Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Đề cương Tâm lí học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.4 KB, 13 trang )

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÍ HỌC

1. Bản chất tâm lí người
 Một số quan niệm khác nhau về bản chất tâm lý người :
− Quan niệm duy tâm :
+ Tâm lý của con người là do thượng đế, do trời sinh ra và nhập vào thể xác con người, không

phụ thuộc vào thế giới khách quan.
+ Tâm lý con người là một trạng thái tinh thần sẵn có trong con người, nó không gắn gì với thế
giới bên ngoài và cũng không phụ thuộc gì vào cơ thể.
− Quan niệm duy vật tầm thường :
Tâm lý, tâm hồn cũng như mọi sự vật hiện tượng đều được cấu tạo từ vật chất, do vật chất trực
tiếp sinh ra.
− Quan niệm duy vật biện chứng :
Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lí
người có bản chất xã hội – lịch sử.
 Phân tích quan niệm về tâm lí người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng :
 Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua hoạt động của mỗi

người .

− Tâm lý người không phải do thượng đế hay do trời sinh ra, hay do não tiết ra như gan tiết ra mật.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
não người thông qua “lăng kính chủ quan”.
− Phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hai hệ thống vật chất, kết quả là đều để lại dấu viết
(hình ảnh) ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động. Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến
phức tạp, từ phản ánh cơ, vật lý đến phản ánh sinh vật, phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm
lí.
+ Phản ánh tâm lý là một loại phản ánh đặc biệt. Đó là sự tác động của hiện thực khách quan vào


não người, hệ thần kinh ở người - tổ chức cao nhất của vật chất, có cấu tạo đặc biệt.
+ Phản ánh tâm lý tạo ra những “hình ảnh tâm lý”, bản “sao chụp” về thế giới. Hình ảnh tâm lý là
kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào não người. Không có thế giới bên ngoài
tác động sẽ không có tâm lí và ngược lại.
− Hiện thực khách quan là những cái tồn tại xung quanh chúng ta, bao gồm cả những hiện tượng vật
chất và tinh thần. Con người sống và hoạt động đều luôn chịu sự tác động từ hiện thực khách
quan. Sự tác động ấy tới con người thông qua các cơ quan cảm nhận như : mắt, da, tai, mũi,… rồi
vào não và nhờ các hoạt động của não mà tạo nên hình ảnh tâm lí.
− Tâm lí, ý thức là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của vật chất, là chức năng của não.
− Không có bộ não hoặc bộ não phát triển không bình thường thì con người không thể phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan.
 Tâm lí không phải tự sinh ra, mà là từ cái bên ngoài chuyển vào trong, có nguồn gốc từ bên ngoài.
Tâm lí chỉ phản ánh những gì con người tiếp xúc và cảm nhận. Nói cách khác, tâm lí chính là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan trong não người.
− Song, hình ảnh tâm lí có tính sinh động chứ không máy móc, chết cứng. Sự phản ánh tâm lí luôn
mang tính tích cực, sáng tạo. Trong quá trình phản ánh, kinh nghiệm, vốn sống, nhu cầu, tình cảm,
… đã được hình thành trước đó luôn chi phối, ảnh hưởng, làm cho các hình ảnh tâm lí mang đậm
màu sắc chủ quan.


 Tâm lí mang tính chủ thể
− Khi phản ánh thế giới bên ngoài, các hình ảnh tâm lí luôn mang theo các dấu vết riêng, đặc tính

riêng của người phản ánh, nghĩa là hình ảnh tâm lí là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan.
Tâm lí mang đậm màu sắc cá nhân. Đó chính là tính chủ thể của sự phản ánh tâm lí.
− Tính chủ thể trong phản ánh tâm lí thể hiện ở các đặc điểm sau :
+ Cùng phản ánh về một sự vật, hiện tượng khách quan nhưng ở những chủ thể khác nhau sẽ có
những hình ảnh tâm lí với các mức độ, sắc thái khác nhau.
+ Cùng một sự vật, hiện tượng khách quan tác động nhưng vào thời điểm khác nhau, trong những
hoàn cảnh khác nhau hoặc với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau sẽ có sắc thái tâm

lí và mức độ biểu hiện khác nhau ở chủ thể ấy.
+ Chủ thể phản ánh tâm lí là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện rõ nhất các hình ảnh tâm lí
đó.
+ Thông qua các mức độ và sắc thái tâm lí khác nhau mà mỗi chủ thể sẽ có thái độ và phản ứng
khác nhau đối với hiện thực.
 Tính chủ thể của sự phản ánh làm cho tâm lí con người ngoài cái chung luôn có cái khác biệt,
mang bản sắc riêng của mỗi cá nhân.

− Phản ánh tâm lí có tính chủ thể vì :
+ Mỗi người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh, và não bộ.
+ Mỗi người có hoàn cảnh sống, điều kiện giáo dục khác nhau.
+ Mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong hoạt động.
 Tâm lý người mang bản chất xã hội và có tính lịch sử:
Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lý người thể hiện như sau:

− Tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan, bao gồm cả thế giới tự nhiên và xã hội, trong

đó nguồn gốc xã hội là nguồn gốc sâu xa, quyết định chủ yếu. Phần xã hội của thế giới quyết định
tâm lý người thể hiện qua các quan hệ kinh tế xã hội, quan hệ đạo đức, pháp quyền, các mối quan
hệ con người - con người… Các mối quan hệ trên quyết định bản chất tâm lý người.
− Tâm lý người là sản phẩm hoạt động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội.
− Tâm lí người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, tầng lớp, giai cấp, nghề nghiệp,... Tâm lí người
luôn chịu sự chế ước của lịch sử và mang dấu ấn lịch sử. Do vậy, tâm lí người được hình thành,
phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội.
− Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả lĩnh hội tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội loài người, nền văn
hoá xã hội thông qua hoạt động, giao tiếp, trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo.
 Con người là con người của lịch sử, của xã hội. Đồng thời, con người là sản phẩm của một xã hội
nhất định.

 Liên hệ, rút ra ý nghĩa thực tiễn :

− Tâm lý người có nguồn gốc từ thế giới khách quan, vì thế khi ngiên cứu cũng như khi hình
thành cải tạo tâm lý phải nghiên cứu hoàn cảnh con người đó sinh sống và hoạt động.
− Tâm lý người mang tính chất chủ thể, nên trong giáo dục, quản lý con người phải chú ý đến
nguyên tắc sát đối tượng.




Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và giao tiếp để
nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lý người.
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC

I- TƯ DUY
1. Định nghĩa tư duy
− Con người cần mức độ nhận thức cao hơn để tìm ra những thuộc tính bản chất, những mối liên
hệ, quan hệ qua lại có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Quá trình nhận thức đó gọi là tư
duy.
− Khái niệm : Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên
hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà
trước đó ta chưa biết.
2. Đặc điểm của tư duy
− Tính “có vấn đề” của tư duy :
Không phải hoàn cảnh nào cũng gây được tư duy của con người. Muốn kích thích được tư duy
phải đồng thời có hai điều kiện sau :
+ Trước hết phải gặp hoàn cảnh (tình huống) có vấn đề, tức là hoàn cảnh (tình huống) có chứa
đựng một mục đích, vấn đề mới, cần một cách thức giải quyết mới mà những cái cũ mặc dù vẫn
còn cần thiết nhưng không còn đủ sức để giải quyết. Muốn giải quyết vấn đề mới đó phải tìm ra
cách thức giải quyết mới, tức là phải tư duy.
+ Thứ hai, hoàn cảnh có vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm
vụ của cá nhân, tức là cá nhân phải xác định được cái gì (dữ kiện) đã biết, đã cho và cái gì còn

chưa biết, phải tìm, đồng thời phải có nhu cầu (động cơ) tìm kiếm nó. Những dữ kiện quen thuộc
hoặc nằm ngoài tầm hiểu biết của cá nhân thì tư duy cũng không xuất hiện.
− Tính gián tiếp của tư duy :
+ Tư duy phát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng và quy luật giữa chúng nhờ sử dụng công cụ,
phương tiện (đồng hồ, nhiệt kế, máy móc…) và các kết quả nhận thức (như quy tắc, công thức,
quy luật, các phát minh…) của loài người và kinh nghiệm của mỗi cá nhân.
+ Tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện ở chỗ nó được biểu hiện trong ngôn ngữ. Con người luôn
dùng ngôn ngữ để tư duy. Nhờ đặc điểm gián tiếp này mà tư duy đã mở rộng không giới hạn
những khả năng nhận thức của con người.
− Tính trừu tượng và khái quát của tư duy :
+ Tư duy phản ánh cái bản chất nhất, chung cho nhiều sự vật hợp thành một nhóm, một loại, một
phạm trù (khái quát).
+ Đồng thời tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu
hiệu cụ thể, cá biệt, chỉ giữ lại những thuộc tính chung cho nhiểu sự vật, hiện tượng.
Ví dụ : quy luật đàn hồi của kim loại dưới tác động của nhiệt (nóng nở ra lạnh co lại) là chung
cho mọi kim loại chứ không riêng một kim loại nào.
Nhờ có đặc điểm này này mà tư duy cho phép con người không chỉ giải quyết những vấn đề,
nhiệm vụ của hiện tại mà còn cả những nhiệm vụ của tương lai. Khi giải quyết một nhiệm vụ cụ thể
nào đó, con người có thể xếp nó vào một phạm trù, một nhóm nhất định, có thể lựa chọn các khái niệm,
quy tắc, phương pháp tương ứng cần sử dụng trong những trường hợp tương tự, tránh được sự mò
mẫm, thậm chí cả vấp váp, sai lầm.
− Tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ :


+ Tư duy và ngôn ngữ có quan hệ thống nhất với nhau và không thể tách rời được. Tư duy phải sử

dụng ngôn ngữ vì thành phần chủ yếu của quá trình tư duy là những ý nghĩ, những khái niệm,
những tri thức, quy luật… có thể được nói lên, viết ra hoặc nghĩ thầm, có thể dùng một thứ tiếng
nào đó hoặc dùng chữ số, ký hiệu hoặc dùng ngôn ngữ nghệ thuật nhưng đều là những “tín hiệu
của các tín hiệu”, đại diện cho cả một loạt sự vật, hiện tượng, thuộc tính và quan hệ.

+ Nếu không có ngôn ngữ thì các sản phẩm của tư duy sẽ không được chủ thể và người khác tiếp
nhận cũng như chính bản thân quá trình tư duy không thể diễn ra được. Ngược lại, nếu không có
quá trình tư duy (với những sản phẩm của nó) thì ngôn ngữ chỉ là một chuỗi những âm thanh vô
nghĩa, không có nội dung và chẳng khác nào những tín hiệu âm thanh trong giới động vật.
+ Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Tư duy và
ngôn ngữ không đồng nhất với nhau bởi vì đó là những quá trình có nguồn gốc khác nhau, cho
những sản phẩm khác nhau và tuân theo những quy luật khác nhau.
− Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính :
+ Tư duy thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính và trong quá trình tư duy, nhất thiết phải sử dựng tài
liệu của cảm giác, tri giác. Và do vậy, nhận thức cảm tính là một khâu của mối liên hệ trực tiếp
giữa ý nghĩa, tư duy với hiện thực, là cơ sở của những khái quát kinh nghiệm dưới dạng các khái
niệm, quy luật.
+ Ngược lại tư duy và những kết quả của nó có ảnh hưởng đến các quá trình nhận thức cảm tính
(tính lựa chọn, tính ý nghĩa, tính ổn định của tri giác) và các quá trình tâm lý khác.
CHƯƠNG 3. ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM CỦA CÁ NHÂN
I. KHÁI NIỆM TÌNH CẢM
1. Định nghĩa
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự dung cảm của con người đối với những sự vật, hiện tượng có
liên quan tới nhu cầu và động cơ của cá nhân.
Như vậy, tình cảm là một hình thức phản ánh tâm lý mới – phản ánh cảm xúc. Do vậy, cũng như
nhận thức, tính cảm phản ánh hiện thực khách quan cơ bản nhất của con người và mang tính chủ thể
sâu sắc, có bản chất xã hội lịch sử.
Tuy nhiên, so với nhận thức thì tính cảm có những đặc điểm riêng khác với đặc điểm của hoạt
động nhận thức. Những đặc điểm đó là:
− Về phạm vi phản ánh :
+ Nhận thức chủ yếu phản ánh bản thân sự vật, hiện tượng
+ Đời sống tình cảm của cá nhân phản ánh mối quan hệ giữa sự vật hiện tượng với nhu cầu của cá
nhân.
− Về phạm vi phản ánh :
Phạm vi phản ánh của tình cảm có sự lựa chọn: chỉ có sự vật, hiện tượng nào liên quan đến sự

thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu của cá nhân thì mới gây ra đời sống tính cảm.
− Về phương thức phản ánh : Nhận thức phản ánh thế giới bằng hình tượng, biểu tượng, khái
niệm… còn đời sống tình cảm phản ánh thế giới bằng những rung cảm.
2. Những đặc điểm đặc trưng của tình cảm
− Tính nhận thức :
+ Khi có tình cảm nào đó, cá nhân phải nhận thức được đối tượng và nguyên nhân gây nên tâm
lý, những biểu hiện tình cảm của mình.
+ Ba yếu tố nhận thức, rung động và thể hiện xúc cảm tạo nên tình cảm.


− Tính xã hội :

Tình cảm là một hiện tượng tâm lý, đặc trưng của con người, tình cảm mang tính xã hội, thực
hiện chức năng xã hội chứ không phải là phản ứng sinh lý đơn thuần. Tình cảm được hình thành
và phát triển trong môi trường xã hội.
− Tính khái quát : Tình cảm được hình thành từ quá trình tổng hợp hóa, động hình hóa, khái quát
hóa những xúc cảm đồng loại. Trong tất cả các loại tình cảm, cá nhân rung cảm đối với cả một loạt
(hay một phạm trù) các sự vật, hiện tượng chứ không phải từng sự vật, hiện tượng (như xúc cảm)
hay với từng thuộc tính của sự vật hiện tượng (như màu sắc xúc cảm của cảm giác).
− Tính ổn định : Tình cảm luôn mang tính ổn định (tương đối) của cá nhân đối với hiện thực xung
quanh và bản thân chứ không phải phản ứng nhất thời, tình huống. Tình cảm là một trong những
kết cấu ổn định, tiềm tàng của nhân cách; là thuộc tính tâm lý của cá nhân. Tình cảm không phải là
bất biến mà có thể thay đổi trong quá trình hoạt động giao tiếp của cá nhân trong quá trình học tập
và rèn luyện của bản thân.
− Tính chân thực: Tình cảm phản ánh chính xác nội tâm của cá nhân.
Cá nhân hiểu được mình có tình cảm với ai với cái gì (cá nhân không tự lừa dối được mình, chỉ
có thể lừa dối người khác, che dấu tình cảm của mình bằng những “động tác giả” có tính chất ngụy
trang). Đối với cá nhân thì tình cảm không vay cũng mượn được.
− Tính hai mặt (đối cực):
+ Tình cảm của cá nhân có thể gắn liền với sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu, trong hoàn

cảnh này thì những nhu cầu này được thỏa mãn, còn nhu cầu khác bị kìm hãm. Tương ứng với
điều này khi tình cảm hình thành và phát triển trở thành tình cảm đối cực hay hai mặt: ví dụ: vui –
buồn, sướng – khổ, tình yêu – hoài nghi, mến phục – khinh bỉ…
+ Tính hai mặt này không phải bao giờ cũng loại trừ nhau mà có thể chuyển đổi cho nhau, tác động
lẫn nhau trong điều kiện nhất định: đau khổ nhiều nên thương yêu lắm, ngọt bùi nhớ lúc đắng
cay…; đôi khi có sự xen kẽ hoặc nối tiếp nhau tạo nên sự đa dạng của tình cảm con người.
Xuất phát từ tính hai mặt trên của tình cảm, để hình thành tình cảm tích cực thì ngoài việc giáo
dục xây dựng mặt tốt, tích cực, cần phải đi đôi với việc đấu tranh, phê phán mặt xấu, tiêu cực.
II. QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM
1. Quy luật “lây lan”
+ Xúc cảm tình cảm của người này có thể truyền, “lây” sang người khác. Trong xã hội, ta thường
thấy các hiện tượng vui “lây”, buồn “lây”, cảm thông, đồng cảm.
+ Nền tảng của quy luật này là tính xã hội trong tình cảm của con người. Tình cảm của tập thể, tâm
trạng của xã hội được hình thành trên cơ sở quy luật này.
+ Ví dụ : khi gặp một tai họa nào đó, một số người la hét, hoảng sợ chạy tán loạn thì xúc cảm này
của họ sẽ lây lan sang nhiều người khác tạo nên trạng thái hoảng loạn của cộng đồng.
Quy luật này bắt nguồn từ tính xã hội của tình cảm.
2. Quy luật “pha trộn”
+ Hai mặt đối cực của tình cảm có thể cùng xảy ra cùng một lúc, nhưng không loại trừ nhau mà
chúng pha trộn vào nhau : hiện tượng “giận mà thương”, “thương mà giận”, ghen tuông trong tình
yêu,…
+ Những tình cảm phức tạp trái ngược nhau ở con người xuất hiện do sự đa dạng của nhu cầu của
con người, do tính đa diện của bản thân các sự vật, hiện tượng. Quy luật pha trộn phản ánh tính
chất phức tạp, đa dạng và mâu thuẫn có thực trong hiện tượng khách quan.
3. Quy luật “thích ứng”


+ Nếu một xúc cảm, tình cảm nào đó được nhắc đi nhắc lại lặp đi lặp lại nhiều lần một cách không
+
+


+

+

+

+
+

+

+

thay đổi thì cuối cùng cũng sẽ bị suy yếu, bị lắng xuống. Đó là hiện tượng thường gọi là sự “chai
sạn” của tình cảm (“xa thương, gần thường”,…).
Quy luật này được ứng dụng một cách hiệu quả trong giáo dục và trị liệu tâm lý.
Trong cuộc sống thường ngày, để phát triển tình cảm tốt đẹp, mỗi người luôn biết làm mới bản
thân mình. Muốn làm mất đi tính nhút nhát, sợ nguy hiểm phải thường xuyên được rèn luyện, lặp
đi lặp lại những xúc cảm đó.
4. Quy luật “di chuyển”
Trong cuộc sống hàng ngày, có những lúc tình cảm thể hiện quá “linh động”, có khi ta không kịp
làm chủ tình cảm của mình (“giận cá chém thớt”, “ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”…). Đó là
biểu hiện của quy luật “di chuyển” tình cảm từ đối tượng này sang đối tượng khác có liên quan tới
đối tượng gây nên tình cảm trước đó.
Hiểu biết về quy luật này, chúng ta cần chú ý kiểm soát thái độ cảm xúc của mình, làm cho nó
mang tính chọn lọc, một mặt, tránh “vơ đũa cả nắm”, mặt khác tránh tình cảm lây lan, không biên
giới.
5. Quy luật “cảm ứng” (hay “tương phản”)
Trong quá trình hình thành và biểu hiện tình cảm, sự xuất hiện hoặc suy yếu đi của một tình cảm

này có thể làm tăng hoặc giảm đi một tình cảm khác xảy ra đồng thời hoặc tiếp nối nó. Hiện tượng
đó là biểu hiện của quy luật “cảm ứng” (hoặc “tương phản”) trong tình cảm.
Ví dụ : khi chấm bài sau một loạt bài kém, gặp một bài khá giáo viên thấy hài lòng hơn nhiều so
với trường hợp bài khá đó nằm trong một loạt bài khá đã gặp trước đó.
Vận dụng quy luật này, trong văn học nghệ thuật thường xây dựng các tình tiết, tính cách nhân vật
mang tính tương phản để làm hấp dẫn và thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ đạo đức độc giả.
6. Quy luật về sự hình thành tình cảm
Xúc cảm là cơ sở của tình cảm. Tình cảm được hình thành và biểu hiện qua những xúc cảm cùng
loại. Trong quá trình hoạt động để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, có sự vật, hiện tượng là nảy sinh
những xúc cảm cùng loại. Tình cảm được hình thành do quá trình tổng hợp hóa, động hình hóa,
khái quá hóa những xúc cảm cùng loại.
Tình cảm được xây dựng từ những xúc cảm, nhưng khi được hình thành thì tình cảm lại thể hiện
qua các xúc cảm đa dạng và chi phối các xúc cảm. Cùng một tình cảm có thể được hiện thực hóa
trong các cảm xúc khác nhau; tình cảm quy định nội dung và động thái các cảm ứng xúc cảm
mang tính chất tình huống. Ví dụ: mức độ tình cảm “thân”, “sơ” trong tình bạn quyết định phản
ứng cảm xúc trong quan hệ bạn bè.
Tính chất cua tình cảm (đúng, sai; phù hợp với chuẩn mực xã hội hay không phù hợp với chuẩn
mực xã hội…) phụ thuộc rất lớn và tính chất của nhu cầu, nhận thức và thế giới quan của cá nhân.

CHƯƠNG 4. QUÁ TRÌNH Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ
I.
Ý CHÍ
1. Khái niệm ý chí
Ý chí là mặt năng động của ý thức, được thể hiện ở việc đề ra mục đích, phương hướng hành động,
khắc phục khó khăn và điều khiển hành động để đạt được mục đích đề ra.
− Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện cụ thể của ý thức trong thực tiễn. Ý chí
bao gồm cả mặt năng động của trí tuệ, mặt năng động của tình cảm đạo đức, là hình thức điều
khiển, điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con người.



− Ý chí là sức mạnh tinh thần, là mặt điều chỉnh của ý thức, giúp con người làm thay đổi, điều chỉnh

hành động cho hợp với mục đích đề ra.
− Ý chí là một cơ chế khởi động và ức chế đặc biệt của hành động, thể hiện năng lực điều khiển
hành động của cá nhân. Ý chí giúp cá nhân điều chỉnh hành vi một cách chủ động, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài.
2. Chức năng của ý chí
− Chức năng kích thích, thúc đẩy hành động
+ Chức năng này đem lại tính tích cực cho chủ thể, làm cho con người có thể vượt qua được mọi
khó khăn, trở ngại để đạt được ý muốn, mục đích đã định.
+ Chức năng kích thích thúc đẩy hành động thể hiện khả năng cải tạo thế giới của con người, làm
cho hành động của con người khác hẳn về chất so với khả năng thích nghi với môi trường của
động vật.
− Chức năng kìm hãm hành động
+ Đây là khả năng tự làm ức chế, tắt dần hành động, khả năng ngừng lại, khước từ một vấn đề nào
đó khi cần thiết. Đó có thể là sự kìm hãm những thói quen, những ham muốn… không phù hợp
với chuẩn mực xã hội.
+ Chức năng kìm hãm hành động thể hiện tính chịu đựng, tính kỉ luật và tính mục đích trong hành
động của cá nhân.
3. Các phẩm chất của ý chí
Trong quá trình thực hiện các hành động có ý chí, những phẩm chất ý chí đặc trưng cho cá nhân
của con người được hình thành. Những phẩm chất ý chí làm cho con người trở nên tích cực hơn,
hay kìm hãm hành động của mình khi cần thiết. Dưới đây là một số phẩm chất ý chí cơ bản của
nhân cách.
a. Tính mục đích
− Là phẩm chất đặc biệt quan trọng của ý chí, cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào
mục đích tự giác.
− Tính mục đích càng cao thì càng có khả năng giúp cho cá nhân huy động sức mạnh vật chất và
tinh thần để vượt khó, nhằm thực hiện được mục đích cuối cùng.
− Tính mục đích của ý chí phụ thuộc vào thế giới quan, vào nội dung đạo đức và tính giai cấp của

nhân cách mang ý chí. Bởi vậy, khi đánh giá ý chí của một người, không chỉ xem xét ý chí của
họ cao hay thấp mà còn phải đánh giá tính mục đích – nội dung đạo đức trong ý chí của họ nữa.
− Người cán bộ CA có tính mục đích cao phải là người luôn đấu tranh vì lí tưởng cộng sản chủ
nghĩa, vì sự nghiệp bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH, có hoài bão, đóng góp phần công sức
của mình cho ngành công an. Có tính mục đích cao thì mới kiên định, nâng cao được nhiệt tình
và tinh thần trách nhiệm, tập trung được sức lực và tài năng, suy nghĩa và hành động sáng tạo
trong mọi lĩnh vực công tác, góp phần đảm bảo ANQG và giữ gìn TTATXH.
b. Tính độc lập – tự chủ
− Tính độc lập, tự chủ là phẩm chất ý chí của con người biết chủ động điều khiển và điều chỉnh mọi
ý chí, tình cảm, thái độ và hành động của mình, nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Đó là khả năng
làm chủ được bản thân.
− Tính độc lập tự chủ giúp cá nhân có khả năng tự phê phán, tránh được các hành động bộc phát,
thiếu suy nghĩ, duy trì được sự kiểm soát đầy đủ với hành vi của mình.
− Người có tính độc lập, tự chủ thì :
+ Luôn biết lắng nghe ý kiến của người khác nhưng không tin một cách mù quáng, không ỷ lại,
dựa dẫm vào người khác.


+ Dám chịu trách nhiệm về lời nói và việc làm của mình, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, khó khăn,

có thể kiềm chế được những nhu cầu không phù hợp của cá nhân, những hành động bộc phát để
đạt được mục đích đề ra.
+ Độc lập tự chủ không có nghĩa là độc đoán, bảo thủ, cái gì cũng cho mình là đúng, cự tuyệt ý
kiến của người khác.
− Người CBCA thường phải chiến đấu, công tác trong những hoàn cảnh độc lập, thầm lặng và phức
tạp. Điều đó đòi hỏi mỗi người phải xây dựng cho mình một tính độc lập, tự chủ thì mới có thể
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phải không ngừng nâng cao giác ngộ chính trị, trau dồi phẩm chất đạo
đức và năng lực chuyên môn, tuyệt đối tin tưởng đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, phải
luôn rèn luyện ý thức tổ chức kỉ luật và tự giác.
c. Tính quyết đoán

− Tính quyết đoán là phẩm chất ý chí của con người biết hành động một cách kiên quyết, kịp thời.
Trong hoàn cảnh khẩn trương, phức tạp, người có tính quyết đoán thường suy nghĩ nhanh chóng
và quyết định một cách kịp thời, không chần chừ, do dự.
− Trong hoạt động CA, Bác Hồ đã dạy : “Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo.” Người CBCA
có thể gặp nhiều tình huống khẩn trương, cấp bách đỏi hỏi phải nhanh chóng quyết định, mau lẹ
tìm ra biện pháp giải quyết kịp thời. Tính quyết đoán giúp mỗi CSCA thực hiện tốt các nhiệm vụ
được giao, xử lí chính xác và khôn khéo các tình huống nảy sinh trong chiến đấu. Nếu thiếu tính
quyết đoán sẽ bỏ mất thời cơ và thậm chí làm hỏng việc.
d. Tính kiên trì
− Kiên trì là phẩm chất ý chí của con người, thể hiện ở việc luôn luôn theo đuổi và quyết tâm thực
hiện cho được mục đích đã đề ra. Người có tính kiên trì không sợ khó khăn, gian khổ, có khả năng
chịu đựng, vượt qua thử thách để đạt được mục đích đã đề ra.
− Bác Hồ dạy: Trái với tính kiên trì là tính hấp tấp, nôn nóng, nản chí khi gặp khó khăn dễ bỏ dở.
e. Tính dũng cảm
− Tính dũng cảm thường được thể hiện trong các hành động có nhiều khó khăn, phức tạp. Đây là
phẩm chất ý chí của con người sẵn sàng lao vào khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiện vụ.
− Trong hoạt động của mình, tính dũng cảm là phẩm chất không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, chiến
sỹ công an. Người có tính dũng cảm không sợ tính mạng bị uy hiếp, hạnh phúc bị đe dọa, quyết
tâm thực hiện hành động đến cùng. Dũng cảm có liên hệ mật thiết với tính mục đích, tính độc lập
tự chủ, quyết đoán.
− Tính dũng cảm không phải tự nhiên mà có, nó chỉ được hình thành, phát triển và cũng cố được rèn
luyện và thử thách trong thực tiễn hoạt động lao động, công tác và chiến đấu của mỗi người.
f. Tính kỷ luật
− Tính kỷ luật là một phẩm chất của ý chí được hình thành trong quá trình hoạt động và giáo dục.
Tính kỷ luật cho phép con người tuân thủ theo các chuẩn mực, các quy định của xã hội và của tập
thể.
− Người công an có tính kỷ luật là người biết tôn trọng tập thể, biết đặt lợi ích của xã hội, tập thể
lên trên lợi ích cá nhân. Đó là những người có tính nghiêm khắc, biết đặt ra các yêu cầu cao đối
với bản thân. Họ luôn tôn trọng trong các quy định, chế độ công tác, nghiêm chỉnh thực hiện điều
lệnh của ngành. Tính kỷ luật tạo ra cho tập thể một kỷ cương, một sức mạnh dựa trên sự tự giác

hành động theo chuẩn mực đã quy định.
− Trái với tính kỷ luật là sự tự do, tùy tiện, vô tổ chức thể hiện trong lời nói. hành vi, cử chỉ của cá
nhân.


CHƯƠNG 5. NHÂN CÁCH
I.
KHÁI NIỆM NHÂN CÁCH
1. Định nghĩa nhân cách
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân quy định bản sắc và
giá trị xã hội của con người.
− Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý tương đối ổn định bền vững, biểu hiện bản sắc và
giá trị xã hội của cá nhân. Nhân cách cũng không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ
mà gồm tổng thể những đặc điểm tâm lý đặc trưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, làm thành một
hệ thống một cấu trúc nhất định. Do đó, không phải con người sinh ra đã có nhân cách. Nhân
cách được hình thành dần dần trong quá trình tham gia các mối quan hệ của con người.
− Bản sắc là nói đến tính độc đáo của nhân cách. Nhân cách là cái không lặp lại trong không gian
và thời gian, là cái riêng, cái đặc thù của cá nhân. Nhân cách quy định bản sắc, cái riêng của cá
nhân trong sự thống nhất biện chứng với cái chung, cái phổ biến của cộng đồng mà cá nhân đó là
đại biểu.
− Giá trị xã hội là tổng hợp các thuộc tính tâm lý thể hiện ra ở những hành vi trong công việc,
trong ứng xử…của người ấy và được xã hội đánh giá là có giá trị hay không, cao hay thấp, tích
cực hay tiêu cực, tốt hay xấu…
2. Đặc điểm của nhân cách
− Tính thống nhất của nhân cách :
Nhân cách là một cấu trúc tâm lý, tức là một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính, đặc điểm tâm
lý, trong đó các thuộc tính, đặc điểm có mối quan hệ chặt chẽ, làm cho nhân cách mang tính trọn
vẹn. Vì vậy, khi nói về một phẩm chất, một đặc điểm nào đó của nhân cách là phải đặt trong mối
quan hệ, trong sự kết hợp những thuộc tính, phẩm chất tâm lý khác ở con người đó.
− Tính ổn định của nhân cách :

Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của con người. Những thuộc tính này có tính chất
tương đối ổn định và bền vững, vì thế các thuộc tính của nhân cách cũng như cấu trúc nhân cách
khó hình thành và cũng khó mất đi. Nhờ có tính ổn định này chúng ta mới có thể dự kiến trước
được hành vi của một nhân cách nào đó trong các tình huống, hoàn cảnh nhất định.
− Tính tích cực của nhân cách :
 Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm của xã hội, vì thế nhân cách có tính
tích cực.
 Tính tích cực của nhân cách được thể hiện ở :
+ Những hoạt động đa dạng của cá nhân nhằm biến đổi, cải tạo thế giới và bản thân.
+ Không chỉ thỏa mãn với các đối tượng sẵn có, con người luôn sáng tạo ra các đối tượng và
phương pháp thức thỏa mãn mới những nhu cầu ngày càng cao của họ.
− Tính giao tiếp (giao lưu) của nhân cách :
Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển và tồn tại trong hoạt động và mối quan hệ giao lưu
với các nhân cách khác. Cũng trong quá trình ấy, con người còn đóng góp các giá trị nhân cách
của mình cho người khác, cho xã hội.
II.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN
CÁCH
 Yếu tố thể chất
 Hoàn cảnh sống


 Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của giáo dục là quá trình tác động làm ảnh
hưởng một cách tự giác, chủ động đến con người đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức,
nhân cách.
Hiểu theo nghĩa rộng giáo dục là toàn bộ những tác động của gia đình, nhà trường, xã hội bao
gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác đến con người.
Theo nghĩa hẹp thì giáo dục có thể xem như quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức, hành vi
của con người…

a. Khái niệm
Giáo dục là quá trình tác động có mục đích của XH nhằm hình thành, phát triển những phẩm chất
nhân cách con người theo những yêu cầu của XH trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
− Giáo dục là sự tác động của môi trường mang tính tự giác đến cá nhân
− Giáo dục được tổ chức có mục đích,có nội dung kế hoạch,sử dụng những phương tiện, biện pháp,
kế hoạch, nội dung tác động vào cá nhân cụ thể.
b. Vai trò
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển tâm lí cá nhân.
− Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách.
− Giáo dục có thể tổ chức, dẫn dắt đưa con người vào vùng “phát triển gần”, vươn tới những mục
tiêu, những cái mà thế hệ trẻ sẽ có, tạo cho thế hệ trẻ một sự phát triển nhanh, mạnh hướng về
tương lai.
− Giáo dục phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố chi phối sự hình thành, phát triển nhân
cách (yếu tố thể chất, hoàn cảnh sống,..) đồng thời có thể bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các
yếu tố đó gây ra.
− Giáo dục có khả năng uốn nắn những đặc điểm tâm lý tiêu cực so với chuẩn mực do tác động
của môi trường hoặc giáo dục lệch lạc đem lại làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong
muốn của XH.
 Chú ý :
− Tuy giáo dục giữ vao trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách, song không nên
tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục .
− Giáo dục không phải là vạn năng, quá trình giáo dục không tách rời với quá trình tự giáo dục, tự
rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách của cá nhân.
− Đối với LL CAND, cần chú ý giáo dục CBCS có nguyện vọng và hoài bão tích cực, luôn luôn
yêu cầu cao đối với CBCS và chính bản thân mình, góp phần tạo nên sự tiến bộ về nhận thức,
tình cảm, năng lực, phẩm chất của người CSCA.
 Hoạt động của cá nhân
a. Khái niệm
Hoạt động là quá trình tác động tích cực của chủ thể vào hiện thực tạo ra sản phẩm về cả hai
phía.

Trong quá trình tác động cùng một lúc con người đạt được hai kết quả :
+ Một mặt cải tạo thế giới khách quan, làm ra những sản phẩm cần thiết cho XH.
+ Một mặt, qua hoạt động con người nhận thức được quy luật, thuộc tính của sự vật… hình
thành tâm lý, phát triển nhân cách của chính mình.
Trong hoạt động, tâm lý không những được biểu hiện mà còn được hình thành, một trong những
dạng hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển và hình thành nhân cách là giao tiếp.
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về
thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau.


b. Vai trò
− Giao tiếp và hoạt động là hai mặt không thể thiếu của cuộc sống, có ý nghĩa quyết định trực

tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
− Tâm lí là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp.
− Mọi tác động tự phát và tự giác của xã hội tới cá nhân sẽ trở nên vô nghĩa nếu cá nhân không
hưởng ứng, không tích cực tiếp nhận và tham gia vào hoạt động. Bởi vậy, hoạt động và giao
tiếp của cá nhân là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Đó
là một biểu hiện của quy luật tự thân vận động, về động lực bên trong của sự phát triển.
− Khi cá nhân ý thức được ý nghĩa của hoạt động và giao tiếp trong sự hình thành phát triển
nhân cách thì hoạt động đó trở thành hoạt động tự giáo dục, tự rèn luyện, học hỏi.
 Hoạt động tự giác, tự giáo dục, tự rèn luyện là nhân tố quyết định trực tiếp đến sự hình
thành nhân cách. Với ý nghĩa đó, không thể có hai con người, hai cá nhân cùng một môi
trường, một hoàn cảnh giống hệt nhau.
− Hoàn cảnh chỉ trở thành nhân tố tác động ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách khi được cá
nhân tích cực tiếp thu.
VD : Trẻ sinh đôi cùng trứng, sống trong cùng môi trường, điều kiện như nhau nhưng nhân cách
có khi khác hẳn nhau.
CHƯƠNG VI. KĨ NĂNG GIAO TIẾP


I.
GIAO TIẾP
1. Khái niệm
Vấn đề giao tiếp hiện nay đang được rất nhiều người quan tâm vì đây là yếu tố có vai trò rất
quan trọng trong đời sống tâm lí cá nhân và xã hội. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về giao
tiếp, tuy nhiên khái niệm chung nhất về giao tiếp đã được tác giả Nguyễn Quan Uẩn đưa ra :
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau
về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau.
2. Đặc điểm
− Nói tới giao tiếp là nói tới sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người.
+ Giao tiếp không chỉ đơn giản là sự liên hệ giữa người với ngườimà là quá trình tiếp xúc tâm lý
giữa người với người.
+ Nội dung, hiêu quả của giao tiếp phụ thuộc vào nhiều yếu tố tâm lý mà các cá nhân tham gia quá
trình tâm lý đang có và đang chịu ảnh hưởng bởi các hiện tượng tâm lý xảy ra trong quá trình
giao tiếp, như các hiện tượng tâm lý nhóm.
+ Qua giao tiếp, con người hiểu hơn về mình và đồng thời cũng tăng cương sự hiểu biết lẫn nhau
giữa các chủ thể giao tiếp.
− Giao tiếp là sự chia sẻ thông tin, tư tưởng, tình cảm.
+ Giao tiếp là sự trao đổi, tiếp nhận thông tin, tư tưởng, tình cảm của các đối tượng tham gia quá
trình giao tiếp. Nhờ quá trình trao đổi thông tin mà người này hiểu người kia và ngược lại.
+ Sự hiểu biết lẫn nhau giúp con người xích lại gần nhau hơn, giúp đỡ, yêu thương nhau.
+ Hiệu quả của giao tiếp chịu ảnh hưởng của sự truyền thông tin của người gửi và sự tiếp nhận
thông tin ,tư tưởng tình cảm của người nhận.
− Thông quan giao tiếp, con người có sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
Quá trình chia sẻ, tiếp nhận thông tin,tư tưởng,tình cảm lẫn nhau của các đối tượng trong quá trình giao
tiếp đã diễn ra sự thay đổi tình cảm, nhận thức, thái độ, hành vi của cá nhân trong quá trình giao tiếp.


3. Vai trò của giao tiếp
 Vai trò của giao tiếp đối với cá nhân

− Giao tiếp là điều kiện để tâm lý, nhân cách của cá nhân được phát triển bình thường.
+ Con người tham gia, gia nhập vào các mối quan hệ với người khác, với XH thông qua giao tiếp

và bằng giao tiếp.
+ Đối với con người giao tiếp vừa là nhu cầu, vừa là điều kiện có ý nghĩa to lớn trong quá trình
hình thành nhân cách.
+ Trong quá trình giao tiếp, con người mới có thể tiếp thu được tri thức kinh nghiệm của XH, của
lịch sử loài người từ đó biến thành những kinh nghiệm của bản thân, trên cơ sở đó hình thành
tâm lý, nhân cách của bản thân.
+ Cuộc sống của con người hoàn thiện hay không phụ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ
giao tiếp giữa cá nhân đó với những người xung quanh, con người không tham gia vào mối quan
hệ giao tiếp trong XH loài người thì không thể hình thành nhân cách, tâm lý được.
− Trong quá trình giao tiếp,các phẩm chất nhân cách của con người được hình thành và phát triển.
+ Trong quá trình giao tiếp,chúng ta tiếp xúc với những người xung quanh, nhận thức được các
chuẩn mực XH, các quy định của pháp luật,… Do đó, những phẩm chất nhân cách của con
người được hình thành chủ yếu trong hoạt động giao tiếp của con người.
+ Trong quá trình giao tiếp với người khác, con người có dịp quan sát, ghi nhận các phản ứng, các
thái độ phản hồi của người khác, nhờ đó mà con người tự tìm hiểu, nhìn nhận, đánh giá mình
một cách sinh động, chân thực, khách quan.
+ Nhờ quá trình giao tiếp mà con người thu nhận, trải nghiệm được sự hiểu biết, các kỹ năng,
nhận thức được người khác, có thái độ đối với người khác,… đồng thời thể hiện bản thân, từ đó
hình dung rõ nét chính mình về các mặt chân, thiện, mỹ về trí tuệ, nhân cách của mình
+ Giao tiếp giúp con người tin ở hệ thống những giá trị mà họ noi theo, những nguyên mẫu mà họ
muốn hướng tới.
− Giao tiếp thỏa mãn những nhu cầu của con người.
+ Thỏa mãn những nhu cầu về thông tin,nhu cầu được người khác thừa nhận giá trị của mình, nhu
cầu được yêu thương, nhu cần an toàn,…
+ Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu XH cơ bản xuất hiện sớm nhất ở con người. Nếu không được giao
tiếp với con người, không được nuôi dưỡng thì đứa trẻ không tồn tại được, càng không thể phát
triển tâm lý được.

+ Sự không thỏa mãn những nhu cầu giao tiếp sẽ gây nên ở con người những trải nghiệm về sự
tiêu cực, lo âu.
 Vai trò của giao tiếp trong đời sống XH
Giao tiếp đóng vai trò là cầu nối giữa con người với nhau trong XH,con người trở nên gần gũi nhau
hơn qua việc trao đổi ,trò chuyện với nhau; tức là thông qua giao tiếp và bằng giao tiếp,các mối quan
hệ của con người được hình thành và phát triển.
 Vai trò của giao tiếp trong công tác thư ký văn phòng
− Hoạt đông giao tiếp có vai trò là cầu nối quan trọng giữa người làm công tác thư ký,văn phòng với
lãnh đạo, với các cơ quan tổ chức tương đương. Một người làm công tác văn phòng muốn hoàn
thành nhiệm vụ, trả lời công văn hay điện thoại hay thư tín,… đều là hình thức khác nhau của giao
tiếp.
− Để thành công trong công việc, người làm công tác văn phòng phải giỏi trong hoạt động giao tiếp,
có những kỹ năng giao tiếp tốt và không ngừng thường xuyên rèn luyện kỹ năng nay.
II.
CÁC NGUYÊN TẮC GIAO TIẾP


Nguyên tắc giao tiếp là hệ thống chỉ đạo, định hướng thái độ, hành vi ứng xử, giao tiếp đồng thời chỉ
đạo việc lựa chọn các phương pháp, phương tiện giao tiếp.
Không có nguyên tắc giao tiếp bất biến cho từng cá nhân trong quá trình giao tiếp, mà tùy trường hợp,
khả năng, sự trải nghiệm của chủ thể mà cá nhân vận dụng các nguyên tắc cụ thể.
 Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp
− Tôn trong nhân cách đối tượng giao tiếp là sự tôn trọng, thừa nhận, những đặc điểm tâm, sinh lý,
phẩm chất nhân cách của đối tượng giao tiếp.
− Trong giao tiếp cá nhân nên thừa nhận, tôn trọng những gì mà đối tượng giao tiếp có. Cá nhân
không nên coi thường những đặc điểm tâm, sinh lý cũng như năng lực của đối tượng giao tiếp,
mặc dù đối tượng giao tiếp có những khuyết điểm về mặt phẩm chất đạo đức, hạn chế về năng lực,
khuyết tật về thể lực.
 Bình đăng trong giao tiếp
− Bình đẳng trong giao tiếp thể hiện các chủ thể tham gia giao tiếp đều có quyền đưa ra ý kiến,

quan điểm của mình, các ý kiến đó đều được ghi nhận.
− Trong giao tiếp cá nhân cần lắng nghe ý kiến, quan điểm của người khác và cá nhân cần ghi
nhận ý kiến, quan điểm của người khác cũng như tạo điều kiện, cơ hội để người khác thể hiện
quan điểm, ý kiến của họ.
 Thiện chí trong giao tiếp
− Thiện chí trong giao tiếp là việc :
+ Cá nhân thể hiện sự tin tưởng của mình đối với đối tượng giao tiếp.
+ Nhìn nhận những mặt tích cực của đối tượng giao tiếp.
+ Chỉ ra tương lai tốt đẹp cho đối tượng giao tiếp.
+ Mong muốn đem lại niềm vui cho đối tượng giao tiếp bằng việc giúp đỡ, tạo điều kiện thuận
lợi, động viên, khuyến khích họ làm việc, học tập.
− Trong giao tiếp không nên đánh giá đối tượng giao tiếp trên những điểm hạn chế của họ. Đặc
biệt không nên bịt kín con đường phát triển của họ.
 Đảm bảo lợi ích của đối tượng giao tiếp
− Đảm bảo lợi ích của đối tượng giao tiếp là việc cá nhân cần đáp ứng những nhu cầu của đối
tượng giao tiếp, đảm bảo sự thỏa mãn nhu cầu của đối tượng giao tiếp.
− Trong quá trình giao tiếp cá nhân cần đánh giá được nhu cầu của đới tượng giao tiếp trong
những thời điểm nhất định để kịp thời đưa ra phương thức đáp ứng nhu cầu của đối tượng, đem
lại lợi ích thiết thực cho đối tượng giao tiếp.



×