học, sau đó rút ra những nhận xét về mặt đặc điểm cấu

danh. Ví dụ nhƣ cuốn “Nguồn gốc và sự phát triển địa danh” (1926) của A.

tạo, phƣơng thức định danh, nguồn gốc ngôn ngữ và các yếu tố cấu tạo nên

Dauzat, “Các tên gọi, một khảo sát về việc đặt tên địa điểm” (1958) của

địa danh;

George, “Thực hành địa danh học” (1977) của P. E. Raper. Ngoài ra còn có

- Tìm hiểu các đặc điểm văn hoá - lịch sử còn đƣợc tàng trữ trong hệ
thống địa danh của vùng dân cƣ này.

hàng loạt công trình của các nhà địa danh học Nga đặt nền tảng đầu tiên cho
việc xây dựng hệ thống lí luận về địa danh học. Đó là E.M.Murzaev với


III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

“Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học”, A.Kapenko với tác phẩm

1. Tình hình nghiên cứu địa danh trên thế giới

“Bàn về địa danh học đồng đại”, hay “Những nguyên tắc cơ bản của công

Địa danh là những từ ngữ đƣợc dùng làm tên riêng của các đối tƣợng

tác nghiên cứu địa danh” của A.I.Popôv, đặc biệt là công trình “Địa danh học

địa lí cụ thể có vị trí xác định trên bề mặt trái đất. Đối tƣợng này có thể là đối

là gì” của A.V. Superanskaja [30] đã mang lại những định hƣớng mới cho

tƣợng địa lí tự nhiên hay nhân tạo. Vấn đề nghiên cứu địa danh đã đƣợc ngôn

việc nghiên cứu địa danh, tạo ra những giá trị nhất định trong quá trình phát

ngữ học thế giới quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Từ đầu Công nguyên ở

triển của địa danh học.

phƣơng Đông đã diễn ra giai đoạn khởi nguồn. Thao tác chủ yếu ở giai đoạn

Trong quá trình tìm hiểu địa danh, các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều

này là ghi chép, sƣu tập, tổng hợp và giải thích về cách đọc, về ý nghĩa của


cách phân loại địa danh khác nhau. Đáng chú ý là cách phân loại của các nhà

địa danh.Tiêu biểu nhƣ các tác phẩm Hán thư ghi chép đƣợc hơn 4000 địa

địa danh học Nga dựa vào đối tƣợng mà địa danh biểu thị. Chẳng hạn, G. L.

danh, Thuỷ kinh chú đề cập trên 20 000 địa danh, số đƣợc giải thích là khoảng

Somolisnaja và M.V. Gorbanevskij đã chia địa danh thành 4 loại:

2300 địa danh.

1. Phƣơng danh: Tên các địa phƣơng.

Ở phƣơng Tây bộ môn địa danh học bắt đầu đƣợc nghiên cứu nhiều từ

2. Sơn danh: Tên núi, gò, đồi…

cuối thế kỉ XIX, nhƣng trên thực tế nó đã xuất hiện từ trƣớc. Trong Thánh

3. Thuỷ danh: Tên các dòng chảy nhƣ hồ. vũng…

Kinh của Thiên chúa giáo cũng thu thập đƣợc rất nhiều địa danh. Cuối thế kỉ

4. Phố danh: Tên các đối tƣợng trong thành phố.

XIX, đầu thế kỉ XX là thời điểm nở rộ các công trình nghiên cứu về địa danh

A. V. Superanskaja (1985) trong cuốn “Địa danh là gì” [ 30, tr.3] lại


và đã mang tính chất lí luận cao. Tiêu biểu là các cuốn “Địa lí từ nguyên

chia địa danh thành 8 loại:

học”(1835) của T.A. Gibson hƣớng đến một danh sách phân loại về từ ngữ

1. Tên gọi của các điểm dân cƣ;

thƣờng gặp nhƣ tiền tố, hậu tố trong phức thể của tên địa lí; cuốn “ Từ và các

2. Tên gọi các con sông;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11




3. Tên gọi núi non;

- Địa danh tự nhiên

4. Tên gọi công trình trong thành phố;


- Địa danh kinh tế- xã hội.

5. Tên gọi các đƣờng phố;

2. Kiểu địa danh (7 kiểu): Thuỷ danh; Sơn danh; Lâm danh; Làng xã;

6. Tên gọi quảng trƣờng;

Huyện thị; Tỉnh; Thành phố; Quốc gia.

7. Tên gọi mạng lƣới giao thông;

3. Dạng địa danh (11 dạng ): Sông ngòi; Hồ đầm; Đồi núi; Hải đảo;

8. Tên gọi địa điểm phi dân cƣ nhỏ.

Rừng rú; Truông trảng; Làng xã; Huyện quận; Thị trấn; Tỉnh; Thành phố;

Cách phân chia của Superanskaja tuy mở rộng hơn cách nhìn nhận về

Quốc gia.

địa danh, nhƣng nếu áp dụng vào từng vùng, miền thì rất khó khăn cho việc
nghiên cứu bởi quá chi tiết, dẫn đến nhiều khi các tiêu chí dẫm đạp nhau.
2. Tình hình nghiên cứu địa danh ở Việt Nam

Cách phân loại của Nguyễn Văn Âu quá chi tiết và rối, trùng lặp, bởi lẽ
nếu việc phân chia dựa trên các kiểu, các dạng địa lí…thì vô kể và thiếu tính
khái quát.


Tuy việc nghiên cứu địa danh ở Việt Nam đƣợc bắt đầu muộn hơn so

Lê Trung Hoa [ 22 ], [ 23 ] chia địa danh thành hai nhóm lớn:

với các nƣớc phƣơng Tây, nhƣng chúng ta cũng đã có những tác phẩm đánh

1. Địa danh chỉ các đối tƣợng tự nhiên

dấu sự mở đầu cho việc nghiên cứu địa danh từ thế kỉ XIII trở đi. Đó là các

2. Địa danh chỉ các đối tƣợng nhân tạo

tác phẩm “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Đại Việt sử kí toàn thư” của Ngô

- Địa danh chỉ các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều.

Sĩ Liên, “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú…

- Địa danh chỉ các đơn vị hành chính.

Đến những năm 1960, các công trình nghiên cứu địa danh ở Việt Nam

- Địa danh chỉ các vùng lãnh thổ không có ranh giới rõ ràng.

khá phát triển và mang tính lí luận cao. Tiêu biểu nhƣ Hoàng Thị Châu (1964)

Lê Trung Hoa đƣa ra cách phân loại theo nguồn gốc địa danh:

đã đề cập đến địa danh gọi tên sông qua “Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở


1. Địa danh thuần Việt

Đông Nam Á qua một vài tên sông”, Lê Trung Hoa (1991) nêu những

2. Địa danh Hán Việt

đặc điểm về cấu tạo, nguồn gốc và ý nghĩa của “Địa danh thành phố Hồ

3. Địa danh bằng các ngôn ngữ đân tộc thiểu số

Chí Minh”.

4. Địa danh bằng ngoại ngữ.

Đến năm 1993 Nguyễn Văn Âu với tác phẩm “Địa danh Việt Nam” và
“Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam” (2003) đã có những đóng góp mới
mẻ, quan trọng cho ngành nghiên cứu địa danh ở Việt Nam.
Về vấn đề phân loại, ở Việt Nam, Nguyễn Văn Âu trong hai tác phẩm
[ 2 ] và [ 3 ] đã phân loại địa danh theo 3 cấp:

tách bạch riêng rẽ theo đối tƣợng và theo nguồn gốc để phân định là khá
hợp lí.
Gần đây đã có một số luận án, luận văn nghiên cứu về địa danh thuộc
các địa phƣơng cụ thể khác nhau: Nguyễn Kiên Trƣờng với luận án “Những

1. Loại địa danh (2 loại):
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Cách phân loại của Lê Trung Hoa khá dễ hiểu, rõ ràng và lôgích. Việc


đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng”(1996), Từ Thu Mai với luận án Tiến
12



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13




sĩ về các địa danh Quảng Trị (2004). Ngoài ra còn có luận văn thạc sĩ về địa

3. Vấn đề nghiên cứu địa danh của Võ Nhai

danh thuộc tỉnh Bắc Kạn của Hà Thị Hồng (2008), luận văn của Phạm Thị

Nghiên cứu địa danh Võ Nhai là một vấn đề rất mới mẻ. Trong các tài

Thu Trang (2008): Khảo sát địa danh quận Ba Đình - Hà Nội,v.v…

liệu “Võ Nhai lịch sử đấu tranh vũ trang cách mạng chống quân xâm lược và

Các Luận án, luận văn này tập trung đi sâu vào cách lựa chọn các đặc

xây dựng bảo vệ tổ quốc” [4] của Ban chỉ huy quân sự huyện Võ Nhai, “Lịch sử

trƣng làm cơ sở cho cách đặt địa danh, nghiên cứu các đặc điểm văn hoá - lịch


Đảng bộ huyện Võ Nhai” [25], [26] của huyện uỷ Võ Nhai có đề cập đến lịch sử

sử đƣợc phản ánh trong địa danh của địa phƣơng đƣợc khảo sát cho nhiều kết

địa lí của vùng đất Võ Nhai. Các phƣơng tiện thông tin đại chúng cũng ít nhiều

quả hữu ích.

phản ánh đặc điểm kinh tế, văn hoá, con ngƣời Võ Nhai, nhƣng chỉ ở góc độ

Đặc biệt luận án Tiến sĩ của Nguyễn Kiên Trƣờng [46] đã có sự bổ

phản ánh thông tin, chƣa đề cập đến việc tìm hiểu ý nghĩa, phƣơng thức định

sung những vấn đề lí thuyết mà Lê Trung Hoa đã đề cập trƣớc đó. Ông đã so

danh ẩn chứa trong mỗi địa danh. Cho đến nay, kể cả ở trong và ngoài nƣớc,

sánh địa danh Hải Phòng với địa danh thuộc các vùng khác ở Việt Nam, đƣa

chƣa có công trình chuyên sâu nào nghiên cứu về các địa danh thuộc huyện Võ
Nhai tỉnh Thái Nguyên. Vì vậy luận văn của chúng tôi là công trình đầu tiên

ra ba tiêu chí phân loại địa danh Hải Phòng:

khảo sát một cách toàn diện và có hệ thống các địa danh nơi đây.

1. Căn cứ tiêu chí đối tƣợng địa lí, gồm 2 loại:


Nhƣ vậy, vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới ra đời rất sớm và đã

- Địa danh tự nhiên

có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu những mặt khác nhau, nhƣng ở Việt

- Địa danh chỉ đối tƣợng địa lí nhân văn:
+ Địa danh các đơn vị dân cƣ - hành chính và địa danh gắn với hoạt động .
+ Địa danh đƣờng phố và địa danh chỉ công trình xây dựng.
2. Căn cứ tiêu chí nguồn gốc, gồm 5 loại:

Nam, việc nghiên cứu địa danh mới chỉ có một số công trình nghiên cứu ở
một vài địa phƣơng và cũng mới đang ở bƣớc đầu đi vào từng vùng cụ thể.
Nghiên cứu địa danh Võ Nhai dƣới góc độ ngôn ngữ - văn hoá sẽ đóng
góp một phần cho việc hoàn thiện lí luận nghiên cứu địa danh nói chung ở

- Địa danh Hán Việt

Việt Nam.

- Địa danh thuần Việt

IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Địa danh từ tiếng Pháp hoặc ngôn ngữ châu Âu

1. Đối tƣợng nghiên cứu

- Địa danh từ tiếng Quảng Đông


Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tất cả các địa danh biểu thị các

- Địa danh từ ngôn ngữ dân tộc có quan hệ với tiếng Việt.

đối tƣợng địa lí đƣợc đặt bằng tiếng Việt và tồn tại trên địa bàn huyện Võ

3. Căn cứ tiêu chí chức năng giao tiếp, có 3 loại: Tên chính thức, tên cũ,

Nhai (Thái Nguyên). Huyện Võ Nhai bao gồm 14 xã: Bình Long, Phƣơng

cổ và các tên khác.

Giao, Dân Tiến, Nghinh Tƣờng, Liên Minh, Phú Thƣợng, Lâu Thƣợng, Tràng

Căn cứ vào tình hình thực tế, chúng tôi lựa chọn cách phân loại của Lê

xá, Thần Sa, Cúc Đƣờng, La Hiên,Thƣợng Nung, Vũ Chấn, Sảng Mộc và 1

Trung Hoa để làm cơ sở cho việc nghiên cứu địa danh Võ Nhai.

thị trấn: Đình Cả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14




15




Luận văn tập trung khảo sát địa danh chỉ địa hình tự nhiên, đơn vị dân
cƣ, địa danh chỉ các công trình nhân tạo trên địa bàn huyện.

học luận văn sẽ kiểm tra đƣợc những giả thiết có liên quan đến vấn đề xuất
xứ, ý nghĩa của hàng loạt địa danh và nghiên cứu về cấu tạo, phƣơng thức
định danh gắn với ý nghĩa của các yếu tố một cách khoa học.

2. Phạm vi nghiên cứu
a) Các địa danh đƣợc ghi trong các sổ sách thuộc tài liệu chính thống

Phƣơng pháp cụ thể: Luận văn sử dụng phƣơng pháp điều tra điền dã
bằng phiếu anketa để thu thập tất cả các cứ liệu có trên địa bàn Võ Nhai .

của huyện Võ Nhai:

Sau khi thu thập, phân loai đầy đủ tƣ liệu, luận văn sử dụng phƣơng

- Niên giám thống kê của huyện Võ Nhai.
- Bản đồ các loại của huyện Võ Nhai.

pháp thống kê để tìm hiểu mức độ phổ biến của từng loại địa danh, từng đặc

- Một số tác phẩm nghiên cứu về lịch sử, kinh tế, văn hóa của

trƣng đƣợc chọn làm cơ sở định danh. Phƣơng pháp miêu tả đƣợc sử dụng để

nêu những đặc điểm về cấu tạo, phƣơng thức định danh ngôn ngữ, các kiểu

địa phƣơng.
- Những tƣ liệu đƣợc lƣu giữ ở chính quyền địa phƣơng .
b) Các địa danh tồn tại trên thực địa đƣợc thu thập qua khảo sát điền
dã, gồm:
- Tƣ liệu dân gian về địa danh thông qua những ngƣời dân sống trên
địa bàn cung cấp.
-Phiếu điều tra địa danh Võ Nhai do tác giả luận văn xây dựng và thu
thập từ ngƣời dân địa phƣơng.

VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chƣơng.
Chƣơng 1: Một số vấn đề lí thuyết về định danh và địa danh học
Nội dung chƣơng này trình bày những cơ sở lí thuyết về định danh
ngôn ngữ, nguồn gốc của các định danh, các kiểu ngữ nghĩa và cách thức biểu
thị của định danh; hệ thống hoá những vấn đề lí thuyết về địa danh, cách phân

V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Luận văn sẽ cung cấp bức tranh toàn cảnh về hệ thống địa danh trên địa
bàn huyện Võ Nhai với đầy đủ các đặc trƣng về cấu tạo, cách thức định danh,
những đặc điểm văn hoá - lịch sử của vùng đất này. Luận văn sẽ làm rõ các đặc
điểm về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp đƣợc thể hiện trong địa danh, chỉ ra sự
tác động, ảnh hƣởng của các phƣơng thức định danh trong mối quan hệ với
những đặc điểm về ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo, từ đó góp phần vào sự phát
triển của bộ môn danh học và phục vụ cho việc viết Dƣ địa chí của địa phƣơng.
VI. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Phƣơng pháp chung: Luận văn sẽ sử dụng phƣơng pháp quy nạp (từ cái
riêng đến cái chung, từ cụ thể đến khái quát), bằng phƣơng pháp ngôn ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ngữ nghĩa của định danh, về nguồn gốc, văn hoá đƣợc biểu hiện qua địa danh.

16



loại và vị trí của địa danh trong ngôn ngữ học.
Chƣơng 2: Những đặc điểm định danh của địa danh Võ Nhai
Chƣơng này phân tích một cách chi tiết những đặc điểm về định danh
cùng các kiểu mô hình cấu tạo phức thể của hệ thống địa danh Võ Nhai.
Chƣơng 3: Đặc trưng văn hoá của địa danh Võ Nhai
Chƣơng này phân tích mối quan hệ, giao thoa ngôn ngữ- văn hoá - lịch
sử trong cách định danh giữa các vùng miền, từ đó nêu rõ những đặc trƣng,
các phƣơng diện văn hoá trong địa danh, đồng thời có sự so sánh địa danh Võ
Nhai với địa danh vùng miền khác (cụ thể là các địa danh thuộc tỉnh
Bắc Kạn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17




kích thƣớc các loài cá khác và kích thƣớc to này vốn đƣợc biểu thị bằng tên


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH DANH
VÀ ĐỊA DANH HỌC

gọi con vật có kích cỡ khổng lồ tƣơng đƣơng là “voi”. Cuối cùng, ngƣời ta
dùng biện pháp cấu tạo từ của tiếng Việt theo cách ghép tên chỉ đặc trƣng
“voi” vào tên gọi chỉ loại là “cá” để tạo ra tên gọi cho đối tƣợng này, khi đó

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊNH DANH NGÔN NGỮ

sẽ có tên gọi là cá voi.

Định danh (nomination) là gì? Theo G.V.Cônsansky, định danh là “Sự cố

Từ đây có thể thấy rằng, đặc điểm định danh của dân tộc này so với dân

định (hay gắn) cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu niệm phản ánh

tộc khác hoặc địa phƣơng này so với địa phƣơng khác có thể khác nhau ở ba

những đặc trƣng nhất định của một biểu vật - các thuộc tính, phẩm chất và quan

điểm sau:

hệ của các đối tƣợng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các

Thứ nhất, cách quy loại khái niệm của đối tƣợng đƣợc định danh.

đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn từ”, theo


Chẳng hạn, “củ lạc” thực chất là “quả lạc” nếu xét theo thực vật học,

G.V.Cônsansky: “Bất kì kí hiệu ngôn ngữ nào cũng biểu thị những thuộc tính đã

nhƣng theo tƣ duy ngôn ngữ và sự hiểu biết của ngƣời Việt thì phàm những

đƣợc trừu tƣợng hoá của các sự vật cụ thể, và do vậy, bao giờ cũng gắn với một

bộ phận nào của cây chứa chất bột, phình to, nằm ở dƣới đất hay trong lòng

lớp đối tƣợng hay một loạt hiện tƣợng…” (Dẫn theo [42, tr.165] ) Nhƣ vậy định

đất thì đều đƣợc quy vào khái niệm củ. Do đó ta không gọi quả lạc mà gọi là

danh có thể hiểu một cách đơn giản là cách đặt tên gọi cho một sự vật, hiện

củ lạc.
Thứ hai, cách lựa chọn đặc trƣng của đối tƣợng để làm cơ sở cho tên

tƣợng nào đó.
Quy trình định danh một sự vật, hiện tƣợng thông thƣờng diễn ra nhƣ sau:
Khi có một đối tƣợng mới cần đặt tên, ngƣời ta phải tiến hành các thao tác:
Một là: quy loại đối tƣợng mới ấy vào loại đối tƣợng nào đó đã có tên

gọi của nó.
Ví dụ: cây cảnh cỡ nhỏ, thân có gai, lá kép có răng, hoa màu hồng, có
hƣơng thơm… ngƣời Việt đã quy nó vào loài hoa và chọn đặc trƣng “đập vào
mắt” là màu hồng để gọi tên là “hoa hồng”. Sau đó tên gọi hoa hồng lại

trong ngôn ngữ.

Hai là: con ngƣời tìm hiểu và vạch ra một bộ những đặc trƣng nào đó

đƣợc sử dụng làm tên một loài hoa cho dù màu của hoa loài cây này là trắng

vốn có của đối tƣợng mới này. Để định danh, ngƣời ta sẽ chọn một đăc trƣng

hay đỏ nhƣ nhung. Khi đó tuỳ màu hoa cụ thể mà có các tên gọi mới cho từng

nào đó là tiêu biểu, dễ khu biệt nó với những đối tƣợng khác và đặc trƣng ấy

tiểu loại trong loài hoa hồng này, chẳng hạn, hoa hồng bạch, hoa hồng

phải đã có tên gọi trong ngôn ngữ.

nhung...(Xem thêm:[ 42, tr.166-167]).
Khi bàn về lí do của tên gọi, Nguyễn Đức Tồn [42, tr. 171 và tiếp theo]

Ba là, ngƣời ta sử dụng biện pháp cấu tạo từ nào đó.
Ví dụ: Để đặt tên cho một loài động vật sống ở biển, đẻ ra con và nuôi

đã chỉ rõ: tham gia vào quá trình định danh gồm có hai tham tố: Chủ thể định

con bằng sữa, trƣớc hết ngƣời Việt quy nó vào loài động vật đã có tên gọi là

danh và đối tƣợng đƣợc định danh. Phụ thuộc vào hai tham tố này sẽ có hai

“cá”. Sau đó ngƣời ta chọn đặc trƣng tiêu biểu là có kích thƣớc rất to, hơn hẳn

loại lí do khác nhau:


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18



19




Lí do chủ quan: Phụ thuộc vào chủ thể định danh. Chỉ chủ thể định
danh mới biết đƣợc lí do của tên gọi, chẳng hạn một ngƣời cha đặt tên con là
Phú là vì mong ƣớc một cuộc sống giàu có cho con sau này…
Lí do khách quan: Đây là loại lí do phụ thuộc vào đối tƣợng đƣợc định

hƣởng quan trọng đến đặc tính của các thủ pháp định danh. Chính các thủ
pháp này sẽ làm nên đặc trƣng của hành vi định danh ngôn ngữ.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH

1.2.1. Định nghĩa về địa danh

danh. Nghĩa là một đặc trƣng, một thuộc tính nào đó của bản thân sự vật đƣợc

Mỗi vùng đất, mỗi miền quê đều gắn với một tên gọi riêng cụ thể.

chọn làm dấu hiệu khu biệt để gọi tên nó. Đó cũng là loại lí do dễ thấy nhất.


Những tên gọi này tồn tại trong vốn từ vựng của các ngôn ngữ khác nhau trên

Ví dụ: Tên các loài động vật đƣợc đặt theo tiếng kêu nhƣ: Bò, Mèo, Quạ,

thế giới. Những tên gọi địa lí ấy đƣợc biểu thị bằng thuật ngữ toponima hay

chim Cuốc… hay tên các loài thực vật đƣợc đặt theo hình dáng, màu sắc

toponoma (tiếng Hi Lạp: topos - địa điểm và onoma / onima – tên gọi với ý

…các bộ phận của nó: hoa Loa Kèn, hoa hồng, …

nghĩa “tên gọi địa điểm địa lí”).

Tuy nhiên, còn rất nhiều sự vật mà chúng ta chƣa biết, chƣa nhận ra lí

Địa danh là lớp từ ngữ nằm trong từ vựng của một ngôn ngữ, đƣợc

do tên gọi của chúng, song nhƣ tác giả Nguyễn Đức Tồn đã chỉ rõ [sđd,

dùng để gọi tên các đối tƣợng địa lí, do đó nó hoạt động và chịu sự tác động,

tr.172]: “chƣa biết, không biết” không có nghĩa là “không có”.

chi phối của quy luật ngôn ngữ nói chung về mặt ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa

Thứ ba, Đặc trƣng của định danh ngôn ngữ còn đƣợc biểu hiện ở vấn
đề “kĩ thuật ngôn ngữ” để cấu tạo các tên gọi. Theo ý kiến của viện sĩ B.A.
Sereprennhicôp, trong các ngôn ngữ có thể có những “kĩ thuật ngôn ngữ” để
tạo tên gọi sau đây:

1) Sử dụng tổ hợp ngữ âm biểu thị đặc trƣng nào đó trong số các đặc
trƣng của đối tƣợng này;

và ngữ pháp.
Nhà ngôn ngữ học Nga A. V. Superanskaja (1985) trong cuốn “Địa
danh là gì” đã cho rằng: “Tên gọi các địa điểm được biểu thị bằng những từ
riêng. Đó là các tên gọi địa lý, địa danh hay toponoma” [30, tr.1] và chỉ rõ
“những địa điểm, mục tiêu địa lí đó là những vật thể tự nhiên hay nhân tạo
với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ những vật thể lớn nhất (các lục

2) Mô phỏng âm thanh (tức là tƣợng thanh);

địa và đại dương) cho đến những vật thể nhỏ nhất (những ngôi nhà, vườn cây

3) Phái sinh;

đứng riêng rẽ) đều có tên gọi. Khác với những vật thể thông thường, những

4) Ghép từ;

mục tiêu địa lí có hai loại tên: Tên chung để xếp chúng vào hệ thống cả khái

5) Cấu tạo các biểu thức đặc ngữ;

niệm nào đó (núi, sông, thành phố, làng mạc) và tên riêng biệt của từng vật

6) Can ke (hay sao phỏng);

thể” [30, tr.13]


7) Vay mƣợn;
8) Chuyển nghĩa của từ. Đây là cách định danh thƣờng đƣợc gọi là định

Theo Nguyễn Văn Âu: “Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng
mạc… hay là tên các địa phương, các dân tộc… [3, tr.5]

danh thứ sinh (hay là thứ cấp).
Các thủ pháp định danh là chung cho tất cả mọi ngôn ngữ trên thế giới.

Lê Trung Hoa đƣa ra cách hiểu “Địa danh là những từ ngữ cố định

Song, đặc điểm của hệ thống ngôn ngữ, đặc biệt là loại hình ngôn ngữ, có ảnh

được dùng làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21




các vùng lãnh thổ (không có ranh giới rõ ràng) và các công trình xây dựng


+ Các công trình giao thông: Đƣờng, cầu, quốc lộ…

thiên về không gian hai chiều.[22, tr.21]

+ Các công trình xây dựng: Đập, bến xe, khu di tích…

Nhƣ vậy, khi xác định khái niệm địa danh cần phải chú ý đến những vấn
đề nội tại trong bản thân đối tƣợng. Mỗi địa danh thƣờng có lí do, có thể giải
thích đƣợc tại sao lại đặt tên cho đối tƣợng địa lí này nhƣ vậy. Địa danh phải có
chức năng gọi tên và cá thể hoá, khu biệt đối tƣợng. Các đối tƣợng đƣợc gọi tên
phải là các đối tƣợng địa lí tồn tại trên bề mặt trái đất (các đối tƣợng này có thể
là đối tƣợng địa lí tự nhiên hay đối tƣợng địa lí không tự nhiên).
Từ sự trình bày trên đây, có thể hiểu địa danh theo quan niệm của A.V.
Superanskaja: “Địa danh là là những từ ngữ chỉ tên riêng của đối tượng địa
lý (địa hình tự nhiên, các đơn vị dân cư và các công trình nhân tạo thiên về
không gian hai chiều) có vị trí xác định trên bề mặt trái đất”.
Nhƣ vậy nội dung của luận văn sẽ nghiên cứu tất cả những từ ngữ đƣợc
dùng làm tên riêng của các đối tƣợng địa lí có vị trí cụ thể ở địa bàn Võ Nhai.

1.2.3. Vị trí địa danh học trong ngôn ngữ học
Địa danh học là một ngành khoa học quan trọng có liên quan đến sử
học, địa lý học, văn hoá học, nằm trong từ vựng học. Cụ thể là:
Trong từ vựng học có Danh xƣng học nghiên cứu các qui luật, phƣơng
thức định danh sự vật, hiện tƣợng. Trong Danh xƣng học có:
Nhân danh học - nghiên cứu lịch sử, cấu tạo tên ngƣời.
Vật danh học: Nghiên cứu tên gọi các sự vật, hiện tƣợng không phải là
ngƣời và không phải là các đối tƣợng địa lí.
Địa danh học: Nghiên cứu sự hình thành về cấu tạo, phƣơng thức định
danh và chức năng của các tên gọi địa lí. Địa danh học còn chia thành các
ngành nhỏ hơn nhƣ Sơn danh học, Thủy danh học, Phƣơng danh học và Phố

danh học. Sơn danh học nghiên cứu tên gọi đồi núi, địa hình dƣơng so với

1.2.2. Phân loại địa danh theo tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên

mặt đất. Thủy danh học nghiên cứu về tên gọi liên quan đến nƣớc và các dòng

Căn cứ vào các ý kiến đƣợc trình bày trong các tác phẩm [ 20 ], [21],

chảy. Phƣơng danh học nghiên cứu tên gọi địa điểm cƣ trú của con ngƣời (địa

[22] của Lê Trung Hoa, chúng tôi phân loại địa danh theo tiêu chí tự nhiên và

danh các đơn vị dân cƣ). Phố danh nghiên cứu tên gọi đƣờng phố và các đối

không tự nhiên nhƣ sau:

tƣợng trong thành phố (địa danh công trình nhân tạo).

a) Địa danh địa hình tự nhiên gồm có:

Tên gọi các công trình xây dựng và vùng đất nhỏ phi dân cƣ chƣa đƣợc

- Sơn danh: Núi, đồi, hang…

các nhà nghiên cứu đặt tên cho môn học. Căn cứ trên tình hình thực tế chúng

- Thủy danh: Sông, suối, hồ, khe, kênh…

tôi xếp địa danh chỉ công trình xây dựng vào loại hình địa danh các công trình


- Vùng đất nhỏ phi dân cƣ: Ruộng đồng..

nhân tạo; Các địa danh chỉ vùng đất nhỏ phi dân cƣ xếp vào loại địa danh địa

b) Địa danh không tự nhiên gồm có:

hình tự nhiên. Cũng căn cứ trên tình thực tế, khi các nhà nghiên cứu xếp loại

- Địa danh chỉ các đơn vị dân cƣ:

hình địa danh khu di tích và danh lam thắng cảnh vào loại địa danh công trình

+ Do chính quyền hành chính đặt: Xã, huyện, phƣờng, thị trấn…

nhân tạo, nhƣng trong luận văn chúng tôi xếp vào loại địa danh địa hình tự

+ Có từ thời Phong kiến: Xóm, làng, thôn…

nhiên, bởi ở Võ Nhai các đối tƣợng đƣợc địa danh này biểu thị hoàn toàn là

- Địa danh chỉ các công trình nhân tạo:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22

mang tính chất tự nhiên, không do con ngƣời tạo ra.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


23




1.2.4. Hƣớng tiếp cận và phát triển khi nghiên cứu địa danh Việt Nam

1) Sử dụng đơn vị từ vựng đã có sẵn trong ngôn ngữ ;

Mục đích nghiên cứu địa danh học hiện nay là khảo sát địa danh của

2) Sáng tạo mới hoàn toàn bằng những yếu tố đã có;

từng vùng, miền để khái quát lên những đặc điểm của địa danh Việt Nam nói

3) Vay mƣợn từ ngôn ngữ khác.

chung một cách có hệ thống về cấu tạo, phƣơng thức định danh và đặc trƣng

Chúng tôi cũng đi theo hƣớng nghiên cứu của Nguyễn Đức Tồn [ 42,

văn hóa. Sau đó đối chiếu với địa danh của các nƣớc khác nhằm làm nổi bật

tr.202] nhập hai trƣờng hợp đầu (tạm gọi là những từ thuần Việt) và đối lập

những đặc điểm cơ bản của địa danh Việt Nam trong sự phát triển riêng và sự

chúng với trƣờng hợp thứ ba - những từ vay mƣợn.

giao thoa ảnh hƣởng chung với các dân tộc, các quốc gia có quan hệ.

Có nhiều hƣớng tiếp cận khác nhau. Có thể khái quát các hƣớng tiếp

1.3.2. Về kiểu ngữ nghĩa của các định danh
Theo tham tố này, có thể phân biệt :
a) Đặc điểm định danh xét theo sự đối lập về tính trực tiếp hay gián

cận chung, cơ bản khi nghiên cứu địa danh nhƣ sau:
Thứ nhất là tìm hiểu, phân tích những đặc điểm cấu tạo của địa danh và

tiếp (hoặc nguyên sinh và thứ sinh)
Định danh theo sự đối lập về tính trực tiếp (nguyên sinh) là gọi đúng

ý nghĩa của chúng theo hƣớng đồng đại.
Thứ hai là tìm hiểu phƣơng thức định danh và tìm hiểu nguồn gốc,

tên đối tƣợng.
Định danh xét theo sự đối lập về tính gián tiếp ( thứ sinh) nghĩa là tên

nghiên cứu sự biển đổi địa danh theo hƣớng lịch đại.
Thứ ba là tiếp cận dƣới góc độ ngôn ngữ - văn hóa: Nghĩa là xem xét

gọi của đối tƣợng có sự chuyển nghĩa từ sự vật hiện tƣợng này để gọi tên cho

địa danh phản ánh những đặc điểm của văn hóa nhƣ thế nào và văn hóa đƣợc

sự vật hiện tƣợng khác, ví dụ: cánh đồng Chân Chim, làng Áng (áng: cái vại),

phản ánh qua địa danh ra sao.

hang Trâu…Các đơn vị định danh gián tiếp là sản phẩm của quá trính ẩn dụ


Nghiên cứu địa danh Võ Nhai là tìm hiểu những đặc điểm phƣơng thức
định danh, tìm hiểu lí do tên gọi và những đặc điểm văn hóa đƣợc thể hiện
trong cách định danh. Đây là hƣớng tiếp cận theo góc độ ngôn ngữ - văn hóa.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊNH DANH NÓI CHUNG VÀ ĐỊA DANH NÓI RIÊNG

Để nghiên cứu đặc điểm của định danh nói chung và địa danh nói
riêng, Nguyễn Đức Tồn [42, tr.202 và tiếp theo) đã chỉ ra rằng các nhà nghiên
cứu đã khảo sát các tên gọi theo ba thông số sau đây: nguồn gốc của tên gọi;
kiểu ngữ nghĩa của tên gọi; cách thức biểu thị của tên gọi.
1.3.1. Về nguồn gốc của các định danh
Xét về phƣơng diện nguồn gốc, các tên gọi có thể đƣợc tạo ra theo một
trong ba cách sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

hóa, hoặc hoán dụ hoá …
b) Đặc điểm định danh xét theo sự đối lập về dung lượng ngữ nghĩa
rộng hay hẹp của các định danh
Từ góc độ này của định danh - xét theo sự đối lập về dung lƣợng ngữ
nghĩa, có thể phân các tên gọi thành những tên gọi có dung lƣợng nghĩa rộng
(tên gọi chỉ loại) và tên gọi có dung lƣợng nghĩa hẹp (tên gọi chỉ chủng).
Trƣờng hợp này có thể nhận thấy trong phạm vi một phức thể địa danh: Yếu
tố đầu chỉ loại (ví dụ: cầu) và tên gọi chỉ chủng đƣợc tạo ra bằng cách thêm
yếu tố xác định vào yếu tố chỉ loại (ví dụ: Cầu Đuống, Cầu Long Biên, Cầu
Hàm Rồng….).
Theo Lênin: “Tên gọi là cái gì đó phổ biến, thuộc tƣ duy, làm cho cái
đa dạng trở nên đơn giản”. Còn V.G.Gác: “Tri giác của con ngƣời là cái giản

24




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25




lƣợc sự đa dạng” (dẫn theo [42, tr.214] ) sự đơn giản hóa tính đa dạng của

1.3.3.2 Mức độ tính rõ lí do của các định danh

một lớp / loài đối tƣợng khi tri giác hình thành khái niệm và tạo nên tên gọi

Theo ý kiến phổ biến của các nhà ngôn ngữ học, đây là thông số về

cho nó, có thể đi theo hai hƣớng:

mức độ tính có lí do của tên gọi khi xem xét đặc điểm định danh trong các

Một là chỉ nêu lên một số nét chung ở các đại diện vốn rất đa dạng của
một lớp khách thể nhất định. Hƣớng thứ nhất này tạo nên những tên gọi có tác
dụng phân biệt loại (loài) với nhau hay các loài nhỏ trong loài lớn. Chúng tôi

ngôn ngữ .
Thông thƣờng, các tên gọi phức có thể thấy rõ đƣợc lí do, còn tên gọi
đơn thì chỉ có thể giải thích đƣợc trong hai trƣờng hợp:

xếp vào loại tên gọi có nội dung ý nghĩa rộng (có thể dùng đại diện cho một


+ đƣợc tạo ra trên cơ sở sự mô phỏng âm thanh; hoặc

lớp khách thể).

+ do sự chuyển nghĩa.

Các tên gọi khách thể trong cùng một loài là những tên gọi có nội dung
ý nghĩa hẹp.

Trong số các định danh có thể giải thích đƣợc lí do, thƣờng có những
phân biệt sau đây:

Hai là sự nhƣợc hóa tính đa dạng có thể chỉ động chạm đến một khách
thể và đƣợc biểu hiện ở sự trừu tƣợng khỏi những nét khác của nó và chỉ chọn
lựa với tƣ cách là cơ sở để định danh, một trong những nét của nó là có giá trị

a) Định danh rõ lí do tuyệt đối và định danh rõ lí do tương đối
Kiểu tên gọi rõ lí do tuyệt đối thƣờng là đƣợc tạo ra do mô phỏng âm
thanh, kiểu (chim) cuốc, (chim) chích, (chim) bồ chao v.v...
Kiểu tên gọi rõ lí do tuyệt đối trên thƣờng đƣợc tạo ra bằng cách chọn

thông báo [42, tr. 214].

đặc trƣng lí do khách quan (tức âm thanh) để làm cơ sở định danh.

1.3.3. Cách thức biểu thị của các định danh
Theo tham tố này, đặc điểm định danh có thể đƣợc xét theo ba tiêu chí sau:

Các tên gọi rõ lí do tƣơng đối là loại đơn vị định danh có thể giải thích


- Cách biểu thị tên gọi theo lối hoà kết hay phân tích;

đƣợc lí do nhờ dựa vào những đơn vị làm thành phần của chúng. Những đơn

- Mức độ về tính rõ lí do của tên gọi;

vị thành phần ấy có thể là không rõ lí do. Chẳng hạn stol / ovaya “nhà ăn”:

- Cách chọn đặc trưng của đối tượng để làm cơ sở định danh.

phần thứ nhất stol = đƣợc giải thích bằng mối liên hệ với từ stol “cái bàn”.

1.3.3.1. Mức độ hoà kết hay phân tích của các định danh

Phần hai – ovaya đƣợc giải thích bằng mối liên hệ với từ komnata bị rút

Có thể hình dung tính chất này của tên gọi về mặt định danh tƣơng tự

gọn. Các từ stol và komnata không rõ lí do nếu chỉ dựa vào hình thái bên

nhƣ tính chất “tổng hợp tính” và “phân tích tính” của từ, xét về mặt ngữ pháp.
Do đặc điểm loại hình ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính chi phối nên
chắc rằng các địa danh tiếng Việt chủ yếu là những tên gọi phân tích tính. Mặt
khác, xét về phƣơng diện cấu tạo, vốn từ tiếng Việt đƣợc tạo ra theo phƣơng
thức ghép là chủ yếu. Điều đó khiến cho mức độ phân tích tính của tên gọi
trong tiếng Việt nói chung, các tên gọi địa lí nói riêng, càng cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

26




trong của chúng.
b) Định danh rõ lí do đầy đủ hoàn toàn và định danh chỉ rõ lí do
một phần
Trong trƣờng hợp đầu, tất cả thành tố của tên gọi đều rõ lí do. Trong
trƣờng hợp sau có thành tố không rõ lí do ở trong tên gọi.
Chẳng hạn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

27




- nhà cửa, nhà hát v.v,... (1)

hay chức năng: Chẳng hạn, dây thanh , ruột thừa, bàn toạ, v.v...; Đặc trƣng

- sân sƣớng, tre pheo, đỏ au v.v,... (2)

vật lí :Chẳng hạn, ruột già, ruột non, màng cứng, động mạch, tĩnh mạch,

c) Định danh giải thích được lí do một cách trực tiếp và định danh giải
thích được lí do một cách gián tiếp

v.v...; Kích thƣớc / kích cỡ: Chẳng hạn, đại não, tiểu não, đại tràng, ngón cái,
hoa cái, tá tràng( ss. Xóm Cả, đình Cả…), v.v...Các dân tộc hoặc cƣ dân các


Trƣờng hợp thứ nhất, tất cả các yếu tố dùng để giải thích đƣợc gặp
trong ngôn ngữ nhƣ những đơn vị định danh riêng biệt, chúng là từ.
Trƣờng hợp thứ hai, các yếu tố của tên gọi không tồn tại riêng biệt
trong ngôn ngữ nhƣ những từ, ý nghĩa của chúng đƣợc xác định bằng cách đối
chiếu một loạt tên gọi có những yếu tố này làm thành phần. Ss. các từ tiếng

vùng khác nhau có thể có cách chọn những đặc trƣng này theo thiên hƣớng khác
nhau để làm cơ sở định danh các đối tƣợng địa lí ở địa phƣơng mình.
1.4. TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Chƣơng 1 trình bày một số vấn đề lí thuyết chung về định danh ngôn
ngữ và địa danh học.

Việt: học / viên – giáo / viên – sinh / viên – tổ / viên – xã / viên  viên là

Định danh là cách đặt tên gọi cho một sự vật, hiện tƣợng nào đó. Khi cần

“ngƣời bình thƣờng với tƣ cách là thành phần trong tổ chức học tập, đào tạo,

đặt tên một đối tƣợng mới ngƣời ta phải tiến hành quy loại đối tƣợng và chọn

hoặc kinh tế – xã hội” v.v...

một đăc trƣng nào đó là tiêu biểu, dễ khu biệt nó với những đối tƣợng khác để

Trong tiếng Việt, những đơn vị định danh giải thích đƣợc lí do một

làm cơ sở định danh rồi sử dụng quy tắc cấu tạo từ của ngôn ngữ “chế tác”

cách trực tiếp là loại tên gọi thuần Việt và là những tổ hợp đƣợc đặc ngữ hoá,


sản phẩm của hai quá trình trên để tạo ra tên gọi. Từ đó có thể thấy đƣợc

còn những đơn vị định danh giải thích đƣợc lí do một cách gián tiếp là loại tên

những chỗ khác biệt khi định danh của dân tộc này so với dân tộc khác, hoặc

gọi Hán – Việt.

địa phƣơng này so với địa phƣơng khác.

So sánh: tai giữa, lưỡi con, lá mía, lông mi, răng hàm, xương chậu,
v.v... >< tâm nhĩ, cốt mạc, phế quản, giác mạc v.v...

Mối quan hệ giữa tên gọi và sự vật đƣợc biểu thị luôn luôn có lí do. Đó
có thể là lí do chủ quan - phụ thuộc vào chủ thể định danh; hoặc lí do khách

Xét về phƣơng diện cấu tạo, vốn từ tiếng Việt đƣợc tạo ra theo phƣơng

quan - phụ thuộc vào đối tƣợng đƣợc định danh - nghĩa là một đặc trƣng, một

thức ghép là chủ yếu. Điều đó khiến cho mức độ rõ lí do của tên gọi trong

thuộc tính nào đó của bản thân sự vật đƣợc chọn làm dấu hiệu khu biệt để gọi

tiếng Việt nói chung, các tên gọi địa lí nói riêng là khá cao.

tên nó.

1.3.3.3 Đặc điểm sự lựa chọn đặc trưng làm cơ sở cho việc định danh


Còn nói về Địa danh thì đây là lớp từ ngữ nằm trong từ vựng của một

Các đặc trƣng có thể đƣợc chọn làm cơ sở cho việc định danh sự vật

ngôn ngữ, đƣợc dùng để gọi tên các đối tƣợng địa lí, do đó nó hoạt động và

nói chung, hay khi đặt địa danh nói riêng: Đặc trƣng hình thức: Chẳng hạn,

chịu sự tác động, chi phối của quy luật ngôn ngữ nói chung về mặt ngữ âm, từ

nhãn cầu, lá mía, xương chậu, mắt cá, (ss. Núi mâm xôi, hòn Trống

vựng - ngữ nghĩa và ngữ pháp.

Mái…),v.v...; Đặc trƣng vị trí: ví dụ: tai trong, mang tai, nhân trung, xương

Chúng tôi theo Lê Trung Hoa phân loại địa danh theo tiêu chí tự nhiên

sườn, xương hông (ss. Xóm Thượng, đền Hạ, xóm Giữa…), v.v..; Công dụng

và không tự nhiên. Địa danh địa hình tự nhiên gồm có: Sơn danh,Thủy danh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

28




29




vùng đất nhỏ phi dân cƣ. Địa danh không tự nhiên gồm có: Địa danh chỉ các

Chƣơng 2

đơn vị dân cƣ, địa danh chỉ các công trình nhân tạo, bao gồm: Các công trình

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH
CỦA ĐỊA DANH VÕ NHAI

giao thông, các công trình xây dựng…
Để nghiên cứu đặc điểm của cách định danh nói chung và cách đặt địa
danh trong đó có các địa danh thuộc Võ Nhai nói riêng, chúng tôi đi theo

2.1. VẤN ĐỀ TƢ LIỆU THỰC TẾ CỦA ĐỊA BÀN, ĐỊA DANH VÕ NHAI

Nguyễn Đức Tồn và các nhà nghiên cứu khác khảo sát các tên gọi theo ba

2.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện Võ Nhai

thông số sau đây: Nguồn gốc của tên gọi; kiểu ngữ nghĩa của tên gọi; cách

2.1.1.1 Về địa lí

thức biểu thị của tên gọi.


Võ Nhai là một huyện miền núi cao, nằm ở Đông Bắc tỉnh Thái
Nguyên, diện tích tự nhiên là 845,1 km2 (lớn nhất trong số các huyện, thành
thị nằm trên địa bàn tỉnh). Huyện Võ Nhai nằm trong toạ độ từ 21° 36‟ đến
21° 56‟ vĩ độ Bắc, từ 105° 45‟ đến 106° 17‟ kinh độ Đông; phía Bắc giáp
huyện Na Rì (tỉnh Bắc Kạn), phía Nam giáp huyện Đồng Hỷ (Thái Nguyên),
phía Đông giáp huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), phía Tây giáp huyện Phú Lƣơng
(Thái Nguyên). Huyện lị đặt tại thị trấn Đình Cả, cách trung tâm thành phố
Thái Nguyên 37 km theo quốc lộ 1B.
Toàn huyện Võ Nhai có 15 đơn vị hành chính gồm các xã: Nghinh
Tƣờng, Lâu Thƣợng, La Hiên, Tràng Xá, Vũ Chấn, Thần Sa, Phƣơng Giao,
Phú Thƣợng, Bình Long, Liên minh, Dân Tiến, Cúc Đƣờng, Sảng Mộc,
Thƣợng Nung và thị trấn Đình Cả.
Địa hình của huyện khá phức tạp, chủ yếu là núi đá vôi xen kẽ núi đất,
độ cao trung bình của các dãy núi là 500m đến 800m. Tiêu biểu là ngọn Khau
Nao (NT) cao 885m. Miền này xuất hiện nhiều suối ngầm (hiện tƣợng castơ)
do đó thƣờng gây nên hạn hán nghiêm trọng. Quang cảnh nơi đây hùng vĩ, núi
đá cheo leo, nhiều hang động ăn sâu vào trong lòng núi, nhƣ hang Phƣợng
Hoàng (PT), hang Phiêng Tung (TS). Địa thế hiểm trở khiến cho Võ Nhai
thuận tiện cho việc xây dựng căn cứ hoạt động trong thời kì bí mật cũng nhƣ
cho hoạt động chiến tranh du kích. Vùng núi thấp và đồi ở phía nam huyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

30



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


31




mang tính chất điển hình của vùng trung du. Địa hình vùng này phần lớn là

phủ Thái Nguyên. Đời Lê Thuận Thiên (năm 1469) huyện Vũ Lễ đổi thành

những dãy đồi đỉnh tròn hình bát úp, phía Nam thì độ cao giảm dần và địa

châu Vạn Nhai, thuộc phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Châu Võ Nhai lúc đó

hình dốc thoải.

có 65 xã và 35 trang. Đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835), châu Võ Nhai đƣợc

Địa hình Võ Nhai bị cắt bởi hai mạch núi thấp. Mạch núi Yên Lạc chạy

đổi thành huyện Võ Nhai thuộc phủ Phú Bình tỉnh Thái Nguyên. Huyện Võ

theo hƣớng Đông Bắc - Tây Nam dọc theo ranh giới Bắc Thái - Lạng Sơn và

Nhai lúc này có 8 tổng, 29 xã, trại; cai trị theo chế độ lƣu quan. Từ năm 1885

dừng lại ở cánh đồng Võ Nhai. Mạch núi thấp Bắc Sơn bắt đầu từ núi Bắc

đến năm 1888 (đời Đồng Khánh), huyện Võ Nhai có 8 tổng, 28 xã trại [4,

Sơn (Lạng Sơn) kéo dài xuống Võ Nhai, Đồng Hỷ. [25, tr.7]


tr.6], [25, tr.7].

Khí hậu Võ Nhai khắc nghiệt hơn các vùng khác, nóng nhiều về mùa

Nhân dân các dân tộc Võ Nhai giàu lòng yêu nƣớc, yêu quê hƣơng và

hè, mùa đông thƣờng có sƣơng muối xuất hiện, mùa lạnh ở Võ Nhai thƣờng

lòng căm thù giặc sâu sắc. Mảnh đất Võ Nhai đã từng gắn liền với những

đến sớm và kéo dài hơn. Địa hình Võ Nhai thuộc vùng lạnh trong tỉnh, nhiệt

cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của dân tộc. Từ cuộc chiến tranh chống quân

độ trung bình trong năm là 22,4°C (nhiệt độ trung bình mùa lạnh là 14,9°C,

xâm lƣợc nhà Tống (thế kỉ XI) cho đến những cuộc kháng chiến sau này,

mùa nóng là 27,9°C); độ ẩm từ 79% đến 87%, bình quân trong năm là 84%, ít

ngƣời dân Võ Nhai đã không ngừng cống hiến sức ngƣời, sức của để làm nên

chịu ảnh hƣởng của gió mùa Đông Bắc.

những chiến thắng vẻ vang. Chính vì vậy, Võ Nhai tự hào là cái nôi của cách

Khí hậu Võ Nhai hình thành hai mùa mƣa và khô khá rõ rệt. Mùa mƣa

mạng. Đây là nơi ra đời của đội Cứu quốc quân II, cũng là nơi thành lập cơ sở


từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, lƣợng

Đảng sớm nhất tỉnh Thái Nguyên (từ năm 1937). Trong quá trình đấu tranh

mƣa trung bình hàng năm là 1.941,5 mm, trong đó lƣợng mƣa trong mùa mƣa

chống giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc Võ Nhai luôn một lòng đoàn kết

lên tới 1.765 mm.

gắn bó và lập dƣợc nhiều chiến công hiển hách. Nhiều địa danh Võ Nhai còn

Võ Nhai có nguồn nƣớc khá phong phú do có nhiều sông, suối và các
mạch nƣớc ngầm từ núi đá vôi và hang động. Dòng sông Cầu chảy ở phía Tây

ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng này và còn đƣợc lƣu giữ đến tận
ngày nay.

huyện tạo ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Võ Nhai và Phú Lƣơng. Sông

Từ thế kỉ XI trong cuộc đấu tranh chống quân xâm lƣợc nhà Tống, nhân

Dong bắt nguồn từ núi Vũ Lễ chảy quanh co vào phía Nam Tràng Xá qua địa

dân Võ Nhai hăng hái tham gia vào đội quân ngƣời dân tộc thiểu số, các đội

phận Hữu Lũng (Lạng Sơn) rồi đổ ra sông Thƣơng. Sông Nghinh Tƣờng dài

quân miền núi trở thành lực lƣợng du kích, vƣợt qua biên giới đánh phá các


46km chảy qua các xã Nghinh Tƣờng, Sảng Mộc, Thƣợng Nung, Thần Sa rồi

trại quân Tống theo kế hoạch của Lí Thƣờng Kiệt.

đổ ra sông Cầu.

Năm 1882 đồng bào các dân tộc Võ Nhai đã hăng hái tham gia cuộc

2.1.1.2 Về lịch sử

khởi nghĩa Hoàng Đình Kinh, nhiều ngƣời con của Võ Nhai tham gia các trận

Thời Lí - Trần vùng đất Võ Nhai ngày nay có tên là châu Vạn Nhai.

chiến đấu chống Pháp và góp phần xứng đáng vào chiến công của nghĩa quân.

Thời Thuộc Minh (1407-1427) châu Vạn Nhai đổi thành huyện Vũ Lễ, thuộc

Năm 1884 thực dân Pháp đã chiếm đóng đƣợc đồn Đình Cả, nhƣng một thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

32



33





gian dài chúng vẫn không dám sục sâu vào các làng bản. Tinh thần chiến đấu

2.1.1.4 Về đặc điểm dân cư

của nhân dân Võ Nhai khiến cho thực dân Pháp khiếp sợ và gọi Võ Nhai là

Dân số của huyện Võ Nhai hiện nay là 65.021 ngƣời (theo số liệu thống

“đất nghịch”.

kê tháng 12 năm 2008) [47], mật độ dân số trung bình toàn huyện là 73

Từ trong thực tiễn đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ý thức dân tộc, lòng

ngƣời/km2, xã Sảng Mộc có mật độ dân số thấp nhất ( 21,2 ngƣời/km2). So

yêu nƣớc và tinh thần đoàn kết ngày càng tăng lên trong nhân dân các dân tộc

với các huyện thị trong tỉnh, Võ Nhai là huyện có mật độ dân số trung bình

Võ Nhai. Đó là một trong những nhân tố thuận lợi, tạo cho Võ Nhai sớm hình

thấp nhất tỉnh.

thành cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng và trở thành một căn cứ địa đầu tiên, rất
vững chắc của cách mạng nƣớc ta.


Sinh sống trên địa bàn huyện Võ Nhai gồm có 8 dân tộc anh em: Kinh:
36,6%, Tày: 22,12%, Nùng: 18,8%, Dao: 13,2%, Cao Lan, Sán Chí, Hoa,

2.1.1.3 Về địa giới hành chính

Mông: 8,28% [47]. Ngƣời dân Võ Nhai có tinh thần đoàn kết gắn bó, yêu lao

Dƣới thời Pháp thuộc, năm 1894 thực dân Pháp cắt địa phận các tổng

động. Họ sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, trồng hoa màu và khai thác lâm

Bắc Sơn, Nhất Thể và Quỳnh Sơn thành lập châu Bắc Sơn, thuộc tỉnh Lạng

thổ sản. Sống gần gũi với thiên nhiên núi rừng, ngƣời đàn ông ở đây giỏi nghề

Sơn; huyện Võ Nhai đƣợc đổi thành châu Võ Nhai thuộc tỉnh Thái Nguyên.

săn bắn, phụ nữ giỏi nghề đan lát, dệt vải. Lụa thổ trìu Võ Nhai nổi tiếng bền

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nƣớc Việt Nam dân chủ

đẹp đã đƣợc sử cũ nhắc đến.

cộng hoà ra đời, ngày 25 tháng 3 năm 1948 Chủ tịch Hồ chí Minh kí sắc lệnh

2.1.1.5 Về văn hoá

số 148/SL bỏ đơn vị hành chính cấp phủ, châu, quận; châu Võ Nhai đƣợc đổi


Thành tựu khảo cổ học trong những năm gần đây cho thấy tại các miền

thành huyện Võ Nhai, thuộc tỉnh Thái Nguyên, gồm 17 xã (Nghinh Tƣờng,

núi đá xã Thần Sa, Thƣợng Nung, Sảng Mộc, Bình Long, Vũ Chấn có di chỉ

Văn Lăng, Vũ Chấn, Hoà Bình, Lịch Sơn, Xuân Quang, Phƣơng Giao, La

thuộc văn hoá Thần Sa (đồ đá cũ). Những dấu ấn đã phát hiện tại khu di chỉ

Hiên, Phú Thƣợng, Dân Tiến, Thần Sa, Thƣợng Nung, Cƣờng Thịnh, Tràng

khảo cổ học Thần sa Võ Nhai cho thấy nơi đây là vùng đất cổ. Nét đặc trƣng

Xá, Bình Long, Cúc Đƣờng, Lâu Thƣợng).

của địa hình khu vực này là những dãy núi đá vôi dày đặc thuộc phần cuối

Ngày 22 tháng 12 năm 1949 Chính phủ ra nghị định số 224/Ttg tách

Sơn hệ Bắc Sơn và những dải thung lũng hẹp dọc sông Thần Sa. Địa hình này

thôn Sảng Mộc (khỏi Yên Hân huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn) sáp nhập

đã tạo ra điều kiện lí tƣởng để ngƣời nguyên thủy lựa chọn làm nơi cƣ trú,

vào xã Nghinh Tƣờng huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.

sinh tồn và phát triển. Hàng chục ngàn hiện vật công cụ cuội đã đƣợc tìm thấy


Ngày 1 tháng 6 năm 1985 Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ)

từ các di chỉ khảo cổ nhƣ: hang Phiêng Tung, Hạ Sơn 1, Hạ Sơn 2, hang

quyết định cắt 4 xã: Tân Long, Hoà Bình, Quang Sơn,Văn Lăng của huyện

Thắm Choong , Nà Ngùn, …Đặc biệt là Mái Đá Ngƣờm, di chỉ quan trọng

Võ Nhai thuộc về Đồng Hỷ.

bậc nhất nằm trên sƣờn dãy núi Ngƣờm thuộc bản Trung Sơn. Dƣới mái đá

Ngày 25 tháng 10 năm 1990 Ban tổ chức Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ)

này các nhà khảo cổ học phát hiện ra 4 địa tầng văn hóa. Những di vật đá đặc

ra quyết định số 454/TCCP thành lập thị trấn Đình Cả [4,tr.6].

trƣng của nền văn hóa Bắc Sơn, Hòa Bình, Sơn Vi nằm ở tầng 1, tầng 2 đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

34



35





tầng thứ 3 là thuần các công cụ đặc trƣng của Ngƣờm. Và ở tầng văn hóa thứ

2.1.1.6. Về ngôn ngữ

4 là hàng vạn công cụ đá kiểu Phiêng Tung và Ngƣờm. Những công cụ giống

Võ Nhai là huyện đa dân tộc, đa ngôn ngữ. Tiếng nói của dân tộc này

nhƣ công cụ và kỹ thuật điển hình của văn hóa Mút – xchi – ê, nền văn hóa

thuộc các ngữ hệ sau:

tiêu biểu cho thời đại trung kỳ đá cũ. Chủ nhân của những công cụ này –

* Ngữ hệ Tày - Thái: gồm các dân tộc Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Chí;

những ngƣời đầu tiên đã chọn nơi đây làm đất sống, đã mở ra trên vùng đất

* Ngữ hệ Hán: có dân tộc Hoa;

này một nền văn hóa lâu đời và bền vững.

* Ngữ hệ H‟mông - Miền: có dân tộc Mông, Dao;

Những hiện vật tìm thấy ở di chỉ Thần Sa đã cho thấy miền đất này là
một trong những cái nôi đầu tiên sinh ra con ngƣời thƣợng cổ. Các bộ tộc


* Ngữ hệ Việt - Mƣờng: có dân tộc Kinh.
- Dấu ấn: Tiếng dân tộc Tày, Nùng chiếm đa số.
Tiếng Việt (tiếng Việt, Hán Việt).

ngƣời nguyên thuỷ sinh sống bằng nghề hái lƣợm, săn bắt. Trải qua quá trình
dài hàng mấy thế kỉ, dân số tăng lên, nguồn thức ăn cạn dần, họ đi dọc theo
các triền sông, khe suối mở rộng địa bàn cƣ trú. Lại có những bộ phận khác
di cƣ tới lập nghiệp và trở thành chủ thể của vùng đất này.
Tình đồng tộc gắn bó khiến Võ Nhai có những phong tục đẹp nhƣ “hội
phƣờng”, “hội phe” là nét đặc trƣng của tính cộng đồng giữa các dân tộc anh
em. [25, tr.10].

Tiếng các dân tộc khác chiếm tỷ lệ nhỏ.
Tiếng Kinh mang đầy đủ những đặc điểm của phƣơng ngữ Bắc, tuy
nhiên phát âm nặng hơn so với Hà Nội.
- Hệ thống thanh điệu gồm 6 thanh (nhƣ trong chính tả) đối lập đôi về
âm vực và âm đệm.
- Hệ thống phụ âm đầu: 20 âm vị, không có những phụ âm ghi trong
chính tả là: s, r, gi, tr tức là không phân biệt s/x, r/d, tr/ch.

Võ Nhai cũng nhƣ một số địa phƣơng khác của tỉnh Thái Nguyên hay
Bắc Kạn còn là nơi vẫn lƣu giữ đƣợc những nếp nhà sàn đơn sơ mà đằng sau
nó là những phong tục tập quán đẹp còn đƣợc gìn giữ đến nay.
Võ Nhai còn đƣợc biết đến với phiên chợ tình tổ chức vào ngày 26 tháng

- Hệ thống âm cuối: có đủ âm cuối ghi trong chính tả. Có 3 cặp âm cuối
ở thế phân bố:
+ [- nh, - ch] đứng sau nguyên âm dòng trƣớc [i, ê, e].
+ [ -ng, -k] đứng sau nguyên âm dòng giữa [ƣ, ơ, â, a, ă].


3 âm lịch hàng năm. Tuy không nhộn nhịp đông đúc nhƣ chợ tình Sa Pa

+ [-ngm, -kp] đứng sau nguyên âm dòng sau tròn môi [ u, ô, o].

nhƣng phiên chợ tình Võ Nhai cũng mang đầy đủ những bản sắc dân tộc và

- Ngôn ngữ Tày, Nùng về cơ bản là thống nhất, nhƣng không hoàn toàn

có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc
nơi đây.

đồng nhất, mỗi địa phƣơng lại có ngữ âm ít nhiều khác nhau (phƣơng ngữ).
2.1.2. Phân loại địa danh Võ Nhai theo tiêu chí tự nhiên- không tự nhiên

Trong quá trình lao động sản xuất và đấu tranh chế ngự thiên nhiên,

2.1.2.1 Kết quả thu thập

nhân dân các dân tộc Võ Nhai đã sáng tạo một nền văn hoá phong phú đa

Dựa vào mục đích, đối tƣợng, nguyên tắc và các tiêu chí, thu thập, phân

dạng. Họ đã biết đào mƣơng dẫn nƣớc vào ruộng, chế tạo công cụ sản xuất.

loại nhƣ đã nêu ở phần Mở đầu, chúng tôi đã tiến hành thu thập đƣợc 617 địa

Bên cạnh đó họ còn biết sáng tác và lƣu truyền dòng văn học nghệ thuật dân

danh, các địa danh đều đƣợc ghi bằng tiếng Việt và đƣợc phân bố ở 15 xã, thị


gian đậm đà màu sắc dân tộc.

trấn, huyện Võ Nhai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

36



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

37




Kết quả thu thập đƣợc dựa trên những cơ sở sau đây:

2.1.2.2 Phân loại địa danh

Thứ nhất: Theo văn bản hành chính, bản đồ các loại, các văn bản, thƣ
tịch cổ ghi chép lại.

- Sơn danh: 170 địa danh, chiếm 27,552%.

Thứ hai: Từ các cứ liệu điền dã thực tế qua phiếu điều tra.

Ví dụ: núi Nguyên Sinh (LT), đồi Bãi Cháy (TX), hang Phượng Hoàng (PT).
- Thủy danh: 79 địa danh, chiếm 12,803%.


Kết quả thu thập đƣợc thể hiện trong bảng 2.1.
Bảng 2.1: Kết quả thu thập địa danh huyện Võ Nhai
STT Loại hình địa danh

: a) Địa danh tự nhiên: số lƣợng là 336 địa danh, chiếm 54, 457% trong đó:

Số lƣợng

Tỷ lệ (%)

Ví dụ: suối Thuồng Luồng (LH), sông Nghinh Tường, khuổi Pắc Nhài (SM).
- Vùng đất nhỏ phi dân cƣ: 87 địa danh chiếm 14,100%. Ví dụ: nà Áng

1

Địa hình tự nhiên

336

54,457

(TS), ruộng Pác Mương (CĐ), nà Lẹng (LT).

2

Các đơn vị dân cƣ

189


30,633

b) Địa danh không tự nhiên: số lƣợng là 280 địa danh, chiếm 45,380%. Trong

3

Các công trình nhân tạo

92

14,910

Tổng cộng

617

100

Nhƣ vậy, có thể rút ra nhận xét hệ thống địa danh Võ Nhai chiếm đa phần
là các địa danh chỉ địa hình tự nhiên hết sức phong phú và phức tạp nơi đây.
Tiếp theo là các địa danh chỉ các dơn vị dân cƣ. Các địa danh chỉ công trình
nhân tạo chiếm tỉ lệ thấp nhất (chỉ có 91 công trình).

địa danh không tự nhiên có các địa danh chỉ đơn vị dân cƣ và địa danh chỉ
các công trình nhân tạo.
- Địa danh đơn vị dân cƣ: 189 địa danh, chiếm 30,632%, trong đó:
+ Địa danh do chính quyền hành chính mới đặt là 18, chiếm 2,917%.
Ví dụ: huyện Võ Nhai, xã Lâu Thượng, phố Đình Cả.
+ Địa danh truyền thống có từ thời phong kiến: 171 địa danh chiếm
27,715%.


Từ kết quả phân loại theo tiêu chí tự nhiên, không tự nhiên có thể hình
dung sự phân loại địa danh Võ Nhai theo mô hình 2.1.

Ví dụ: xóm Khuân Vạc (LH), xóm Mỏ Đinh (TX), xóm Nà Hấu (NT).
- Địa danh các công trình nhân tạo: có số lƣợng 91, chiếm 14,749%,

Mô hình 2.1: Sự phân bố các loại hình ở địa danh Võ Nhai

trong đó:
+ Địa danh công trình giao thông là 76, chiếm 12,317 %.
+ Địa danh công trình xây dựng là 15, chiếm 2,431%.
2.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA CÁC ĐỊA DANH THUỘC VÕ NHAI

14,91

54,457

30,633

Địa hình tự nhiên
Các đơn vị dân cƣ
Các công trình nhân tạo

2.2.1. Xét theo nguồn gốc ngôn ngữ
Võ Nhai vốn là một huyện ở vùng núi cao, nên các địa danh cũng phản
ánh sự phức tạp về ngôn ngữ. Ngôn ngữ đƣợc sử dụng để định danh các đối
tƣợng địa lí ở đây gồm các yếu tố thuần Việt, Hán Việt, các yếu tố thuộc ngôn
ngữ các dân tộc thiểu số mà chủ yếu là Tày - Nùng, Dao.
a) Địa danh được cấu tạo bằng các yếu tố từ vựng thuần Việt


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

38



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

39




Có 305 địa danh đƣợc cấu tạo bởi các yếu tố thuần Việt, chiếm
49, 432%, trong đó:

ĐDĐHTN: 16 địa danh, chiếm 2,593%.
ĐDĐVDC: 58 địa danh, chiếm 9,400%.

ĐDĐHTN: 154 địa danh, chiếm 24,959%.

ĐDCTNT: 6 địa danh, chiếm 0,972%.

ĐDĐVDC: 88 địa danh, chiếm 14,262%.

Ví dụ: xã Phương Giao, xã La Hiên, núi Yên Lạc, đồi Quan Sát (ĐC).

ĐDCTNT: 63 địa danh, chiếm 10,210%.


Những địa danh có yếu tố Hán Việt xuất hiện nhiều nhất trong các đơn

Ví dụ: núi Đá vôi (LH), hang Trâu (BL), suối Cạn (LT). Các yếu tố

vị dân cƣ do chính quyền hành chính mới đặt sau này. Cách định danh này

thuần Việt xuất hiện nhiều trong ĐDĐHTN, dùng để cấu tạo tên gọi các đối

thƣờng cấu tạo theo phƣơng thức đẳng lập hoặc chính phụ theo quy tắc ngữ

tƣợng địa lý. Các yếu tố thuần Việt này thƣờng là tên những con vật, cây cối,

pháp tiếng Hán là yếu tố phụ đứng trƣớc, yếu tố chính đứng sau. Nét đặc sắc

sản vật… của thiên nhiên núi rừng hàng ngày rất gần gũi với tƣ duy của ngƣời

của những địa danh kiểu này là thƣờng mang sắc thái trang trọng và giàu hàm

dân Võ Nhai.

nghĩa văn hoá.

b) Địa danh được cấu tạo bằng các yếu tố thuộc ngôn ngữ dân tộc thiểu số
Có 195 địa danh đƣợc cấu tạo bằng các yếu tố ngôn ngữ dân tộc thiểu
số, chiếm 31,605%, trong đó:

d) Địa danh hỗn hợp
Do sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác trong vùng mà
trong hệ thống địa danh Võ Nhai có những đơn vị đƣợc cấu tạo hỗn hợp bằng


- ĐDĐHTN: 152 địa danh, chiếm 24,635%.

các yếu tố thuộc những ngôn ngữ khác nhau. Theo thống kê của chúng tôi,

- ĐDĐVDC: 27 địa danh, chiếm 4,376%.

có 37 địa danh, chiếm 6,159%, trong đó:

- ĐDCTNT: 16 địa danh, chiếm 2,593%.
Ngôn ngữ dân tộc thiểu số đƣợc sử dụng chủ yếu ở đây là Tày - Nùng
và sau đó là tiếng Dao. Ví dụ: núi Ma Hưn (núi chó đá) (PT), Khuổi Luông
(suối to) (TS), suối Sa Khao ( suối hang trắng) (ĐC)…
Các địa danh đƣợc cấu tạo bằng các yếu tố có nguồn gốc từ ngôn ngữ
các dân tộc thiểu số chiếm đa số trong ĐDĐHTN (152 trƣờng hợp), chủ yếu
xuất hiện ở vùng thuộc các xã: Cúc Đƣờng, Vũ Chấn, Thần Sa, Sảng Mộc,
Nghinh Tƣờng, Thƣợng Nung. Bởi nơi đây tập trung phần đa là đồng bào dân

ĐDĐHTN: 15 địa danh, chiếm 2,431%.
ĐDĐVDC: 16 địa danh, chiếm 2,593%.
ĐDCTNT: 6 địa danh, chiếm 0,972%.
Trong hệ thống địa danh Võ Nhai có thể có sự kết hợp giữa các yếu tố:
Thuần Việt + Hán Việt
Ví dụ: xóm Bãi Lai (ĐC), thì “bãi” là yếu tố thuần Việt, còn “lai” là yếu
tố Hán Việt.

tộc thiểu số, vì vậy cách định danh biểu hiện rõ nét dấu ấn về ngôn ngữ và tƣ

Ngôn ngữ dân tộc thiểu số + Hán Việt

duy của đồng bào dân tộc miền núi.


Ví dụ: Nà Phú (TS), La Phài (PT) thì các yếu tố “nà” và “phài” thuộc

c) Địa danh được cấu tạo bằng các yếu tố Hán Việt

ngôn ngữ dân tộc thiểu số ( trong tiếng Tày: nà có nghĩa là “ruộng”, phài

Có 80 địa danh đƣợc cấu tạo bằng các yếu tố Hán Việt, chiếm

hay phai có nghĩa là “đập nƣớc”) [ 39, tr. 8], còn các yếu tố “la”, “phú” là
Hán Việt.

12,966%, trong đó:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

40



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

41




Ngôn ngữ dân tộc thiểu số + tiếng Việt

Nhƣ vậy, xét theo tham số nguồn gốc, các địa danh Võ Nhai chủ yếu là


Ví dụ: cầu Nà Ruộc (TS), đường Khau Vàng (SM) thì các yếu tố “nà”,

các địa danh thuần Việt, tiếp theo là các địa danh thuộc ngôn ngữ dân tộc

“khau” thuộc ngôn ngữ dân tộc Tày (nà= ruộng, khau= rừng, núi) [39, tr. 8],

thiểu số trong vùng - những cƣ dân chủ thể lâu đời của vùng lãnh thổ này. Các

còn các yếu tố “ruộc”, “vàng” là tiếng Việt.

địa danh đƣợc vay mƣợn từ tiếng Hán hoặc đƣợc cấu tạo bằng các yếu tố Hán

Nhƣ vậy, địa danh Võ Nhai đƣợc cấu tạo từ các ngôn ngữ khác nhau,
đó có thể là yếu tố thuần Việt (TV), có thể là yếu tố Hán Việt (HV), ngôn ngữ
dân tộc thiểu số (DTTS) hoặc sự kết hợp giữa các ngôn ngữ với nhau - ngôn
ngữ hỗn hợp(HH). Có thể nhận thấy điều này qua bảng 2.2.
Bảng 2.2. Kết quả thống kê địa danh theo nguồn gốc ngôn ngữ các yếu tố
Số lƣợng địa danh theo nguồn gốc
ngôn ngữ

1

Loại
hình
địa
danh
ĐHTN

154


152

16

2

ĐVDC

88

27

3

CTNT

63
305

STT

Cộng

TV

Cộng

Việt chiếm tỉ lệ ít nhất. Loại địa danh đƣợc cấu tạo bằng các yếu tố Hán Việt
chủ yếu đƣợc đặt cho các đơn vị dân cƣ – hành chính cần sắc thái trang trọng.
2.2.2. Đặc điểm của các địa danh thuộc Võ Nhai xét theo kiểu ngữ

nghĩa của chúng
2.2.2.1 Đặc điểm của các địa danh Võ Nhai xét theo sự đối lập về
tính trực tiếp hay gián tiếp (hoặc nguyên sinh và thứ sinh)

15

Số
lƣợng
337

54,62

Dựa vào [42, tr.227] và những nét đặc sắc trong cách định danh Võ

58

16

189

30,63

Nhai, chúng tôi tìm đƣợc 172 đơn vị định danh trực tiếp, chiếm 27,9%. Các

16

6

6


91

14,75

đơn vị địa danh này đƣợc đặt ra với nghĩa gốc đầu tiên chỉ đối tƣợng địa lí

195

80

37

617

100

nào đó. Đây thƣờng là những từ ngữ thuần Việt. Trong 172 địa danh là những

DTTS

HV

HH

%

* Các đơn vị định danh trực tiếp

đơn vị định danh trực tiếp có:
Từ thống kê trên, có thể thấy sự tƣơng quan về số lƣợng loại hình địa

danh theo nguồn gốc ngôn ngữ của các yếu tố trong mô hình 1.
Mô hình 2.2. Số lƣợng các loại hình địa danh theo nguồn gốc ngôn ngữ
180
160
140
120
100
80
60
40
20
0

ĐDĐHTN: 119 địa danh, chiếm 19,287%.
ĐDĐVDC: 24 địa danh, chiếm 3,89%.
ĐDCTNT: 29 địa danh, chiếm 4,700%.
Những cách định danh theo kiểu trực tiếp thƣờng tập trung vào hình

154

152

thức, vị trí, hình dáng, màu sắc của đối tƣợng, hay nói cách khác chủ thể định
danh đã chọn đặc trƣng “đập vào mắt” để định danh [42, tr.213]. Ví dụ:

88

- Đặc trƣng màu sắc: suối Vực Xanh (PT), cầu Trắng (LH).
58


63

- Có loài cây nào đó mọc nhiều ở đó: đồi Dẻ, đồi Tranh (LT), đồi

27
16
TV

16

DTTS

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

HV

42

6

15 16

6

HH



Chuối (LH).
- Chỉ chất liệu tạo thành: núi Đá vôi (LH)

- Chỉ hình dạng: đồi Dốc Nhọn (LH), núi Vuông (PG).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

43




* Các đơn vị định danh gián tiếp

đƣợc coi là có cách định danh theo lối hoà kết, còn những địa danh là từ ghép

Các địa danh là những đơn vị định danh gián tiếp thƣờng do sự chuyển

đƣợc coi là có cách định danh theo lối phân tích.

nghĩa theo ẩn dụ một đơn vị từ vựng có sẵn tạo nên. Ví dụ: núi Voi là lấy một

Nhƣ vậy, theo thống kê của chúng tôi, có 180 địa danh đƣợc cấu tạo

loài động vật để đặt tên cho một quả núi bởi nó có hình dáng nhƣ một con voi.

theo lối hoà kết (29,17%). Kiểu cấu tạo này dựa trên cơ sở sử dụng một tổ

Các địa danh này có cả là từ Hán Việt, từ thuần Việt lẫn ngôn ngữ dân tộc

hợp âm tố biểu thị đặc trƣng nào đó đƣợc chọn lựa để định danh. Ví dụ: núi

thiểu số. Trong số 617 địa danh có 445 địa danh đƣợc tạo ra theo lối định


Chùa, núi Vuông (PG), đồi Trọc (LH), đồng Hiếm (LM), xóm Chợ (BL)…

danh gián tiếp, chiếm 72,1%, trong đó:

Những đơn vị này không thể chia tách đƣợc thành phần cấu tạo ra nhỏ hơn

ĐDĐHTN: 218 địa danh, chiếm 35,332%. Ví dụ: núi Tắc Kè (PT), núi Ngũ
Quan (PT), suối Pác Ma (miệng chó) (CĐ), ruộng Tha Mạ (mắt ngựa) (CĐ).
ĐDĐVDC: 165 địa danh, chiếm 26,742%. Ví dụ: xóm Trúc Mai (LH),
phố Thái Long (ĐC), xóm Khuân Ruộng (TX)…

đƣợc nữa.
Có 438 địa danh là từ ghép, nghĩa là đƣợc cấu tạo theo lối phân tích
(70,874%). Đặc điểm của những từ ghép là có thể phân chia nhỏ ra đƣợc các
thành phần cấu tạo.Ví dụ: ruộng Cổ Cò (LH), xóm Mỏ Chì (CĐ), danh thắng

ĐDCTNT: 62 địa danh, chiếm 10,048%. Ví dụ: cầu Quýt (LH), cầu
Khuổi Phát (suối cây) (TS), đường Nà Ca (mèo đen) (SM)…
b) Đặc điểm của các địa danh thuộc Võ Nhai xét theo sự đối lập về
dung lượng ngữ nghĩa rộng hay hẹp

Thác Mưa Rơi (TS), đập Xuyên Sơn… các đơn vị địa danh này có thể phân
chia nhỏ hơn ra đƣợc các thành phần cấu tạo có ý nghĩa.
Nhƣ vậy đặc điểm loại hình ngôn ngữ đơn lập không biến hình, phân
tích tính đã chi phối đặc điểm cấu tạo của địa danh Võ Nhai. Do đặc điểm đơn

Vấn đề đối lập về dung lƣợng ngữ nghĩa rộng – hẹp xảy ra giữa thành tố

lập, từ không biến hình, nên số lƣợng âm tiết làm từ đơn không đủ nhiều để


của địa danh là tên gọi chung chỉ loại đối tƣợng địa lí nào đó (ví dụ: cầu,

biểu thị các đối tƣợng địa lí, do đó, tiếng Việt phải dùng chủ yếu phƣơng thức

đường, thôn, xã, chùa…) và tên riêng của một đối tƣợng địa lí cụ thể trong

ghép để tạo ra các địa danh. Địa danh Võ Nhai cũng không nằm ngoài quy

loại đối tƣợng địa lí ấy (ví dụ: cầu Sắt, đường Hồ Chí Minh, thôn Dương

luật chung đó.

Liễu, xã Bình Long, chùa Quán Sứ…).

Theo tƣ liệu thống kê, các địa danh Võ Nhai có kiểu cấu tạo theo quan

Do vậy khi nghiên cứu các địa danh Võ Nhai, mỗi địa danh là một

hệ chính phụ chiếm đa số. Có các kiểu ghép sau đây để tạo địa danh Võ Nhai:

tên riêng chỉ một cá thể đối tƣợng địa lí nên vấn đề này không đặt ra trong

+ Kết hợp hai danh từ với nhau, trong đó một danh từ là cái đƣợc xác

luận văn.

định và một danh từ là cái xác định, là định ngữ bổ sung ý nghĩa, làm cụ thể

2.2.3. Đặc điểm của các địa danh thuộc Võ Nhai xét theo cách thức


(LH), xóm Cổ Rồng (ĐC)…

biểu thị của chúng
2.2.3.1 Mức độ hoà kết hay phân tích của các địa danh Võ Nhai
Xét theo cách thức biểu thị của các địa danh, các địa danh là từ đơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

hoá cho danh từ đƣợc xác định. Ví dụ: núi Mũ Quan (PT), suối Lòng Thuyền

44



+ Kết hợp danh từ với tính từ, ví dụ: suối Vực Xanh (PT), xóm Làng Cũ
(PG)…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

45




Nhƣ vậy “kĩ thuật ngôn ngữ” [42] có ảnh hƣởng đến đặc trƣng của định

đƣợc hỏi về nguồn gốc tên của huyện mình thì hầu nhƣ ai cũng trả lời là

danh ngôn ngữ, với loại hình ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính, tiếng Việt chủ

“không biết”, hoặc “chƣa biết”. Cũng có một vài ý kiến đƣa ra cách hiểu khác


yếu định danh theo lối ghép từ. Phƣơng thức ghép từ đã đặc trƣng cho đặc

nhau về ý nghĩa tên gọi Võ Nhai, song chƣa có tính thuyết phục.
Có ý kiến dựa vào nghĩa của yếu tố đầu “võ” nên cho rằng Võ Nhai có

điểm cấu tạo của địa danh Võ Nhai.
2.2.3.2 Mức độ tính rõ lí do của các địa danh Võ Nhai
a) Các địa danh rõ lí do tuyệt đối và các địa danh rõ lí do tương đối

thể đƣợc hiểu là: “Nơi có nhiều mƣa”, bởi trong tiếng Hán, võ là âm đọc
chệch của từ vũ: nghĩa là “mƣa”. Quả thật, nhƣ đã nêu ở mục 2.1.1.1, trong

- Các địa danh rõ lí do tuyệt đối: Kiểu tên gọi rõ lý do tuyệt đối thƣờng

thực tế thời tiết ở Võ Nhai có đặc điểm là mƣa nhiều, khí hậu khắc nghiệt hơn

đƣợc tạo ra do mô phỏng âm thanh hoặc cách chọn đặc trƣng lý do khách

các vùng trong tỉnh. Thế nhƣng, nói chung khí hậu Võ Nhai vẫn mang đặc

quan để làm cơ sở cho sự định danh. Trong tổng số 617 địa danh có 270 địa

điểm chung của khí hậu miền núi Bắc Bộ. Nếu hiểu võ (vũ) là “mƣa” vậy

danh rõ lý do tuyệt đối, chiếm 43,76 %, trong đó:

nhai cần phải đƣợc hiểu thế nào cho logich thì không ai giải thích đƣợc. Hơn

ĐDĐHTN: 180 địa danh, chiếm 29,17 %. Ví dụ: núi Đá vôi (LH), vì
cấu tạo của ngọn núi này bằng đá vôi, núi Quỷ (PT) miêu tả hình dáng của

ngọn núi, đồi Năm Mẫu (TX) dựa trên đại lƣợng diện tích của địa danh, hay
cánh đồng Cây Thị (LH) là bởi trƣớc đây gần cánh đồng đó có cây thị rất to.

nữa, nếu ban đầu hiểu vũ là “mƣa” thì với nghĩa này, vũ trong tiếng Hán
không thể có biến âm sang võ.
Ý kiến thứ hai cho rằng Võ Nhai có thể đƣợc hiểu theo nghĩa là: “Nơi
có những con đƣờng thông đi nhiều ngả”, vì căn cứ vào nghĩa của yếu tố đứng

ĐDĐVDC: 43 địa danh, chiếm 6,97 %. Ví dụ: xóm Trúc Mai (LH)

sau. Đào Duy Anh đã giải thích trong tiếng Hán có từ nhai mang nghĩa là

đƣợc nhận định trƣớc đây là một rừng trúc và mai, xóm Trung Sơn (TS) là do

“con đƣờng thông đi nhiều ngả”. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu cũng giải

xóm nằm giữa Thần Sa bao quanh là núi.

nghĩa một từ nhai nhƣ sau: “Ngã tƣ, con đƣờng thông cả bốn mặt; những con

ĐDCTNT: 47 địa danh, chiếm 7,62 %. Ví dụ: dựa trên đặc điểm của sự
vật có: cầu Treo (DT), có đƣờng Mới (LH), dựa trên hình dáng có: cầu Võng

đƣờng cái trong thành phố đều gọi là nhai.”
Nếu hiểu theo cách thứ hai này thì sẽ thấy có sự mâu thuẫn, không

(PT)…

đúng đặc trƣng của đối tƣợng địa lý này, bởi Võ Nhai có nét đặc thù địa hình


Tính rõ lí do trong một số địa danh Võ Nhai

phức tạp, giao thông đi lại rất khó khăn. Ở đây duy chỉ có con đƣờng quốc lộ

Tên huyện Võ Nhai: Khác với các tên gọi khác có thể có rất nhiều

1B (mới làm khoảng những năm 1960) nối từ thành phố Thái Nguyên đến Võ

cách hiểu về ý nghĩa tên gọi, hoặc ý nghĩa tên gọi có thể dễ dàng nhận ra (ví

Nhai, qua Lạng Sơn sang Trung Quốc là con đƣờng huyết mạch, mà tên gọi

dụ: huyện Phú Bình (Thái Nguyên) ai cũng có thể hiểu đƣợc tên gọi này biểu

Võ Nhai thì đã có từ rất lâu đời! Xƣa kia Võ Nhai chủ yếu là rừng núi và

hiện mong ƣớc về một vùng quê giàu có, trù phú, tƣơi đẹp và thanh bình), tên

không có những con đƣờng lớn.

gọi Võ Nhai không dễ dàng cho phép nhận ra ý nghĩa của nó nhƣ vậy. Ngƣời

Vậy Võ Nhai có nghĩa là gì?

dân Võ Nhai dƣờng nhƣ không để tâm đến ý nghĩa của quê hƣơng mình và

Chúng tôi dựa trên những căn cứ sau đây để lần tìm ý nghĩa địa danh

không nhận ra rằng xung quanh nó có biết bao điều thú vị. Khi cƣ dân nơi đây


Võ Nhai:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

46



47




Thứ nhất: Phải chăng Võ Nhai là tên gọi xuất phát từ ngôn ngữ của hai

trở về không thấy chim mái nữa mà chỉ thấy tảng đá trƣớc mặt, nó hiểu ra và

dân tộc Tày và Nùng vốn là một bộ phận cƣ dân nơi đây? Tìm hiểu các âm

hối hận. Chim trống bay lên đậu ở mỏm núi bên cạnh và dần dần cũng hóa

của tiếng Tày và Nùng, chúng tôi không thấy có âm nào gần với từ Võ Nhai.

thành đá hình con chim Phƣợng Hoàng. Và từ đó tên hang Phƣợng Hoàng ra

Nhƣ vậy, tên gọi Võ Nhai không phải có nguồn gốc từ ngôn ngữ của hai dân

đời với hai mỏm núi có hình của đôi chim Phƣợng Hoàng.


tộc Tày, Nùng.

- Các địa danh rõ lí do tương đối: Là những đơn vị địa danh có thể giải

Thứ hai: Dựa vào cuốn Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang
Định, chúng tôi đã tìm thấy hình thức chữ viết của từ Võ Nhai đƣợc triều
Nguyễn ghi lại bằng chữ Hán. Nhƣ vậy từ Võ Nhai là từ Hán Việt.
Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh đã giải thích nhƣ sau: “võ xem vũ:
Trái với văn, phàm dùng sức để bắt đƣợc ngƣời phục vụ thì đều gọi là vũ”,

thích đƣợc lý do nhờ dựa vào những đơn vị làm thành phần của chúng. Có
347 đơn vị địa danh chiếm 56,24 %, trong đó:
ĐDĐHTN: 159 địa danh, chiếm 25,77 %. Ví dụ: núi Thần Tiên (PG),
tƣơng truyền có ông tiên về dạy học cho dân bản, sau đó đi về hƣớng nào thì
không ai biết, ngƣời Phƣơng Giao có câu:

hay Từ điển Hán – Việt từ nguyên của Bửu Kế giải thích vũ hay võ: “sức

Phƣơng Giao có núi Thần Tiên

mạnh, liên quan đến quân sự (trái với văn).

Có thầy dạy học có tiên đánh cờ

Còn Nhai đƣợc Từ điển Hán – Việt từ nguyên của Bửu Kế giải thích là
“bờ một bên cao, vật gì cao.Sƣờn núi”. Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh
giải nghĩa: “bên bờ, sƣờn núi”. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải thích là
“ven núi”.


Đó là một ngọn núi cao khoảng 500m, có nhiều gỗ quý, trên đỉnh có
mỏm nƣớc, bên cạnh mỏm nƣớc có những tảng đá hình ngƣời thầy dạy học.
Hay nà Da Bành (SM) thì thành tố đầu nà có nghĩa là “ruộng”, còn “Da
Bành” có thể là tên ngƣời.

Nhƣ vậy, Võ Nhai có thể hiểu là “vùng nhiều sƣờn / dãy núi cao có lợi
thế quân sự”. Hiểu địa danh Võ Nhai có ý nghĩa nhƣ thế hoàn toàn
phù hợp xét cả về phƣơng diện lịch sử và địa lí tự nhiên nơi đây. (Chi tiết
hơn xin xem [43])

ĐDĐVDC: 146 địa danh, chiếm 23,66 %. Ví dụ: xóm Vẽn (BL) thì có
thể “vẽn” là biến âm của từ “ven” (rìa).
ĐDCTNT: 42 địa danh, chiếm 6,81 %. Ví dụ: đèo Cây Nhội (PG) thì
“nhội” có thể là một loại cây mọc ở địa danh đó.

Hang Phƣợng Hoàng, suối Mỏ Gà thuộc xã Phú Thƣợng là danh thắng

Các địa danh rõ lý do tƣơng đối tập trung nhiều ở các đơn vị dân cƣ có

đẹp nổi tiếng của tỉnh Thái Nguyên, đƣợc Bộ Văn hóa thông tin công nhận di

từ thời phong kiến. Đây là đặc điểm chung của các địa danh bởi cách định

tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Chuyện xƣa kể lại có đôi chim Phƣợng Hoàng

danh từ xƣa ít khi lƣu lại những dấu hiệu để chúng ta nhận ra đƣợc lý do tên

tìm nơi xây tổ ấm, bay mãi vẫn chƣa tìm đƣợc nơi vừa ý, mệt mỏi, đói khát mới

gọi. Có những cái tên, ngay nghĩa của từ cũng rất khó lý giải. Ví dụ: xóm


phát hiện “máng đá” đầy nƣớc trƣớc cửa hang, bèn dừng tại đó. Hàng ngày

Nhâu (LM), xóm Là Khoan, Là Mè (PG)…

chim trống đi kiếm mồi, còn chim mái ở nhà chờ đợi. Đến một ngày kia chim

b) Các địa danh rõ lí do đầy đủ hoàn toàn và các địa danh chỉ rõ lí do một

trống mải mê đi theo những chim mái khác và quên mất chim mái ở nhà. Chim

phần

mái do đợi chờ lâu đã hóa thành đá hình chim Phƣợng Hoàng. Khi chim trống

- Các địa danh rõ lí do đầy đủ hoàn toàn: Là những kiểu tên gọi rõ lý do

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

48



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

49





×