ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN
---------------------
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN
---------------------
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
ĐẶC SẮC THỂ TÀI YÊU NGÔN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN
ĐẶC SẮC THỂ TÀI YÊU NGÔN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. VŨ TUẤN ANH
Thái Nguyên, năm 2007
Thái Nguyên, năm 2007
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
Phần mở đầu
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
I. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1
1. Nguyễn Tuân là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại.Sự
II. Lịch sử vấn đề
2
nghiệp sáng tác của ông trải ra trên hai chặng đường: Trước năm 1945 ông
III. Phạm vi nghiên cứu
3
là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu và sau năm 1945 ông đứng trong đội ngũ
IV. Phương pháp nghiên cứu
4
V. Đóng góp của luận văn
những nhà văn gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Sáng tác của Nguyễn Tuân
4
VI. Cấu trúc luận văn
4
Nội dung
Chương 1: Yêu ngôn - một thế giới nghệ thuật huyền kỳ
5
1.1. Một cõi riêng trong văn chương Nguyễn Tuân và văn chương
đương thời
5
1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù
thuộc nhiểu thể loại: tùy bút, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, phóng sự,
tự truyện, bút kí phê bình… Về truyện ngắn ông là cây bút xuất sắc. Vang
bóng một thời của ông được đánh giá như một tác phẩm “gần đạt đến độ
toàn thiện, toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Trong truyện ngắn Nguyễn Tuân tồn
tại một thể tài – thể tài yêu ngôn như cách ông đã từng định danh cho nó.
14
Đây là một thể tài đặc biệt, in đậm dấu vết sáng tạo của Nguyễn Tuân. Sau
19
một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới và từ những năm chín
2.1. Không gian - thời gian nghệ thuật của Yêu ngôn
19
mươi thế kỉ XX mới được tập hợp đầy đủ, được nhìn nhận như một mảng
2.1.1. Không gian nghệ thuật
19
2.1.2. Thời gian nghệ thuật
33
2.2. Thế giới nhân vật với số phận dị biệt và tính cách phi thường
37
2.3. Phương thức nghệ thuật tạo dựng thế giới Yêu ngôn
54
tạo nên những đột phá quan trọng của nghệ thuật tự sự đương đại. Chất kì ảo
2.3.1. Nghệ thuật trần thuật
54
quái dị từng làm nên một dòng truyện đặc sắc nửa đầu thế kỉ XX trong đó có
2.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật
66
Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đang được tiếp tục dòng chảy của nó vào văn
2.3.3. Giọng điệu
74
học đương đại, tạo nên sự khởi sắc của văn xuôi hôm nay.
Chương 2: Đặc trƣng thi pháp Yêu ngôn
Chương 3: Sự dung hợp, thăng hoa của cái đẹp và những giá trị
nhân bản
77
tác phẩm có những nét riêng độc đáo trong toàn bộ sáng tác của ông.
2. Yếu tố kì ảo, chất huyền kì đang là một hướng đi, một hướng tìm tòi
3. Chọn đề tài “ Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn
Tuân” luận văn mong muốn làm rõ một thế giới nghệ thuật độc đáo trong
3.1. Cái đẹp và những giá trị văn hoá
78
3.2. Triết lý nhân sinh, chiều sâu nhân bản
85
Phần kết luận
96
Thƣ mục tham khảo
100
văn Nguyễn Tuân, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, vốn được nhìn nhận chủ yếu ở thể tùy
bút cùng với thành tựu đỉnh cao của tập truyện ngắn Vang bóng một thời.
Đồng thời nghiên cứu Yêu ngôn cũng là để làm rõ những giá trị, những kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nghiệm và truyền thống của loại “truyện kỳ ảo” mà cây bút bậc thầy Nguyễn
hiện đại – dư ba của truyện truyền kì truyền thống (Bùi Thị Thiên Thai),
Tuân đã từng khai phá và sáng tạo đang tiếp tục được vận dụng trong văn
Nghiên cứu văn bản và đánh giá tác phẩm truyền kì Việt Nam (Phạm Văn
học đương đại, và cũng qua đó hiểu thêm và đánh giá đúng hướng đi này
Thắm), Huyền thoại , một điều thú vị (Trần Duy Châu) , Phương thức huyền
của văn học đương đại .
thoại trong văn học Việt Nam từ sau 1975 (Lê Thị Hường), Truyện thần linh
4. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên
cứu toàn diện hoặc nhiều khía cảnh nội dung, nghệ thuật tác phẩm Nguyễn
ma quái và vấn đề giáo dục con người (Vũ Ngọc Khánh), Ma và vô thức –
bức tranh sáng tối của hương hồn (Trần Thanh Ngoạn).
Tuân: quan điểm nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu,
Từ trước 1945, Nguyễn Tuân đã dự định in Yêu ngôn, một tuyển tập
đặc trưng kí, tùy bút. Tuy vậy, mảng truyện Yêu ngôn của Nguyễn Tuân cho
những đoản thiên có tính huyền bí nhưng chưa kịp làm. Nhiều năm sau khi
đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ như một chỉnh
Nguyễn Tuân qua đời, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm, giới
thể, một thể tài riêng với các khía cạnh nội dung và nghệ thuật có tính đặc
thiệu và cho in Yêu ngôn (Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1998).
thù. Do vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào hướng
Sau khi Yêu ngôn được xuất bản, đã có một vài bài của các nhà nghiên
cứu, phê bình đề cập đến tác phẩm: Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Như Mai,
khảo sát còn mới mẻ này.
Vương Trí Nhàn, Thụy Khuê, Trương Chính...ở những bài viết này thường
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Trong dòng chảy văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại,
yếu tố kì ảo đã góp phần tạo nên những nét độc đáo trong diện mạo văn học.
Trong giai đoạn 1930 – 1945 gắn liền với thực tiễn sáng tạo, vấn đề
truyện truyền kì, yếu tố kì ảo đã được đề cập đến trong phê bình văn học.
Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã có các bài phê bình tác giả, tác
phẩm Lan Khai , Tchya , Nguyễn Tuân…
Trong khoảng mười năm trở lại đây, song song với sự phát triển chất
kì ảo, truyền kỳ trong văn học đương đại cùng với việc in lại các truyện
tập trung nói về những nét độc đáo của một số truyện mà chưa có sự đánh
giá khái quát về toàn bộ những sáng tác có tính chất yêu ngôn của Nguyễn
Tuân. Lời giới thiệu Yêu ngôn của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng
chỉ dừng lại ở chỗ phác họa diện mạo cơ bản của yêu ngôn. Một số bài viết
của các nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài cũng chú ý tới một số vấn
đề trong Yêu ngôn. Nhìn chung mỗi người mỗi thế mạnh riêng, góp phần
dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nhưng
chưa hoàn toàn tập trung vào việc xem Yêu ngôn như một thế giới nghệ
thuật đặc thù trong văn chương Nguyễn Tuân.
truyền kì, ma quái (Đêm bướm ma, Chuyến xe ma quái, Hồn hoa trở lại,
Truyện không nên đọc vào lúc giao thừa…) đã có các bài giới thiệu, phê
bình loại truyện này.
Song song với sự phát triển chất kì ảo, truyền kì trong văn học
đương đại, đã có nhiều bài phê bình, luận án đề cập đến vấn đề này. Có thể
kể các bài viết chuyên sâu, các luận án đề cập đến vấn đề này: Truyện kì ảo
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Tập Yêu ngôn do Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm tuyển chọn-nhà xuất
bản Hội nhà văn, 1998, gồm tám truyện: Khoa thi cuối cùng, Trên
đỉnh non Tản, Đới roi, Xác ngọc lam, Rượu bệnh, Lửa nến trong
tranh, Loạn âm, Tâm sự của nước độc (tức Chùa Đàn).
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Một số truyện ngắn khác của Nguyễn Tuân gần gũi với Yêu ngôn (Tóc
chị Hoài, Bữa rượu máu, Vườn xuân lan tạ chủ…)
- Một số truyện của các tác giả khác thuộc thể loại này: Thần Hổ, Ai
hát giữa rừng khuya (Tchya), Suối đàn (Lan Khai)…
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thi pháp học thể loại:
Vận dụng thi pháp thể loại (các yếu tố không gian- thời gian nghệ thuật,
nhân vật, nghệ thuật và hình thức tự sự), để làm sáng tỏ thể tài Yêu ngôn.
2. Phương pháp phân tích tác phẩm:
Nhằm làm rõ nội dung và nghệ thuật trong các truyện Yêu ngôn
3. Phương pháp hệ thống:
Xem xét thể tài yêu ngôn như một hệ thống hoàn chỉnh với những đặc
điểm riêng như một thế giới nghệ thuật đặc thù trong văn Nguyễn Tuân.
4. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Các truyện Yêu ngôn sẽ được nhìn nhận và đánh giá trong sự so sánh
đối chiếu với nhau và với các loại truyện kỳ ảo đương thời của các tác giả
đương thời để làm rõ những đặc sắc riêng trong tương quan chung.
V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Chương 1:
YÊU NGÔN - MỘT THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT HUYỀN KỲ
Huyền kì, kì ảo là những điều lạ lùng, huyền bí mà đặc trưng của
nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người
đọc. Vấn đề này đã hiện diện trong văn học nhân loại tự cổ sơ và “không hề
chết đi khi bước sang thế kỉ XX” [53, tr25 ].
Trong văn học hiện đại, kì ảo được hiểu như một phạm trù tư duy
nghệ thuật, một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh cuộc sống
nhằm mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định.
Thế giới nghệ thuật là “sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính, có
thể cảm thấy được của người nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong
chất liệu, vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của
mọi yếu tố đang dạng trong tác phẩm” [53, tr28]. Với tư cách là thủ pháp
nghệ thuật chủ đạo, yếu tố huyền kì, kì ảo đã tác động đến mọi phương diện
của truyện, mang lại cho nó những đặc trưng riêng tạo nên một thế giới nghệ
- Làm rõ đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của loại truyện yêu ngôn
trong sáng tác của Nguyễn Tuân, xác định những giá trị của nó trong sự
phát triển loại truyện truyền kì hiện đại.
- Từ việc khẳng định những đặc sắc của thể tài yêu ngôn trong sáng tác
của Nguyễn Tuân, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà văn
như một truyền thống hòa nhập vào văn xuôi đương đại.
VI. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
riêng, làm nên sự phong phú, đa dạng của đời sống văn học. Yêu ngôn của
Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài những đặc điểm ấy.
1.1. Một cõi riêng trong văn chƣơng Nguyễn Tuân và văn chƣơng
đƣơng thời
1.1.1. Tính riêng biệt độc đáo của Yêu ngôn trong loại truyện
truyền kì, ma quái đương thời
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được viết
theo 3 chương sau:
Yếu tố kì ảo không hề xa lạ với văn học Việt Nam từ xa xưa của
lịch sử cho tới bây giờ. Ngay từ lúc mới hiện diện, văn học Việt Nam đã gắn
Chương 1: Yêu ngôn – Một thế giới nghệ thuật huyền kỳ.
Chương 2: Đặc trưng thi pháp yêu ngôn.
không có kì ảo thì không thể có truyện dân gian vậy” [50, tr55]. Khả năng
Chương 3: Sự thăng hoa của cái đẹp và những giá trị nhân bản.
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
liền với kì ảo: “Kì ảo là một trong những đặc trưng của truyện dân gian,
tiềm tàng của thần thoại, cổ tích là dưỡng chất nuôi dưỡng nền văn hóa hiện
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đại. Với tư cách là “văn hóa gốc”, nguồn mạch dân gian bất tận suốt bao đời
Đỗ Huy Nhiệm, “Kim Ba chí dị” của Kim Ba, “Suối Đàn” và “Truyện
vẫn không ngừng nghỉ bồi đắp cho dòng chảy của văn học, đồng thời có vai
đường rừng” của Lan Khai…
trò quan trọng trong việc tạo nên tâm thức cộng đồng dân tộc: gần gũi và có
Truyện của Lan Khai chủ yếu hấp dẫn người đọc bằng màu sắc xứ
xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, biểu hiện thế giới quan thần
lạ phương xa, tạo cảm giác ghê rợn đối với người miền xuôi bằng một
linh, tư duy huyền thoại trong quan điểm của người sáng tác văn học mọi
không gian miền núi là rừng rú, là chốn sơn cùng thủy tận. Trong “Nhà văn
thời đại. Bên cạnh đó, đặc điểm của một xã hội nông nghiệp phương Đông
hiện đại”, Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Mặc dầu Lan Khai viết nhiều loại, từ
là nơi “tràn đầy những màu sắc lãng mạn thần kì”, cũng là môi trường thuận
trước đến nay, ông chỉ đáng được nổi tiếng về tiểu thuyết đường rừng hơn
lợi để yếu tố kì ảo này sinh, trường tồn. Những truyện kì lạ, hoang tưởng
cả” [47, tr298]. Những truyện của ông đều là những truyện khác thường,
còn được nâng cánh bởi cái nhìn thế giới với một niềm tin hồn nhiên là có
nếu không phải là hoang đường thì cũng là những việc, những người không
sự tương thông, tương giao giữa người sống và người chết, giữa thế giới
phải hàng ngày trông thấy. Chủ ý của nhà văn là “kích thích sự tò mò, trí
thực tồn và thế giới siêu nhiên. Người ta xem những chuyện quái dị, hoang
tưởng tượng của người đọc”, “khiến người ta ghê sợ về những cái bí hiểm
đường là có thật. Niềm tin mang tính chât tâm linh vào những lực lượng
của rừng núi”.
thần bí, siêu nhiên này đã góp phần tạo thành dòng tín ngưỡng ghi dấu ấn
Đi vào chốn non cao rừng thẳm của Lan Khai, ta gặp một thế giới
sâu đậm vào mọi hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động sáng tạo
hoang sơ kì thú của Suối Đàn – một dòng suối thơ mộng như mối tình của
nghệ thuật. Nghĩa là trong mỗi con người Việt Nam hiện đại vẫn tiềm ẩn
chàng trai thành phố với cô sơn nữ . Mối tình đẹp nhưng dang dở , người
một tâm hồn phương Đông cổ xưa, đây chính là cơ sở tạo ra “tầm đón đợi”
con gái chết âm thầm như bông hoa héo rũ, trong cái vắng lặng của núi
thuận lợi đối với bộ phận văn học tiếp cận cuộc sống bằng những yếu tố kì
rừng, để từ đó trong nỗi niềm thương nhớ não nùng, chàng trai luôn nghe
lạ, siêu nhiên nói trên.
thấy trong âm thanh của suối, của rừng có khúc đàn ai oán, phảng phất nỗi
Thời kì văn học 1930 – 1945 vẫn tiếp tục dòng chảy kì ảo của văn
niềm oan ức của người trinh nữ rừng xanh…
học truyền thống, với xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, với
Nếu Suối Đàn khiến người đọc tràn đầy cảm xúc về tâm hồn ngây
những câu chuyện li kì, ma quái. Trong văn chương hiện đại đã hình thành
thơ chất phác của người sơn nữ bao nhiêu, thì trong Truyện đường rừng Lan
một kiểu tư duy nghệ thuật về cuộc sống không phải bằng chất liệu hiện
Khai lại làm cho người ta ghê sợ về những cái bí hiểm của rừng núi bấy
thực quen thuộc mà bằng cái kì ảo, hư ảo. Mỗi nhà văn mỗi vẻ, bằng tài
nhiêu. Đó là chốn ma thiêng nước độc, người mandi còn ở lẫn với thú dữ và
năng và sự sáng tạo của mình đã làm nên sự phong phú, đa dạng ở thể tài
với… ma: nào là “Ma thuồng luồng”, nào là “Người hóa hổ”, nào là “Gò
này. Có thể kể tên những tác phẩm nổi bật: “Ba hồi kinh dị”; “Trại Bồ tùng
thần”,…, chỉ những cái tên đọc lên đã gợi sự rùng rợn, kì quái.
linh” của Thế Lữ , “Ai hát giữa rừng khuya” của Tchya , “Tiền kiếp” của
Nếu Lan Khai “đưa người ta vào tận rừng thẳm, dắt người ta một
cách thân mật vào các gia đình Thổ Mán, và cho người ta được thấy những
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tâm tính kì dị” [47, tr 298] thì truyện của Tchya Đái Đức Tuấn lại hấp dẫn
có số bị hổ vồ vào nanh vuốt thần Hổ để họ được sống cái đời ma độc lập,
bằng sự kì quái, ghê rợn với cốt truyện thần bí, phi thường: “Cái lối truyền
gần gụi với gia đình, với họ mạc.
kì của ông là một lối thần quái, một lối quái đản như những truyện trong
Cả truyện Thần Hổ và Ai hát giữa rừng khuya đều thuộc loại
“Liêu trai” trong “Truyền kì mạn lục”. Cái xã hội ma và xã hội người trong
truyện ma quái, truyền kì được xây dựng và hư cấu trên những mẩu chuyện
tiểu thuyết của ông chỉ là một …”[47, 319].
truyền kì ở miền núi. “Những tình tiết li kì trần tục xen lẫn sắc thái hoang
Thần Hổ và Ai hát giữa rừng khuya của Tchya chính là những tập
đường thần thoại, tao nên một câu chuyện kích thích mạnh trí tưởng tượng
“Liêu trai Việt Nam”, những tập viết riêng về vài loài yêu quái ở đường
và giác quan người đọc. Đằng sau câu chuyện li kì, bí hiểm và ghê rợn về
rừng đất Việt chứ không phải về tất cả các loài yêu ma như của Bồ Tùng
mối quan hệ người – mãnh thú, người – ma là dấu vết của một thế giới quan
Linh. Cái giống ma ở hai cuốn truyện thần quái của Tchya là ma trành và cái
thơ mộng và mông muội còn lưu giữ lại”. Tất cả đã tạo nên sự hấp dẫn riêng
loại thần trong đó là thần Hổ , những con hổ đã ăn thịt hàng trăm người,
trong những truyện đường rừng của Tchya.
trong tai nổi lên hàng trăm tia máu đỏ, nghe được ngàn dặm. Vị thần Hổ đây
Khác với truyện của Lan Khai, của Tchya hấp dẫn người đọc bằng
là con hổ xám, hổ vàng, khi họp hội đồng cơ mật dưới gốc cây đại thụ, vị
lối truyện đường rừng hoang sơ kì thú và bí hiểm, truyện của Nguyễn Tuân
thần Hổ thường trút bỏ bộ lông, biến thành một ông già đầu râu tóc bạc
lại cuốn hút độc giả bằng những nét lãng mạn riêng, giàu chất thẩm mĩ,
đường bệ. Bị hổ vồ là có số, những kẻ bị giống mãnh thú ấy ăn thịt là đã có
chất văn hóa, nhân bản: “Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng,
tên trong quyển sổ do thần Hổ giữ - định mệnh ấy không sao trốn thoát
cả về lối văn lẫn về tư tưởng” [47, tr 415]. Yêu ngôn là tác phẩm như thế.
được. Cái họ Đèo trong Thần Hổ mà tất cả con cháu phải làm mồi cho hổ
1.1.2. Một thể tài độc đáo trong toàn bộ sáng tác Nguyễn Tuân.
chỉ vì ông tổ của họ đã dám phạm đến một con hổ già, làm nó chột một mắt
Vang bóng một thời là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân được Vũ
và tuyệt đường duy trì nòi giống. Sự báo thù thật là ghê gớm, tất cả con cháu
Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ” [47, tr
họ Đèo khi đã sa vào nanh vuốt hổ, người nào cũng bị móc mất một mắt và
415].Vang bóng một thời khơi lại đống tro tàn của một quá khứ chưa xa, tác
cắn xé mất hạ bộ. Thần Hổ ra oai và gieo vạ cho cả dòng giống những người
phẩm thể hiện sự nuối tiếc cái đẹp với những con người, lối sống, thú chơi
đã dám phạm đến thần.
của một thời. Đó là các cụ nghè, cụ cử, cụ tú, lớp nho sĩ cuối mùa với những
Bọn ma trành phải hầu hạ thần Hổ rất khổ sở. “Ma trành là những
sinh hoạt cầu kì, những thú chơi tiêu dao, nhàn tản và qua đó tái hiện nhiều
thứ ma bất đắc kì tử, hoặc bị hổ ăn, hoặc bị dìm đuối hoặc vì thắt cổ, hoặc vì
nét văn hóa của người Việt. Ở tập truyện ngắn này, người ta đã thấy rõ tài
bị chẹt xe… Chết như thế thì linh hồn vất vưởng bị đầy đọa không đi đầu
năng và phong cách của Nguyễn Tuân: phóng túng-tài hoa-uyên bác.
thai được mà không được tự do. Nếu muốn thoát khỏi vòng kìm hãm, cũng
Đọc Yêu ngôn, có thể nhận thấy những nét quen thuộc, gần gũi
phải tìm kẻ thế cho mình. Nếu không thì mãi mãi, mình sẽ phải làm ma
trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân mà ta đã gặp trong Vang bóng
trành, đói khát khổ sở”. Muốn có kẻ thế chân mình, họ phải run rủi những kẻ
một thời và những tác phẩm về sau này. Vẫn là một Nguyễn Tuân nhạy cảm
8
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
với cái đẹp và nhìn sự vật nghiêng về góc độ thẩm mĩ, vẫn là những con
tận độ cá tính của mình” [63, tr 9]. Nhà văn tìm cách vượt, phóng thoát hoàn
người tài hoa nghệ sĩ như thuở một thời vang bóng: những người thợ mộc
toàn khỏi hiện thực bằng sự đẩy xa đến cùng sức tưởng tượng và cảm hứng
Chàng Thôn với đôi tay tài nghệ được chúa Ngàn Thiêng vời lên sửa đền ở
lãng mạn. Ông tìm đến một thế giới khác, một hiện thực khác để sống mãnh
chốn non cao thần tiên ( Trên đỉnh non Tản ); một Bá Nhỡ - kẻ dám đi đến
liệt hơn, thế giới của cõi âm, cõi ma, thế giới của Yêu ngôn.
tận cùng của nghệ thuật, dùng mạng mình để đổi lấy tiếng đàn đạt tới tuyệt
Không phải đến Yêu ngôn mà ngay trong một số truyện khác của Nguyễn
đỉnh nghệ thuật (Tâm sự của nước độc – Chùa Đàn ); một Bố Ô – vua lưu
Tuân đã mang màu sắc huyền kì. Trong tập Vang bóng một thời, các truyện
linh sống trong rượu và chết cũng trong rượu ( Rượu bệnh – Bố Ô )… Nếu
Trên đỉnh non Tản và Khoa thi cuối cùng ( Báo oán ) được tuyển chọn vào Yêu
trong Vang bóng một thời, ta gặp những nếp sinh hoạt và thú chơi cầu kì mà
ngôn bởi “có màu sắc huyền kì, ma quái” [3 ,tr 917]. Bên cạnh đó, các truyện
thanh đạm, tao nhã: uống trà, uống rượu Thạch Lan Hương, đánh thơ, thả
Tóc chị Hoài, Chém treo ngành, Vườn xuân lan tạ chủ đã có một chút màu sắc
thơ, chơi chữ… thì trong Yêu ngôn, vẫn là những lối sống, những thú chơi
kì ảo phi thường. Tóc chị Hoài (1942) “đứng riêng như một thử nghiệm tiểu
cầu kì tao nhã ấy: một người chủ đồn điền nhưng lại có cái “cốt tài tử” say
thuyết mới của Nguyễn Tuân những năm 1940” [54, tr7]. Chị Hoài là “một
mê những bức cổ họa, sẵn sàng bỏ ra rất nhiểu tiền để có được bức họa vẽ
nhân vật hư cấu hư không, chị có mà không, chị không mà có”. Như tất cả
tướng Hàn Kỳ ngồi đọc binh thư bên ngọn bạch lạp; anh em ông Đầu xứ
những nhân vật tiểu thuyết thông thường, “chị Hoài là một người chị tôi
Anh, Đầu xứ Em nổi danh về tài học vẫn mải miết với nghiệp đèn sách thi
mượn của cuộc đời bừa bộn những oan trái”, chị Hoài cộng hưởng những ảo
cử dẫu biết rằng có thể bị hồn ma báo oán giữa trường thi (Khoa thi cuối
ảnh đớn đau của người nghệ sĩ. “Chị Hoài, ảo ảnh vô hình, chị không có thật
cùng )…
nhưng hồn chị, tóc chị là thật. Chỉ có tôi đang nói chuyện với một mớ tóc
Đọc Yêu ngôn, vẫn gặp những cảnh sắc, những đồ vật quen thuộc
mây. Chỉ có hai ngón tay chị Hoài đang nói chuyện với những sợi chỉ tơ
của một thời: vùng Sơn Nam hạ mùa thi cử hoa hòe nở vàng ( Khoa thi cuối
thâm một mớ tóc xõa. Gian nhà có hai người, lặng mà không vắng. Thế rồi
cùng ), những cửa ô thân thuộc của chốn kinh kì ( Rượu bệnh ), những roi
trong cái hiu quạnh tay đôi ấy, khe khẽ nổi lên giọng kể chuyện Nhị Độ
chầu, đàn đáy, tiếng tơ tiếng trúc (Chùa Đàn)… có nghĩa là vẫn là văn
Mai, khẽ một cách rất mơ hồ thủ thỉ. Lòng tôi vụt trở nên thương nhớ thăm
Nguyễn Tuân, kiến thức Nguyễn Tuân, mảnh hồn Nguyễn Tuân in hằn một
thẳm gấp mấy giọng hát u hoài… Trong giây phút, đặt sách vào lòng, tôi
dấu triện riêng không thể lẫn.
thấy nhộn nhạo trong lồng ngực và ước muốn được làm ngay cái anh chàng
Là con người luôn thèm khát những cảm giác mới lạ và mãnh liệt
Mai Sinh kia” [56, tr 657]. “Chất huyền ảo của Nguyễn Tuân bắt đầu từ đây,
“Tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say của rượu
từ mái tóc lãng mạn của chị Hoài, trước khi rẽ sang ngả kinh dị của yêu
tối tân hôn”, những cảm giác ấy “Nguyễn Tuân không thể tìm được trong
ngôn” [14, tr 8].
cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông trong cuộc sống hàng ngày, phải đi tìm
Ở Bữa rượu máu, tác giả đã vẽ một cảnh rùng rợn của pháp trường.
một thế giới khác để được sống mãnh liệt, nồng nàn, cuồng nhiệt, phát huy
Bát Lê, tay đao phủ có tài chém người rất ngọt đang luyện lại đường đao
10
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
“chém treo ngành” trong vườn chuối với những lời hát vừa dữ dội, vừa ai
tượng cơn gió lốc kết thúc tác phẩm như một lời cảnh báo, dự báo về một sự
oán:
báo oán: những kẻ đang gieo gió kia hãy coi chừng cái thủ cấp của chúng.
“Trời nổi cơn lốc
Tính ám dụ của hình tượng như ký thác kín đáo thái độ căm phẫn của nhà
Cảnh càng u sầu
văn đối với bọn thực dân thống trị.
…
Trong Vườn xuân lan tạ chủ [55, tr135] có một quan án Trần phong
Sống không thù nhau
lưu, chủ nhân Túy lan trang. Ông có một niềm vui thích đặc biệt, thường sai
Chết không oán nhau
cô con gái yêu – cô chiêu Tần – đi mua thứ “rượu khê” ở làng Vĩnh Trị,
…
vùng cất rượu ngon có tiếng, về “bón hoa”. Vị hưu quan già đã không quan
Hãy ngồi cho vững
tâm đến vóc xương khô, mà chỉ lo cho hoa trong thời loạn khi mà “một mai
Cho ngọt nhát đao
lũ người ô hợp tràn đến”. Bên cạnh quan án là cậu ấm Hai giữa buổi loạn li
Hỡi hồn!
mà chỉ biết có ngón đàn, hiểu có hồn hoa, “tâm người tài tử, chọn lầm thế kỉ,
Hỡi quỷ không đầu!
buồn, tủi, cực đến dường nào”. Cảnh cô chiêu Tần mỗi sớm chèo thuyền đi
Bài hát phù thủy, chiêu hồn, giã oán, phân trần với chính mình, với
oan hồn, với trời đất.
lấy rượu trên sông Mã, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Cả ba tạo nên một
đời sống thanh khiết thoát tục. Nhưng rồi kinh hoàng xảy đến: Túy lan trang
Rồi cảnh pháp trường, Bát Lê mặc áo trắng, thắt khăn điều, khai
bị đốt cháy, cô chiêu Tần bị thuyền cướp mang đi, quan án Trần phẫn uất
đao hành quyết như một nghệ nhân múa một vũ khúc thảm khốc. Trảm xong
mà chết, và “giống cỏ quý kia cũng quyết tạ theo tri kỉ, thề không ở lại với
mười hai người, áo không vấy máu. “Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba
thế gian”. Giai nhân khuất bóng, thuật cất “rượu khê” bên Vĩnh Trị cũng
tiếng chiêng. Dứt mỗi hồi chiêng mớm thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một
thất truyền và “làng men” mất đi một phong vị. Lan đã biết tạ chủ, các loài
thể xác. Tùng! Bili! Bili!”. Cảnh hành hình dữ dội đã diễn ra, nhà văn đã kết
cây cỏ khác ở Túy lan trang cũng “đều ủ rũ để tang người thiên cổ”. Vườn
thúc bằng một bầu không khí ma quái u hiển bao trùm cả pháp trường, khí
xuân lan tạ chủ với không khí thần kì, thoát tục vài năm sau sẽ có dịp biểu
lạnh như thấm vào hơi văn: “Lúc quan công sứ ra về, khi lướt qua mười hai
lộ rõ hơn trong Yêu ngôn.
cái đầu lâu còn dính vào da cổ người chết quỳ, sân pháp trường sắp giải tán
Như vậy không phải đến Yêu ngôn, yếu tồ kì ảo mới xuất hiện
bỗng nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trận gió xoắn, giật, hút cát bụi
trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Trên cái đà có sẵn ấy, trí tưởng
lên xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang ra về. Cái mũ
tượng của ông đã đẩy xa hơn thành hẳn một thể tài – thể tài Yêu ngôn. Ông
trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lộn
đã đắm mình trong thế giới nghệ thuật mà mình sáng tạo nên và tạo được
mấy vòng. Mọi người liếc trộm hai quan thủ hiến và thì thào… Bấy giờ vào
những cảnh tượng kì thú, mê hoặc mà người đọc khó phân biệt được là âm
khoảng giữa giờ thân …”. Với lối viết “lạnh” Nguyễn Tuân sử dụng hình
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hay dương, là ma hay người… và đây chính là điều mới mẻ của Yêu ngôn so
với các tác phẩm khác của chính ông.
“Mặt đất sáng hơn nền trời. Cuộc tế trường như đang lắng chờ một
sự biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt
1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù:
khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn trên bàn tam sinh. Nền trời
Sự pha trộn, hòa lẫn thực và ảo, âm và dương… là những yếu tố cấu
phương Đông đáng lẽ đã phải hửng lên rồi. Thế mà ở đây chỉ rặt một thứ
thành phương thức tư duy nghệ thuật của Yêu ngôn.
mây đục đùn lên những hình quỷ Đông. Phía Tây, một cái cầu vồng cụt một
1.2.1. Phản ánh hiện thực không phải là sao chép hiện thực mà là
chân, tô lên tạo vật những màu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt. Trong cảnh
âm dương không chia biệt rõ, quan chánh chủ khảo trường Hà Nam hợp thi
sự sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm tạo ra hiện thực.
Hiện thực ở đây được hiểu không đồng nghĩa với tính có thậ, giống
khoa Mậu Ngọ đang tế cáo giời, đất, vua, thần và thánh, xuýt xoa khai xong
như thật. Điều này là một chân lý quen thuộc trong sáng tạo nghệ thuật.
tên, tuổi, quê, quán, ngài khấn to: “… Báo oán giả, tiên nhập ; báo ân giả,
Nhưng với cái nhìn huyền ảo, huyền hoặc thì khái niệm hiện thực ở đây
thứ nhập…”. “Một thứ gió u hiển thổi thốc vào bãi trường, nghe lào xào như
cũng trở nên vô bờ bến. Hiện thực, đặc biệt là trong cách tư duy huyền thoại
có tiếng các hồn oan hồn lành chen chúc và ùa vào choán chỗ. Những cây
được tạo nên bởi cái phóng túng của tưởng tượng. Ở đây cái huyễn hoặc, hư
nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết”. Với những cành huống ngược đời:
ảo không còn là yếu tố gây hoang mang cho người tiếp nhận mà trái lại càng
mặt đất sáng hơn nền trời ( lẽ ra mặt đất tối hơn ), gió không muốn thổi ( lẽ
kích thích trí tưởng tượng bay bổng của người đọc, tạo ra sự đa dạng, mới
ra là gió thổi ), sáp không lung lay ( lẽ ra là ngọn sáp lung lay ), khói bốc
mẻ cho tác phẩm văn học. Nó cho phép con người vi phạm các quy tắc của
thẳng ( lẽ ra là khói ngoằn ngoèo )… tác giả đã thể hiện một trạng thái bất
lý trí, nhân danh một thứ ánh sáng siêu việt không chỉ thuộc về tri thức mà
bình thường làm toát lên không khí dị thường, lạnh gáy với đám sĩ tử, với cả
còn thuộc về số mệnh. [67,755]. Việc xuất hiện cái ảo trên nền cái thực này
người đọc bởi không biết đó là cõi dương gian hay nơi âm thế? Không khí
cũng là nỗ lực khai thác tầng sâu của hiện thực, là một hình thức để người
ấy thật thích hợp để cho những hồn ma hiện về, rũ tóc mà báo oán những
đọc nhận thấy các chiều khác nhau của hiện thực. Nói cách khác, đây chính
oan khiên tiền kiếp.
là cách để nhà văn mở rộng biên độ phản ánh, chuyển tải một phạm vi đời
Trong Chùa Đàn nhân vật Mợ Lãnh không xuất hiện trực tiếp nhưng
sống khác lạ vào tác phẩm, đồng thời thể hiện một phía nào đó của niềm tin,
là đầu mối dẫn dắt cốt truyện. Mợ Lãnh là người vợ chết yểu của Lãnh Út –
của tâm hồn phía sau những gì đã nghe và thấy. Bằng trí tưởng tượng,
chủ trại. Lãnh Út, kẻ tài tử chỉ đam mê người vợ yêu, và khi nàng hóa người
Nguyễn Tuân đã tạo nên một thế giới siêu thực với những con người, những
thiên cổ bởi một tai nạn hoả xa - một công cụ của văn minh cơ khí, Lãnh Út
cảnh tượng khơi gợi những cảm giác mới lạ nơi người đọc. Đây là cái cảnh
không còn lẽ sống trở nên cuồng dại trong niềm thương nhớ và trở thành kẻ
chánh chủ khảo tế thi hương trong Khoa thi cuối cùng ( Báo oán ) mà các
thù của cơ khí văn minh. Hình ảnh còn lại của Mợ Lãnh chỉ là một bức tranh
oan hồn được mời vào trường thi để trả ân, báo oán trước thí sinh:
đẹp và buồn “một người đàn bà áo trắng đang ngồi chép sách trên một cái
đôn màu cốm, bên một khung cửa sổ có mấy tàu lá chuối già lọt vào. Màu
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xanh tái của tranh gia thêm xa lạnh vào khí buồng rộng quạnh và đổ thêm
giai đoạn văn học. Đó là cố gắng không mệt mỏi để nhận thức thế giới của
buồn lên vẻ nhớ vợ của người ngắm tranh”.
con người.
Mợ Lãnh là người hay ma? Khó có thể gọi tên cho chính xác. Nàng
Mạch truyện Yêu ngôn đã hình thành trong văn Nguyễn Tuân từ khá
không tên, chỉ để lại tập thơ di cảo và bóng hình kiều mĩ trên bức họa tuyệt
sớm: “vào khoảng năm 1943 , người ta thấy xuất hiện trên tờ Thanh Nghị và
vời. Phải chăng nàng là thơ, là hoa đang sống trong vườn địa đàng thuở
Trung Bắc chủ nhật một số đoản thiên của Nguyễn Tuân viết theo lối Liêu
hồng hoang mê thảo?
Trai của Bồ Tùng Linh. Toàn là những truyện ma quỷ hết sức kì quái hoang
Sự đan xen mộng – thực, mộng – tưởng tượng, mộng – ma trong
đường. Cùng một lúc, cũng trên những tờ báo ấy, người ta thấy quảng cáo
Yêu ngôn đã tạo thành một vũ trụ âm dương không ngăn cách, ma chính là
một đầu sách của Nguyễn Tuân có tên là Yêu ngôn” [63, tr6]. Có thể nói
người, ma ăn ở với người…Tất cả những yếu tố này là điều mới mẻ của Yêu
đây là một thể tài đặc biệt, và lối định danh cho thể tài này cũng in dấu
ngôn tạo nên sức hấp dẫn biến ảo dị kì.
“bản quyền” riêng của nhà văn. Từ trước 1945, Nguyễn Tuân đã dự định in
1.2.2. Hiện thực còn đƣợc tạo nên thông qua lăng kính của huyền kì:
những đoản thiên huyền bí, kỳ ảo và ma quái ấy nhưng chưa kịp làm và sau
Truyền kỳ, kỳ ảo là những điều lạ lùng, huyền bí mà đặc trưng của
một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới. Nhiều năm sau khi
nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người
Nguyễn Tuân qua đời, Yêu ngôn mới có dịp xuất hiện như một tác phẩm
đọc. Vấn đề này đã hiện diện trong văn học nhân loại tự cổ sơ và “không hề
trọn vẹn, một chân dung thể tài hoàn chỉnh với công phu sưu tầm, biên soạn,
chết đi khi bước sang thế kỉ XX”.
giới thiệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, nhà xuất bản Hội nhà
Trong văn học hiện đại, kì ảo được hiểu như là một phạm trù tư
văn, 1998.
duy nghệ thuật, một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh cuộc
Như vậy, hiện thực trong Yêu ngôn là một hiện thực khác, một thế
sống nhằm mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định. Cội
giới khác – một thế giới vừa thực vừa ảo, cõi âm hòa vào cõi dương. Ở thế
nguồn của sự tưởng tượng li kì vẫn là những điều hiện thực của thế giới này.
giới ấy toàn là những chuyện kì quái, rùng rợn. Một kẻ nghiện rượu đến nỗi
Nhà văn sử dụng yếu tố kì ảo để “lạ hóa” trạng thái hiện thực, đôi khi xáo
cả thân xác biến thành một khối men bốc lửa: “Ngọn lửa xanh lè vờn lấy
trộn hiện thực để kích thích, mở rộng trí tưởng tượng của người đọc. Nhờ
mình ông già đang say mềm. Xác Bố Ô nứt đến đâu là mùi thịt thui ấy thơm
những đặc điểm trên đây, mỗi tác phẩm kì ảo xuất hiện ở từng giai đoạn
lừng như mùi cá mực nướng bằng rượu không có chút gì là hôi khét cả. Và
khác nhau của lịch sử đều có được khuôn mặt riêng dù có những điểm tương
lúc mà lửa đã hoại xong cái xác kia thì cỗ xương ấy bệch ra như thạch cao ải
đồng nhất định xuất phát từ đặc trưng thể loại. Cũng chính những đặc trưng
vụn trông trắng nhỏ không khác gì thứ bột để luyện những hòn men. Ngửi
này đã tạo ra sự gần gũi nhất định giữa các nền văn học kì ảo trên thế giới
cái vụn xương vô tư ấy, lại thấy thơm và ngây ngất nữa” (Rượu bệnh ).
dù mảnh đất sinh thành và phát triển của chúng không hoàn toàn đồng nhất.
Văn học huyền kì, kì ảo là bông hoa lạ mọc lên trong tất cả các dòng, các
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đó là một cái chết khác thường, chết rượu, chết cháy, xác cháy
trong hơi rượu, cũng thơm, cũng ngông ngạo như người.
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cảnh đánh cây gạo cổ thụ ở Suối Vầu (Chùa Đàn ) cũng chẳng
những điều ông tin như thế thật và nhìn thấy như thế thật. Dưới góc độ ấy
khác gì một cảnh trảm tấu khiến người ta rợn tóc gáy. “Cây gạo xiêu dần
mọi vật cho ta cái nhìn khác, là một thứ “lửa nến trong tranh” lung linh, kì
xuống rồi vật mạnh xuống như một kẻ chiến tranh bị trúng độc kế ở mặt
ảo hơn- một thế giới huyền kì.
trận, làm tung bắn lên những thân hình người đang oằn oại trên những
đoạn luồng già dùng làm bẫy cắm chèn vào kẽ gốc. Suối Vầu tung nước.
Rừng Vầu vang lên một tiếng quật gốc già. Đầu rễ cái gốc gạo nhựa rỉ tuôn
tợ máu phun”.
Chương 2
ĐẶC TRƢNG THI PHÁP YÊU NGÔN
Đọc Yêu ngôn người đọc như bị mê hoặc, bị cuốn hút vào những
cảnh, những người kì ảo. Một cây dó cổ thụ thành tinh, có người con gái áo
2.1. Không gian – thời gian nghệ thuật của Yêu ngôn
chàm từ gốc cây đi ra dạo chơi thơ thẩn trong rừng và cất tiếng hát “u hiển”,
2.1.1. Không gian nghệ thuật.
giọng hát khi thì “bi tráng khê nồng của người khách hiệp gặp đường cùng”,
Trong sáng tác văn học, không gian nghệ thuật như là “một phương
khi thì “trong trẻo như pha lê và vui như tiếng thông reo giữa rừng nổi gió”,
thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư
lúc lại “rờn rợn như lối ma Hời đưa võng ru con”. Cô Dó ấy – vị Thần Dó –
tưởng thẩm mĩ ” (Trần Đình Sử). Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại
quê ở thượng ngàn, trót yêu người họ Chu làm giấy, nàng theo chồng xuống
của thế giới nghệ thuật. Không có hình tượng nghệ thuật nào không có
trung châu, ngày ẩn hồn trong phiến đá đêm trở lại làm người, giúp chồng
không gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó. Không
nàng thổi cho giấy dó một linh hồn…
gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện con
Một người thiếp tài hoa bị phụ bạc mà hiện hồn báo oán giữa
người và thể hiện một quan niêm nhất định về cuộc sống.
trường thi (Khoa thi cuối cùng ), một hồn ma nghệ sĩ còn nặng lòng trần
Nguyễn Tuân là nhà văn của những không gian phong phú: “Văn
luôn tìm cơ hội bằng mọi giá để được tái sinh ( Chùa Đàn )… Tất cả những
xuôi nghệ thuật của Nguyễn Tuân thường chứa đựng những hình tượng
không gian, những cảnh vật, con người ấy đều huyễn hoặc phi thực. Nguyễn
không gian nghệ thuật đa dạng, những mô hình không gian đặc sắc mang mĩ
Tuân có ý thức gia công nhiều vào cái phía thần kì, quái đản của nhân vật,
quan độc đáo của nhà văn” [11, tr 129]. Trong Yêu ngôn, yếu tố kì ảo đã chi
cảnh vật, tình tiết, chi tiết, tạo nên không khí ma quái của truyện. Để viết
phối trực tiếp việc xây dựng không gian nghệ thuật, đã khắc họa nổi bật
được những trang như thế, Nguyễn Tuân phải thực sự sống với thế giới nghệ
những hình tượng không gian sau đây.
thuật mà mình tạo nên, sống thật sự với những hồn ma kia, những cảnh vật
2.1.1.1. Không gian quá vãng.
huyền hồ kia để quan sát, cảm xúc và ngẫm nghĩ. Nhờ thế ông đã có thể tạo
Cũng như trong Vang bóng một thời, không gian quá khứ, không
ra được những cảnh tượng mà người đọc khó phân biệt được là âm hay
gian của một thời vang bóng là loại không gian có tính chất bao trùm
dương, là người sống hay người chết, là thế giới ông tưởng tượng ra hay
trong Yêu ngôn. “Đây là loại không gian mang bóng hình quá khứ được
18
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dựng lên bởi hoài niệm, kí ức, hồi tưởng và cả tưởng tượng nữa” [11, tr
quả nghệ thuật của thế giới Yêu ngôn . Từ những cảnh vật quen thuộc của
129].
quê hương đất nước, vào trang viết của Nguyễn Tuân, qua bút pháp huyền
Tất cả cảnh tượng, cảnh quan đều nằm trong vùng không gian rộng
kì, tất cả bỗng trở nên lung linh hơn, đậm hồn dân tộc hơn. Đây là cảnh xứ
lớn khái quát mang những nét đặc trưng lịch sử một đi không trở lại. xét đến
đồng chiêm Sơn Nam hạ vào mùa mưa nước ngập mênh mang “làng mạc
cùng không gian nghệ thuật trong Yêu ngôn vẫn là cuộc sống con người, và
vùng quê Nam Định nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo
dù sẽ được nhuốm màu sắc ma quái, huyền kỳ, trước hết vẫn là cuộc sống
xanh một màu hoang vu”, người ta đi về bằng những con đò đồng li ti nhiều
trần thế gần gũi. Bằng một vốn từ cổ phong phú có chọn lựa, Nguyễn Tuân
như tre rụng lá mùa thu (Khoa thi cuối cùng). Phải am hiểu và gắn bó lắm,
đã khéo dựng cảnh, dựng việc, tạo không khí, đưa người đọc vào cái không
Nguyễn Tuân mới miêu tả có hồn như thế về một vùng quê đồng bằng Bắc
gian cổ kính ấy. “Những cái đó quý giá như một tập tranh cổ” [11, tr 130].
Bộ. Sự quan sát tinh tường khiến tác giả còn nắm bắt và thu vào tầm mắt
Bởi thế, phảng phất ở những trong viết của Yêu ngôn là linh hồn
của mình một thoáng chuyển động của “Con đò đầy cựa quậy, bốc nhẹ, rồi
ngàn xưa đất nước qua những cảnh núi non sông nước, cảnh phố phường
trườn mình ra xa. Trời bắt đầu nổi gió rét. Mưa thu lộp độp gõ xuống áo tơi
chợ búa, kẻ chợ kinh kì, cảnh những làng nghề thủ công… Đó là những
nón lá của một chuyến đò đầy” (Khoa thi cuối cùng). Từ cái không gian rất
khung cảnh quen thuộc, thân thương, gần gũi với mỗi tâm hồn Việt, qua
gợi không khí ấy, sẽ là cái nền để xuất hiện cảnh sĩ tử lều chõng đi thi và
ngòi bút của Nguyễn Tuân đã hiện lên với tất cả những gì gọi là đặc trưng,
cuộc “báo oán” ghê rợn giữa chốn thi trường hoang lạnh. Trong Khoa thi
tiêu biểu nhất.
cuối cùng hình ảnh “hoa hòe nở vàng” đất Sơn Nam hạ “hòe hoa hoàng, cử
Ở trên đã nói, không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
tử mang”là một chi tiết thực mà giàu chất thơ. Thấy “dặm hòe ngả màu
người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất
vàng, lòng những người có chữ bắt đầu bận bịu” bởi màu vàng của hoa
định về cuộc sống, do đó không thể quy nó về sự phản ánh giản đơn không
khiến lòng người mơ tưởng đến sự hiển đạt công danh. Nếu không xuất thân
gian địa lí hay không gian vật lí, vật chất nào! Trong tác phẩm ta thường bắt
trong một gia đình có truyền thống Nho học, không am hiểu sâu sắc truyền
gặp sự miêu tả con đường, dòng sông, căn nhà… nhưng bản thân các sự vật
thống hiếu học của cha ông, chắc Nguyễn Tuân khó viết được những “trang
ấy chưa phải là không gian nghệ thuật. Chúng chỉ được xem là không gian
hoa” như thế. Và còn đây nữa là những cảnh buôn bán đi về tấp nập từ bến
nghệ thuật trong chừng mực chúng biểu hiện mô hình thế giới của tác giả.
Bồ Đề qua Ô Quan Chưởng vào kẻ chợ, đất kinh kì, những cô bán hàng ở
Chẳng hạn dòng sông, nhà ga, bến tàu… là không gian địa lí. Nhưng đi vào
làng cất rượu ngon nổi tiếng vùng tả ngạn sông Nhĩ Hà, với gánh rượu trên
thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nó lại ứng với những chuyến đi, gắn
vai, mỗi sáng lại kĩu kịt gánh vào các cửa ô của đất kinh kì qua, những phố
với lòng đam mê tìm kiếm những chân trời – đã được mệnh danh là chủ
phường: “Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Giấy, ÔYên Phụ, Ô Quan Chưởng, Ô Đống
nghĩa xê dịch. Nó cũng là không gian của thú ngao du giang hồ lãng tử. Ở
Mác, Ô Cầu Rền…” (Rượu bệnh), những cái tên chỉ đọc lên thôi đã đủ gợi
Yêu ngôn ta có thể thấy rõ điều này để càng thấy rõ nét riêng biệt và hiệu
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xao xuyến, rung động trong lòng người – nhất là những ai từng gắn bó với
hóa tinh thần dân tộc. Đó là diện mạo, là hồn thiêng sông núi được chiếu
đất Thăng Long.
sáng, được tôn vinh qua bút pháp huyền diệu của Nguyễn Tuân.
Viết về những làng nghề thủ công, có lẽ khó ai am hiểu sâu hơn
Nguyễn Tuân. Ở Xác ngọc lam là làng Hồ Khẩu bên Tây Hồ chuyên nghề
2.1.1.2. Không gian huyền kì: Sự pha trộn thực - ảo, âm - dương,
không gian mộ địa
làm giấy, có “nhà họ Chu làm giấy nổi tiếng đến mấy mươi đời liền”. Họ
Đây là không gian không tồn tại trong thực tế. Đó là một thế giới
không làm giấy moi bao giờ, “chỉ làm toàn giấy lụa và giấy lệnh hội để viết
mà bản nguyên của chúng chỉ có trong thần thoại, cổ tích… nghĩa là ở
bằng, viết sắc”, và tới lúc có khoa thi “thì nhà ấy mới làm thứ giấy để học
những thể loại sáng tác dân gian xuất hiện từ giai đoạn thô sơ nhất của tư
trò đóng quyển”. Giấy nhà họ Chu, người sành sỏi dẫu nhắm mắt lại, chỉ cần
duy con người, trong đó đặc trưng nổi bật là yếu tố tưởng tượng thần kì.
lấy tay sờ cũng nhận diện được bởi “nó nhẵn mặt mà không cứng mình, mà
Chính vì thế, không gian nghệ thuật trong thần thoại, cổ tích thường có tính
chất lại dai và lắm tờ khổ rộng mình dầy thế mà bắc đồng cân lên thì nặng
chất linh thiêng. Những đặc trưng này cùng xuất hiện trong văn xuôi kì ảo
chỉ đến như cái lông ngỗng… Vuốt vào mặt giấy, người ta có cảm tưởng
hiện đại nói chung, trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân nói riêng.
được sống là một điều dễ chịu ; mùa nực, rờ vào giấy thấy mát cả lòng tay
Là thế giới chỉ có trong trí tưởng tượng, nên không gian huyền kì
và về tiết đông ấp tay vào giấy nhà Chu, thấy nó âm ấm như có sinh khí.
của Yêu ngôn mang tính nguyên sơ, hoang dã: một không gian cõi tiên, một
Đưa lên mũi tờ giấy đượm hơi thơm của một thức mùi thảo mộc còn tươi
không gian cõi âm, một không gian trong tranh… Cách viết Trên đỉnh non
sống, thật là một vật quý trên thế gian”. Tờ giấy quen thuộc giản dị ấy là
Tản hướng nhiều về những chất liệu dân gian với một không gian thoát tục
tinh hoa, tinh tuý của của Rừng Dó, của bàn tay con người.
nhằm tạo ra không khí huyền thoại, huyền bí, linh thiêng. Xứ Ngàn Thiêng
Trên đỉnh non Tản có thể được coi là một truyện nối dài cổ tích – lại
ấy là mảng sáng đẹp nhất trong Yêu ngôn được tạo ra bởi một trí tưởng
đưa người đọc về với làng Chàng Thôn tỉnh Đoài chuyên nghề thợ mộc “Cái
tượng phong phú của nhà văn. Đúng như nhận xét của Thạch Lam “ớ nơi ấy
tràng cái đục của dân Chàng Thôn không những được người trần biết đến
tác giả cho ta thấy cái sức hút thấm thía vào linh hồn của những vật vô tình
mà thỉnh thoảng cứ dăm bảy năm, lại có người tiên trên núi hạ sơn cầu đến”.
cỏ cây và đá núi , tác giả như đem vào một cuộc sống riêng” [27, tr230].
Đôi tay tài hoa của họ khiến những thớ gỗ trở nên có hồn “những đầu kèo
Đỉnh non Tản là một thế giới bí mật, huyền ảo. Sau mỗi trận dâng
vai và câu đầu, đều chạm tứ quý tứ linh. Bức trần gỗ thì cham bát bửu cổ đồ.
nước của Thủy thần, Đền Thượng lại bị hư hỏng và đám thợ mộc Chàng
Nét chạm tỉ mỉ công phu gấp mấy lần công thợ điêu khắc ở các đền đài khác
Thôn lại được Sơn thần gọi lên chữa đền. Khung cảnh núi Tản trong cái
ở khơi dưới núi…”
nhìn của kíp thợ mộc vừa huyền ảo, vừa kì thú, vừa thần tiên vừa quái dị. Ở
Có thể thấy tình cảm sâu đậm với quê hương đất nước thấm đượm
chốn non tiên ấy toàn những cái êm, dịu, trong sáng, thơm, lành, đó là nơi
qua mỗi trang viết của Nguyễn Tuân. Con người say mê cái đẹp ấy chính lại
“ngày tháng thì dài… hoa quả lành và thơm như hết thảy những cái gì không
rất nặng lòng với quê hương đất nước, với những giá trị thẩm mĩ, giá trị văn
phải là trần hủ sống gửi ở mặt đất cõi trần”. Hình tượng một cõi Thiên Thai,
22
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
một chốn Bồng Lai trong cổ tích và trong văn chương Việt có dịp sống lại
Nguyễn bàng bạc phong vị và hình ảnh của Từ Thức tiên hôn lục và Tản
đầy thơ mộng trong văn Nguyễn Tuân. Cảnh vật cỏ cây trên này thật đẹp và
viên từ phán sự lục”. Không chỉ có vậy, người ta có thể nhận thấy ở đây cả
lạ. Núi non thì có hình thù núi đội mũ với những “vách đá cao, trên mỗi
“sự hồi đáp tư tưởng và nghệ thuật đối với những áng văn quá khứ” [30, tr
chỏm nhọn màu xanh cánh chả lại có mây trắng mây vàng đánh đai lấy”.
117]. Khi cầm bút viết Trên đỉnh non Tản, “Nguyễn Tuân chưa hề tới Tản
Dòng suối Tịch Mịch – cái tên chỉ nghe đã có cảm giác thoát tục – là một
viên Ba Vì !” [27, tr 572].
dòng suối mơ . “Tiếng nước róc rách chân đèo nghe gần mãi lại. Lúc đến bờ
Khác với không gian thần tiên thoát tục ở Trên đỉnh non Tản, Loạn
suối có lều cỏ bồng dựng sẵn thì dòng nước suối Tịch Mịch nín bặt. Nó lửng
âm là cuộc hội ngộ hàn huyên giữa hai người bạn cũ, một ông quan Kinh
lơ trôi ốm yếu và lững lờ. Nó trong như pha lê gọt. Nó hiền lành”. Thức ăn
dịch trên trần và một ông quan Ôn dưới âm được Diêm Vương cử về trần
bốn mùa trên sơn thượng mới thật lạ lùng, thú vị. Đoạn văn miêu tả cõi tiên
mộ phu xuống âm phủ. Quan ôn Lương – vốn là anh khóa Lương – “tư chất
đầy những chi tiết kỳ thú, chỉ có trong những giấc mơ. Loài cây ăn quả,
thông minh, lại thêm có sĩ hạnh”, do thác oan mà được Diêm Vương cho
nhiều nhất hai bên suối tiên là giống hồ đào, giống đào rợ Hồ màu vàng nhạt
làm quan “giữ về việc kiều lương đạo lộ”. Quan Ôn Lương giữa đêm đến
và xanh hay chín, trái nào cũng có má hồng, nhân hột có dáng cái thai đứa
thăm thế huynh họ Trịnh, tiết lộ danh sách nạn nhân sẽ bị bắt làm phu đinh ở
trẻ gục đầu ngủ quên. Rớt xuống thảm cỏ, hột hồ đào hóa thành luống cúc
cõi âm. Lương muốn trả cái ơn xưa với thầy học, mật hỏi Kinh Trịnh xem
tần có bảy lá mốc”. Ở nơi đây, người ta không phải nhọc nhằn lo sự mưu
có muốn cứu vớt thân thích nào trong số những người đã bị liệt kê trong
sinh, bởi cơm gạo chốn này thì nhiều vô kể. “Cứ những hòn cuội kia đập vỡ
danh sách nọ. Kinh Trịnh ngay thẳng đã khước từ bởi không muốn gây lụy
ra là lúa gạo. Cuội xanh là lúa tẻ, cuội vàng là lúa nếp”. Điều lạ lùng là
cho quan Ôn. Cuối cùng nể tấm lòng thịnh tình của quan Ôn, Kinh Trịnh đã
không cần phải nấu nướng gì, những thứ nhân đá xanh vàng kia, cứ đập rời
xin tha cho tên tiểu bộc hầu hạ mình. Người đọc Loạn âm dễ dàng nhận ra
ra, bốc bỏ mồm là đủ hương vị: một hạt cơm, một hạt xôi. Cõi ấy dùng tên
những thủ pháp nghệ thuật nhằm khơi gợi tưởng tượng của các giác quan,
vàng để bắn chim, dùng tên bạc mà bắt cá, chim, cá xiên vào mũi tên tự biến
tạo ra không gian thâm u, quái đản, chuẩn bị cho sự xuất hiện của quan Ôn
thành xiên chả, thơm phưng phức. Muốn uống rượu “thì đập vỡ cuội trắng
Lương: Đó là một đêm hè vắng vẻ, tiếng chó sủa vang khắp các lối xóm
ra, lấy nhân đá trắng hòa vào với nước suối mà uống… thấy ngà ngà mà say,
“tiếng gió lùa qua lỗ tre là một thứ thanh âm đủ những cung bực quái đản
lâng lâng và khuây vợi lòng tha hương”… Thật là những cảnh những vật êm
của một thứ nhạc huyền bí tấu từ một thế giới u linh nào lạc về. Thêm vào
dịu và thần tiên, vậy mà từ vốn tri thức uyên bác, phong phú, nhà văn đã
ngón sáo ma quái ấy, ngoài hiên, đợt gió lả lay mỗi lúc đổi chiều lại ru cái
dùng trí tưởng tượng vẽ nên được một thế giới mà mỗi chi tiết đều kỳ lạ và
ống bơ sắt văng vào thành cong nước đầy. Cái ống bơ nổi lềnh bềnh trên
kỳ thú như chỉ có trong giấc mơ. Ở đây, lại một lần nữa thấy nền tảng văn
mặt nước lại bị gió xô quanh thành ang có những tiếng rụt rè lén lút. Đêm
hoá truyền thống dân tộc luôn có sức nâng đỡ cho những sáng tạo của
quạnh hiu lẻ bóng, nghe mà thêm rợn. Nghe nó cứ như ma múc nước trộm
Nguyễn Tuân: ngoài chất cổ tích đậm đà “truyện Trên đỉnh non Tản của
và nghịch cái gáo ấy”. Đúng lúc Kinh Trịnh mệt quá thiếp đi thì bóng ma
24
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
quan ôn Lương xuất hiện, cuộc gặp gỡ diễn ra vừa trang nghiêm vừa rờn
cho người đọc nhiều suy nghĩ. Loạn âm chính là sự phản chiếu của “loạn
rợn, để sau đó là cảnh tang tóc thê lương của ngôi làng sau cơn lốc tàn hại,
dương”, nói cách khác, kiếp sống con người quả là mong manh, và cái ranh
nghiệt ngã của đội quân ôn: “màu khăn tang trắng xóa cả chợ làng. Chợ làng
giới giữa cõi dương và cõi âm là hết sức mong manh, mơ hồ. Đọc Loạn âm
vắng hẳn đi… Nhưng buồn và lạnh ghê lắm vì trong số người gồng gánh có
của Nguyễn Tuân “hẳn cũng nên được đọc với lời căn dặn từ “Truyền kì
mặt ở đấy thì đến quá nửa là chít khăn trắng. Có người, trên đầu đeo ba bốn
mạn lục”: không nên lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị
cái tang dồn trong một lúc. Ở chỗ đám đông, số khăn trắng tăng mãi. Trông
đoan mà dìm mất cái hay” [30, tr 119]. Có khi trí tưởng tượng của Nguyễn
xa cứ như là cò đậu. Người sống họp chợ thì cứ vợi dần mà ma mới thì cứ
Tuân không dừng ở đấy, mà được đẩy đi xa hơn nữa, tạo nên một không
thêm mãi. Chết nhiều quá! Sau cùng đến cả những người đội khăn trắng
gian đặc biệt mơ hồ: Không gian trong lòng đá. Ở Xác ngọc Lam, có một nữ
cũng chết”. Ghê rợn hơn, đến một lúc thì “chợ làng đến ba phần tư là ma
thần Dó, ngày dấu mình ẩn thân trong đá, đêm hiện ra là người con gái đẹp,
họp”, bởi “từ ngày có việc loạn âm, ma quỷ được dịp nhiễu nhương dương
giúp chồng và gia đình nhà chồng làm ăn thịnh vượng. Câu chuyện có dáng
gian cả giữa ban ngày”. Những người bán hàng liền sinh ra cái tục thử tiền
dấp gần gũi với một truyện dân gian nổi tiếng của Hà Nội: Bích Câu kì ngộ.
của người mua vào chậu nước, đồng nào chìm thì mới đếm, còn những đồng
Truyện này gắn với Bích Câu đạo quán hiện còn phế tích ở phố Cát Linh.
nổi thì là tiền ma. Có người “chết ngất” đi vì suốt buổi họp chợ chỉ nhận
Đầu thế kỉ XVIII, Đoàn Thị Điểm trong sách Truyền kì tân phả bằng chữ
được những đồng tiền nổi thôi. Chốn dương gian đã hoàn toàn biến thành
Hán đã viết truyện về cuộc kì ngộ ở Bích Câu. Đến thế kỉ XIX, Vũ Quốc
nơi âm thế, đến lúc chợ làng không còn ai họp nữa, đường đi lối lại không
Trân – người ở phường Đại Lợi – đã diễn ca thành truyện thơ cùng tên. Câu
có bóng người, chỉ có lũ chó đói khát “cụp đuôi lưỡi lè” vẩn vơ đi tìm bóng
chuyện kể về thư sinh tên Tú Uyên, ngụ ở phường Bích Câu, một hôm đi
chủ cũ. Không gian quạnh quẽ và thê thảm vô cùng, đâu đó “Chốc lại vang
chợ Cầu Đông mua được một bức tranh Tố Nữ, đem về treo ở nhà và dần
về ít tiếng vọng âm u những hơi thở của vong hồn oan khổ”…
dần sinh lòng yêu người đẹp trong tranh vốn là tiên nữ. Hàng ngày chờ lúc
Loạn âm kết thúc với việc giữa đêm hè oi ả, quan Ôn Lương trở lại,
chàng đi vắng, người thiếu nữ trong tranh mới bước ra dọn dẹp, làm mọi
cùng với áo mão Diêm Vương phong tặng cho Kinh Trịnh làm Chánh Tuyển
việc trong nhà. Tú Uyên lấy làm lạ vì nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, cơm
Quan. Kinh Trịnh được tại thế mà đương nhiệm điểm phu và soát sổ bộ chứ
canh ngon ngọt được chuẩn bị sẵn sàng. Một hôm chàng giả vờ đi vắng, nấp
không phải đi nhận chức ở âm cung. Quan Ôn Lương thoắt đến thoắt đi, để
ở chỗ kín đáo và nhìn thấy người đẹp bước ra từ trong tranh. Tú Uyên biết
Kinh Trịnh ngẩn ngơ trước áo bào, mũ đuôi cá, đôi hia và ngọn đèn thổ hà
đó là tiên nữ. Hai người lấy nhau, sinh được một con trai. Rồi Tú Uyên sinh
đã lụi một con bấc. Ngọn đèn hao ấy cuối cùng cũng tắt ngấm vì “một con
ra đam mê rượu chè, nàng tiên bỏ đi mất, Tú Uyên đau khổ hối hận. Nàng
thiêu thân bay ập xuống”, dập nốt chút ánh tàn còn lại. Cái lễ “tấn phong”
tiên quay về, rồi cả hai vợ chồng cùng đứa con bay lên cõi tiên. Tuy cùng
thầm lặng nọ diễn ra sau khi Kinh Trịnh đã trải nghiệm sự tàn khốc của
mô típ có dáng dấp kì ảo giống nhau: đó là những mỹ nhân không hoàn toàn
thảm sát ôn dịch vô tình, lạnh lùng gieo màu tang trắng khắp thôn làng, gợi
là con người của cuộc đời trần thế, vì tình yêu, họ sẵn sàng từ bỏ thế giới
26
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thần tiên, sống cuộc đời trần tục bên người họ yêu. Nhưng mỗi chuyện lại
giờ đạt đến, nhưng không làm cho không gian trở thành cõi vô thực, hoang
vẫn mang dáng vẻ riêng. Nếu người tố nữ trong Bích câu kỳ ngộ có thể từ
đường mà chỉ là chất kết dính hai không gian này, tạo nên màu sắc hư ảo,
trong tranh bước ra ngoài đời thực, trở thành người thiếu nữ đẹp của cuộc
hấp dẫn cho truyện.
đời, đem lại hạnh phúc thần tiên cho chàng Tú Uyên si tình, thì nàng Dó
Bằng hư cấu, tưởng tượng độc đáo, Nguyễn Tuân đã dựng nên
trong Xác ngọc Lam lai có một kết cục thật bi thương: chồng chết, nàng sa
trong Yêu ngôn một không gian kinh dị, hoang đường, ma quái tạo nên
vào tay kẻ phàm tục rồi chết và biến thành một khối ngọc toàn bích.. Chính
những ấn tượng, những cảm giác khi thì thích thú, lúc lại rờn rợn, sợ hãi bởi
điều đó làm cho không gian của câu chuyện vừa xa xôi lại vừa gần gũi, sự
những ám ảnh ma mị.
vật tưởng như có thể với tay là chạm tới được, vậy mà hết sức biến ảo, khó
Chùa Đàn thực sự quái dị. Không khí ma quái bao trùm tất cả. Từ
nắm bắt, tạo cho người đọc cảm giác bất ngờ nhưng cũng đầy thú vị bởi liên
cái ấp Mê Thảo đến cái mả rượu “tửu phần”, rồi cây đàn quái đản nơn hồn
tưởng được mở rộng đến vô cùng.
ma Chánh thú đã nhập vào… Mê Thảo xuất hiện như một cái ấp ma ở vùng
Như vậy không gian ảo với tính không cản trở đã tạo ra cho thế
rừng thiêng nước độc mà người trại chủ Lãnh Út hóa dại, đã đoạn tuyệt với
giới nghệ thuật mà nhà văn xây dựng nên có khả năng biểu đạt đến vô cùng,
đời sống “văn minh”, cơ khí, chỉ còn là một xác chết vật vờ sống, sau khi
lấp lánh nhiều tầng ý nghĩa và mở rộng cõi nhìn ra ngoài dương thế.
người vợ yêu quý tử nạn trong một tai nạn hỏa xa. Ấp Mê Thảo còn còn tên
Đối với con người hiện đại, không gian vừa như một thực thể hữu
tục là ấp Thảo. “Thảo trong “Mê Thảo” chính là cách đọc chệch của “Tháo”
hình, vừa tồn tại như một thực tại tinh thần trong tâm tưởng. Con người
– tháo bỏ mê lầm mông muội” [30, tr 126], tháo bỏ “một cảnh địa ngục mà
cùng một lúc có thể sống với hai chiều không gian thực – ảo, âm – dương
lính canh là rượu, là hát, là kỉ niệm, là sự nhớ tiếc người vợ chết” (Chùa
mà ranh giới của nó nhiều lúc bị “mờ hóa” đi. Kiểu không gian này xuất
Đàn). Ấp Mê Thảo có một cái gò chôn rượu mang tên là huyệt rượu, mả
hiện khá nhiều, nhất là với truyện truyền kì. Tuy nhiên trong văn học hiện
rượu, tửu phần. Nơi ấy Bá Nhỡ - người quản gia – ghi ngày tháng từng lứa
đại, cái ảo thường đưa con người vào một thế giới phi thực, để từ đó nhận
rượu và “đặt tên cho từng mẻ rượu”, những cái tên chỉ nghe thôi đã thấy não
thức về cái thực ở nhiều chiều, sinh động hơn.
nùng: “Vô cố nhân”, “Mê Thảo Hầu”, “Thuần Hoành Quận Chúa”, “Ức Sấu
Những đặc trưng thường thấy của kiểu không gian nghệ thuật này
Viên” … Đến cái tên sau cùng này chính là tâm sự trong lòng chủ ấp “chữ
là tính chất nhạt nhòa, gây ấn tượng và cảm xúc mạnh, tính đa nghĩa và khái
Sấu Viên là tên hiệu riêng của mợ Lãnh lúc làm thơ”. Mợ qua đời rồi, thấy
quát cao, góp phần chuyển tải một cách thú vị, hấp dẫn mà không kém phần
cậu Lãnh nhớ vợ quá, Bá Nhỡ bèn đặt vào một cái tên rượu. “Đêm đêm nhớ
sâu sắc nội dung hiện thực của truyện. Đó là một thế giới nơi cái thực được
vợ, chủ ấp lại uống hàng chục chén và có khi hàng vò “Nhớ con vượn gầy”
hư hóa, cái hư được thực hóa. Với không gian này, nhân vật trong truyện cứ
– người mợ Lãnh vốn gầy và hai tay rất dài. Gợi cảm thay! Và cũng tốn
mặc sức đi về giữa hai thế giới âm – dương, trời – đất. Yếu tố ảo, yếu tố kì
nước mắt thay khi uống đến thứ nước say ấy. Chính cậu Lãnh đã ốm nhiều
lạ là thế giới lí tưởng mà trong cuộc đời thực nhân vật khó hoặc không bao
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trận vì những đêm suông bên cạnh vò sành “Ức Sấu Viên”, tiếng khóc vượt
đầy huyệt mộ và bóng ma, thế giới của tủy xương và máu. Mỗi người đều
qua mấy lần nương dâu trĩu sương cành”.
chất chứa qua đó ngụ ý khác nhau. Cái nhìn của Chế Lan Viên siêu hình, cái
Ở một trong những truyện ngắn sớm nhất viết theo mạch yêu ngôn:
nhìn của Nguyễn Tuân là sự pha trộn các yếu tố hiện thực và hoang
Vườn xuân lan tạ chủ, Nguyễn Tuân cũng đã làm say lòng người đọc trước
đường… là phong cách mang nét tài hoa, uyên bác và độc đáo Nguyễn
vẻ diễm ảo của một “Túy lan trang”. Vườn lan có tên ấy vì lẽ giống lan quý
Tuân” [11, tr130].
gốc tích tận Yên Tử Sơn, đòi hỏi kì công chăm bón: “Mỗi bận xuân về, sớm
Gắn liền với thế giới kì ảo là không gian đêm – bóng tối. Bóng đêm
sớm, chủ nhân lại phải cho cả vườn “Túy lan trang” say với hương rượu thời
như là cái nền hữu hiệu để triển khai truyện, vừa như là màn hình huyền
cái vương giả hương ấy mới còn ở với người thế gian. Ngày xuân phải bón
thoại để thế giới bí ẩn hiện lên sống động hơn. Mọi thứ như khuất xa như ảo
lan bằng hương rượu” [55, tr 138]. Rượu trong Vườn xuân lan tạ chủ được
ảnh, bám riết, mê hoặc người đọc. Bên trong bóng tối huyền ảo là cái lõi
thi vị hóa, trở thành nguồn sống cho túy lan, đến Chùa Đàn, rượu – thứ
hiện thực với biết bao điều khiến người đọc phải day dứt, trăn trở. Không
nước thứ nước trong suốt vô tri mà ướp men nồng ấy – trở thành thứ “nước
gian bóng đêm đã nhiều lần xuất hiện trong Chùa Đàn, trong Trên đỉnh non
thần tiên” làm tươi tốt, hồi sinh cả cây cỏ.
Tản, trong Loạn âm và trong Xác Ngọc lam.
Cũng vẫn cái không khí ma quái toát lên trong Chùa Đàn mà ở đó
Xác Ngọc lam có nhân vật cô Dó – vị thần Dó – quê ở thượng ngàn.
không còn ranh giới giữa âm và dương, Nguyễn Tuân đã miêu tả cây đàn
Trót yêu người họ Chu làm giấy, nàng theo chồng xuống Trung Châu, ngày
quái đản thành đàn nhễ nhại đổ mồ hôi và thùng đàn phát ra những tiếng thở
thì ẩn thân trong phiến đá, đêm lại hiện hình giúp chồng nàng thổi cho giấy
dài quái gở, có lúc lại vẳng ngân một tiếng cuồng loạn, cây đàn giết người
dó một linh hồn. Không gian thơ mộng của vợ chồng nàng bấy giờ là “lấy
ấy ai sờ vào là mất mạng; những sợi dây đàn đứt phựt rỏ máu đọng thành
đêm làm ngày”, bởi nàng “thuộc chất âm” ít chịu được ánh sáng của mặt
giọt lóe tia xanh lạnh… Trong cuộc đàn, hồn Chánh Thú – một tay đàn cự
trời, hơn thế nữa, bóng đêm sẽ giúp nàng “mai danh ẩn tích” tránh để lộ tấm
phách xứng với tiếng hát tuyệt vời của cô Tơ và dù chết vẫn ghen với những
hình hài cho người ngoài thấy. Và từ khi nàng Dó xuất hiện ở quê chồng, “ở
người dám bén mảng đến gần vợ - hiện ra cười sặc sụa từ buồng thờ, rồi Bá
ven Hồ Tây, giờ cảnh đêm đông không còn lặng lạnh như mọi khi nữa.
Nhỡ gục xuống sau khi chỉ còn là một cái bóng trên vũng máu tươi, cây đàn
Trong sương, đùng đục những dịp tiếng chày nhà cậu Năm giã dó và lắm
trên tay tự tan vụn ra từng mảnh. Tiếp theo là cuộc mai táng Bá Nhỡ - người
buổi lại còn lẫn một thứ tiếng hát, âm thanh lơ lớ và nhịp lúc thưa, lúc mau
tự nguyện đổi mạng sống để lấy phút sống thăng hoa của tiếng đàn, câu hát,
như khổ dựng giọng nhà tơ và lúc thưa thì giống hệt lối ngâm thơ Thiên
biến thành con ma tài hoa muôn thuở. Cùng lúc là sự phát hỏa của gò rượu
Thai rồi ngân dần dần lên và lại dần dần ngân và xuống đúng như hơi hát
từ cái lênh láng trên miệng huyệt rượu như sự giải thoát của những ma men.
cung bắc lúc đổ con kiến. Đêm đêm, cậu Năm làm giấy và cô Dó cũng lách
“Tạo ra một không gian đặc hiệu như vậy có thể so sánh với sự sáng tạo một
mình ra khỏi đá, nghè giúp chồng”. Bóng đêm làm cho mối tình của người
khách thể lạ trong Điêu tàn của Chế Lan Viên. Đó là thế giới ma quái chứa
sơn nữ thần và cậu Năm thêm thơ mộng, huyền ảo. Bóng đêm cũng khiến cô
30
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dó khôn nguôi nhớ rừng cũ và tiếng hát của cô càng khắc khoải, huyền diệu
nhiều hình nhiều vẻ với những sắc màu riêng biệt, tạo nên những âm vang
hơn. Rồi khi cậu Năm “trăm tuổi đi rồi”, đêm đêm cô Dó ra ngồi ở ven Hồ
huyền bí trong lòng người đọc.
Tây, ven sông Tô, nhớ thương gửi vào những khúc hát buồn. Chồng chết,
2.1.2. Thời gian nghệ thuật: Thời gian quá vãng và thời gian vĩnh hằng.
nàng Dó giúp con cháu nhà chồng được năm đời rồi bị lưu lạc vào tay phàm
Không một vật chất nào có thể tồn tại ngoài thời gian. Nghệ thuật
tục. Thần Dó chết, di hài nàng đã biến thành ngọc – Xác Ngọc Lam, để từ
là một dạng tồn tại đặc thù, cũng có thời gian riêng. “Thời gian nghệ thuật là
đó người đời mãi lưu truyền câu chuyện về một mối tình đẹp, một số phận
thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính
huyền bí của vị nữ chúa rừng xanh – linh hồn của nghệ thuật làm giấy.
liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời
Trong Yêu ngôn, việc pha trộn những yếu tố không gian này chính
gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật do được sáng tạo
là sự tìm kiếm những thực đơn mới cho cảm giác ở một không gian lạ, ngoài
nên mang tính chủ quan, gắn với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút
thế giới thực tại, nhưng quan trọng hơn “đó là sự kiếm tìm của con mắt nhìn
ngắn thời gian thực tế. Nó có thể đảo ngược hay vượt tới tương lai (Trần
mang tính chất mĩ học” [11, tr 129]. Ta biết Nguyễn Tuân là người mê Liêu
Đình Sử).
trai chí dị. Đắm mình vào dòng văn học cổ điển phương Đông và văn học
Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học, bởi văn
dân tộc, Nguyễn Tuân có thể còn tìm cảm hứng từ những truyện lạ đầy yếu
học là nghệ thuật thời gian. Đó là hình thức cảm nhận thế giới của con người
tố hoang đường của Nguyễn Dữ qua Truyền kì mạn lục. Nghĩa là loại truyện
với một quan niệm nhất định về thế giới. Cũng giống như không gian nghệ
Yêu ngôn của Nguyễn Tuân ắt hẳn chịu ảnh hưởng của những truyện truyền
thuật, sự hiện diện và chi phối của yếu tố huyền kì đã đem đến cho thời gian
kì, chí quái rất phát triển thời trung đại. Tuy nhiên, người xưa viết truyện
nghệ thuật của Yêu ngôn những đặc trưng riêng góp phần tạo ra thế giới hình
thần tiên ma quỷ thì cũng là để tải đạo, để răn đời. Nguyễn Tuân viết Yêu
tượng lạ lẫm, đầy mê hoặc.
ngôn chắc không ngoài mục đích ấy: trong Yêu ngôn hiện lên nội dung đạo
2.1.2.1. Thời gian huyền kì và thủ pháp hư hóa thời gian thực.
lí, luân lí khá rõ. Nhưng Yêu ngôn trước hết phải là yêu ngôn – phải tạo
Khác với thời gian khách quan, ở đó các mốc thời gian được xác
dựng được cái không khí ma quái, khiến người đọc sống trong những cảm
định rõ ràng, thời gian nghệ thuật là sản phẩm của sự sáng tạo. Trong thời
giác – ít thì rờn rợn, nhiều hơn là sợ hãi và thích thú, mê say trước một “hiện
gian huyền ảo quá khứ, hiện tại và cả tương lai hoàn toàn trộn lẫn – đó là
thực khác” của trí tưởng tượng. Sự pha trộn các yếu tố không gian hiện thực
thời gian thực được mơ hồ hóa, tạo nên tính chất hư ảo, vô thủy vô chung.
và hoang đường của Yêu ngôn vẫn hoàn toàn mang nét phong cách Nguyễn
Nó có thể lùi sâu về quá khứ rồi đột ngột hướng vào hiện tại hoặc nhìn về
Tuân: tài hoa – uyên bác - độc đáo.
tương lai. Những đơn vị thời gian cụ thể (nếu có) cũng bị “hư hóa” tạo thành
Có thể nói không gian trong ý thức nghệ thuật của Nguyễn Tuân
nói chung, trong Yêu ngôn nói riêng là một không gian nghệ thuật đẹp,
thế giới mờ ảo, lung linh.
Việc hư hóa thời gian thực tế để tạo ra thời gian huyền kì thường
được thực hiện qua những cách thức: hoặc là tạo ra những trạng thái thời
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
gian thiêng, mà rõ nhất là khoảnh khắc giao thoa giữa ngày và đêm khi cõi
câu chuyện, làm cho khoảng cách giữa người đọc và nhân vật bị xóa nhòa,
âm và cõi dương còn đang nhòa lẫn, hoặc là do sự mơ hồ không chính xác
nhân vật như vừa bước ra từ cuộc sống, cất lên tiếng nói của cuộc sống.
trong các đơn vị chỉ báo thời gian đã tạo được thời gian huyền kì. Đó là
Nhân vật Bá Nhỡ trong Chùa Đàn là tiêu biểu cho sự khắc hoạ sâu sắc tâm
khoảnh khắc có thể nắm bắt được cái đẹp mong manh như sương khói của
trạng nhân vật. Bá Nhỡ vốn là con người tài hoa nhưng “trăm sự lỡ làng, lạc
con người hoặc nhận thức được trọn vẹn thế giới linh thiêng của sự vật.
phách”. Vì can dự vào một vụ giết người ở Trung Châu, Bá Nhỡ bị kết án tử
Trong Chùa Đàn, thời gian này xuất hiện với tần số cao: đó là trong kì giỗ
hình. Nhờ có chút quan hệ họ hàng với Mợ Lãnh, Bá Nhỡ được vợ chồng
hết mợ Lãnh, cậu Lãnh bắt dân ấp Thảo đánh chuyển cây gạo từ suối Vầu về
Lãnh Út lập cho một lý lịch giả và đào thoát lên ấp Thảo. Nặng ơn cứu tử,
trồng trước nhà, vào lúc “quá đêm” chỉ vì một lí do duy nhất “vào giờ này,
Bá Nhớ dốc lòng thành, tận tâm tận lực làm quản ấp giúp Lãnh Út. Cảm
chuyến hỏa xa ấy lật úp xuống vực gần hầm Sen” – nơi mợ Lãnh xấu số đã
động trước tấm lòng chung tình tới mức mê lầm của Cậu Lãnh với người vợ
bỏ mạng. Rồi tiếng khóc não nùng của cậu Lãnh cất lên khiến loài chim ăn
quá cố, Bá Nhỡ tâm niệm: “Ta muốn trở nên một chút ánh sáng, ta muốn trở
sương – chim cú vùng Mê Thảo cũng tắt tiếng cầm canh. Một không khí
nên một cái đốm lửa để làm bừng dậy lòng con người tê dại này”. Và Bá
tang thương thảm rợn khắp vùng Mê Thảo. Rồi cảnh vào cái đêm đào những
Nhỡ đã không hề từ nan bất cứ điều gì. Chỉ vì một mong muốn Lãnh Út tình
hũ rượu chôn dưới tửu phần trở nên quái đản “khách qua đường đêm vắng,
cờ bày tỏ trong cơn say, Bá Nhỡ lặn lội đi tìm cô Tơ, người ca nương tài sắc
tưởng đấy là một vụ chôn của hoặc là đào mả trộm”, bởi không khí ở “tửu
mà Lãnh Út thèm nghe tiếng hát. Bá Nhỡ luyện lại ngón đàn, sẵn sàng ôm
phần” chẳng khác gì mơi mộ địa lạnh lẽo thê lương. Cái đêm “gần về sáng”
cây đàn định mệnh vào cuộc chơi tuyệt mệnh với sự thôi thúc của tâm
khi cô Tơ “nửa thức nửa ngủ chờn chợn nghe thấy tiếng người rón rén đi từ
nguyện. “Ta học nghề đàn, ta phải đánh lên thành tiếng, dẫu rằng đời chơi
buồng thờ ra… ông Chánh Thú đứng sững đấy” khiến cô khiếp đảm trước
đàn của ta chỉ vẳng được lên có một lần, trong một trường hợp đặc biệt…
“cái hồn mặc đồ vải trắng bệch ấy”, để rồi lời nguyền của Chánh Thú đã ứng
Cầm cái đàn ma quái ấy mà gảy để cô Tơ hát , để cậu Lãnh đánh trống !... Ý
vào Bá Nhỡ, tạo nên một kết cục vừa bi thương, vừa tuyệt đẹp – sự thăng
nghĩ của Bá Nhỡ lúc này cũng là một ý nghĩ trả nợ đời và đời y lúc này chỉ
hoa của tâm hồn người nghệ sĩ dám sống hết mình cho nghệ thuật.
là một sự rút ruột con tằm. Có còn vương được tơ nữa về sau hay không thì
2.1.2.2. Thời gian tâm trạng và thủ pháp thực hóa thời gian ảo.
chưa biết, nhưng rồi đây cầm đến cây đàn Chánh Thú ấy mà đánh lên thì cái
Đây là dòng thời gian gắn với từng khoảnh khắc đổi thay trong tâm
thác của đời tằm nào mà chẳng là say sưa. Nhả cái tơ lòng ấy ra, đánh lên
lí nhân vật mà đặc trưng thường thấy là nhu cầu đối tượng tự nhận thức, sám
cái tơ ấy cho dội vang lên một giây phút của thời gian rồi mà hết luôn với cả
hối. Ở đó thời gian chủ yếu được cấu thành dòng tâm trạng phức tạp của
chung quanh! Bá Nhỡ muốn cười to một tiếng”. Để trả ơn, con người ấy đã
nhân vật. Việc đưa trực tiếp người kể vào hoạt động và dòng tâm trạng của
hi sinh cả mạng sống của mình. Không còn gì là ma quái rùng rợn chỉ còn
nhân vật khiến khoảng cách thời gian và không gian giữa người kể và thế
thấy ngôn từ và lòng người rung lên những nốt nhạc tha thiết cuối cùng của
giới chuyện kể hòa nhập làm một, góp phần tạo nên tính chất hiện tại của
cái đẹp và sự hy sinh.
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trong Chùa Đàn, Lãnh Út là người chủ ấp trẻ tuổi – luôn mê đắm
Như vậy, nếu việc ảo hóa thời gian để tao ra tính huyền kì, đưa
với những gì đã mất. Lãnh Út triền miên trong những cơn say, “uống để kéo
người đọc vào một thế giới mơ hồ, xa xăm, thì việc thực hóa thời gian ảo,
dài đời mình ra bằng sự nhớ thương một cái bóng trăng trắng”. Nguyễn
đặt nhân vật vào thời gian tâm trạng đồng nghĩa với đặt người đọc vào tình
Tuân đã dùng nhiều hình tượng khác nhau để miêu tả những diễn biến nội
thế đồng thời với hiện tượng, với dòng chảy suy nghĩ đang diễn ra tự nhiên
tâm phức tạp của Lãnh Út sau cái chết của người vợ trẻ. Xót thương người
giống như thật để sống hết mình với những gì đang vận động trong thế giới
bạn lòng, Lãnh Út uống rượu, nghe đàn hát, khóc…, lại có lúc ngừng tất cả
nghệ thuật của nhà văn.
các trò ấy, ngày đến ngồi sững trước bức họa người vợ bạc mệnh, “dáng
Sự kết hợp, lồng ghép, hòa phối cả không gian và thời gian nghệ
điệu như nhà sư nhập định, mắt không nhắm, miệng không mở lấy một
thuật huyền kì trong Yêu ngôn đã khiến cái huyền ảo và cái đời thường thẩm
tiếng” với cõi lòng trì trệ, u ám. Có lúc cái tâm u uất của Lãnh Út trở nên
thấu lẫn nhau, cái kì ảo nhoè lẫn vào thế giới thực, từ đó tạo ra sự ám ảnh,
khốc liệt, biến thành hành động dữ dội, mê muội. Bá Nhỡ chính là người đã
mê hoặc cho bức tranh cuộc đời mà nhà văn đã dày công tái tạo. Đó là
lay tỉnh, cứu rỗi Lãnh Út. Khi điệu Hòa mã hát chưa hết một phần ba thì Bá
những đặc trưng nổi bật góp phần tạo ra thế giới hình tượng lạ kỳ, mê hoặc
Nhỡ gục chết khô kiệt, cung đàn tắt bặt. Cái im lặng đột ngột ấy đã đánh
của Yêu ngôn.
thức Lãnh Út; Cô Tơ òa khóc ôm xác Bá Nhỡ, cây đàn rơi xuống vỡ tan trên
2.2. Thế giới nhân vật với số phận dị biệt và tính cách phi thƣờng.
lớp máu khô. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, nước mắt Lãnh Út “vận
Nguyễn Tuân bước vào nghề văn dường như là để minh họa cho
chuyển hết vào nội tâm thành một niềm tư tưởng im vắng ghê lạnh” và rồi
hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ:
Lãnh Út “ngây sững như tượng đất nung, ngủ ngồi ngay giữa chân xác chết
“Trời đất cho ta một cái tài
mắt một nửa phần đêm và lan sang nửa ngày sau, mắt mở to, mi không chớp
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi”.
lấy một lần”. Lãnh Út ngủ ngồi để rồi thức giấc – hay là hồi sinh – thu nhặt
Hồi ấy – những năm trước cách mạng – Nguyễn Tuân coi cuộc
hài cốt Bá Nhỡ về chôn cất nơi ấp Thảo. Cũng trong đêm ấy Lãnh Út hỏa
sống chỉ là một cuộc rong chơi, có điều thú chơi của ông là chơi tài, chơi
thiêu “tửu phần”, lắp bắp nói giữa một giấc chiêm bao không ngày tháng:
nghệ thuật. Đọc Nguyễn Tuân, thấy người xưa nói đúng: Văn chương quả là
“Sau một cái tử biệt, giờ ta phải tính đến một nỗi sinh ly khác. Đối với đàn,
có cái ma lực của nó. Có những sự vật, những hiện tượng, dường như nhỏ
hát từ bây giờ ta nguyện làm một người điếc, một người cô đơn, một người
nhặt tầm thường, đối với cây bút khác, có lẽ chẳng có gì đáng nói, đáng viết,
phản bội, và trước vong linh Bá Nhỡ, ta thề độc là không bao giờ cầm đến
nhất là từ đấy mà lại tạo nên được “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”.
một cái chén nào của cuộc đời này”. Lời khấn hứa thề đoạn tuyệt với đàn,
Vậy mà Nguyễn Tuân đã khai thác được chúng như những thể tài mới lạ,
hát và rượu, tức là đoạn tuyệt với quá khứ. Mồ rượu bị đốt cháy – hủy diệt –
phong phú, tạo nên những trang văn rất đỗi tài hoa, đầy sức hấp dẫn . Có
để có một Lãnh Út hoàn toàn khác trước – tái sinh.
lần, khi bàn về thơ – theo cái nghĩa rộng là văn chương – Nguyễn Tuân đã
khẳng định “Thơ là mở ra được cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó,
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vẫn như là bị phong kín” (Thời và thơ Tú Xương). Văn Nguyễn Tuân cũng
đến cái đẹp, cái phi thường, kỳ lạ là một đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn
vậy: nó mở ra bao điều mới mẻ, kỳ lạ trong số phận những con người, làm
thì văn Nguyễn Tuân, nhất là ở Yêu ngôn đã đẩy đến xa nhất đặc trưng này
cho người đọc không thôi ngạc nhiên về sự phong phú của con người và
trong văn học lãng mạn trước 1945.
cuộc đời. Quả là Nguyễn Tuân có một quan niệm hết sức sáng rõ về văn
2.2.1. Yêu ngôn và thế giới của cái phi thường, những kì nhân, kì vật.
chương: nghệ thuật là sự sáng tạo, sáng tạo ra cái mới mẻ, độc đáo, hấp dẫn.
Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân dù ở thể tài nào cũng đều là
Hơn bất cứ lĩnh vực nào, nghệ thuật, trong đó có văn chương yêu cầu rất cao
những con người dị biệt phi thường. Có thể nói đối với con người, Nguyễn
ở người nghệ sĩ năng lực sáng tạo thẩm mĩ. Đó là phong cách nghệ thuật của
Tuân rất trọng nhân cách đẹp, tâm hồn đẹp, thậm chí tâm linh đẹp.
một nhà văn chân chính. Không có sáng tạo, người nghệ sĩ tự xóa bỏ mình.
Trong Vang bóng một thời có hơn một chục truyện, mỗi truyện tập
Phong cách trước hết thể hiện ở cái nhìn độc đáo, mới mẻ đối với hiện thực,
trung nói về một cái tài, một kiểu ăn chơi phong lưu của lớp nhà nho tài hoa
nó thể hiện chiều sâu của sự cảm nhận và khám phá đời sống của nhà văn.
bất đắc chí. Đó là cụ Kép làng Mọc (Hương cuội) có cái thú uống rượu
Cùng thời với Nguyễn Tuân, trong khi Nguyễn Công Hoan nhìn đời
thưởng hoa cầu kì, khác người: uống rượu nhắm với đá cuội tẩm kẹo mạch
như một tấn trò đời thì với Vũ Trọng Phụng, đời là một sân chơi quái đản,
nha trong mùi lan thoang thoảng khắp vườn. Sở thích ấy da diết đến nỗi cụ
ồn ào, con người quái gở, vô hồn, vô nghĩa, vô giá trị; Xuân Diệu thì lại
sẵn sàng nguyện đem quãng đời xế chiều của một nhà nho để “phụng sự lũ
nhìn cuộc đời với con mắt khát khao, vồ vập, đam mê. Còn Nguyễn Tuân,
hoa thơm cỏ quý và rượu thạch lan hương”. Đó là cụ Sáu (Những chiếc ấm
ông vừa khinh ghét những cái xấu xa tầm thường của xã hội thực dân phong
đất) chỉ uống trà pha bằng nước giếng trên chùa Đồi Mai. Cụ không bước
kiến lại vừa tha thiết với cuộc sống, với quê hương đất nước mình. Có người
chân đi đâu xa được vì không đem theo được nước giếng chùa và thề rằng:
cho rằng văn ông mới lạ trong ý tứ; người thì thích chữ nghĩa của ông giàu
Giếng chùa mà cạn thì sẽ lập tức cho không người nào muốn xin bộ đồ trà
có, biến hóa, ẩn chứa vô số bất ngờ; có nhà nghiên cứu lại thú vị trước
quý báu và cụ dám cả gan đánh đổi sản nghiệp lấy một chén trà ngon. Đó là
những trang viết phóng khoáng, vượt khuôn phép của ông; người lại yêu cái
người hành khất sành trà Tàu, sau khi đã “ăn mày” được một ấm trà, ung
tài hoa, uyên bác, thâm thúy trên mỗi dòng văn của ông… Đặc biệt, với cái
dung uống như một kẻ quý phái. Với ông ta thú uống trà đã đạt tới cực điểm
đẹp, ông lại là người suốt đời săn lùng và tìm kiếm để tôn thờ và phụng sự
của một nghệ thuật tinh hoa. Đó là nghệ thuật sống của giới giang hồ trộm
nó. Một phương diện nổi bật của cái đẹp mà Nguyễn Tuân say mê khám phá
cướp (Ném bút chì) với lối phóng dao, phóng mai thượng đẳng – họ là
là vẻ đẹp của một thời còn vang bóng. Đó là những phong tục đẹp, những
những kẻ nhúng tay vào tội ác nhưng vẫn còn lương tri – một hạng anh hùng
thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh, tao nhã, tinh tế của người xưa…mà tất cả
lai trộm cướp, hảo hán Lương Sơn Bạc thế kỉ XX… Có thể thấy các nhân
được thể hiện thông qua thế giới nhân vật đặc biệt trong sáng tác của
vật của Nguyễn Tuân đều là những nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của
Nguyễn Tuân. Một điều dễ nhận ra, những nhân vật ấy đều là những con
mình. Yêu ngôn cũng không nằm ngoài đặc điểm ấy, có điều nó được đẩy
người với số phận dị biệt và tính cách phi thường. Có thể nói nếu như tìm
lên tới mức phi thường, xuất chúng, “không hiểu nổi”.
38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Tuân sáng tác Rượu bệnh để kính viếng vong linh người
rượu quẩy vào chợ tỉnh”. Rồi đến khi tất cả các cô gái bán rượu đều nhận ra
bạn rượu Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Nhân vật Bố Ô, “kì nhân không biết
cái trò “nếm rượu chằng” tinh quái của ông già – nếm thử để rồi không bao
đói nhưng chỉ thấy khát rượu” là một loại hành khất cao sang rất gần gũi với
giờ mua thật cả - họ lại tự nguyện “mỗi buổi mai cấp cho ông già đầy một
nhân vật người hành khất sành uống trà trong Những chiếc ấm đất. Với nghệ
chén gỗ rượu”. Và cái tên Bố Ô do các cô hàng rượu gọi đùa ông có từ ngày
thuật nếm rượu độc nhất vô nhị: mỗi buổi sớm lúc trời đất còn lờ mờ, ông cụ
đó. Viết Rượu bệnh, Nguyễn Tuân có nói tới một thói tật - rượu bệnh,
đã ngồi sẵn ở các cửa ô Hà Nội, đồ vật đem theo chỉ vỏn vẹn có một cái ghế
nhưng cũng lại gắn nó với một nghệ thuật, một thú thưởng thức cao sang:
gỗ và một cái chén gỗ to gần bằng cái lồng gỗ mít đóng oản của nhà chùa.
trông Bố Ô uống rượu ngon tệ, cứ ngọt sớt đi thôi… Uống đẹp quá”. Nhân
Ông cụ ngồi đấy “để đón rượu, thứ rượu làm ở bên kia sông. Thứ rượu ngon
vật Bố Ô quả là một hình tượng độc đáo trong thế giới nhân vật của Nguyễn
cất ở tả ngạn sông Nhĩ, đưa qua bán bên đất Kinh đô” do các cô gái vùng Bồ
Tuân. Và cũng quả là tài tình ngòi bút Nguyễn Tuân: ông đã tạo ra một độ
Đề qua đò ngang ghé vào lối Ô Quan Chưởng. Mỗi khi có gánh rượu nào đi
nhoè của hình tượng cho nhân vật chập chờn giữa hư và thực, tiên hiện hình
qua là “Ông già cử động rất trịnh trọng… cả người ông cụ lúc bấy giờ là sự
và kẻ phàm tục, nghèo hèn và cao sang
vui sướng hồn nhiên”. Với gánh rượu nào cũng câu gọi: “Có rượu ngon, cho
Trong sáng tác của mình, Nguyễn Tuân viết khá nhiều về ca nương.
lão mua vài cân”, rồi liền đưa cái chén gỗ cho cô hàng rót đầy vào để nếm
Nhân vật Cô Tơ trong Chùa Đàn là nhân vật ca nương đẹp nhất được xây
thử, nếm xong kêu nhạt, chê khê xua tay cho cô hàng đi… Cứ như thế “một
dựng trong tác phẩm của Nguyễn Tuân với những phẩm chất đáng ngưỡng
cô hàng rượu, hai cô hàng rượu, dăm bảy cô hàng rượu đã qua đều đều. Mỗi
mộ: chung thủy, nhân ái và tài nghệ ca ngâm trác tuyệt. Bởi yêu thương và
cô là một chén rượu gỗ nếm thử. Mỗi lần nếm thử thứ rượu cất các thứ nồi
chung thủy với chồng mà sau cái chết của Chánh Thú, Cô Tơ thề độc sẽ
nấu khác nhau không phải trả tiền”. Và Bố Ô thực sự là một nhân vật độc
không buông tiếng hát nào cho người đời nghe và “không cho tai mình
nhất vô nhị trên đời này trong cách uống rượu: lão nhắm rượu với một cái
nghe” bất cứ tiếng đàn của người đàn ông nào trong thiên hạ, trừ khi có
đinh. “Cái đinh đóng thuyền chấm vào chén rượu mút đánh chụt một cái rất
người dám cầm cây đàn oan nghiệt sát nhân của chồng để lại. Vì cảm phục
gọn” đến khi đủ chếnh choáng “để giác quan thừa sức mà nhầm lộn về cuộc
tấm lòng thành và tài hoa của Bá Nhỡ mà cô không nỡ để Bá Nhỡ chết, cô
đời thực tại quanh mình”. Khi đủ ấm bụng, ông già lại chập chững trở về, và
đã thắp hương, gieo âm dương xin chồng tạm gác lời nguyền, tha mạng cho
cả ngày cả tối ấy, đố phố phường có nhìn thấy mặt ông nữa. Ngày qua ngày,
người đàn ông chẳng quản đời mình để mưu cầu cuộc sống cho một con
bao giờ cũng chỉ có thế, “một cái chén gỗ lớn, một cái ghế gỗ con, phục sức
người khác. Những khẩn cầu của cô đã không làm xoay chuyển được tình
chưa tã rách nhưng cũng đã quá tàu tàu, ông ngồi thu hình trên nền đất lạnh
thế. Những kiếp tài hoa, tài tình thương lấy nhau để chịu cảnh oan nghiệt.Cô
của buổi tinh mơ, rình những gánh men lướt trong màn sương… chơi chơi
Tơ buộc phải chấp nhận cuộc hòa âm định mệnh mà cô đã biết trước cái kết
thật thật cứ y như là tiên hiện hình xuống để thử lòng những người đi qua”
cục thê thảm. Đoạn văn miêu tả cuộc giao hòa âm nhạc của bộ ba: Cô Tơ
mà thực chất là “để đánh thuế rất khéo vào những gánh hàng của các cô bán
vừa hát vừa gõ phách, Bá Nhỡ đàn, và Lãnh Út điểm chầu, là những trang
40
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viết xuất sắc mà mọi miêu tả âm thanh và hình ảnh được đẩy đến cực điểm,
dữ dội của Bá Nhỡ khi mà biết rằng “chỉ một chốc nữa thôi” mình sẽ kí vào
cũng ở đấy, tài năng và tấm lòng của người đào nương này được vẽ nên
bản án tử hình chính mình. “Mấy đầu ngón tay Bá Nhỡ sưng vù và bật máu.
bằng những gam màu đẹp nhất, tinh tế nhất và cũng huyền ảo nhất. Tiếng
Bá Nhỡ đang chịu một nhục hình bá đao tùng xẻo… Bá Nhỡ say sưa trong
hát cô Tơ “vượt qua những đỉnh nhọn của thế giới âm thanh. Tiếng hát mọc
cái nhận thức là mình đang chết dần giữa đàn hát và mỗi một tiếng trúc tiếng
cánh, thăm thẳm trong trắng tinh khiết quá pha lê gọt. Cô đang gọi nước
tơ đánh thêm lên là mình lại càng lả dần về cõi chết. Có người tử tự tử bằng
suối đá ngọt ngào dâng lên”. Tiếng phách trúc của cô “díu dan như cô đúc
mùi hoa ngát, có người tự tử bằng hơi nhạc. Người đang luyện phím khảo
lại được muôn điệu của muôn giếng chim. Có những tiếng tre đanh thép, sắc
dây bỗng nở một nụ cười héo sững trên hai môi tái”. Bá Nhỡ chọn cuộc chơi
bén đến cái mực cắt đứt được sợi tóc vô tình nào bay qua khoảng nơi phách
tuyệt mệnh không chỉ để trả ơn, mà còn để tìm một kết cuộc ý nghĩa cho
đang bốc cao vươn mình dựng dậy như vách thành”, nó rót vào tai người
cuộc đời nhỡ nhàng của mình. Kiểu nhân vật này không phải chỉ xuất hiện ở
nghe “cả một rừng chim và cả một suối thủy tinh”. Cô Tơ hát không chỉ
Chùa Đàn. Nhân vật Chiêu Hiện trong Xác ngọc lam cũng là một kẻ giang
bằng tài năng, mà còn bằng cả tấm lòng, cả trái tim hướng đến người gảy
hồ khí phách. Chiêu Hiệu quê vùng Phủ Quốc xứ Bắc, bỏ xứ vào Nam với
đàn – Bá Nhỡ - bởi cô biết rằng tắt bản đàn, là cuộc đời Bá Nhỡ cũng kết
giấc mơ thành đạt, trên đường li hương đã thề độc rằng: chẳng ngồi xe ngựa
thúc. Bởi thế cô Tơ “cố bắt buông từng chữ cho thật chín nục để kẻ sắp hết
thì không về qua chiếc cầu này. Giống như Bá Nhỡ, Chiêu Hiện mắc vào
làm người kia đem đi cho thật đầy đủ cái dư âm của cõi sống”. Khi Bá Nhỡ
một vụ cướp có án mạng, nhưng nhờ có Huyện Khỏe bao che, cưu mang mà
gục chết khô kiệt, cô Tơ òa khóc ôm xác Bá Nhỡ. Cô Tơ không chỉ là ca
Chiêu Hiện thoát án. Mang ơn cứu mạng ấy, Chiêu Hiện tâm nguyện tìm
nương nức tiếng. Cô còn là biểu tượng tổng hòa của nghệ thuật đàn hát, là
cách trả ơn, “lúc nào cũng nghĩ đến việc đi tìm báu vật cho ân nhân”. Bằng
tiếng lòng, là tình người, là sự hội tụ tuyệt đỉnh của tài và tình.
mánh khóe, Chiêu Hiện đánh tráo được tảng đá nghè giấy của nhà họ Chu ở
Cũng trong Chùa Đàn, gây ấn tượng đặc biệt và gợi nhiều xúc
làng Hồ Khẩu về làm tặng vật cho chủ. Trong phiến đá quý ấy có Nữ thần
động cho người đọc là nhân vật Bá Nhỡ, người quản gia của Lãnh Út, đồng
Dó ẩn mình, đêm đêm nàng cất tiếng khóc chồng khiến ai cũng phải nhỏ lệ.
thời cũng là một anh kép đàn bất đắc dĩ mà hết sức tài hoa. Vì muốn hồi sinh
Một lần, trong cơn nguy kịch, Chiêu Hiện phải cam tâm đập vỡ phiến đá
cho ông chủ – cũng đồng thời là ân nhân của mình, Bá Nhỡ có một tâm
hòng cứu cô Dó, nhưng không kịp bảo toàn sự sống cho cô. Nữ thần Dó
nguyện “muốn trở nên một chút ánh sáng, trở nên một cái đốm lửa để làm
chết, Chiêu Hiện đau buồn, hối lỗi nhận phần trách nhiệm trước cái chết của
bừng dậy trong lòng con người tê dại này”. Bá Nhỡ quyết đem mạng sống
cô. Cũng từ đây, Chiêu Hiện đã nhận ra chân tướng của kẻ trọc phú. Ôm xác
của mình “rút ruột con tằm mà nhả cái tơ lòng”, chọn lấy “cái thác của đời
cô Dó, Huyện Khỏe sung sướng vì có được một khối thúy ngọc toàn bích.
tằm” để đánh đổi lấy mấy giây phút tuyệt vời, vinh quang của anh hoa phát
Và Huyện Khỏe tính toán rất nhanh rằng “bán đi thì có thể thu về được cơ
tiết, mấy giây phút tuyệt vời của niềm giao cảm giữa những con người biết
man là tiền bạc” hoặc “đem làm vật tạ lễ một vị quan thầy”. Những lời cuả
phụng thờ cái đẹp của tình người. Nguyễn Tuân đã tả cái tâm trạng giằng xé
Huyện Khỏe khiến Chiêu Hiện sửng sốt, hóa ra “từ bao nhiêu lâu nay ông đã
42
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thờ nhầm phải một người có nhân cách đê hạ quá”. Thái độ thực dụng trắng
trợn của tên bạo phú khiến Chiêu Hiện chấn động và ngay đêm đó bỏ đi. Trở
Làm phong phú, đa dạng thêm chất huyền kì, không thể không nói tới
thế giới nhân vật ma của Yêu ngôn.
về chốn cũ, lòng đầy ân hận vì “đã giết chết mất ngọc biết nói”, càng ân hận
Trong văn học kì ảo xưa nay, truyện về các hồn ma bóng quỷ vô
hơn là nhà họ Chu “từ khi bị đánh tráo phiến đá nghè, nhà ấy làm ăn mỗi
cùng phong phú. Theo thời gian, loại truyện này không già cỗi đi mà trái lại,
ngày một xuống và giấy Chu Hồ bây giờ đã là một câu chuyện gần như cổ
trở thành một dòng chủ đạo của bộ phận văn học kì ảo. Trong Yêu ngôn, ma
tích, một câu chuyện chỉ còn thuộc về lịch sử của nghìn xưa”, Chiêu Hiện đã
và người dường như không có khoảng cách, ma là sự hiện hình của những
“ngủ luôn một giấc để lũ con đưa ra một cánh đồng tỉnh Sơn Tây”. Với cách
người đã khuất, ma vẫn nặng lòng với cuộc sống trần gian, ma ăn ở với
ứng xử ấy, Chiêu Hiện thực sự là một tay giang hồ tài tử đầy nhân cách.
người, ma trở về cõi trần mà vẫn trong hình dạng con người. Họ hiện về
Những nhân vật của Yêu ngôn dù trong cảnh sống khốn cùng, dẫu
dương gian với những mục đích khác nhau: hoặc nâng đỡ cho con cháu đời
nghèo nhưng không hèn. Bố Ô (Rượu bệnh) một mình dám xông vào tận
sau để không mất đi danh tiếng làm nghề truyền thống; hoặc kiếp trước chịu
dinh quan Thượng – kẻ “quyền trấn một góc trời, lấy đầu người trị hạ cứ dễ
nhiều oan trái trở về báo oán trả thù; hoặc đam mê giọng hát tiếng đàn mà
như bỡn” – la hét huyên náo đòi thả một cô gái quê bị cậu ấm con quan bắt
hồn phách vẫn không chịu rời bỏ chốn kĩ viện… Và dù họ là ma thì cũng là
vào hãm hại. Ấm Đới (Đới Roi) – kẻ lãng tử đã tiêu cả cơ nghiệp vào tiếng
ma tài hoa, ma tài tử, ma của thế giới Yêu ngôn Nguyễn Tuân.
đàn giọng hát – dù đã rơi vào hoàn cảnh bần cùng, ngày ngày phải chuốt roi
Đới Roi (Đới Roi) nguyên là cậu ấm Đái, con cụ Bố Nam quất roi
chầu đi bán, vậy mà vẵn khẳng khái tới mức cố chấp, thắt cổ chết làm con
chầu lừng danh một thời trong chốn ăn chơi tài tử. Khi sa cơ lỡ vận không
ma tài tử, chứ không chịu nhận tình thương bố thí của một đào nương. Ông
thể sống nhờ lòng thương hại của giáo phường, Đới Roi đã chọn cái chết.
Kinh Lịch họ Trịnh kia (Loạn âm) không vì tình riêng mà chữa lại mệnh trời
Khi còn ở dương gian ham mê tiếng tơ tiếng trúc, tiêu cả cơ nghiệp vào
– tức là xin xóa tên những người thân trong cuốn sổ bắt phu của Diêm
giọng hát tiếng đàn, vậy mà thác xuống âm thế, “cái người trai không vợ ấy
Vương – bởi “trong cái đời liêm chính của tôi, chưa lúc nào tôi có làm điều
đã trở thành một ông mãnh rất thiêng thường hiện ra để quấy những nhà cô
gì khuất tất trong lòng”… Họ là những con người có cả tài lẫn tình. Cuộc
đào ở Khâm Thiên dám vô lễ với vong hồn mình vẫn oán kết gần quanh kĩ
đời họ nếu có đau khổ bất hạnh thì cũng chỉ vì trót đắm đuối trong bể tình,
viện”, đêm đêm vẫn đánh trống chầu trên những mái nhà có hát. Quả thực
dù là kẻ phàm trần như Ấm Đới (Đới Roi) hoặc Lãnh Út (Chùa Đàn), hay
Ấm Đới là kẻ thuộc “nòi tình”, cuộc đời đắm đuối trong bể tình bể nhạc để
người thần người tiên như cô Dó (Xác ngọc lam), hoặc là hồn ma như
rồi trở thành một con ma nghệ sĩ tài tử.
Chánh Thú (Chùa Đàn)… nhưng bao giờ cũng biết bảo toàn nhân cách đẹp
Trong Yêu ngôn, có kiểu nhân vật “ma yêu”. Đó là cô Dó – linh
đẽ của mình bằng cái chết hoặc trong những thời khắc chọn lựa nghiệt ngã
hồn của nghệ thuật làm giấy (Xác ngọc lam). Vốn là nữ thần của chúa ngàn
nhất.
cao cả, vì tình, nàng đã theo chồng về làng giấy Hồ Khẩu bên Hồ Lãng Bạc.
Yêu chồng, nâng niu cả một dòng họ làm nghề giấy, nàng đã thổi cho giấy
2.2.2. Thế giới nhân vật ma
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dó một linh hồn, để từ đấy, lò chế giấy nhà cậu Năm họ Chu làng Hồ Khẩu
sẽ bị bắt đi phu ở cõi âm, tỏ ý xem Kinh Trịnh có muốn cứu vớt thân tính
biết một kỉ nguyên mới – giấy tự nhiên thơm đẹp lên và bỏ xa sự cạnh tranh
nào trong số họ thì sẽ chiếu cố. Không chỉ có vậy, Quan Ôn Lương còn xin
của nghìn vạn người sống bằng vỏ dó. Khi cậu Năm qua đời, nàng Dó
Diêm Vương ban phẩm hàm cho Kinh Trịnh. Kinh Trịnh được tại thế mà
không nỡ bỏ về “quê hương cũ muôn năm xanh vui của mình”, nàng ở lại
đương nhiệm chức Chánh Tuyển Quan, trông coi việc điểm phu và soát sổ
giúp con cháu nhà chồng làm ăn phát đạt. “Thương lũ trẻ, đêm đêm cô lại
bộ.
hiện ra, hà ít hơi mình vào giấy và lấy tay vuốt từng tờ một. Giấy Chu Hồ vì
thế vẫn giữ được vẻ quý riêng”.
Những kiểu nhân vật ma này trong Yêu ngôn có vẻ như trái ngược
nhau nhưng thực sự lại thống nhất với nhau, làm nên sự đầy đặn, hoàn hiện
Trong Yêu ngôn, nếu “ma yêu” khêu gợi lòng hướng thiện, nhân
trong chân dung nhân vật, bởi ma cũng là “kiếp cõi âm” của con người cũng
hậu, nhân tính thì “ma báo oán” lại là sự răn đe, cảnh tỉnh. Hai anh em ông
tồn tại song hành hai cực của tình cảm: biết căm ghét và biết yêu thương.
Đầu Xứ trong Khoa thi cuối cùng nổi tiếng học giỏi nhất tỉnh Nam lều
Thực chất, cõi âm ở đây cũng chính là âm bản của thế giới trần tục và hệ
chõng đi thi với bao nhiêu hi vọng. Nhưng hết anh rồi đến em, khi nào vào
thống nhân vật ma không chỉ gợi sự li kì mà còn giữ vai trò như chiếc cầu
chốn trường thi đều bị hồn ma quấy nhiễu. “Một người đàn bà trẻ, xõa tóc,
nối hai thế giới, để từ đó nhà văn gửi gắm những quan niệm, suy tư, trăn trở
ẵm con, hiên ngay dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu khóc giữ rịt lấy mớ
về cuộc đời, đồng thời cũng là sự đối sánh hai thế giới để con người trần thế
tóc xõa quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên. Lại cười sằng sặc, lấy nghiên mực
sống tử tế, xứng đáng hơn với danh hiệu con người.
hắt vào quyển của ông …”. Kết cục là cả ông Đầu xứ Anh và ông Đầu Xứ
2.2.3. Những cảnh những vật lạ kì.
Em đều hỏng thi. Hóa ra lúc sinh thời, cụ Huấn, ông cụ thân sinh ra hai anh
Trong thế giới Yêu ngôn không chỉ có những con người kì lạ, khác
em đã phạm vào việc thất đức, cụ “đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái
thường, mà cả những vật, những cảnh cũng hết sức đặc biệt. Đây chính là
chết của một người nàng hầu tài hoa nổi tiếng một thời”. Người thiếp ấy khi
một yếu tố tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút đầy thú vị đối với người đọc.
chết có mang được sáu bảy tháng. Cái oán sinh tử ấy cứ theo đuổi họ, nếu
Ai đã đọc Chùa Đàn hẳn đều có một ấn tượng lạ lùng về cái “tửu
họ còn lều chõng ở cửa trường thi: “Nó còn đi thi, cô còn báo mãi... cô
phần” – một mả rượu có chôn vô số cái hũ rượu trong ấp Mê Thảo với
muốn, cô muốn nó phạm húy, cho nó bị tội cả nhà kia…”. Đấy là lời người
những cái tên lạ lùng . Đó là một cái gò con. Chỏm gò phất phơ toàn một
thiếp lúc ốp vào con đồng đã nói. Thế là cả hai anh em, người khóa trước, kẻ
giống thạch sương bồ. Sườn gò, đây đó ít gốc rền tía. Gò ấy, chính là huyệt
khóa sau đều đã trải qua sự thất bại ê chề của khoa thi cuối cùng, để rồi đã
rượu. Bá Nhỡ chôn cơm men và rượu cất ở mả rượu ấy. Ngoài Bá Nhỡ ra,
phải sống “một đêm dài nhất trong một đời người”.
cấm dân ấp không được ai lai vãng đến tửu phần. Tửu phần đã phân ra từng
Có “ma báo oán” thì cũng sẽ có “ma báo ân”. Vị Quan Ôn (Loạn
khu đông tây nam bắc và chia từng hàng luống như ở một nghĩa trang thôn
âm) được Diêm Vương cho làm quan trông coi việc kiều lương đạo lộ.
sơn. Trên các khu và các luống tửu phần, có những thẻ tre sơn vôi trắng, viết
Muốn trả cái ơn xưa với thầy học cũ, Quan Ôn đã tiết lộ danh sách nạn nhân
chữ đen và sơn đỏ, có thể lẫn với bài bùa phù thủy. Ấy là Bá Nhỡ ghi ngày
46
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên