Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Nghiên cứu đánh giá biến dị về sinh trưởng của các tổ hợp lai giữa bạch đàn pellita và bạch đàn urophylla và bạch đàn camaldulensis

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 64 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, tạo giống mới bằng lai giống, khảo nghiệm
giống lai và sử dụng trực tiếp ưu thế lai thông qua phương pháp nhân giống
sinh dưỡng là hướng đi đúng đắn trong nghiên cứu cải thiện giống cây rừng.
Hướng đi này đã mang lại nhiều hiệu quả quan trọng góp phần nâng cao năng
suất rừng trồng. Chọn lọc cá thể trong các tổ hợp lai để phát triển vào sản xuất
là hướng đi nhanh nhất để có thể sử dụng ưu thế lai trong sản xuất lâm
nghiệp, góp phần cung cấp nguồn giống tốt và phong phú cho trồng rừng đảm
bảo an toàn về mặt sinh học, trước các nguy cơ của dịch sâu bệnh hại đối với
rừng trồng dòng vô tính hiện nay.
Các loài bạch đàn được du nhập vào Việt Nam từ những năm 1930 và
đến nay đã trở thành nhóm cây trồng rừng chủ lực trong các chương trình
trồng rừng tập trung và phân tán ở nước ta. Rừng trồng bạch đàn, trong đó có
bạch đàn lai đã góp phần đáng kể đáp ứng nhu cầu gỗ nguyên liệu cho công
nghiệp giấy, ván dăm, gỗ trụ mỏ và gỗ xây dựng, đồ gỗ nội thất góp phần
tăng thu nhập cho người trồng rừng.
Trong tập đoàn loài cây mọc nhanh phục vụ trồng rừng sản xuất, Bạch
đàn pellita (Eucalyptus pellita) là loài có sinh trưởng nhanh, hình dáng đẹp,
có khả năng chịu được hạn, kháng bệnh tốt, tính chất gỗ phù hợp cung cấp gỗ
xẻ nhưng khả năng chống chịu gió bão thấp. Đây là loài sinh trưởng tốt trên
điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, lượng mưa nhiều, tầng dày như vùng Đông
Nam Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, và khu vực Tây Nguyên độ cao dưới 800
m. Bạch đàn uro (Eucalyptus urophylla) là loài cây thích ứng cao, sinh trưởng
nhanh và hiện đang là loài cây trồng chủ lực trên các lập địa đất đồi trọc,
nghèo dinh dưỡng ở vùng Trung tâm miền Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây
Nguyên. Trong khi đó, Bạch đàn camal (Eucalyptus camaldulenis) là loài có
sinh trưởng nhanh, có khả năng chống chịu gió bão tốt, chịu hạn tốt, phù hợp



2

nhưng bị bệnh khô cành, rụng lá khi trồng ở vùng có lượng mưa cao. Nghiên
cứu lai giống giữa Bạch đàn pellita với các loài Bạch đàn uro và Bạch đàn
camal nhằm mục đích kết hợp các đặc điểm ưu việt của mỗi loài là một hướng
đi đang được các nhiều nước quan tâm nghiên cứu.
Hiện nay, nhu cầu về nguồn giống có chất lượng cao phục vụ cho trồng
rừng dòng vô tính ở nước ta là rất lớn, mà nguồn giống hiện tại chưa đáp ứng
được nhu cầu trồng rừng. Trong khi đó, tiềm năng để tạo ra các giống bạch
đàn lai có năng suất và chất lượng cao, đồng thời có khả năng thích ứng rộng
trên nhiều vùng sinh thái trong cả nước giữa Bạch đàn pellita với các loài
Bạch đàn uro và Bạch đàn camal nhằm kết hợp được những đặc điểm ưu việt
của mỗi loài là rất lớn. Chính vì thế, việc lai giống giữa ba loài bạch đàn này
với mục tiêu tạo ra đa dạng các tổ hợp lai và mong muốn thu nhận được tối đa
ưu thế lai từ các tổ hợp lai là một nhiệm vụ quan trọng. Để đánh giá được
mức độ biến dị giữa các tổ hợp lai và chọn lọc được các cá thể ưu việt, đề tài
“Nghiên cứu đánh giá biến dị về sinh trưởng của các tổ hợp lai giữa Bạch đàn
pellita và Bạch đàn urophylla và Bạch đàn camaldulensis” đã được thực hiện.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm hình thái và phân loại, phân bố và tiềm năng gây trồng
Bạch đàn pellita
1.1.1. Đặc điểm hình thái và phân loại
Bạch đàn pellita (Eucalyptus pellita F. Muell), thuộc họ Sim
(Myrtaceae) là cây gỗ lớn, nơi nguyên sản có thể cao 25 – 40 m, đường kính
đạt trên 1m (Turnbull, 1999; Jacobs, 1983). Lá đơn mọc cách, không có lá

kèm, lá thuôn đầu nhọn dài 15 – 20 cm, rộng 2,5 – 4 cm, gân nổi rõ ở mặt sau.
Thân hình trụ tròn, không có bạnh vè, vỏ dày sù sì nứt dọc sâu không bong
mảng, hoa tự chùm, ra hoa vào tháng 1- 3, hình thành quả từ tháng 2 - 4, mùa
quả chín vào tháng 2 – 3 năm sau. Quả dạng nang, những vết nứt ra từ quả rất
dễ nhận biết khi quả chín. Trước khi chín đầy đủ các mảnh vỏ quả thường mở
ra một phần mặc dù hạt chưa bị rơi ra. Hạt có thể quan sát bằng cách cắt quả
để kiểm tra hạt, vỏ hạt màu sẫm, và vỏ quả chuyển màu nâu là chín (Boland
et al., 1984)
Bạch đàn pellita thuộc chi phụ Symphyomyrtus (Brooker, 2000) bao
gồm hầu hết các loài Bạch đàn đang gây trồng rộng rãi trên thế giới như Bạch
đàn uro (E. urophylla), Bạch đàn camal (E. camaldulensis), Bạch đàn tere (E.
tereticornis), Bạch đàn grandis (E. grandis), Bạch đàn saligna (E. saligna),
Bạch đàn brassiana (E. brassiana) nên chúng có khả năng lai giống với nhau
dễ dàng tạo ra hạt lai có sức sống cao (Brooker và Kleinig, 2012)
1.1.2. Đặc điểm phân bố
Bạch đàn pellita có hai vùng phân bố tự nhiên chính: phía nam đảo
New Guinea (bao gồm tỉnh Irian Jaya của Indonesia và Papua New Guinea)
và phía bắc bang Queensland, Australia.


4

Ở phía nam đảo New Guinea, Bạch đàn pellita phân bố từ vùng
Morehead và Keru thuộc Papua New Guinea ở vĩ độ 8 030’ đến phía bắc
Muting, Irian Jaya, Indonesia ở vĩ độ 7040’ Nam và chủ yếu ở độ cao dưới
100 m so với mực nước biển. Vùng này có đặc trưng khí hậu nhiệt đới ẩm với
nhiệt độ trung bình năm 270C, nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất 29 0C và
tháng lạnh nhất là 250C và không chịu ảnh hưởng của mùa khô với lượng mưa
hàng năm từ 1900 mm ở Morehead đến 2700 mm ở Muting, lượng mưa bình
quân tháng từ 80 đến trên 120 mm (Van Rogel, 1963). Đặc điểm đất đai chủ

yếu là dạng đất mùn có cát nâu, thoát nước tốt hoặc đất mùn sét phát triển trên
phù sa bồi tích, độ pH từ 5 đến 6. Ở vùng này, Bạch đàn pellita phân bố rải
rác giữa vùng rừng thường xanh và rừng mưa bán rụng lá (Harwood, 1998;
Son, L., 2009)

Hình 1.1. Phân bố tự nhiên Bạch đàn pellita (Nguồn: Harwood, 1998)


5

Ở phía bắc Queensland, Australia, Bạch đàn pellita phân bố từ Iron
Range, Cape York Peninsula (vĩ độ 12 044’ Nam) tới Ingham (vĩ độ 18036’
Nam), tập trung chủ yếu trong phạm vi 50 km dọc bờ biển ở độ cao dưới 600
m (Bootle, 1983; Gonzaga et al., 1983; Harwood, 1998). Vùng này có đặc
trưng khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ trung bình năm khoảng 240C, nhiệt độ
trung bình tháng nóng nhất là 27 0C và tháng lạnh nhất là 190C, lượng mưa
bình quân hàng năm khoảng 2100 – 2200 mm và có mùa khô kéo dài khoảng
4 tháng lượng mưa trung bình tháng thấp hơn 40 mm (Harwood, 1998, Son,
L., 2009).
1.1.3. Tiềm năng gây trồng Bạch đàn pellita
Bạch đàn pellita được coi là tương lai của rừng trồng vùng nhiệt đới ẩm
do sinh trưởng nhanh, khả năng chống chịu sâu bệnh hại tốt, và tính chất gỗ
rất phù hợp cho làm gỗ xẻ, làm giấy cũng như nhiều hình thức sử dụng khác
(Harwood, 1998). Mặc dù được đưa vào trồng rừng ở quy mô công nghiệp
muộn hơn các loài Bạch đàn khác nhưng do có đặc tính sinh trưởng nhanh,
khả năng nhân giống cao, thích nghi với phạm vi môi trường rộng, chống chịu
sâu bệnh tốt, và phù hợp với nhiều mục đích sử dụng gỗ khác nhau nên Bạch
đàn pellita và các giống lai đã được gây trồng rộng rãi ở các nước nhiệt đới
như Indonesia, Malaysia, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ (Harwood, 1998).
Ở điều kiện lập địa phù hợp, Bạch đàn pellita có thể đạt lượng tăng

trưởng đường kính 3 – 4 cm/năm, chiều cao đạt 3 – 4 m/năm. Ở Luasong,
Malaysia, Bạch đàn pellita xuất xứ Bupul Muting đạt đường kính 9,1 cm và
chiều cao đạt 10 m sau 2,7 năm tuổi, cao hơn so với Bạch đàn uro và Bạch
đàn grandis (Harwood, 1997b). Ở Kalimantan, Indonesia, sau 3 năm tuổi rừng
trồng Bạch đàn pellita đạt đường kính trung bình 12,5 cm và chiều cao đạt 14
m tương đương với lượng tăng trưởng 38 m 3/ha/năm (Leksono et al., 2008).
Trong điều kiện ít thuận lợi hơn như ở Yapilika, Australia, với lượng mưa


6

1750 mm và có 4 tháng mùa khô, ở trên đất cát pha, Bạch đàn pellita vẫn đạt
đường kính 8 cm sau 3 năm tuổi (Harwood, 1997a)
Bạch đàn pellita được đưa vào trồng ở Việt Nam từ đầu những năm
1990, muộn hơn so với các loài bạch đàn khác. Kết quả trồng khảo nghiệm
trên một số vùng sinh thái cho thấy, Bạch đàn pellita có sinh trưởng nhanh
trong điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình, mưa nhiều, tầng đất sâu mà không
phù hợp với điều kiện khí hậu có mùa đông lạnh hoặc ở vùng cao (Lê Đình
Khả, 2003). Tại khu vực Đông Nam Bộ, sau 8 - 9 năm tuổi Bạch đàn pellita
sinh trưởng nhanh nhất trong số các loài bạch đàn trồng khảo nghiệm và chưa
bị nhiễm bệnh như các loài bạch đàn khác (Lê Đình Khả et al., 2006). Có thể
thấy, Bạch đàn pellita có sinh trưởng tốt nhất ở vùng duyên hải Nam Trung
Bộ và Đông Nam Bộ. Trên một lô rừng trồng thí nghiệm Bạch đàn pellita ở
Bầu Bàng, Bình Dương sau 10 năm tuổi đạt tăng trưởng đến 22 m 3/ha/năm,
cây có thân rất thẳng, độ thon nhỏ (Đặng Phước Đại, 2005).
Đặc điểm nổi bật của Bạch đàn pellita là khả năng chống chịu sâu bệnh
hại tốt. Ở Ấn Độ, Bạch đàn pellita bị Ong u bướu (Leptocybe invasa) gây hại
ít nhất trong số 4 loài gồm Bạch đàn pellita, uro, grandis và giống lai uro x
grandis (Goud et al., 2010). Sâu ăn lá Thyrinteina arnobia Stoll ảnh hưởng
nghiêm trọng trên rừng trồng bạch đàn các loài tại bang Minas Gerais, Brazil;

trong nghiên cứu với 11 loài bạch đàn cho thấy Bạch đàn saligna, Bạch đàn
grandis là hai loài mẫn cảm nhất, tiếp theo là Bạch đàn uro, Bạch đàn
cloeziana…, còn Bạch đàn pellita nằm trong nhóm kháng sâu cùng với Bạch
đàn camal, Bạch đàn tere. Ở Việt Nam, khả năng kháng sâu bệnh của Bạch
đàn pellita cũng đã được ghi nhận. Trong số 12 loài bạch đàn trồng khảo
nghiệm loài ở miền nam Việt Nam thì Bạch đàn pellita là loài duy nhất không
bị bệnh đốm lá do nấm (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2000).


7

Ngoài ra, nghiên cứu của Phạm Quang Thu et al., (2005) cho thấy Bạch
đàn pellita hầu như không bị bệnh tàn lụi và khô cành do nấm
Cryptosporiopsis eucalypti và Cylindrocladium gây ra. Thu, Pham Quang et
al. (2009) cũng cho rằng Bạch đàn pellita có khả năng kháng bệnh ung bướu
gây ra do loài côn trùng Leptocybe invasa.
Gỗ Bạch đàn pellita có màu đỏ đậm hoặc đỏ nhạt, màu sắc tương đối
đồng nhất từ trong ra ngoài, thớ gỗ mịn, vân khá đẹp; ngoài ra gỗ loài này còn
có khối lượng riêng lớn, nhiệt lượng cao, hiệu suất bột giấy và chiều dài sợi
gỗ lớn, tính chất cơ lý đáp ứng được yêu cầu về gỗ xẻ (Research Institute of
Wood Industry, 2006)
Bạch đàn pellita là loài có hiệu suất bột giấy khá cao (50%) tương
đương với Bạch đàn uro, Bạch đàn grandis và chất lượng bột giấy tốt (Clark
và Hicks, 1996). Đồng thời Bạch đàn pellita cũng rất ưa chuộng làm gỗ nhiên
liệu đốt trong lò hơi sản xuất điện cũng như sản xuất viên nén năng lượng
phục vụ đời sống hàng ngày do gỗ có giá trị nhiệt lượng cao (William S.
Dvorak et al., 2011).
Gỗ Bạch đàn pellita rất được ưa chuộng trong sản xuất đồ mộc, ván
sàn, đóng tàu thuyền, gỗ xây dựng và đồ mỹ nghệ ở Úc và Brazil (Bootle,
1983; Gonzaga et al., 1983); bởi vì, ngoài tính chất cơ lý ra, gỗ loài này còn

có màu sắc đẹp. Độ co rút gỗ Bạch đàn pellita theo chiều xuyên tâm là 4%,
nhỏ hơn độ co rút theo chiều tiếp tuyến (6%) (Boland et al., 1984). Mô đun
đàn hồi là 17,4 GPa, mô đun đứt gãy là 146 MPa (Research Institute of Wood
Industry, 2006).


8

1.2. Tình hình nghiên cứu lai giống và giống lai giữa Bạch đàn pellita với
các loài bạch đàn khác.
1.2.1. Trên thế giới
Trong trồng rừng kinh tế, giống lai được sử dụng khá rộng rãi đặc biệt
là ở rừng trồng các loài mọc nhanh như bạch đàn, keo. Giống lai là giống chủ
đạo trong trồng rừng bạch đàn ở nhiều nước trên thế giới như giống lai giữa
Bạch đàn uro và Bạch đàn grandis (E. urophylla x E. grandis) ở Brazil, Nam
Phi và Trung Quốc hay giống lai giữa Bạch đàn camal với Bạch đàn deglupta
(E. camaldulensis x E. deglupta) ở Thái Lan. Lai giống giữa các loài Bạch
đàn kết hợp với chọn lọc cây trội trong tổ hợp lai và nhân giống sinh dưỡng
có thể giúp nâng năng suất rừng trồng lên 30 - 40% so với giống đại trà
(Yang, 2003; Turnbull, 1999). Sử dụng giống lai kết hợp với nhân giống vô
tính cùng với các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp đã góp phần làm tăng
năng suất rừng lên gần 40 m3/ha/năm ở Brazil, cá biệt có lô rừng đạt đến năng
suất 70 m3/ha/năm.
Bạch đàn pellita có khả năng lai giống với các loài bạch đàn khác như
Bạch đàn brassiana (E.brassiana), Bạch đàn uro (E.urophylla) và Bạch đàn
camal (E.camaldulensis) tạo ra các giống lai có ưu thế lai rất tốt về sinh
trưởng, đồng thời có tính chất gỗ tốt và có khả năng chống chịu sâu bệnh và
các điều kiện hạn hán tốt (Harwood, 1998).
Lai giống giữa Bạch đàn pellita và urophylla đã cho ra thế hệ con lai
thể hiện ưu thế lai có sinh trưởng vượt trội hơn so với bố mẹ (Bouvet và

Vigneron, 1995; Glori, 1993; Dickinson et al., 2005; Lima et al., 2010). Biến
dị tính trội góp phần chính trong biến dị di truyền khi lai giống khác loài giữa
Bạch đàn pellita và Bạch đàn uro cả về số hạt/quả và tỷ lệ nảy mầm hạt lai.
Để đạt được năng suất hạt lai hữu hiệu tối đa, với các đặc tính mong muốn,


9

cây bố mẹ phải được chọn lọc dựa trên tiêu chí rõ ràng (Mulawarman và
Sukarno, 2000; Mulawarman et al., 2003; Tibbits, 1998)
Tại Congo và Philippines đã triển khai chương trình lai giống đối với
xuất xứ Queensland của E.pellita. Cụ thể, công ty PICOP của Philippines
khảo nghiệm một số tổ hợp lai giữa E.deglupta và E.pellita, E.urophylla và
E.pellita (Siarot, 1986 – dẫn từ Harwood, 1998). Bạch đàn lai giữa E.pellita
và E.urophylla cũng được quan tâm tại Congo. Kết quả khảo nghiệm sau 4
năm thu được chiều cao trung bình tổ hợp lai E.pellita x E.urophylla đạt 20m,
gia đình tốt nhất của E.urophylla đạt 17m, trong khi đó xuất xứ Queensland
của E.pellita tốt nhất là 15m (Bouvet và Vigneron, 1995). Kết quả nghiên cứu
của Mulawarman et al (2007) tại Indonesia cho thấy giống lai giữa Bạch đàn
urophylla và Bạch đàn grandis với Bạch đàn pellita có sinh trưởng nhanh,
vượt từ 20 – 25% so với các loài bố mẹ. Giống lai giữa Bạch đàn urophylla
với Bạch đàn grandis và Bạch đàn pellita còn được kỳ vọng có thể tăng tỷ
trọng gỗ vượt hơn so với rừng trồng Bạch đàn uro hay grandis từ 10 – 15%
qua đó nâng cao sản lượng bột giấy (Mulawarman et al 2007).
Trong tự nhiên đã có một số giống lai như E. pellita x E. resinifera, E.
grandis x E. pellita, E. brassiana x E. pellita. Giống lai tự nhiên giữa E.
pellita và E. brassiana ở miền tây Papua New Guinea và Cape York,
Queensland, thỉnh thoảng còn xuất hiện ở khảo nghiệm hậu thế Bạch đàn
pellita (xuất xứ PNG, Cape York) ở bắc Úc, Sabah và Java (Indonesia)
(Bouvet và Vigneron, 1996). Một số cây lai tự nhiên tại khảo nghiệm hậu thế

này thể hiện dáng thân đẹp và sinh trưởng tương đương với cá thể E. pellita
tốt nhất (CAB International, 2000). Tại Brazil, cũng xuất hiện giống lai giữa
E. pellita với E. tere, và E. grandis trong rừng trồng hỗn giao, đặc biệt giống
lai này có sinh trưởng vượt trội hơn so với bố mẹ (Bouvet và Vigneron, 1996;
CAB International, 2000; Bouvet et al., 2003).


10

1.2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam lai giống và khảo nghiệm giống lai đã được tiến hành cho
một số loài mọc nhanh như keo, bạch đàn, tràm, thông; rừng trồng phổ biến
hiện nay là giống lai như keo lai, bạch đàn lai đã mang lại giá trị cao trong
kinh doanh rừng trồng. Giống lai thường có năng suất cao hơn và tính chống
chịu với điều kiện bất lợi tốt hơn bố mẹ. Nghiên cứu lai giống và khảo
nghiệm giống lai cho thấy ảnh hưởng tính trội của cây mẹ là quan trọng hơn
so với ảnh hưởng tính trội của cây bố (Lê Đình Khả, 2006). Đối với một số
loài đã và đang nghiên cứu, trong đó có bạch đàn thì quá trình lai giống bao
gồm từ chọn loài, chỉ những loài có tương đồng nhất định về kiểu gen mới có
thể tạo ra giống lai ví dụ như giữa Bạch đàn pellita, Bạch đàn uro, Bạch đàn
camal, sau đó là chọn cá thể bố, mẹ có khả năng di truyền cao về các tính
trạng sinh trưởng, tính chất gỗ, chống chịu sâu bệnh, thích nghi với điều kiện
mới. Nguyên tắc sau khi con lai F 1 được khảo nghiệm, đánh giá mới đưa vào
chọn lọc cá thể/dòng, và các dòng này tiếp tục được khảo nghiệm để công
nhận giống phục vụ trồng rừng trên điều kiện lập địa tương tự, chỉ dòng có
năng suất cùng với một số tính trạng tính chất gỗ, hoặc/và chống chịu sâu
bệnh, sau đó mới được đưa vào nhân giống vô tính như hom/mô trồng rừng
diện rộng.
Trong tập đoàn loài cây mọc nhanh phục vụ trồng rừng sản xuất, Bạch
đàn pellita (Eucalyptus pellita) là loài có sinh trưởng nhanh, hình dáng đẹp,

có khả năng chịu được hạn, kháng bệnh tốt, tính chất gỗ phù hợp cung cấp gỗ
xẻ nhưng khả năng chống chịu gió bão thấp. Đây là loài sinh trưởng tốt trên
điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, lượng mưa nhiều, tầng dày như vùng Đông
Nam Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, và khu vực Tây Nguyên độ cao dưới 800
m. Bạch đàn uro (Eucalyptus urophylla) là loài cây thích ứng cao, sinh trưởng
nhanh và hiện đang là loài cây trồng chủ lực trên các lập địa đất đồi trọc,


11

nghèo dinh dưỡng ở vùng Trung tâm miền Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây
Nguyên. Trong khi đó, Bạch đàn camal (Eucalyptus camaldulenis) là loài có
sinh trưởng nhanh, có khả năng chống chịu gió bão tốt, chịu hạn tốt, phù hợp
nhưng bị bệnh khô cành, rụng lá khi trồng ở vùng có lượng mưa cao. Nghiên
cứu lai giống giữa Bạch đàn pellita với các loài Bạch đàn uro và Bạch đàn
camal nhằm mục đích kết hợp các đặc điểm ưu việt của mỗi loài là một hướng
đi đang được các nhiều nước quan tâm nghiên cứu.
Nghiên cứu lai giống bạch đàn được bắt đầu ở nước ta từ những năm
1990 với công trình “Nghiên cứu lai giống một số loài bạch đàn” của Nguyễn
Việt Cường (2002). Các tác giả đã nghiên cứu lai giống giữa các loài Bạch
đàn uro (E. urophylla), Bạch đàn camal (E. camaldulensis) và Bạch đàn liễu
(E. exserta). Trong công trình này các tác giả đã nghiên cứu một cách có hệ
thống về mùa vụ ra hoa, phương pháp xử lý, bảo quản và cất trữ hạt phấn, môi
trường nảy mầm hạt phấn và lai giống. Kết quả nghiên cứu cho thấy hạt phấn
các loài bạch đàn có thể duy trì tỷ lệ nảy mầm cao trên 40% sau 4 năm cất trữ
sau khi được làm khô bằng silicagel và cất trữ ở nhiệt độ -30 0C. Thời điểm
bung phấn ở bạch đàn xảy ra khi nắp hoa chuyển từ màu xanh sang màu vàng
kem. Thời điểm thụ phấn đạt tỷ lệ đậu quả cao nhất là 4 ngày sau khi khử đực
tiến hành khi nắp hoa chuyển từ màu xanh sang màu vàng kem (Nguyễn Việt
Cường, 2002). Kết quả đánh giá cho thấy giống lai khác loài giữa các loài

bạch đàn có sinh trưởng nhanh hơn các loài bố mẹ, đặc biệt là nhanh hơn hẳn
so với hậu thế thụ phấn tự do của các cây bố mẹ tham gia lai giống, thể hiện
ưu thế lai về sinh trưởng rất rõ rệt (Nguyễn Việt Cường, 2002). Sinh trưởng
của các nhóm loài bố mẹ khác nhau có sự sai khác về sinh trưởng trên các
dạng lập địa khác nhau, thí dụ giống lai giữa Bạch đàn uro và Bạch đàn camal
(UC) có sinh trưởng nhanh hơn rõ rệt so với giống lai giữa Bạch đàn uro và
Bạch đàn liễu (UE hoặc EU) trên lập địa có tầng đất sâu, ẩm và giàu dinh


12

dưỡng ở vùng đồng bằng sông Hồng trong khi giống lai UE hoặc EU lại có
sinh trưởng tốt hơn giống lai UC trên lập địa vùng đồi có tầng đất nông,
nghèo dinh dưỡng. Biểu hiện của ưu thế lai về sinh trưởng chịu ảnh hưởng
của tế bào chất và điều kiện hoàn cảnh, ví dụ nơi đất tốt bạch đàn sinh trưởng
nhanh và biểu hiện ưu thế lai rõ rệt, ngược lại nơi đất xấu bạch đàn sinh
trưởng chậm và ưu thế lai biểu hiện yếu hơn (Nguyễn Việt Cường, 2002).
Do đặc tính sinh trưởng nhanh, hình dạng thân đẹp và có khả năng chống
chịu sâu bệnh hại tốt nên Bạch đàn pellita cũng bắt đầu được quan tâm trong
nghiên cứu lai giống từ năm 2000. Trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu lai
tạo giống một số loài bạch đàn, tràm, thông và keo” giai đoạn 2001 – 2005,
Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã tạo ra được hơn 40 tổ hợp lai giữa
các loài Bạch đàn uro (U), Bạch đàn camal (C), Bạch đàn tere (T)… với Bạch
đàn pellita (P), trong đó Bạch đàn pellita chủ yếu dùng làm cây bố (Nguyễn
Việt Cường và cộng sự 2006). Kết quả khảo nghiệm giống lai cho thấy một số
giống lai CP có sinh trưởng nhanh trên một số lập địa ở miền Đông Nam Bộ
và 1 tổ hợp PU có sinh trưởng nhanh nhất trong các tổ hợp khảo nghiệm tại
Ba Vì, Hà Nội (Nguyễn Việt Cường và cộng sự, 2006).
Trong khuôn khổ dự án Sida-SAREC về nghiên cứu cải thiện giống cây
rừng, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng cũng đã có thêm những nghiên

cứu lai giống giữa Bạch đàn uro và Bạch đàn pellita. Kết quả trong giai đoạn
2005 – 2006 đã tạo ra được hơn 60 tổ hợp lai UP và PU (chủ yếu là UP) và
một số khảo nghiệm hậu thế giống lai đã được xây dựng tại Hà Nội, Nghệ An,
Quảng Trị và Bình Dương. Kết quả đánh giá ở giai đoạn 30 tháng tuổi cho
thấy giống lai giữa hai loài bạch đàn này là rất có triển vọng cho trồng rừng ở
miền Bắc và Bắc Trung bộ. Kết quả đánh giá cũng cho thấy có sự khác biệt
rất lớn về sinh trưởng của các tổ hợp bạch đàn lai trên các lập địa, chứng tỏ
ảnh hưởng rất lớn của tương tác di truyền hoàn cảnh. Kết quả đã xác định


13

được 4 tổ hợp lai có triển vọng bao gồm: U70P28, U87P22 và U87P8 cho lập
địa Ba Vì; U87P22 và U70P48 cho lập địa Đông Hà. Đây là những tổ hợp lai
có sinh trưởng tốt hơn rõ rệt so với các giống đối chứng tốt nhất tại mỗi lập
địa là U6 và PN14, với độ vượt trung bình về thể tích từ 20 – 50% (Nguyễn
Đức Kiên, 2009). Đặc biệt nhiều tổ hợp lai UP vẫn duy trì được sức sống
mạnh mẽ với tán lá khỏe mạnh trong điều kiện mùa đông lạnh và khô ở Ba
Vì, điều này có thể được giải thích do khả năng chịu hạn tốt nhờ bộ rễ ăn sâu
của Bạch đàn pellita. Đến nay đã có một số dòng lai Bạch đàn pellita được
công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật (Nguyễn Đức Kiên., 2009), (Hà Huy
Thịnh, 2011a), (Nguyễn Việt Cường, 2012).
Trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống có năng suất và chất
lượng cao cho một số loài cây trồng rừng chủ lực” giai đoạn 2011-2015, từ
kết quả khảo nghiệm các tổ hợp lai, Viện nghiên cứu giống và công nghệ sinh
học đã tiến hành chọn lọc các cá thể lai tốt nhất trong các khảo nghiệm giống
lai và khảo nghiệm dòng vô tính nhằm chọn lọc ra những dòng vô tính có sinh
trưởng tốt nhất cho trồng rừng. Kết quả nghiên cứu chọn lọc dòng vô tính
bạch đàn lai UP tại Yên Thế, Bắc Giang cho thấy có sự sai khác rõ rệt giữa
các dòng vô tính về tất cả các chỉ tiêu sinh trưởng và chất lượng, các dòng vô

tính này có sinh trưởng vượt trội so với các giống đối chứng đã được công
nhận (PN14, U6), và đã đề nghị công nhận giống mới cho các dòng vô tính
UP164, UP223, UP171, UP138, UP180, UP153, UP190 và UP236 (Hà Huy
Thịnh và cộng sự, 2015).
Một kết quả nghiên cứu khác cũng đã chọn được các dòng bạch đàn lai
PB7, PB48, UP68BB, UP69BB, PB55 và UP75BB có sinh trưởng nhanh
đồng thời có khả năng thích nghi cao trên dạng lập địa đất phù sa cổ ở Hàm
Thuận Nam, Bình Thuận và các điều kiện lập địa tương tự (Hà Huy Thịnh,
Nguyễn Đức Kiên, 2015)


14

1.3. Một số nhận định
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy,
Bạch đàn pellita có sinh trưởng nhanh, thân thẳng, tỉa cành tự nhiên tốt, khả
năng chống chịu sâu bệnh hại cao, tính chất gỗ khá tốt. Đây là loài cây đóng
vai trò quan trọng trong trồng rừng ở một số nước trên thế giới trong đó có
nước ta.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng Bạch đàn pellita có khả năng lai
giống với một số loài bạch đàn khác như Bạch đàn uro, Bạch đàn camal, Bạch
đàn liễu… và có thể tạo ra các tổ hợp lai có sinh trưởng vượt trội so với các
loài cây bố, mẹ; thích ứng với nhiều điều kiện lập địa khác nhau.
Giống lai là giống chủ đạo trong trồng rừng bạch đàn ở nhiều nước trên
thế giới. Lai giống giữa các loài bạch đàn kết hợp với chọn lọc cây trội trong
tổ hợp lai và nhân giống sinh dưỡng có thể giúp nâng năng suất rừng trồng lên
30 - 40% so với giống đại trà.
Ở nước ta, nghiên cứu lai giống giữa các loài bạch đàn, trong đó có
Bạch đàn pellita đã được thực hiện một cách khá bài bản và kết quả đã tạo ra
được nhiều giống mới có năng suất chất lượng cao, một số giống đã được

công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật và giống quốc gia. Tuy nhiên, số lượng
giống đã được công nhận còn khiêm tốn.
Để phát triển rừng trồng dòng vô tính bạch đàn lai pellita, cần tiếp tục
tạo ra được nguồn giống phong phú, đa dạng có sinh trưởng nhanh, chất
lượng thân cây tốt. Để đáp ứng được yêu cầu đó, công tác nghiên cứu chọn
tạo giống luôn phải đi trước một bước và là một quá trình liên tục. Đây chính
là cơ sở lý luận để thực hiện đề tài “Nghiên cứu đánh giá biến dị về sinh trưởng


15

của các tổ hợp lai giữa Bạch đàn pellita và Bạch đàn urophylla và Bạch đàn
camaldulensis”
Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được biến dị về sinh trưởng và chất lượng thân cây giữa các tổ hợp
lai giữa Bạch đàn pellita với Bạch đàn camal và Bạch đàn uro làm cơ sở chọn
lọc dòng vô tính.
- Chọn lọc được một số cây cá thể tốt nhất từ các khảo nghiệm tổ hợp lai bạch
đàn
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu biến dị về sinh trưởng và chất lượng thân cây của các tổ
hợp lai và các nhóm tổ hợp lai tại Ba Vì, Cam Lộ và Bầu Bàng
2.2.2 Nghiên cứu mức độ tương tác kiểu gen hoàn cảnh của các tổ hợp lai
trên các lập địa khác nhau
2.2.3. Nghiên cứu chọn lọc các cây cá thể tốt nhất từ các tổ hợp bạch đàn lai
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu



Điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng: điều tra tất cả các cây trong các ô các khảo
nghiệm tổ hợp lai theo phương pháp được trình bày trong giáo trình Điều tra
rừng - Trường Đại học lâm nghiệp và giáo trình giống cây rừng
- Chiều cao vút ngọn (Hvn): được đo bằng thước đo cao (đơn vị m)
- Đường kính tại vị trí 1,3m (D 1.3): được đo bằng thước kẹp kính tại vị trí
1,3m từ mặt đất (đơn vị cm).



Điều tra các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thân cây:


16

- Độ thẳng thân (Đtt): Được xác định bằng mục trắc và cho điểm theo 5 cấp từ
1-5 điểm (Lê Đình Khả, 2003).
+ Thân cây rất cong

1 điểm

+ Thân cây cong

2 điểm

+ Thân cây tương đối thẳng

3 điểm

+ Thân cây thẳng


4 điểm

+ Thân cây rất thẳng

5 điểm

- Phát triển ngọn (Ptn): Được xác định bằng phương pháp mục trắc, cho điểm
theo 5 cấp từ 1-5 điểm (Lê Đình Khả, 2003)
+ Cây mất ngọn, cụt ngọn: 1 điểm
+ Cây có nhiều ngọn cùng phát triển, tán dạng hình elip phát triển theo
chiều rộng (ngang): 2 điểm
+ Có ngọn chính phát triển, ngọn phát triển lệch, tán lệch hay tán dạng
hình tròn: 3 điểm
+ Có ngọn chính phát triển, tán hình tháp tù: 4 điểm
+ Có một ngọn chính phát triển mạnh, tán có dạng hình tháp nhọn cân
đối (phát triển chiều cao: 5 điểm
2.3.2. Phương pháp chọn lọc cây cá thể tốt trong tổ hợp lai
Các cây cá thể được chọn lọc dựa trên qui định qui phạm 93-94 về xây dựng
vườn giống và rừng giống cũng như tiêu chuẩn ngành 04 TCN 147-2006 về
công nhận giống cây trồng lâm nghiệp. Tiến hành chọn lọc những cây có sinh
trưởng tốt nhất, có hình dáng thân cây đẹp nhất, tán lá phát triển cân đối và
không bị sâu bệnh.
2.3.3 . Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê thông dụng trong cải thiện giống
bao gồm DATAPLUS 3.0 ; Genstat 12.0 (CSIRO) và ASREML (để xác định
tương tác di truyền hoàn cảnh)
Mô hình xử lý thống kê:



17

Y = µ +m+ a +ε

Trong đó:

µ

m

a

- là trung bình chung toàn thí nghiệm
- là ảnh hưởng của lặp
- là ảnh hưởng của các yếu tố ô thí nghiệm và công thức thí

nghiệm
So sánh sai dị giữa các trung bình mẫu được tiến hành theo tiêu chuẩn
Fisher (tiêu chuẩn F):
- Nếu Fpr (xác suất tính được) < 0,001 và < 0,05 thì sự sai khác giữa
các trung bình mẫu là hết sức rõ rệt với mức tin cậy tương ứng
99,9% hoặc 95%.
- Nếu Fpr (xác suất tính được) > 0,05 thì sự sai khác giữa các trung
bình mẫu là không rõ rệt.
Số liệu thu thập đều được xử lý thống kê bằng mô hình toán học thích
hợp, các công thức cụ thể là:
X =

- Trung bình mẫu:


- Phương sai:

S2 =

1 n
∑XI
n i =1

1
n −1

n


i =1

( Xi − X

)2

- Hệ số biến động (CV%) được tính theo công thức
CV % =

Sd
x100
X

- Khoảng sai dị đảm bảo (Least Significant Diference).



18

Lsd = Sed x t.05(k)
Trong đó:
+ Lsd : Khoảng sai dị có ý nghĩa giữa các trung bình mẫu.
+ Sed (Standard error difference): Sai tiêu chuẩn của các trung bình mẫu.
+ t.05(k) giá trị t tra bảng ở mức xác suất có ý nghĩa 0,05 với bậc tự do
k.
(Nếu xác suất của Fpr> 0,05 hoặc > 0,01 có nghĩa là các công thức đồng
nhất về giá trị so sánh; nếu xác suất của Fpr< 0,05 hoặc < 0,01 có nghĩa là giữa
các công thức có sự sai khác rõ rệt, ở mức ý nghĩa 95% hoặc 99%).


19

Chương 3
ĐỊA ĐIỂM, VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Địa điểm và vật liệu nghiên cứu
3.1.1. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tại ba địa điểm đặc trưng cho ba vùng địa lý sinh thái
của Việt Nam:
- Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Giống cây rừng tại Ba Vì, Hà Nội
- Trung tâm Khoa học Lâm nghiệp vùng Bắc Trung Bộ tại Cam Lộ, Quảng
Trị
- Trạm Thực nghiệm Lâm sinh Bầu Bàng, Lai Uyên, Bến Cát, Bình Dương
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu
a. Vật liệu nghiên cứu của đề tài : gồm các khảo nghiệm tổ hợp lai giữa bạch
đàn pellita với bạch đàn urophylla và bạch đàn camaldulensis được trồng tại 3
địa điểm nghiên cứu tại Ba Vì (Hà Nội), Cam Lộ (Quảng Trị) và Bầu Bàng

(Bình Dương).
- Khảo nghiệm tổ hợp lai bạch đàn tại Ba Vì, Hà Nội: gồm có 54 công thức
thí nghiệm, trong đó gồm 22 tổ hợp lai UP (cây mẹ là bạch đàn urophylla, bố
là hỗn hợp phấn bạch đàn pellita), 20 tổ hợp lai PU (cây mẹ là bạch đàn
pellita, bố là hỗn hợp phấn U), 8 tổ hợp lai PC (mẹ là bạch đàn pellita, bố là
hỗn hợp phấn bạch đàn camaldulensis), 1 tổ hợp lai CP (mẹ là bạch đàn
camal, bố là hỗn hợp phấn bạch đàn pellita) và 3 công thức đối chứng là cây
hạt thu từ vườn giống của bạch đàn urophylla, bạch đàn pellita và bạch đàn
camaldulensis. Khảo nghiệm được thiết kế theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, 4 lần
lặp, 20 cây/ô, khoảng cách trồng 3 x 1,5m.Tại thời điểm thu thập số liệu vào
tháng 6/2015, khảo nghiệm đạt 33 tháng tuổi.


20

Bảng 3.1. Bố trí thí nghiệm tại các khảo nghiệm
Khảo
nghiệm

Ba Vì
(Hà Nội)

Cam Lộ
(Quảng Trị)

Bầu Bàng
(Bình Dương)

Số lượng
công thức thí

nghiệm

54 công thức (22
UP, 20 PU, 8 PC,
1 CP và 3 đối
chứng)

50 công thức (20
UP, 17 PU, 8 PC, 2
CP và 3 đối chứng)

68 công thức (23
UP, 29 PU, 10
PC, 3 CP và 3 đối
chứng)

Thiết kế thí
nghiệm

Khối ngẫu nhiên
đầy đủ, 4 lần lặp,
20 cây/ô, khoảng
cách trồng 3 x
1,5m

Khối ngẫu nhiên đầy
đủ, 4 lần lặp,
15cây/ô, khoảng
cách trồng 3 x 2m


Khối ngẫu nhiên
đầy đủ, 5 lần lặp,
10 cây/ô, khoảng
cách trồng 3 x
1,5m

- Khảo nghiệm tổ hợp lai bạch đàn tại Cam Lộ, Quảng Trị: gồm 50 công thức
thí nghiệm, trong đó có 20 tổ hợp lai UP, 17 tổ hợp lai PU, 8 tổ hợp lai PC, 2
tổ hợp lai CP và 3 công thức đối chứng là cây hạt thu từ vườn giống của bạch
đàn urophylla, bạch đàn pellita và bạch đàn camaldulensis. Khảo nghiệm
được thiết kế theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, 4 lần lặp, 15 cây/ô, khoảng cách
trồng 3 x 2m. Tại thời điểm thu thập số liệu sinh trưởng và chất lượng thân
cây vào tháng 6 năm 2015, khảo nghiệm đã được 30 tháng tuổi.
- Khảo nghiệm tổ hợp lai bạch đàn tại Bầu Bàng, Bình Dương: gồm 68 công
thức thí nghiệm, trong đó có 23 tổ hợp lai UP, 29 tổ hợp lai PU, 10 tổ hợp lai
PC, 3 tổ hợp lai CP và 3 công thức đối chứng là cây hạt thu từ vườn giống của
bạch đàn urophylla, bạch đàn pellita và bạch đàn camaldulensis. Khảo nghiệm
được thiết kế theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, 5 lần lặp, 10 cây/ô, khoảng cách
trồng 3 x 1,5m. Tại thời điểm thu thập số liệu sinh trưởng và chất lượng thân
cây vào tháng 6 năm 2015, khảo nghiệm đã được 33 tháng tuổi.
b. Tiêu chí lựa chọn cây bố mẹ trong phép lai


21

Các tổ hợp lai này được tạo ra từ các phép lai giữa các cây bố, mẹ là các
cây trội đã được chọn lọc trong các quần thể chọn giống (vườn giống). Tại
mỗi quần thể chọn giống này, đã tiến hành đánh giá sinh trưởng, tính chất gỗ
của các gia đình và chọn lọc được các gia đình và cá thể có sinh trưởng tốt
đồng thời có các tính chất gỗ phù hợp với các mục tiêu sử dụng khác nhau và

chọn lọc ra được cây cây mẹ và bố tham gia lai giống. Như vậy, các cây bố,
mẹ tham gia vào lai giống được chọn lọc không chỉ dựa trên kiểu hình mà còn
đã được khảo nghiệm và chứng tỏ tính thích ứng, khả năng sinh trưởng phát
triển tốt tại các vùng sinh thái mà giống lai được đưa vào khảo nghiệm.
Tại mỗi quần thể, tiến hành thu hạt phấn của 20-30 cây trội, sau đó, lấy
lượng hạt phấn của mỗi cây trội bằng nhau và trộn đều thành hỗn hợp hạt
phấn của mỗi loài (Bạch đàn pellita, Bạch đàn uro và Bạch đàn camal), và sử
dụng hỗn hợp hạt phấn này để lai giống với các cây mẹ đã chọn lọc tại các
quần thể chọn giống, cụ thể là các cây mẹ Bạch đàn pellita được chọn lọc
trong vườn giống Bạch đàn pellita tại Bầu Bàng, Bình Dương; các cây mẹ
Bạch đàn uro được chọn lọc trong vườn giống Bạch đàn uro tại Ba Vì, Hà
Nội; các cây mẹ Bạch đàn camal được chọn lọc trong vườn giống Bạch đàn
camal tại Hàm Thuận Nam, Bình Thuận.
3.2. Điều kiện khí hậu khu vực nghiên cứu
Số liệu diễn biến khí hậu được ghi ở bảng 3.2, được thu thập trực tiếp
tại những nơi có trạm khí tượng thủy văn như Ba Vì, còn những nơi không có
trạm khí tượng thì số liệu khí hậu được lấy ở trạm khí tượng gần nhất theo
công bố của Cục khí tượng thủy văn.
Biểu tổng hợp đặc điểm vị trí địa lý khí hậu tại khu vực nghiên cứu
được thể hiện bảng 3.2.
Bảng 3.2. Đặc điểm khí hậu các địa điểm nghiên cứu


22

Địa điểm
nghiên cứu
Ba Vì
(Hà Nội)
Cam Lộ

(Quảng Trị)
Bầu Bàng
(Bình Dương)

Vĩ độ

Kinh
độ

Độ
cao

Nhiệt độ (oC)

Lượng
mưa
(mm)

Lượng
bốc hơi
(mm)

TB
năm

Tối
cao

Tối
thấp


21o07’

105o26’ 100

1680

960

23,2

40,2

5,3

16o50’

107o05’

68

2370

1508

24,8

42,1

16,8


11015’

106038’

50

2291

1308

26,7

33,7

20,2

- Ba Vì (Hà Nội) thuộc vùng Trung tâm miền Bắc, có nhiệt độ trung bình năm
khoảng 23,2oC, lượng mưa trung bình là 1680mm, mùa mưa từ tháng 4 đến
tháng 10.
- Cam Lộ (Quảng Trị) thuộc vùng Bắc Trung Bộ, khu vực này có nhiệt độ
trung bình năm 24,8oC, lượng mưa 2380mm, mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 1
năm sau. Lượng mưa này tương đối cao nhưng lượng bốc hơi cũng rất mạnh
là 1508mm. Địa điểm này còn chịu ảnh hưởng của gió Lào khô nóng vào mùa
hè.
- Bầu Bàng (Bình Dương) thuộc vùng Đông Nam Bộ, khu vực nghiên cứu có
nhiệt độ trung bình năm là 26,7oC, lượng mưa trung bình là 2291mm, trong
khi lượng bốc hơi là 1308mm. Đây là lập địa có khí hậu hài hòa nhất, nhiệt
độ tối cao và tối thấp không có sự chênh lệch quá cao so với nhiệt độ trung
bình.

3.3. Đặc điểm đất đai tại các địa điểm nghiên cứu
Mẫu đất được lấy từ địa điểm nghiên cứu theo phương pháp rải đều 5
điểm đại diện. Tại các tầng 0-10cm, 11-30cm, 31-50cm, mỗi mẫu đất lấy
khoảng 1kg. Các tầng tương ứng của 5 phẫu diện được trộn đều với nhau, lấy
hai phần đối diện, sau đó lại tiếp tục trộn đều hai phần này rồi lấy tương tự


23

như trên. Cứ tiếp tục như vậy đến khi còn 1kg. Mẫu đất ở các tầng được phân
tích tại phòng phân tích đất thuộc Viện nghiên cứu sinh thái và môi trường
rừng – Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam. Các đặc điểm đất đai tại khu vực
xây dựng khảo nghiệm tổ hợp lai đều được xây dựng trên đất đồi điển hình
(trừ khảo nghiệm tại Bầu Bàng) có địa hình khá bằng phẳng, độ dốc thấp từ 5 o
đến 7o
Bảng 3.3. Tính chất vật lý, hóa học đất khu vực nghiên cứu
Địa

Chất dễ tiêu

Thành phần cơ giới (%)

điểm

Độ

pH

Mùn


Đạm

nghiên

sâu

KCl

(%)

(%)

P2O5

K2O

2-0.02

0-10
11-30
31-50
0-10
11-30
31-50
0-20
20-40
40-60

3,5
3,5

3,6
4,1
4,12
4,22
3,94
4,04
4,07

3,7
2,62
1,59
2,07
0,93
0,6
1,44
1,02
0,88

0,16
0,14
0,12
0,19
0,1
0,67
4,20
3,50
2,80

2,22
1,65

1,42
2,9
3,8
3
4,23
1,34
1,06

7,24
6,11
5,43
8,9
3,2
3,6
7,35
4,66
2,58

30,1
32,3
36,5
29,27
20,21
35,23
71,00
74,85
76,23

cứu


Ba Vì
Cam
Lộ
Bầu
Bàng

0.020.002
41,1
34,9
30,7
48,26
45,02
36,62
13,15
11,36
10,79

<0.002
28,8
32,9
32,8
22,47
34,77
28,15
15,85
13,79
12,98

+ Đất đai tại Ba Vì (Hà Nội) có độ phì kém, dạng đất ferralit màu nâu vàng
phát triển trên các loại đá sỏi sạn kết, có độ chua tương đối lớn (pH KCl = 3,5),

tầng đất mỏng (<50cm), đào xuống sâu sẽ có hiện tượng kết von. Ngoài ra đất
ở Ba Vì còn bị thoái hóa rất mạnh và có hiện tượng đá ong hóa, chính vì thế,
đất có hàm lượng nhôm trao đổi khá cao, đất nhiều đá lẫn với thực bì chủ yếu
là Sim, Mua, cây bụi…
+ Cam Lộ, Quảng Trị thuộc vùng Bắc trung bộ, dạng đất đặc trưng ở khu vực
này là đất ferralit đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét với độ pH KCl từ


24

4,1 đến 4,22. Tầng đất còn khá dày (>1m), ít bị đá ong hóa, ít đá lẫn với thực
bì chủ yếu là sim, mua, cây bụi. Nhìn chung, điều kiện đất đai ở các khảo
nghiệm tại Cam Lộ, Quảng Trị có độ phì không cao, song có thành phần cơ
giới trung bình nên cây sinh trưởng tương đối thuận lợi.
+ Tại Bầu Bàng, Bình Dương, đặc trưng cho vùng thấp nhiệt đới đất phù sa
cổ, tầng dày, độ cao 50 m. Địa hình bằng phẳng, thoát nước tốt, tầng đất mặt
bị rửa trôi nhiều chất dinh dưỡng. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, hàm lượng
cấp hạt cát là chủ yếu. Đất có phản ứng chua, độ no bazơ nhỏ hơn 50%. Hàm
lượng mùn ở mức trung bình - khá, lân tổng số, lân dễ tiêu và kali trao đổi đều
nghèo.


25

Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Khảo nghiệm giống lai là một trong những biện pháp quan trọng nhằm
chọn ra những tổ hợp lai và cá thể cây lai tốt nhất cho các bước chọn giống
tiếp theo.
Trong lâm nghiệp, do cây rừng có đời sống dài ngày, không thể tạo ra

các dòng thuần làm cây bố mẹ, khi lai những cây bố mẹ không thuần kết này
(đặc biệt khi lai khác loài) sẽ tạo ra cây lai F1 có kiểu gen khác nhau, có đặc
điểm hình thái giải phẫu và tính chất sinh lý sinh thái khác nhau ngay trong
một tổ hợp lai. Vì thế khi khảo nghiệm đánh giá giống lai một mặt để biết giá
trị của từng tổ hợp lai nhằm chọn ra các tổ hợp lai có giá trị nhất, phù hợp
nhất với yêu cầu chọn giống, mặt khác, trong một số trường hợp khác, là tiếp
tục chọn cây cá thể ưu trội có kiểu hình tốt nhất đáp ứng yêu cầu chọn giống
để tiếp tục khảo nghiệm dòng vô tính là hết sức cần thiết.
Kết quả nghiên cứu của đề tài bước đầu đánh giá những chỉ tiêu sinh
trưởng, và chất lượng thân cây của tổ hợp lai Bạch đàn pellita với Bạch đàn
urophylla và Bạch đàn camaldulensis tại các khảo nghiệm giống lai. Từ đó
chọn lọc được những dòng vô tính có sinh trưởng và chất lượng thân cây tốt
nhất, làm vật liệu cho các bước chọn giống tiếp theo.
Mục tiêu nghiên cứu trong đề tài này mới chỉ giải quyết được một phần
trong nghiên cứu cải thiện giống bạch đàn lai, đó là khảo nghiệm đánh giá tổ
hợp dựa trên tiêu chí về sinh trưởng để chọn ra cá thể/dòng bạch đàn lai phục
vụ nghiên cứu chọn lọc dòng.
4.1. Nghiên cứu biến dị về sinh trưởng và chất lượng thân cây của các tổ
hợp lai và các nhóm tổ hợp lai tại Ba Vì (Hà Nội), Cam Lộ (Quảng Trị),
Bầu Bàng (Bình Dương)


×