Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TL môn quan ly tai chinh cong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.35 KB, 14 trang )

Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

LỜI MỞ ĐẦU
Dù là công khai hay ngấm ngầm thì cũng đã có không ít những vụ phá sản
tầm cỡ quốc gia diễn ra trong suốt thời kỳ thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế.
Có rất nhiều lý do dẫn tới cuộc khủng hoảng toàn cầu này nhưng trong đó phải
kể đến tình trạng nợ công tràn lan ở nhiều nước. Nợ công khó kiểm soát ở nhiều
quốc gia chính là nguyên nhân khiến nền kinh tế phục hồi rất chậm chạp, mong
manh và đứng trước nguy cơ tiếp tục khủng hoảng. Bất kể từ nước giàu có nhất
thế giới như Mỹ, hay Nhật Bản cho tới những quốc gia phát triển ở châu Âu như
Đức, Pháp, Hy Lạp, Tây Ban Nha,… hay Trung Quốc “chủ nợ lớn nhất của Mỹ
và các quốc gia”, tất cả các “đại gia” này đều đang mắc một khoản nợ công
không hề nhỏ.
Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và hội nhập cũng không tránh khỏi
tình trạng trên. Trong khi tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thông qua chi tiêu để
dành của quốc gia liên tục giảm thì nợ công liên tục tăng, nguồn để đầu tư tăng
và ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Và đáng lo ngại hơn cả là vay nợ
nhưng làm ăn kém hiệu quả và khả năng trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Điều
đó càng khiến nợ công ở Việt Nam tăng cao và tiến tới mức nguy hiểm. Nợ công
đang làm nóng nghị trường Quốc hội, mà trong đó gây tranh cãi nhiều nhất là
quy mô, tính an toàn và tài trợ nợ công. Vì vậy em quyết định chọn đề tài “Nợ
công Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp” để chúng ta phần nào hiểu
rõ hơn thực trạng nợ Chính phủ Việt Nam những năm qua. Bên cạnh đó là một
số đề xuất giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng này.


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà



PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG
1.1. Khái niệm
Nợ Chính phủ (hay còn gọi là nợ công hay nợ quốc gia) là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương tới địa phương đi
vay.Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước
và thường được đo lường bằng phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội GDP.
1.2.Phân loại
- Theo nguồn gốc:
+ Nợ trong nước: Là các khoản vay từ người cho vay trong nước
+ Nợ nước ngoài: Là các khoản vay từ người cho vay nước ngoài
- Theo thời hạn khoản nợ:
+ Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ có kì hạn dưới 1 năm
+ Nợ trung hạn: Là các khoản nợ có kì hạn từ 1 năm đến 10 năm
+ Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có kì hạn trên 10 năm
1.3.Các hình thức vay nợ của Chính phủ
- Phát hành trái phiếu Chính phủ:
Trái phiếu phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tíndụng vì
Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốclẫn lãi khi
đáo hạn.
Trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ có rủi ro tín dụng cao hơnvì Chính phủ
có thể không đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro vềtỷ giá hối
đoái khi đến thời hạn thanh toán.
- Vay trực tiếp:
Vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại hay các thể chếsiêu quốc
gia như Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, …
Hình thức này có độ tin cậy tín dụng thấp do đó khả năng vaynợ bằng
hình thức phát hành trái phiếu không cao.
1.4.Tính nợ Chính phủ



Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

Nợ Chính phủ thường được tính toán đo lường bằng phần trăm so với
GDP. Nợ thường được tính tại từng thời kỳ, giai đoạn. Khi tính toán nợ
Chính phủ ta thường hay vấp phải một số vấn đề sau:
- Lạm phát:
Thâm hụt ngân sách thường không điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát
trong tính toán, vì trong chi tiêu Chính phủ các khoản trả lãi vay theo lãi suất
danh nghĩa trong khi đáng lẽ nên tính theo lãi suất thực tế ( Lãi suất danh
nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng tỷ lệ lạm phát). Trong những thời kỳ lạm phát
cao vànợ Chính phủ lớn thì ảnh hưởng của lạm phát là rất lớn tới nợ công.
- Tài sản đầu tư:
Các nhà kinh tế cho rằng nên trừ tổng tài sản của tài sản Chính phủ trong
tính toán nợ Chính phủ. Tuy nhiên, tính toán theo cách này sẽ gặp phải vấn đề
những gì nên coi là tài sản của Chính phủ và tính toán giá trị của chúng như
thếnào.
- Các khoản nợ tiềm tàng (Nợ ngầm)
Các khoản chi trả trợ cấp cho hưu trí, bảo hiểm xã hội, … hay các khoản
Chính phủ đứng ra bảo đảm cho các khoản vay mà trong tương lai không có khả
năng thanh toán cũng cần được tính vào nợ Chính phủ, bởi lẽ rốt cuộc đó cũng
là tiền do Chính phủ phải chi ra.
1.5.Tác động của nợ Chính phủ
- Tính trung lập của nợ Chính phủ:
Quan điểm truyền thống cho rằng cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ
Chính phủ kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu
dùng làm tăng giảm) và thu nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn.
Quan điểm Barro-Ricardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù

đắp bằng nợ Chính phủ không kích thích chi tiêu cả trong ngắn hạn vì các cá
nhân dự tính rằng, hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp
thâm hụt, thì đến một thời điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có
tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc). Do đó, người


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

ta tiết kiệm hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và
dịch vụ sẽ lên giá. Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát
từ hành vi của người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi
của người tiêu dùng.
- Về hiệu suất của tác động nợ Chính phủ tới sự tăng trưởng của nền kinh tế:
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài
hạn một khoản nợ Chính phủ lớn làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm
năng chậm lại


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

PHẦN 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng nợ công tại Việt Nam
2.1.1. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2008-2010:
Tại Việt Nam, tình trạng nợ công liên tục tăng làm cho yêu cầu nâng cao
chất lượng quản lý nợ công của Việt Nam cũng trở nên cấp thiết. TheoWorld
Factbook nợ công của Việt Nam năm 2008 là khoảng 38% GDP, nhưng đến

năm 2009 đã tăng nhanh lên mức 52,3% GDP. Còn theo Bộ Tài chính thì
nợ công tại Việt Nam năm 2009 chỉ ở mức 39% GDP. Và trong năm 2010 thì
nợ công đã lên tới 56,7% GDP. Ủy ban Pháp luật Quốc hội công bố khoản nợ
công tại Việt Nam vào khoảng 42% GDP. Trong khi đó, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội lại đưa ra kết luận rằng nợ Chính phủ đang tăng cao: từ 33,8% GDP
năm 2007 lên 36,2% GDP năm 2008, 41,9% năm 2009 và lên 44,6% năm 2010,
kèm theo đó là lời cảnh báo nợ Chính phủ đã tăng sát mức trần cho phép.Với
cách tính nợ công của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc
(UNCTAD) được nhiều nước trên thế giới sử dụng thì nợ công còn bao gồm cả
nợ của doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế tự vay tự trả, nợ của công ty cổ phần
tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp của Nhà nước, quỹ bảo hiểm xã hội mà Nhà
nước sử dụng để mua trái phiếu hay đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm
quốc gia. Mà theo vậy thì nợ công của Việt Nam phải lên tới trên 72% GDP, bởi
đến hết năm 2008, tổng dư nợ của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã là
20% GDP, chưa kể đó là những con số thống kê chưa đầy đủ, rõ ràng. Minh
chứng điển hình là trường hợp Vinashin có tổng số dư nợ thực tế lên tới 120.000
tỷ đồng chứ không phải 86.000 tỷ như đã báo cáo. Theo số liệu của Tạp chí kinh
tế The Economist thì tổng nợ công của Việt Nam lúc đó là 50,935 tỷUSD, tương
đương 51,6% GDP.
Như vậy là chỉ riêng việc tính toán nợ công cũng đã gây ra những bất cập.
Điều đó cho thấy sự thiếu thống nhất trong đánh giá, thống kê và thiếu chặt chẽ,
liên kết giữa các cơ quan quản lý vấn đề này. Tuy mỗi con số phản ánh một cái


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

nhìn khác nhau về một vấn đề được xem là “sức khỏe của một nền kinh tế”
nhưng nó đều cho thấy rằng quy mô nợ công tại Việt Nam đang ngày càng lớn.

Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001
mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số *
Đại học Ngoại thương nợ công xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010,
nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP. Như vậy, trong
vòng 10 năm từ 2001 đến nay, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ
tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Tình hình nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2001-2010

Nguồn: The Economist Intelligence Uni
2.1.2. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2010 đến nay:


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

Số liệu này cho thấy nợ công của Việt Nam hiện đang gia tăng khá nhanh.
Sau 2 năm con số nợ công của Việt Nam đã tăng 16,1 tỉ USD. Nếu tính mốc từ
năm 2010, sau 6 năm, con số nợ công của Việt Nam đã tăng thêm 49,4 tỉ USD
từ 45,39 tỉ USD (năm 2010).
Theo đồng hồ nợ công thế giới, tốc độ gia tăng nợ công thời điểm
18.3.2016 đạt 9,3%, thấp hơn tốc độ gia tăng của năm 2015 và các năm về
trước.
Trước đó, tại Báo cáo đánh giá bổ sung tình hình thực hiện Ngân sách Nhà nước
năm 2015 tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Tài chính cho biết,
tính đến ngày 31.12.2015, số nợ công của Việt Nam đã ở mức 62,2%. Trong đó,
nợ Chính phủ ở mức 50,3% (vượt giới hạn cho phép là 0,3% GDP), nợ nước
ngoài của quốc gia ở mức 43,1% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ
ở mức 16,0% tổng thu ngân sách nhà nước.
Vào tháng 7 năm ngoái, Ngân hàng Thế giới (WB) lại đưa ra con số nợ

công của Việt Nam năm 2014 đã là 110 tỉ USD (tương đương khoảng 2,35 triệu
tỉ đồng). Tức mỗi người dân Việt Nam gánh khoảng 1.200 USD/người. Trong
đó, nợ của Chính phủ dành cho các mục đích đầu tư từ các tổ chức quốc tế, các
chính phủ là 79,6%; nợ của các doanh nghiệp, tập đoàn Nhà nước (do Chính phủ
bảo lãnh) khoảng 19% và nợ của chính quyền địa phương là 1,4%.
2.2 . Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ công hiện nay ở Việt Nam
Nợ công hiện nay ở Việt Nam có thể xuất phát từ một số nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
- Nguồn thu giảm sút là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng thâm hụt
ngân sách và gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Việt Nam
là nhân tố làm giảm nguồn thu ngân sách. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế
giới (WB), kinh tế không chính thức ở Việt Nam ở mức 15,6% GDP so với
13,1% GDP của Trung Quốc và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản. Hệ thống
thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và
thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

và kinh tế ngầm phát triển ở Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước có
tỷlệ tham nhũng cao. Không chỉ có công nhân viên chức không chịu nộp thuế,
mà việc nhận tiền hối lộ còn khá phổ biến từ Trung ương đến địa phương.
- Do sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng
nguồn vốn không hiệu quả: Chính phủ gia tăng huy động vốn trong từ bên ngoài
như vay nước ngoài, phát hành trái phiếu chính phủ…. Việc chính phủ đã chi
tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các
kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ ngày càng tăng.
- Khi nhắc đến nợ công, người ta còn phải tính đến các khoản do chính

quyền địa phương hoặc doanh nghiệp đi vay dưới sự bảo lãnh của Chính phủ.
Theo ước tính, khoản vay của doanh nghiệp hiện chiếm khoảng 10% tổng dư nợ
công và là khoản đáng lo ngại nhất bởi phần lớn là vay với kỳ hạn ngắn. Trong
trường hợp doanh nghiệp mất khả năng trả nợ, Chính phủ đương nhiên sẽ phải
gánh trách nhiệm với tư cách là người bảo lãnh. Như vậy thì nợ công sẽ tăng
lên.
- Mức lãi suất cao khiến việc vay mới và tài trợ nợ công trở nên đắt đỏ
hơn, do vậy ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công. Một bằng chứng cụ thể là
ngay cả khi mới sớm thoát khỏi suy giảm kinh tế thì chỉ số CPI và lãi suất ở Việt
Nam đã tăng nhanh trở lại, cao hơn nhiều so với hầu hết các nền kinh tế trong
khu vực. Hệ quả là khi Chính phủ đi vay bằng cách phát hành trái phiếutrong
nước, lợi suất phải trả đã lên tới 11-12%. Tương tự như vậy, khi Chính phủ phát
hành trái phiếu quốc tế, phải trả cũng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh (như
Indonesia và Philippines) do mức độ rủi ro cao hơn.
- Một nguyên nhân sâu xa hơn và cũng không kém phần quan trọng đó
chính là hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam còn kém
hiệu quả, nạn tham nhũng, quan liêu tràn lan…Về nguyên tắc, nợ công của Việt
Nam bao gồm nợ của Chính phủ, của các chính quyền địa phương và phần vay
của doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia khuyến
cáo cần tính tới cả phần doanh nghiệp Nhà nước tự đi vay, vì suy cho cùng nếu


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

doanh nghiệp có vấn đề gì, Nhà nước với tư cách chủ sở hữu cũng sẽ phải đứng
ra xử lý thay, đơn cử như trường hợp của một tập đoàn kinh tế quy mô lớn như
Vinashin chẳng hạn.
- Việc tiếp tục áp dụng các biện pháp kích cầu, tăng trưởng còn chủ yếu

dựa vào đầu tư, trong khi đó nhiều dự án đầu tư không hiệu quả, chậm tiến độ.
Điều này dẫn đến tỷ lệ bội chi ngân sách cao và Chính phủ phải vay nợ để bù
đắp.
- Tính bền vững của nợ công không chỉ phụ thuộc vào cán cân ngân sách
mà còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác. Đầu tiên là tốc độ tăngtrưởng GDP.
Tốc độ tăng GDP cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt thặng dư ngân
sách. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng GDP chỉ do tăng các yếu tố đầu vào vật chất
(vốn và lao động) mà không tăng được năng suất thì chắc chắn đến một lúc nào
đó, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm. Có vẻ như điều này sẽ xảy ra choViệt Nam trong
khoảng 7-10 năm tới, vì theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, trong
những năm gần đây tốc độ tăng năng suất của Việt Nam khá thấp, và tăng
trưởng GDP chủ yếu nhờ vào việc gia tăng lao động và vốn. Theo dự báo của
EIU, tốc độ tăng GDP trung bình hằng năm của Việt Nam sẽ giảm còn khoảng
5% sau năm 2020 và 3-4% sau năm 2030.
- Khủng hoảng nợ công cũng đến do việc chính phủ không minh bạch các
số liệu, chính phủ cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân
sách về những chính sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân
sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô thì hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế
nhiều.
- Do tiết kiệm trong nước thấp dẫn đến việc vay nợ cho chi tiêu công cao
dẫn đến nợ công ngày càng tăng cao. Ngoài ra, hệ thống lương hưu cũng tạo nên
những gánh nặng không nhỏ cho chi tiêu công. Nếu so sánh giữa mức gia tăng
nợ công trong thời gian qua với tốc độ tăng trưởng GDP thì việc Việt Nam mang
nợ như hiện nay là không đáng. Không thể lấy một số nước có tỷ lệ nợ so với


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà


GDP tới 200% để biện minh bởi họ là những nền kinh tế phát triển, việc vay nợ
được quản lý rất chặt và đầu tư hiệu quả. Việt Nam thì chưa làm được điều này.
PHẦN 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
Như trên đã phân tích về lý luận và thực tiễn một số nền kinh tế lớn trên
thế giới, khi xem xét, đánh giá nợ công không chỉ chú ý vào tỷ lệ nợ/GDP cao
hay thấp mà quan trọng hơn là hiệu quả sử dụng vốn vay như thế nào, tức là
quản lý nợ công có hiệu quả, phát huy được các tác động tích cực của nợ côngvà
giảm bớt tác động tiêu cực của nó. Hiệu quả sử dụng các khoản vay nợ phụ
thuộc nhiều vào chính sách quản lý các khoản vay của ngân sách nhà nước. Do
tính chất khác biệt giữa nguồn vay và nguồn từ thuế và phí, việc quản lý một
cách chặt chẽ đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý riêng biệt đối với các khoản chi
từ nguồn vay nợ và các khoản chi thông thường (từ nguồn thu thuế và phí). Theo
đó, các khoản chi từ nguồn vay nợ đòi hỏi phải có các quy định quản lý chặt chẽ
theo hiệu quả đầu ra, đảm bảo các tiêu chí về hoàn trả nợ (gốc và lãi), tiêu chí về
tiến độ giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn, tiêu chí về giảm thiểu rủi ro và các
tiêu chí khác. Những quy định này thường áp dụng với mức độ đòi hỏi thấp hơn,
hoặc không áp dụng đối với các khoản chi tiêu ngân sách thông thường (được
chi từ nguồn thu thuế và phí). Việc có những quy định về quản lý ngân sách
riêng biệt đối với các khoản chi từ nguồn vay nợ được coi là một tiêu chí quan
trọng trong việc đánh giá tính bền vững của nợ công nói riêng và ngân sách nhà
nước nói chung. Để nợ công được quản lý chặt chẽ từ khâu vay nợ, sử dụng và
thanh toán nợ đến hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia
trong thanh toán nợ, đảm bảo an ninh tài chính đối với các khoản nợ công, hạn
chế rủi ro,cần thực hiện tốt một số nội dung như sau:
Một là, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên
cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân
sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến lược về vay nợ
công xác định rõ mục đích vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân sách,tái cơ cấu
nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư quan



Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

trọng, hiệu quả, vay nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia), mức huy động
vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và ngoài
nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp. Kế hoạch chiến lược về
vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự kiến;
xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng
tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu
sử dụng.
Hai là, đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ
công, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi
ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường
xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ Chính phủ trong mối
liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân
thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ…
Ba là, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và các khoản vay
được Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ vay về cho vay lại và bảo lãnh vay là các
hoạt động thường phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn
trên thị trường vốn quốc tế, nhưng không đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ.
Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn
quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Các khoản vay và bảo lãnh này thực chất
là nghĩa vụ ngân sách dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải
trang trải các khoản nợ của khu vực doanh nghiệp trong tương lai, khi doanh
nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Nguy cơ này sẽ càng cao
hơn nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo lãnh không dựa trên những phân
tích thận trọng về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp. Do
đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu

tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh
vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài
được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ
trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công - tư .


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

Bốn là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát vào việc sử dụng vốn
vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh. Chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá lại hiệu
quả đầu tư các dự án để tăng cường hiệu quả sử dụng đồng vốn, tăng cường hiệu
quả đầu tư. Chúng ta phải theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với kiểm
soát tiền vay và vạch ra kế hoạch trả nợ. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả
năng trả nợ và tính bền vững của nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ,
nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ
dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp; trong mọi trường hợp,
ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay
nợ. Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân
thủ hai nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn,vay thương
mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi
vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính
phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ
tầng.
Năm là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ
công. Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý,
sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ

công. Để thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính
toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ
quan chuyên môn độc lập kiểm tra, xác nhận.
Sáu là, điều cần thiết hiện nay là Nhà nước ta phải thay đổi mô hình tăng
trưởng dựa vào vốn, cải thiện lại năng suất và tăng mức độ hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước thì mới có thể tăng cường chi tiêu đầu tư, sử dụng chính sách
tài khóa một cách hiệu quả. Do đó, việc nên làm là phải ổn định lại các yếu tố vĩ
mô khác để đảm bảo tăng trưởng bền vững trong dài hạn, tuyệt đối không chạy
theo chỉ tiêu tăng trưởng cao.


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

Bảy là, phát hành trái phiếu và in tiền là hai phương pháp giải quyết bài
toán thâm hụt ngân sách và tăng vốn đầu tư, nhưng lại gây ra lạm phát. Hơn nữa
mức độ hiệu quả sử dụng vốn từ Chính phủ còn quá kém nên khối nợ công ngày
một lớn hơn mà lại có tác động thấp tới kích thích tăng trưởng kinh tế. Sử dụng
hai kênh này phải đúng thời điểm và có đánh giá đúng tác động đánh đổi qua lại
giữa các chỉ tiêu vĩ mô có thể có, một cách hợp lý.
Tám là, cần giảm thiểu thâm hụt ngân sách quốc gia. Do thâm hụt ngân
sách cần khoản bù đắp, hệ quả là khả năng trả nợ lại càng kém đi. Hãy học tập
từ bài học ở châu Âu khi đối phó với khủng hoảng hồi đầu năm 2010. Họ tăng
cường tiết kiệm, giảm trợ cấp, tăng thuế đối với người thu nhập cao,thoái vốn tại
những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả... Kết quả là trong quý II năm 2010,
thay vì tăng trưởng âm, kinh tế châu Âu đã phát triển 1%.
Chín là, Nhà nước ta nên đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tìm cứu cánh lúc
cần thiết. Cũng phải nói tới một bất lợi đối với Việt Nam là hệ số rủi ro của ta
còn ở mức cao, 6,75%, lại thêm thanh khoản thấp, tần suất vay của ta ít nên khi

đi vay bao giờ ta cũng phải vay với lãi suất cao. Trong khi đó, Indonesia và
Phillippines tuy có hệ số rủi ro tương đương Việt Nam nhưng họ vẫn được ưu
đãi hơn khi đi vay nhờ tính thanh khoản cao hơn và tích cực hơn trong hợp tác
quốc tế.
Mười là, không nên đầu tư vào các siêu dự án chỉ vì vay vốn quá dễ dàng
mà không tính tới hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ. Nợ quốc gia có thể cao
nhưng với cơ cấu trả nợ và vay nợ hợp lý thì mới tăng khả năng kích thích tăng
trưởng kinh tế. Việt Nam cần công khai và tính toán đầy đủ các khoản vay, thu
chi ngân sách, các khoản bảo lãnh của Chính phủ với các tổ chức, các khoản nợ
của doanh nghiệp nhà nước. Từ đó mới có thể đưa ra kế hoạch vay mượn, trả nợ
và sử dụng vốn cho phù hợp.


Môn: Quản lý tài chính công

TS. Đặng Thị Hà

KẾT LUẬN
Như vậy, qua những phân tích ở trên phần nào chúng ta đã hiểu được tình
thế của kinh tế Việt Nam nói chung và nợ Chính phủ nói riêng. Có thể nói Việt
Nam đang đứng giữa ranh giới của bờ vực thẳm. Nợ công ở Việt Nam tăng
nhanh trong khi thâm hụt ngân sách thì kéo dài suốt bao năm qua. Mở rộng đầu
tư công với quy mô lớn nhưng hiệu quả đầu tư lại vô cùng thấp kém kèm theo
lạm phát tăng, lãi suất cũng tăng khiến tài trợ nợ công càng đắt đỏ và mức độ
nợ công ngày càng lớn. Trong khi đó Bộ Tài chính chưa đưa ra được một chiến
lược cụ thể để quản lý nợ công. Tất cả những câu hỏi, thắc mắc về nợ công,
một bài toán lớn cần giải quyết ngay thì vẫn đang bị bỏ ngỏ. Tính an toàn của
nợ công trong giai đoạn tới sẽ ở mức độ nào? Nợ công sẽ được tài trợ ra sao?
Đây là câu hỏi chờ đợi câu trả lời từ Chính phủ.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×