Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Đề xuất các giải pháp liên quan đến xây dựng  và  phát triển thị  trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 37 trang )



LỜI MỞ ĐẦU 



5.  Kết cấu của luận văn 
§  Lời mở đầu. 
§  Chương  1:  Tìm  hiểu những  rủi  ro  gặp  phải  do  biến  động  giá đến  sản  xuất 

1.  Lý do chọn đề tài 
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới, 
kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của quốc 
gia.  Thế  nhưng  hiện  nay  ngành  cà  phê  Việt  Nam  vẫn  tồn  tại  những  phương  thức 
kinh doanh mua bán cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế 
giới, nền sản xuất trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá 
này được người mua là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn” 
cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nước ta. Để có thể khắc phục điểm yếu và nâng 
cao khả năng chủ động trong sản xuất, ổn định lợi nhuận không chỉ của các doanh 
nghiệp  kinh  doanh  cà  phê  mà  còn  của  người  nông  dân  thì  việc  xây  dựng  và  phát 
triển thị trường giao sau cà phê  là một trong những giải pháp khả thi và hữu hiệu 
trong việc phòng ngừa rủi ro biến động giá. 
2.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Đề tài nghiên cứu tập trung vào sản phẩm cà phê nhân thô, tìm hiểu những 
tồn tại vướng mắc trong các khâu thuộc quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tìm ra 
những giải pháp dựa trên việc ứng dụng hợp đồng giao sau để giảm thiểu tác động 
biến động giá cà phê, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người nông dân. 
3.  Phương pháp nghiên cứu 
Bằng phương pháp phân tích nghiên cứu, tổng hợp thông tin từ  các tài liệu, 
sách báo, Internet có liên quan đến ngành sản xuất kinh doanh cà phê, các công cụ 
phái sinh, để cho thấy tổn thất của ngành kinh doanh cà phê do ảnh hưởng của biến 


động giá và tác dụng của chiến lược phòng ngừa rủi ro biến động giá thông qua hoạt 
động của thị trường giao sau. 
4.  Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 
Dựa trên tình hình thực tế của ngành sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam, 
đề  tài  đề  xuất  một  số  giải  pháp  khả  thi  trên  nền  tảng  xây  dựng  và  phát  triển  thị 
trường giao sau để giảm ảnh hưởng xấu của biến động giá cà phê đến ngành này.

nông nghiệp, đồng thời tìm hiểu về vai trò của thị trường giao sau. 
§  Chương 2: Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng 
ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam. 
§  Chương  3:  Đề  xuất  các  giải  pháp  liên  quan đến  xây  dựng  và  phát  triển  thị 
trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê. 
§  Kết luận






CHƯƠNG I: RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ VÀ VAI TRÒ CỦA 

càng tăng trong khi giá nông sản đầu ra lên xuống thất thường. Ở trường hợp nào đi 

THỊ TRƯỜNG GIAO SAU 

chăng nữa thì người nông dân luôn phải chịu thiệt thòi nhiều nhất. 
Đối với các doanh nghiệp chế biến, nhà xuất khẩu nông sản cũng sẽ gặp rủi 
ro  tương  tự  như  người  nông  dân  nếu  như  họ  thu  mua  nông  sản,  thu  mua  nguyên 

1.1.  Rủi ro biến động giá cả đối với người sản xuất (nông nghiệp) 


liệu, chế biến  rồi  lưu  kho  để  tiêu  thụ hoặc  xuất khẩu  mà  không  có hợp đồng mua 

Đối với người sản xuất, rủi ro biến động giá cả là loại rủi ro đáng lo ngại và 

trước nguyên liệu với người cung cấp với giá ấn định (vì lúc mua giá có thể đang 

ảnh hưởng nhiều nhất đến thu nhập của họ. Rủi ro biến động giá cả hàng hóa xuất 

lên) cũng như không có hợp đồng bán trước với người tiêu thụ với giá ấn định (vì 

hiện khi giá sản phẩm xuống thấp hoặc giá đầu vào tăng sau khi người sản xuất đã 

lúc  bán  giá  có  thể  đang  xuống)  thì  khi  giá  cả  mặt  hàng  đó  biến  động,  có  thể  đẩy 

quyết định đầu tư. Rủi ro do biến động giá hầu như xuất hiện ở mọi lĩnh vực kinh 

doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ nặng nề. Nhiều doanh nghiệp vừa ký hợp đồng 

doanh bao gồm cả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. 

bán hàng xong, giá cả biến động tăng, tiền thu về không còn đủ để mua lại số hàng 

Đối với người nông dân, khi họ bắt đầu gieo trồng thì tất cả đều hy vọng đến 

tương tự vừa bán dẫn đến thua lỗ. Những biến động không thể dự đoán trước của 

khi thu hoạch sẽ có sản lượng cao, chất lượng tốt và đặc biệt là giá bán ra bằng hay 

giá  hàng hóa  không những  có  thể  ảnh hưởng  đến  kết quả  kinh doanh mà  còn  ảnh 


tốt hơn thời vụ trước. Không ai muốn tiếp tục nuôi trồng các cây con mà giá cả đã 

hưởng đến thị phần, sức cạnh tranh và thậm chí là cả sự tồn tại của DN nếu điều đó 

liên tục rớt trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, sản lượng và chất lượng sản phẩm lại 

xảy ra trong một thời gian dài. 

chịu  ảnh  hưởng  nhiều  bởi  biến  động  giá  theo  quan  hệ  cung  ­  cầu  cũng  như  ảnh 

Như vậy cả nông dân, các thương lái, nhà chế biến và nhà xuất khẩu đều phải 

hưởng bởi giá cả đầu vào và các yếu tố bất lợi khác như thời tiết, sản lượng của các 

quan tâm đến việc quản lý rủi ro về giá đối với sản phẩm hàng hoá của mình để hạn 

nước có diện tích canh tác lớn... Ở các nước đang phát triển, người nông dân luôn 

chế thiệt hại đến mức tối đa và thu được lợi nhuận cao nhất. 

trong  thế bị động,  không biết  trước đầu  ra  của  sản phẩm,  cũng như giá cả  và nhu 

Chính  vì  vậy  họ  cần  có  những  công  cụ  phòng  ngừa  để  đạt  được  mục  tiêu 

cầu của thị trường, phần đông trông chờ nhiều vào sự may rủi và phụ thuộc nhiều 

giảm  thiểu  rủi  ro  biến  động  giá,  một  trong  những  công  cụ  hữu  hiệu  đã  được  các 

vào hoạt động thu mua của các thương lái. Đa phần nông dân sản xuất và tiêu thụ 


nước phát triển ứng dụng từ lâu đó là thực hiện giao dịch các hợp đồng giao sau trên 

nông  sản  theo  tập  quán  lâu  đời.  Họ  dốc  vốn,  công  sức  đầu  tư  trong  nhiều  tháng, 

sàn giao dịch giao sau. Chính nhờ có hợp đồng mua, bán trước với giá ấn định và 

thậm chí nhiều năm để làm ra một loại hàng hóa chưa biết chắc giá cả, không rõ sẽ 

giao hàng sau mà các bên có thể hạn chế đến mức tối đa rủi ro về biến động giá nhờ 

bán cho ai. Vì vậy, cả khi người nông dân đã thu hoạch xong lúa, cà phê, hạt tiêu, 

cơ chế hoán đổi và lựa chọn mà sàn sẽ trực tiếp điều hành. Điều này không thể có 

thuốc lá, ngô, đậu tương, cao su… thì cũng vẫn gặp phải rủi ro về giá nếu như lúc 

được trong thị trường truyền thống khi thực hiện việc giao hàng ngay theo phương 

đó giá thị trường đang xuống mà chưa bán hết được hàng. 

thức mua đứt bán đoạn thì giá bán chỉ là giá cao vào thời điểm đó, nhưng sau đó các 

Bên cạnh đó còn có  yếu tố do con người gây nên  ­ đó là tình trạng sản xuất 

cơ hội giá có lợi hơn sẽ phải bỏ qua vì hàng đã bán rồi, hoặc nếu ký gửi để bán hộ 

theo phong trào không tính đến giá cả sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian tới. 

thì người bán phải thanh toán tiền lưu kho, tiền bảo quản… và vẫn có thể bị ép giá 


Người nông dân đứng trước một mâu thuẫn là khi được mùa thì giá rớt dẫn tới lỗ, 

do người mua cố tình gây ra. Như vậy nhờ chức năng quản lý rủi ro về giá (đây là 

mất mùa thì giá cao nhưng lại không có hàng để bán. Giá đầu vào có xu hướng ngày

chức  năng  quan  trọng  nhất  mà  thị  trường  giao  sau  thực  hiện  được)  và  nhờ  kinh






doanh tập trung có tổ chức với khối lượng giao dịch lớn thông qua các sàn giao dịch 

Điều khác biệt tiếp theo là ở các đặc điểm của hợp đồng giao sau như: giá 

trên khắp thế giới mà thị trường giao sau đã mang lại lợi ích trực tiếp cho các thành 

cả,  trung  tâm  thanh  toán  bù  trừ,  nghiệp  vụ  phòng  ngừa  rủi  ro  biến  động  giá,  đầu 

phần tham gia cũng như góp phần bình ổn giá cả, tạo ra môi trường kinh doanh lành 

cơ… 

mạnh. 
Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về thị trường giao sau với 
cách thức giao dịch như thế nào? Chức năng của nó trong hệ thống tài chính?... 


1.2.1.  Giá cả và các yếu tố quyết định 
Giá cả được quyết  định  bởi  các điều  kiện  cung cầu,  nếu  trên  thị  trường có 
nhiều người mua hơn người bán, giá hàng hóa sẽ tăng lên nhanh chóng, ngược lại 

1.2.  Tổng quan về thị trường giao sau 
Thị trường giao sau là nơi mà hàng hóa được giao dịch tập trung tại một sàn 

trên  thị trường mà  người mua  ít hơn người bán,  giá  sẽ  giảm. Vậy  từ  đâu mà hình 
thành nên các điều kiện cung cầu. 

giao dịch, trong đó người bán và người mua gặp nhau trên thị trường với một mức 

Đó là do các lệnh đặt mua và bán khắp nơi trên thế giới đổ về và được tập 

giá được chấp nhận và hàng hóa được chuyển giao khi đến một ngày đặc biệt được 

trung tại sàn giao dịch hàng hóa. Những lệnh này khi được nhập vào sàn giao dịch 

ấn định  trong  tương  lai.  Tất  cả  giao  dịch đều  được  thông qua một  trung  gian môi 

thì sẽ trở thành các hợp đồng giao sau với những điều kiện ràng buộc nhất định giữa 

giới của sàn với những tiêu chuẩn khắt khe về số lượng và chất lượng của hàng hóa. 

bên bán và bên mua. Đối với các hợp đồng khác thì giá cả được hình thành trên mặt 

Hàng hóa ở đây bao gồm hàng hóa thông thường như lúa mì, cà phê, cao su,… và 

bằng chung là thỏa thuận, nhưng giao dịch giao sau thì không, nó có nhiều hệ thống 


hàng hóa tài chính như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, vàng, ngoại tệ, đồng, bạc,… 

đấu giá được kết nối với bảng điện tử của sàn, những giá này được tự do đặt theo ý 

Thị trường giao sau rất khác biệt so với thị trường giao ngay và thị trường kì 

muốn  chủ  quan  của  nhà  đầu  tư  và  được  chuyển  đến  sàn  thông  qua  hệ  thống máy 

hạn. Trước tiên là khác biệt về ngày giao hàng, trong giao dịch giao ngay là mua đứt 

tính kết nối. Sự đặt giá này được đặt trong một khoản thời gian quy định, đây được 

bán đoạn, còn hợp đồng giao sau là giao vào một ngày thỏa thuận trước với mức giá 

gọi là giờ giao dịch. Theo đó sẽ có nhiều loại lệnh khác nhau được đặt tùy vào tính 

định  trước. Tiếp  đến  là  cách  thức  giao dịch, hợp đồng  giao sau  thường được  giao 

chất đầu tư của cá nhân, ví dụ như lệnh thị trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng lỗ… 

dịch trên một sàn giao dịch chính thức mang đầy đủ tính pháp lý, người bán, người 

Chính vì cơ chế đấu giá và cơ chế vận hành của thị trường giao sau đã làm 

mua cần phải thực hiện kí quỹ trên tài khoản phong tỏa để đảm bảo thực hiện nghĩa 

giá cả hàng hóa phản ánh đúng giá trị thực của nó. Mặt khác nếu lạm dụng thì sẽ 

vụ trong giao dịch. Trên thị trường này có thể tóm gọn lại chỉ có hai chủ thể, một là 


gây ảnh hưởng lớn đến hiện tượng đầu cơ giá, tất nhiên luật định sẽ tạo nhiều cản 

người tham gia phòng ngừa (hegding), họ luôn muốn hàng hóa được bảo hiểm giá 

trở cho các hoạt động đầu cơ  giá đó, nhưng tất cả vẫn phải đảm bảo mục đích cơ 

trước sự biến động khôn lường của thị trường. Hai là người đầu cơ (speculator), họ 

bản của sàn giao dịch giao sau là cung cấp cho các thành viên có thể tự do mua bán 

luôn muốn  kiếm  lợi nhuận dựa  trên dự  đoán chủ quan  về  giá  cả  thị  trường, họ  sẽ 

các loại hàng hóa khác nhau vì mục đích lợi nhuận. Đồng thời sàn này được hoạt 

chốt lời hoặc chốt lỗ bằng cách chốt “vị thế” mua­bán  trong thị trường, số tiền họ 

động vì mục đích phi lợi nhuận, nhưng mọi giao dịch thông qua sàn cần phải qua 

được hoặc mất sẽ không vượt quá giá trị kí quỹ phong tỏa. Trên thực tế, có 2% hợp 

một trung tâm môi giới, tất nhiên nhà đầu tư phải trả một khoản phí hoa hồng nhất 

đồng  đã  thỏa  thuận  được  chuyển  giao,  kết  thúc  “vị  thế”  mua­bán  luôn  được  lựa 

định cho trung tâm này.

chọn nhiều khi đầu tư trên thị trường hàng hóa giao sau.







Ngoài ra, tại sàn giao dịch luôn có một sự hiện diện không thể thiếu của một 

nhà đầu tư lỗ trong giao dịch và số tiền kí quỹ không đủ thì trung tâm thanh toán bù 

trung tâm, đó là trung tâm thanh toán bù trù. Chính trung tâm này đã điều hành hoạt 

trừ buộc nhà đầu tư phải thực hiện kí quỹ thêm theo đúng hợp đồng. Với điều này 

động của sàn một cách trơn tru và hạn chế sự đầu cơ giá bất hợp pháp của nhà đầu 

sẽ ràng buộc bên mua và bên bán thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và giúp họ biết trước 

tư.  Vậy  trung  tâm này có  chức năng  cụ  thể ra sao?  Và  tầm  quan  trọng  của nó  thể 

khoản lãi lỗ khi đầu tư qua thông báo hằng ngày. 

hiện như thế nào? 
1.2.3.  Ký quỹ 
1.2.2.  Trung tâm thanh toán bù trừ (TTTTBT) 

Để đảm bảo các rủi ro trong giao dịch trên thị trường giao sau và tùy thuộc 

Mọi  nhà  đầu  tư  trên  thị  trường  hàng  hóa  giao  sau  cần  phải  hiểu  rõ  cơ  chế 

vào tính chất đầu tư, hệ thống ký  quỹ sẽ có những quy định ràng buộc khác nhau. 

hoạt động và chức năng của trung tâm thanh toán bù trừ  cũng  như hiểu rõ sự vận 


Chẳng hạn số tiền ký quỹ sẽ khác nhau khá lớn giữa chủ thể phòng ngừa biến động 

hành của thị trường giao dịch giao sau. 

giá (hedging) và chủ thể đầu cơ (speculator), lúc nào chủ thể đầu cơ giá cũng luôn 

Tại mỗi sàn giao dịch đều có một trung tâm thanh toán bù trừ của riêng mình 
để đảm bảo giao dịch được thông suốt. Mọi thành viên trên sàn luôn luôn yêu cầu 
sự rõ ràng trong giao dịch ở cuối mỗi phiên thông qua trung tâm thanh toán bù trừ, 

chịu  mức  ký  quỹ  cao  hơn.  Số  tiền  ký  quỹ  tùy  thuộc  vào  số  lượng  hợp  đồng  và 
những quy định của sàn giao dịch giao sau. 
Tuy nhiên, chỉ có ba loại tài khoản ký quỹ : 

đồng thời các thành viên này phải thực hiện nghiệp vụ ký quỹ phong tỏa bắt buộc ở 

§  Mức  ký  quỹ ban  đầu  (Initial  margin): mức  ký  quỹ  này  do  trung  tâm thanh 

trung tâm thanh toán bù trừ. Đây là yếu tố quy định bắt buộc cho một giao dịch giao 

toán  bù  trừ  tại  London  quy  định  dựa  trên  những  phân  tích  lịch  sử  về  biến 

sau, khoản ký quỹ này sẽ đảm bảo các nhà đầu tư thực hiện đúng nghĩa vụ của một 

động giá cả của các hợp đồng giao sau, nó được xem xét định kỳ, phụ thuộc 

hợp đồng giao sau. 

vào mức độ biến động. Mức ký quỹ ban đầu được áp dụng cho cả trạng thái 


Tùy  vào  số  lượng  hợp  đồng  giao  dịch  mà  sẽ  có  những  quy  định  cụ  thể  về 

trường/đoản trên cơ sở mỗi hợp đồng, và có thể hoàn lại dựa trên tính thanh 

lượng tiền cần ký quỹ và cuối mỗi phiên, trung tâm thanh toán bù trừ sẽ thực hiện 

khoản của các trạng thái. Mức ký quỹ thường chiếm khoảng 10­15% giá trị 

chốt lãi hoặc  lỗ  thông qua  tài khoản này.  Ví  dụ như  tại  cuối phiên  giao dịch, một 

hợp đồng. 

quầy môi giới của một nhà đầu tư báo cáo về trung tâm thanh toán bù trừ như sau: 

§  Mức ký quỹ duy trì (Maintenance Margin) là số dư tối thiểu trên tài khoản ký 

tổng cộng hợp đồng mua giao sau cà phê đã kí kết chuyển giao vào tháng 5 là 100 

quỹ để duy trì một trạng thái mở sau khi đánh giá lại hàng ngày theo giá trị 

tấn, tổng hợp đồng bán giao sau cà phê kí kết chuyển giao vào tháng 5 là 50 tấn, nhà 

thị trường và điều chỉnh lãi lỗ. 

đầu tư này đã có trạng thái “net long” (phòng ngừa vị thế mua) là 50 tấn. Trung tâm 

§  Mức ký quỹ bổ sung (Margin call): khi số dư tối thiểu hoặc số tiền ký quỹ 

thanh toán bù trừ yêu cầu phải mở tài khoản kí quỹ là 2.000.000VNĐ cho một tấn 


ban đầu bị thiếu hụt theo quy định của trung tâm thanh toán bù trừ, các nhà 

thì số tiền bắt buộc kí quỹ là 100.000.000VNĐ. 

đầu  tư  cần  thực  hiện  ký  quỹ  bổ  sung  (margin  call),  khoản  ký  quỹ  bổ  sung 

Thông qua tài khoản kí quỹ, cuối mỗi ngày giao dịch, trung tâm thanh toán 
bù trừ sẽ thực hiện cộng tiền lãi hoặc trừ tiền lỗ vào tài khoản kí quỹ. Hiện tượng 
này diễn ra cho đến ngày kết thúc hợp đồng hoặc kết thúc trạng thái mua­bán. Nếu

được tính  trên  cơ  sở  chênh  lệch  giữa giá  tất  toán  của ngày  hôm nay  và  giá 
đêm hôm trước, được tính toán dựa trên mỗi trạng thái mở.




10 

Đến cuối tháng, giá cà phê trên thị trường giao sau tăng từ 25 triệu VNĐ mỗi 

1.2.4.  Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro biến động giá 
Giao dịch giao sau xác lập được một thị trường mà người mua người bán trao 

tấn  lên 27  triệu  VNĐ.  Công  ty  sẽ  tiến  hành  bán 10 hợp đồng  giao  sau  này  để  kết 

đổi  mua  bán  với  những  mục  đích  khác nhau,  nhưng  chu  vi  lại  thị  trường  chỉ  bao 

thúc  vị  thế  mua  vào  ngày  15/9/2010,  lúc  này  công  ty  đã  tích  lũy  được  khoản  lợi 


gồm hai chủ thể. Một là chủ thể phòng ngừa rủi ro biến động giá (hedging), một là 

nhuận ròng từ bảo hộ trên thị trường giao sau là 200 triệu VNĐ chỉ sau 1 tháng để 

chủ thể đầu cơ (speculator) trong sự biến động giá. 

bù vào chi phí đầu vào gia tăng khi mua giao ngay cà phê. 

Đối  với  chủ  thể  tham  gia phòng ngừa, họ  thường  là những người  sản  xuất, 

§  “Short hedge” – “ phòng ngừa vị thế bán”: một chủ trang trại cà phê dự tính 

chế biến, xuất nhập khẩu hàng hóa… khi giao dịch trên thị trường thường luôn đặt 

bán 50 tấn cà phê sẽ thu hoạch vào tháng sau. Người này muốn chắc chắn sẽ 

mình  ở vị  thế  thích hợp  (phòng ngừa  vị  thế  mua  hoặc phòng  ngừa  vị thế  bán) để 

bán được giá nên đã quyết định bán chúng trên thị trường giao sau để bảo hộ 

phòng  ngừa, bảo hiểm  và hạn  chế  rủi ro  với sự  biến động  giá  không  thể dự đoán 

trường  hợp  giá  cà  phê  trên  thế  giới  giảm  xuống.  Đối  với  sàn  giao  dịch  cà 

được. Trong đó, nghiệp vụ phòng ngừa (hedge) có rất nhiều loại, có thể đơn cử một 

phê, giá trị nhỏ nhất cho mỗi hợp đồng giao sau cà phê được giao dịch là 10 

vài ví dụ như sau: 


tấn. Vì vậy ông ta phải thực hiện bán 5 hợp đồng giao sau cà phê. Bảng dưới 

§  “Long hedge” – “phòng ngừa vị thế mua”: một công ty chuyên xuất khẩu cà 

sẽ cho thấy sự biến động giá và kết quả bảo hộ giá từ hợp đồng này. Trong 

phê nhân đã ký hợp đồng chốt giá bán 100 tấn cà phê cho đối tác nước ngoài. 

đó, cà phê được định giá bằng VND, chi phí giao dịch không đáng kể. Giá cà 

Lo ngại giá cà phê trên thế giới tăng mạnh (do nhiều yếu tố quyết định như 

phê trong tháng ngày một tăng lên, đến 27 triệu đồng mỗi tấn, lúc này nếu để 

cung  cầu,  thời  tiết,  năng  suất…)  sẽ  làm  chi  phí  đầu  vào  tăng  mạnh,  ảnh 

đến hạn ông ta sẽ bị mất khoản tiền khá lớn. Khôn ngoan hơn hết là chốt vị 

hưởng trực tiếp đến sự cạnh tranh giá cả trên thị trường. Chính vì vậy, công 

thế bán, chấm dứt hợp đồng. 

ty  quyết  định  tham  gia  bảo hộ  giá  trên  thị  trường  giao  sau.  Giả  định  rằng, 
công ty muốn mua 100 tấn cà phê trong một tháng kể từ hôm nay, nhà quản 
lý sẽ đặt lệnh mua cà phê bằng hợp đồng giao sau để giảm thiểu rủi ro khi giá 
tăng lên. Theo quy định trên sàn  10 tấn  là tối thiểu cho mỗi hợp đồng giao 

Ngày 

Vị thế 


Ft (triệu đ) 

Tích lũy 

24/8/2010 

Bán 5 HĐ giao sau 

25 

25­Sn 

24/9/2010 

Mua 5 HĐ giao sau 

27 

Tích lũy khi đến hạn 

Sn­27 
50*(25­ 27)= ­150.000 

sau, vì vậy, công ty cần mua 10 hợp đồng giao sau. Trong bảng dưới sẽ cho 
thấy sự biến động giá cà phê và lợi nhuận đạt được của 10 hợp đồng giao sau 
này, giả định các hợp đồng này được định giá bằng VNĐ, Ft là giá giao sau 
của hàng hóa, Sn là giá giao ngay và loại trừ mọi chi phí giao dịch. 
Vị thế 


Ft (triệu đ) 

15/8/2010 

Ngày 

Mua 10 HĐ giao sau 

25 

Sn – 25 

15/9/2010 

Bán 10 HĐ giao sau 

27 

27 – Sn 

Tích lũy khi đến hạn 

Tích lũy 

100*(27 – 25) = 200

1.2.5.  Nghiệp vụ đầu cơ trên thị trường giao sau 
Thị  trường  giao  sau  luôn  tồn  tại  tính  công  bằng  trong  giao  dịch,  đối  với 
những nhà kinh doanh tham gia phòng ngừa biến động giá, họ có thể bán hàng hóa 
ở mức giá tốt hơn hoặc loại bỏ vị thế trên thị trường giao sau để giao dịch hàng hóa 

trên  thị trường giao ngay.  Với  những  khoản  tiền  bị mất  do dự  đoán  giá hàng  hóa 
giao sau sẽ được chuyển tiếp cho những nhà đầu cơ, những người dám cược chiều


11 

12 

ngược  lại của  giá  hàng hóa.  Họ cũng  chính  là  thành phần  không  thể  thiếu của  thị 

vệ các loại hàng hóa truyền thống và cũng là một trong những công cụ đầu tư hữu 

trường. 

hiệu  nhất  trong  ngành  tài  chính.  Thị  trường  giao  sau  hiện  nay  hoạt  động  liên  tục 

Có thể lấy một ví dụ đơn giản. Thị trường sản phẩm dầu thô giao ngay đang 

thông qua hệ thống Globex nối liền 12 trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Sự thay 

từng ngày tăng giá, cùng với các yếu tố vĩ mô khác, nhà đầu cơ dự đoán rằng trong 

đổi  giá  cả  của  các  loại  hàng  hóa  chuyển  biến  từng  giây  một  và  gây  ảnh  hưởng 

một tháng tới, giá dầu thô sẽ tiếp tục tăng lên nên đã mua 10 hợp đồng giao sau trên 

không chỉ đến nền kinh tế của một quốc gia mà cả khu vực và toàn thế giới. 

thị trường NYMEX, mỗi hợp đồng là 1.000  barrels (barrels là đơn vị tính của dầu 


Tuy nhiên trước khi thị trường giao sau phát triển và phổ biến rộng rãi như 

thô). Đến khi đáo hạn nhà đầu cơ này đã bị lỗ 20.000 USD, tuy nhiên, khoản lỗ này 

hiện nay thì trước đó đã xảy ra rất nhiều tranh cãi giữa những nhà kinh tế học về lợi 

đã được trừ theo từng ngày giao dịch với tài khoản ký quỹ, nên có thể theo dõi sát 

ích và rủi ro mà thị trường này mang lại. Thị trường giao sau cũng từng bị cáo buộc 

tình hình biến động lỗ lãi. Ngoài ra, trong đa số trường hợp trên nhà đầu cơ thường 

là nguyên nhân gia tăng nạn đầu cơ gây biến động giá cả khôn lường và không cần 

cắt lỗ của hợp đồng bằng cách đóng trạng thái vị thế. 

thiết, những người này cũng đồng thời cho rằng thị trường giao sau chỉ có lợi cho 

Ngày 

Vị thế 

Ft 

Tích lũy 

3/8/2010 

Mua 10 HĐ giao sau 


$36 

Sn­$36 

3/9/2010 

Ban 10 HĐ giao sau 

$34 

$34­Sn 

Tích lũy khi đến hạn 

10.000*($34­$36)=­20.000 

nhà đầu cơ thao túng giá cả và đi ngược lại lợi ích của người nông dân và người tiêu 
dùng,  các  cáo  buộc  cho  rằng  nó  không  chỉ  bóp  méo  giá  cả  mà  còn  tiếp  tay  cho 
những hoạt động phi pháp để làm giàu, do đó đã có một số nước trong thời kỳ đầu 
đã thực thi lệnh cấm giao dịch giao sau đối với một số loại hàng hóa nhất định, điển 
hình là  Ấn Độ  trong  các thập niên 50 và 60. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho 

Theo nhiều nhận định, đầu cơ trên thị trường giao sau  chẳng khác nào một 

rằng thị trường giao sau là công cụ đắc lực trong việc kiểm soát giá cả, ổn định sản 

trò cờ bạc. Điều này không đúng bởi một trò cờ bạc sẽ không tạo được một giá trị 

xuất và quyết định đầu tư trong nền kinh tế. Nếu dựa vào mức độ  tranh luận giữa 


hàng hóa cho nền kinh tế mà luôn đối diện với nhiều rủi ro. Hoạt động đầu cơ được 

những nhà phê bình với những người ủng hộ thị trường giao sau để cân nhắc lợi ích 

luật pháp công nhận và nhà đầu cơ có thể lựa chọn chuyển giao hàng hóa khi đến 

và rủi ro của nó sẽ là một nhiệm vụ không dễ dàng nếu không có những bằng chứng 

hạn hoặc kết thúc vị thế bằng các hợp đồng ngược hợp đồng ban đầu, từ đó sẽ đánh 

thực  nghiệm.  Trong  phần  dưới  chúng  ta  sẽ  đi  tìm  hiểu  một  số  nghiên  cứu  thực 

giá chính xác lượng cung cầu thực sự của thị trường hàng hóa. Cũng nhờ các hoạt 

nghiệm của các nhà kinh tế học nhằm giải đáp những câu hỏi liên quan đến lợi ích 

động đầu cơ (dĩ nhiên là hoạt động trong khuôn khổ quản lý của pháp luật) đã tăng 

và rủi ro của thị trường hàng hóa giao sau. 

thêm tính thanh khoản cho các hợp đồng giao dịch trên thị trường này. 

Học giả Pavaska (1970) cho rằng các nhà phê bình đã sai lầm khi cho rằng 
các nhà đầu cơ làm trầm trọng sự tăng giá bằng cách kiếm lợi nhuận trong thời gian 

1.3.  Lợi  ích  và  rủi  ro  của  thị  trường  giao  sau  từ  những  nghiên  cứu  thực 

dài trên thị trường giao sau. Ông cho rằng sự thiếu vắng cơ chế thị trường giao sau, 

nghiệm trên thế giới 


mức  độ  biến  động  giá  giao  sau  tương  ứng  có  thể  khiến  các  thương  nhân  và  các 

Thị trường giao sau đầu tiên trên thế giới ra đời tại thành phố Chicago (Hoa 
Kỳ). Ngày nay, thị trường giao sau đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản 
ban đầu, với những lợi ích rõ ràng của mình, nó trở thành công cụ tài chính để bảo

thành phần khác lo tích trữ hàng hóa, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá cả 
hơn so với bất kỳ một tác động nào khác của những giao dịch giao sau hợp pháp.


13 

14 

Trái với quan điểm ủng hộ việc chính phủ thực hiện cấm các giao dịch giao 

Bằng  chứng  thực  nghiệm  của  ông  cho  thấy  rằng  thị  trường  sữa,  một  sản 

sau làm ảnh hưởng xấu đến giá giao ngay, nhà kinh tế học Naik, AS (1970), trong 

phẩm  rất  dễ  hư  hỏng  và  không  có  giá  giao  sau  thì  việc  phân  bổ  nguồn  lực  trong 

cuốn sách của mình có tên là "Ảnh hưởng của Giao dịch giao sau lên giá cả", đã cho 

nông  nghiệp  là  khá  hiệu  quả.  Mặt  khác,  thị  trường  bông  hoặc  lúa  mì  là  loại  sản 

thấy rõ ràng rằng sự biến động giá là cao hơn khi không có thị trường giao sau so 

phẩm có thể để lâu và ít tốn chi phí tồn trữ với các dự báo giá giao ngay và giao sau 


với giá khi có thị trường giao sau. Cô đã dẫn chứng bằng ba cây trồng như đay, hạt 

phát triển  cao  thì việc  tối ưu hóa  các nguồn  lực  sử dụng để  trồng 2  loại  cây  quan 

lanh và lạc. Theo đó  cô  tiến hành xem xét giai đoạn 1951­1952 đến 1965­1966 và 

trọng này lại  kém  hiệu quả hơn.  Tóm lại, ông  kết  luận rằng  đối  với  các hàng hóa 

chia thành hai mốc quan trọng ­ (i) khi nền kinh tế không có hoặc có rất ít các giao 

nông nghiệp có thể để lâu thì sự biến động giá càng cao. Ông cũng nói rằng đối với 

dịch giao sau và (ii) khi nền kinh tế có các giao dịch giao sau hiệu quả. Cô đã tính 

loại hàng hóa này,  cả giá giao ngay và giá giao sau đều không có ý nghĩa đối với 

toán được rằng tỷ lệ phần trăm của tần suất xuất hiện biến động giá thấp tương ứng 

nông  dân  trong  việc  lập  ra  kế  hoạch  sản  xuất  cũng  như  giá  giao  ngay  đối  với  thị 

với những năm mà các giao dịch giao sau có hiệu quả thì cao hơn những năm không 

trường của các sản phẩm nông nghiệp dễ hư hỏng. 

có giao dịch giao sau (phụ lục III, các trang 99­105). 

Tuy nhiên khám phá của Schultz đã có một vài sai sót bởi vì trong hệ thống 

Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí, V. Jayashankar ­ Chủ tịch Hội đồng 


thị  trường  giao  sau, hợp đồng được  ký  trước  và  hàng  hóa được  cung  cấp sau  vào 

Gia vị Ấn Độ ­ đã nói rằng "giá cả hàng hóa biến động nhiều hơn khi không có thị 

một  ngày  cụ  thể.  Như  vậy,  trong  trường  hợp  người  bán  có  đầy  đủ  hiểu biết  hoặc 

trường giao sau". Để minh họa cho quan điểm của mình, ông chỉ ra rằng "sự biến 

thông tin về số lượng và chất lượng hàng hóa như vậy sẽ được bán ở mức giá nào, 

động  của  giá  bột  nghệ  đã  được  giới  hạn  ở  mức  thấp  nhất  theo  sau  sự  tồn  tại  thị 

dựa vào đó ông ta có thể phân bổ lại nguồn lực của mình để gia tăng sản xuất nhằm 

trường  giao  sau  ở  Sangli,  Maharashtra, nơi mà  biến  động  giá  cả  cao  hơn so với  ở 

đáp ứng theo hợp đồng. Nghĩa là người sản xuất có thể phòng ngừa cho lượng hàng 

Chili [Nền tảng lợi ích của giao dịch hàng hóa giao sau, PTI New Delhi, ngày 12 

hóa ông ta đang sản xuất ở thời điểm t và bán giao sau tại thời điểm t +1 khỏi những 

tháng 10 năm 1998]. 

rủi  ro  tổn  thất  giá  trị  và  bảo  vệ  lợi  nhuận  bằng  cách  chuyển  những  rủi  ro  đó  cho 

Một giảng viên đại học tại Ấn Độ, ông Basab Dasgupta đã xây dựng một mô 

người khác.  Do đó,  khoản  phí ông ta  phải  thanh  toán  để  ngăn chặn hàng hóa  của 


hình lý thuyết để giải quyết các vấn đề được đề cập ở trên và đưa ra câu trả lời cụ 

mình khỏi những rủi ro phụ thuộc vào xác suất xảy ra rủi ro và đơn giá phòng ngừa. 

thể. Trước khi xây dựng các mô hình để mô tả vai trò của thị trường giao sau, ông 
cũng đã đề cập đến một số lý thuyết và kết quả thực nghiệm có ảnh hưởng đến nó. 

Masahiro Kawai (1983) trình bày một mô hình lý thuyết giải thích ảnh hưởng 
của thị trường hàng hóa giao sau lên quá trình hình thành giá và lợi ích  chung của 

T.W. Schultz  (1949) dựa  và 3  tiêu  chí  dưới đây  để  tìm  ra tác  động  của  giá 

toàn xã hội trên nền tảng những kỳ vọng hợp lý. Ông đã tính  toán  ảnh hưởng của 

nông  sản  lên  các  quyết  định  sản  xuất  thông  qua  mức  độ  phân  bổ  và  sử  dụng  các 

giá giao ngay lên sản xuất và sau đó dẫn giải khả năng của thị trường giao sau trong 

nguồn lực. 

mô hình. Ông đã chỉ ra rằng mức độ tối ưu của sản xuất chỉ phụ thuộc vào giá cả 

(1) Những cam kết về nguồn lực cho tương lai lâu dài 

giao sau và hệ số chi phí. Theo ông, số lượng hợp đồng giao sau được xác định bởi 

(2) Những cam kết cho tương lai gần 

mức tối ưu của sản xuất và đầu cơ phản ánh sự khác biệt giữa kỳ vọng chủ quan của 


(3) Vị thế giao ngay chứa đựng những quyết định chỉ liên quan đến một phần 

nhà  sản  xuất  về  giá  giao  ngay thời  gian  tới  và  giá  giao  sau  tương  ứng.  Kawai đã 

nhỏ của cả giai đoạn sản xuất.

không xem xét đến  tác động của những biến động trong kế hoạch sản xuất đến  thị


15 

16 

trường  giao  sau.  Hơn  nữa,  những  quyết  định  trong  sản  xuất  được  thực hiện  hoàn 

Mô hình của Basab Dasgupta là một phần mở rộng của mô hình LMH nhưng 

hoàn toàn độc lập với những quyết định về giao dịch giao sau bất chấp rủi ro và xác 

phức tạp hơn nhiều. Trong mô hình này, ông không chỉ xem xét những mặt hàng có 

suất của giá giao ngay. Ông cũng lập luận rằng nhà sản xuất sử dụng hợp đồng giao 

thể lưu trữ mà bao gồm các biến động sản xuất. Kết quả là, quyết định sản xuất của 

sau không chỉ để phòng ngừa rủi ro biến động giá mà còn để tìm kiếm cơ hội đầu 

nhà  cung  cấp  không  chỉ  phụ  thuộc  vào  giá  giao  sau  kỳ  vọng  mà  còn  cả  các  biến 


cơ. 

động  sản  xuất  dự  kiến  ảnh hưởng  đến  quyết  định phân bổ  nó  cho  thị  trường  giao 
Quay trở lại mô hình của Basab Dasgupta, biến động trong sản xuất đóng vai 

ngay và giao sau. 

trò quan trọng trong sự hình thành sản xuất cũng như quyết định thị trường giao sau. 

Nói tóm lại, qua rất nhiều tranh luận thông qua những mô hình lý thuyết và 

Xem xét biến động trong thị trường hàng hóa giao sau  là rất quan trọng trong bối 

bằng chứng thực nghiệm của các nhà kinh tế học, cho đến nay thị trường giao sau 

cảnh của hầu hết các nước đang phát triển. Sự bất ổn trong sản xuất nông nghiệp là 

đã chứng minh được lợi ích của mình trong việc cung cấp công cụ phòng ngừa rủi 

một hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển bởi vì sự phụ thuộc vào thời tiết 

ro biến động giá cho các nhà sản xuất, đương nhiên trong thị trường này vẫn tồn tại 

­ một yếu tố ngẫu nhiên. 

những rủi ro là sự phát triển mạnh của các nhà đầu cơ, tuy nhiên các chính phủ chỉ 

Kết quả là sự bất ổn định cao của giá các mặt hàng nông nghiệp dẫn đến thu 

cần  kiểm  soát  hoạt  động  này  trong  khuôn  khổ  luật  pháp  cho  phép  thì  nó  không 


nhập  nông  nghiệp  không  đảm  bảo.  Nhiều  chính  phủ  đã  có  biện  pháp  chính  sách 

những không gây hại cho nền kinh tế mà còn có tác dụng làm tăng tính thanh khoản 

khác nhau theo thời gian để giảm biên độ biến động giá để giảm bất lợi cho người 

cho thị trường này. 

sản  xuất  và người  tiêu dùng.  Những biện pháp,  chính  sách  bao gồm  can  thiệp  giá 
trực tiếp như ấn định giá hỗ trợ tối thiểu, dự trù giá và kiểm soát giá cả, những hợp 
đồng giao sau trên nền tảng tương tự cũng được coi là một trong những công cụ như 
vậy. 

1.4.  Thực trạng ứng dụng Hợp đồng Giao sau trên thế giới 
1.4.1.  Thực trạng Giao sau trên thế giới 
Thế giới ngày nay đang bước vào nền kinh tế toàn cầu hóa. Bất kỳ  sự thay 

Lapan,  Moschini  và  Hanson  (LMH)  (1991)  đã  phân  tích  việc  sản  xuất  và 

đổi nào của tình hình kinh tế thế giới cũng đều ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc 

quyết định phòng ngừa rủi ro của một công ty trên cả hai thị trường giao sau và thị 

gia.  Ngược  lại,  sự  chuyển biến  trong nền  kinh  tế quốc  gia  cũng  tác động đến  tình 

trường quyền chọn bằng cách sử dụng mô hình tối ưu hóa kỳ vọng. Với các giả định 

hình kinh tế trong khu vực hay trong phạm vi thế giới. 


rằng các hàng hóa được giả định là có đặc tính không thể dự trữ, họ đã chứng minh 

Toàn  cầu  hóa  mang  lại  nhiều  thuận  lợi  nhưng  đồng  thời  cũng  mang  đến 

rằng giá giao sau và chênh lệch giữa nó với giá giao ngay là nguồn gốc duy nhất của 

nhiều khó khăn. Những khó khăn đó chính là rủi ro có thể nhận thấy và rủi ro tiềm 

tính không ổn định. Các tác giả cũng chỉ ra rằng đầu ra phụ thuộc vào giá giao sau 

ẩn. Các rủi ro này tồn tại một cách ngẫu nhiên trong tất cả quá trình sản xuất, kinh 

tại thời điểm hiện tại chứ không phụ thuộc vào giá giao sau tại thời điểm kết thúc 

doanh, quản lý. Chúng hoàn toàn có thể làm cho nhà đầu tư mất sạch tiền, công ty 

hợp đồng (Lapan HG, Moschini và S. Hanson năm 1991, trang 66­74). 

phá sản và nền kinh tế của một quốc gia suy sụp. Đối mặt trước những nguy cơ đó, 

Cả  Kawai  và  LMH đều  cho  rằng quyết  định sản  xuất không phụ  thuộc  vào 

các  phái  sinh  tài  chính  như  hợp  đồng  giao  sau  (Futures),  hợp  đồng  quyền  chọn 

giá giao sau nhưng họ hầu như đã bỏ qua các quyết định tồn trữ hàng hóa bằng cách 

(Option),  hợp  đồng  hoán  chuyển  lãi  suất  (Swap)…  ngày  càng  được  sử  dụng  một 

giả định rằng hàng hóa không thể lưu giữ.


cách rộng rãi trên toàn thế giới như là những công cụ chủ  yếu và không thể thiếu


17 

18 

được trong việc quản lý rủi ro. Tất cả mọi người đều có thể tham gia vào thị trường 

CBOT bắt đầu giao dịch giao sau trái phiếu T­Bond Mỹ vào năm 1977 ­ loại 

này ở  bất cứ nơi đâu  và bất  cứ  khi nào  thông  qua hệ  thống  GLOBEX nối liền 12 

hợp đồng giao sau thành công nhất trong các thời kỳ. Chỉ trong vòng một vài năm, 

trung  tâm  tài  chính  thế  giới  (Bermuda,  Boca  Raton,  Chicago,  Geneva,  Hamburg, 

công cụ này trở thành hợp đồng giao dịch năng động nhất và vượt qua cả hợp đồng 

Hong Kong, London, New York, Paris, Singapore, Tokyo, Zurich ). 

giao sau ngũ cốc, vốn đã tồn tại hơn một thế kỷ trước đây. 

1.4.2.  Thành tựu của thị trường giao sau trên thế giới 

Vào  thập  niên  1980,  hợp  đồng  giao  sau  chỉ  số  chứng  khoán  đã  đạt  được 

1.4.2.1.  Các sàn giao dịch giao sau 

những thành công cao độ. Công cụ này là chiếc cầu nối giữa các nhà giao dịch cổ 


Giao dịch giao sau xảy ra trên hơn  50  sàn giao dịch giao sau khắp thế giới. 

phiếu tại New York và các nhà giao dịch giao sau tại Chicago. Tại Mỹ, chỉ sau một 

Do tính chất của giao dịch toàn cầu, đặc biệt là khi được tự động hóa hoàn toàn, nên 

vài năm đã có hợp đồng giao sau chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones, một chỉ 

đây chính là điều kiện liên kết các sàn giao dịch lại với nhau. Ví dụ Sàn Giao Dịch 

số tên tuổi trên thị trường chứng khoán . 

Chicago (CME) và Sàn Giao Dịch Tiền Tệ Quốc Tế Singapore (SIMEX) được liên 

Hợp đồng  giao  sau  chỉ  số  chứng  khoán  đã  thành  công  vang  dội  khắp  toàn 

kết chặt chẽ đến độ mà giao dịch mở một vị thế Eurodolars trên một sàn giao dịch 

cầu. Hầu hết các nước phát triển đều có sàn giao dịch giao sau riêng cho hợp đồng 

này và có thể đóng vị thế lại trên một sàn giao dịch khác. Chính do sự liên kết giữa 

chỉ  số  chứng  khoán  hoạt  động.  Một  số  nước  có  hợp  đồng  giao  sau  chỉ  số  chứng 

các sàn giao dịch ở khắp nơi trên thế giới đã ngày càng làm tăng thêm tính phổ biến 

khoán phổ biến gồm Anh, Pháp, Nhật, Đức, Tây Ban Nha và Hongkong 

của thị trường này. 


1.4.3.  Thị trường giao sau ở Việt Nam 

Theo số liệu trên tạp chí Futures Industry phát hành tháng Giêng/tháng Hai 

Trong điều kiện hiện nay, các thành phần kinh tế luôn phải đối mặt với các 

năm 2002, có khoảng 316 triệu hợp đồng được giao dịch tại CME trong năm 2001. 

rủi ro về giá cả, thông tin, thị trường (nguồn hàng, cung ­ cầu) và tỷ giá trong hoạt 

CBOT có khối lượng giao dịch gần 210 triệu đồng. Sàn giao dịch giao sau bận rộn 

động xuất nhập khẩu. Những rủi ro này không chỉ ảnh hưởng đến những người trực 

nhất trên thế giới là EUREX, là sàn giao dịch liên kết giữa Đức và Thụy Sĩ đã giao 

tiếp sản xuất, kinh doanh mà ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các 

dịch trên  435  triệu  hợp đồng. Sàn giao dịch  giao  sau  tài  chính  quốc  tế  Luân  Đôn 

thành phần kinh tế Việt Nam chỉ biết chấp nhận vì chưa có công cụ bảo vệ rủi ro. 

giao dịch trên 161 triệu hợp đồng. Futures Industry ước tính số lượng hợp đồng giao 

Trong những năm gần đây, khi tiếp xúc làm ăn với nước ngoài, chúng ta dần 

sau giao dịch trên thế giới năm 2001 là 1,8 tỷ hợp đồng trong đó 1/3 số lượng giao 

dần biết được những phương cách bảo hộ rủi ro trên thị trường tài chính phái sinh. 


dịch này là từ Mỹ. 

Một số doanh nghiệp đã sử dụng công cụ này để bảo hộ cho hoạt động kinh doanh 

1.4.2.2.  Sự phát triển của thị trường giao sau tài chính 

của mình và dựa vào thông tin, giá cả trên các thị trường này để điều tiết sản xuất, 

Vào năm 1976, thị trường tiền tệ quốc tế đã giới thiệu hợp đồng giao sau đầu 

không còn lo bị ép giá. Việt Nam đang tổ chức các chợ đầu mối, các trung tâm giao 

tiên trên trái phiếu chính phủ và các công cụ tài chính ngắn hạn là trái phiếu kho bạc 

dịch  và  tiến  tới  hình  thành  các  thị  trường  giao  sau  về  nông  sản.  Trong  lĩnh  vực 

T­Bill Mỹ loại 90 ngày. Hợp đồng này đã được giao dịch rất năng động trong nhiều 

ngoại  hối,  Chính  phủ đã  cho  phép  sử  dụng  hợp  đồng  quyền  chọn để  bảo  vệ  hoạt 

năm liền nhưng sau đó đã giảm dần do những thành công mang lại từ các hợp đồng 

động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy muộn màng so với xu thế phát triển thế giới 

giao sau Eurodollar ­ dạng giao dịch đã được phát triển mạnh mẽ trong những năm 

nhưng sự khởi đầu này cũng là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam.

thập niên 1980.



19 

20 

Hợp đồng giao sau được ứng dụng rộng rãi trên thế giới để phòng ngừa rủi ro, thu 

hợp đồng giao sau lại là công cụ phòng ngừa rủi ro cho hàng hóa đã được áp dụng 

hút  các nhà  đầu  cơ tham  gia  và kích  thích phát triển  kinh  tế.  Là bộ phận  của nền 

và  rất  thành  công  trên  thế  giới  như  đã  trình  bày ở  mục  1.4.  Việc  áp  dụng  những 

kinh tế thế giới, chịu rủi ro từ những biến động kinh tế toàn cầu, Việt Nam nên học 

công cụ này vào thị trường cà phê sẽ là một bước tiến, thúc đẩy ngành cà phê Việt 

hỏi xây dựng Sàn giao dịch giao sau phục vụ cho mục đích phòng ngừa rủi ro, tạo 

Nam phát triển ổn định và bền vững, giúp người nông dân trồng cà phê yên tâm sản 

đà cho kinh tế phát triển vững bền. 

xuất và đảm bảo lợi nhuận mong muốn. Với mục tiêu đó, cuối năm 2008 Trung tâm 
giao dịch  cà  phê  Buôn  Ma  Thuột  ra  đời  với  rất  nhiều  kỳ  vọng:  xây  dựng  thương 

1.5.  Sự cần thiết của việc ứng dụng Thị trường giao sau để phòng ngừa rủi ro 

hiệu cho cà phê VN, gắn kết sản xuất với thị trường, khắc phục những hạn chế trong 


biến động giá cà phê tại Việt Nam hiện nay 

hoạt động kinh doanh xuất khẩu truyền thống. 

Hợp đồng giao sau là một khái niệm khá mới về mặt kinh tế lẫn trong khoa 
học  pháp  lý  tại  Việt  Nam  nhưng  có  tiềm  năng to  lớn  cho nền  kinh  tế, đặc  biệt  là 

Kết luận chương I 

những  giải  pháp  hiệu  quả  cho  những  nhà  sản  xuất  kinh  doanh  cà  phê  Việt  Nam 
thoát khỏi tình trạng bấp bênh, rủi ro trong làm ăn nói riêng. 

Chiến  lược  phòng  ngừa  rủi  ro  biến  động  giá  bằng  việc  sử  dụng  hợp  đồng 
giao sau là một công cụ hữu dụng trong ngắn hạn và trung hạn để bảo vệ thu nhập 

Thị trường hàng hoá giao sau đã và đang tiếp tục chứng minh là một công cụ 

cho nhà sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, khu vực có 

hữu hiệu đối với việc khắc phục những ách tắc trong lưu thông của một nền kinh tế 

nhiều sản phẩm có thể thực hiện tồn trữ và bán giao sau. Tuy chịu nhiều tác động 

vận hành theo cơ chế thị trường; góp phần làm đa dạng hoá các hình thức lưu thông 

của rủi ro (rủi ro giá cả, lãi suất, thời tiết…) nhưng nếu  xây dựng được thị trường 

và đóng vai trò như một công cụ bảo hiểm đối với những nhà sản xuất. 


giao  sau  các  mặt  hàng  nông  sản  tại  Việt  Nam  thì  người  nông  dân  và  các  doanh 

Đối với nền kinh tế bao cấp không vận hành theo cơ chế thị trường thường 
không gặp phải những yếu tố rủi ro do thị trường mang lại. Ngược lại, nền kinh tế 
vận hành theo cơ chế thị trường thì rủi ro từ phía thị trường đối với những nhà sản 
xuất trực tiếp thường là rất lớn đặc biệt là trong điều kiện hội nhập như hiện nay. 
Điều  đáng  lưu  ý  là  hợp  đồng  giao  sau  tạo  nên  tính  thanh  khoản  đồng  thời 
tránh được rủi ro biến động giá cả cho các bên tham gia. Khác với đánh bạc và cá 
cược, phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng giao sau tuy thường được dùng để đầu cơ 
nhưng nó không chỉ tạo ra lợi ích cho chính người tham gia hợp đồng; mà cao hơn 
là nó giúp cho thị trường tài chính trở nên hoạt động hiệu quả hơn, tạo cơ hội tốt 
cho việc phòng ngừa rủi ro. Đây cũng là ưu điểm nổi trội nhất của hợp đồng giao 
sau so với kỳ hạn. 
Cà phê là một mặt hàng nông sản có đầu ra khá ổn định, thế nhưng ngành cà phê 
Việt Nam lại đang chịu ảnh hưởng rất lớn từ sự bất ổn giá cả đẩu ra. Trong khi đó,

nghiệp  sản  xuất  nông  sản  vẫn  có  thể  đương  đầu  với  rủi  ro  và  kinh  doanh  có  lợi 
nhuận.


21 

22 

CHƯƠNG II: RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ TẠI THỊ TRƯỜNG 

đã  vươn  lên  là  nước  đứng  thứ  hai  thế  giới  về  sản  lượng  xuất  khẩu,  thứ  3  là 

CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG HỢP 


Colombia. Hiện nay, với 2 đại diện là Brazil và Colombia, Nam Mỹ trở thành khu 
vực có thị phần cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 47% tổng sản lượng cà phê 

ĐỒNG GIAO SAU VÀO GIAO DỊCH CÀ PHÊ 

toàn thế giới. Tiếp đó là khu vực Châu Á và Châu Đại Dương, Mehico và các nước 
Trung Mỹ cùng chiếm 13%, khu vực Châu Phi chiếm 12%. 
Để có thể thấy rõ biến động giá cà phê thế giới thời gian qua, chúng ta cùng 

2.1. Rủi ro biến động giá tại thị trường cà phê Việt Nam: 
2.1.1.  Rủi ro biến động giá do giá xuất khẩu phụ thuộc vào giá thế giới 

xem biểu đồ 2.2 ở dưới. 

2.1.1.1.  Tìm hiểu biến động giá cà phê trên thế giới thời gian qua 

Biểu đồ 2.2: Giá cà phê thế giới và giá cà phê robusta thế giới hàng năm 

Cây  cà  phê  lần  đầu  tiên  được  phát  hiện  ở  Ethiopia  cách  đây  khoảng  2000 

giai đoạn 1994­2009 (US cents/lb) 

năm, cùng với sự phát triển không biên giới của thị trường thương mại, cà phê đã có 
mặt ở hầu hết các nước châu Á, Châu Phi và Châu Âu. Hai loại cà phê được giao 
dịch thương mại nhiều nhất là cà phê Arabica (gọi tắt là Arabica) và cà phê Robusta 
(gọi tắt là Robusta). 
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng sản lượng cà phê của các nước và khu vực trên thế 
giới vụ mùa 2008/2009 

Nguồn: www.ico.org 

Từ biểu đồ ta thấy giá bình quân biến động lớn. Độ co giãn theo giá của cung 
là thấp trong ngắn hạn và tăng lên trong dài hạn. Độ co giãn theo giá của cầu cà phê 
là thấp trong ngắn hạn và dài hạn. Chính vì tính co giãn theo giá của cung cầu  cà 
Nguồn: www.ico.org 
Mặc dù cây cà phê được trồng đầu tiên  ở Ethiopia nhưng từ giữa thế kỷ 19 
Brazil  đã  là  nước  dẫn  đầu  về  sản  lượng,  hàng  năm  chiếm  khoảng  trên  30%  tống 
lượng xuất khẩu thế giới. Việt nam là một thị trường xuất khẩu lớn, từ thập niên 90

phê thấp trong ngắn hạn nên giá cà phê thường xuyên biến động trên thị trường thế 
giới. 
Năm 1994 đợt sương muối tại Brazil làm cung thế giới giảm sút đột ngột và 
giá  tăng  cao.  Giá  tăng  khuyến  khích  người  trồng  cà  phê  mở  rộng  diện  tích,  sản 
lượng cà phê thế giới tăng liên tục từ 94 triệu pound năm 1990 lên 129 triệu pound


23 

(đơn vị tính tương đương khoảng 0,45kg), đây cũng là nguyên nhân chính của việc 
giá cà phê thế giới giảm mạnh bắt đầu từ năm 1997. 

24 

2.1.1.2.  Nguyên nhân gây ra bất ổn giá cà phê thế giới 
v  Nguồn cung của những nước có sản lượng lớn 

Sản xuất vượt tiêu dùng trong những năm 1998­2003 cộng với sự phục hồi 

Giá cà phê thế giới phụ thuộc rất lớn vào sản lượng của những quốc gia đang 

của Brazil và tăng trưởng đột biến của Việt Nam làm cho giá cà phê thế giới giảm 


nắm giữ tỷ trọng xuất khẩu lớn như Brazil, Colombia, Việt Nam. Nếu thời tiết tại 

và lâm vào khủng hoảng. Lượng dự trữ tăng 10 triệu pound năm 1997 lên 70 triệu 

các nước này diễn biến không tốt có khả năng mất mùa thì giá cà phê sẽ tăng lên và 

pound năm 2003. Cung cà phê toàn cầu tăng nhanh hơn cầu cà phê dẫn đến dư thừa. 

ngược lại. 

Từ nửa cuối năm 1997 giá cá phê giảm liên tục đến mức thấp nhất vào năm 2001, 

Mùa  đông Brazil thường  diễn  ra  trong khoảng  từ  21/6 đến  25/8  hàng năm, 

giá trung bình của cà phê rơi từ 180 USD/ pound đến dưới 40 USD/ pound. Giá cà 

đây là thời gian lạnh nhất trong năm, biểu đồ giá cà phê luôn có tỷ lệ nghịch với hàn 

phê thế giới tiếp tục thấp cho đến năm 2004 kể từ khi có được một số phục hồi về 

thử biểu trong giai đoạn này, chỉ với một bản báo cáo đêm qua nhiệt độ những vùng 

giá,  nhưng  vẫn  còn  thấp hơn mức đã  chứng  kiến  trong năm 1990.  Giá  cà  phê  thế 

trồng đã xuống thấp dưới 0°C hoặc dự báo trong những ngày tới sẽ rất lạnh thì hầu 

giới  giảm  xuống  mức  thấp  kỷ  lục  trong  vòng  40 năm  trước  đó,  giảm  xuống dưới 

như ngày hôm sau thế nào giá cũng tăng, hoặc ít nhất là không sụt thêm nữa. 


mức giá thành làm cho ngành cà phê nói chung và người trồng cà phê nói riêng chịu 
thiệt hại nặng nề. 

v  Giá trị và khối lượng cà phê giao dịch tại các sàn giao dịch trên thế giới 
Lượng cà phê giao dịch trên thế giới ước tính lớn gấp 5 lần (hoặc hơn nữa) 

Đến  năm  2008  thị  trường  cà  phê  thế  giới  bắt  đầu  phục  hồi.  Tuy  nhiên  các 

lượng cà phê thực mà nông dân làm ra (sản lượng thế giới khoảng 127 triệu pound 

nước xuất khẩu cà phê vẫn tập trung đến việc tăng sản lượng hơn là quan tâm cải 

trong vụ 2009). Tức là cũng một bao cà phê ấy thôi, nhưng nhà đầu tư  A bán cho 

thiện chất lượng cà phê xuất khẩu do đó giá cà phê thế giới vẫn liên tục nhảy múa 

nhà đầu tư B, rồi người này bán cho nhà đầu tư C đều được tính vào lượng giao dịch 

trong niên vụ 2008/2009. 

hàng ngày trên thị trường. 

Theo  dự  báo  mới  nhất  của  ICO,  sản  lượng  cà  phê  toàn  cầu  niên  vụ 

Điều này có nghĩa là giá cà phê thế giới không chỉ phụ thuộc vào việc Brazil 

2010/2011 sẽ đạt mức 133­135 triệu pound; tiêu dùng cà phê năm nay sẽ phục hồi 

có bị sương  giá hay Việt  Nam  có bị hạn hán  không mà còn phụ  thuộc  vào những 


nhưng cũng chỉ ở mức 129 triệu pound. So với mức sụt giảm hồi đầu năm nay, hiện 

nhà  đầu  tư  lớn  dùng  cà  phê  như  một  mặt  hàng  kiểu  chứng  khoán  cho  việc  kinh 

giá cà phê đang ở mức cao nhưng nhiều dự báo cho rằng đây chỉ là sự tăng giá do 

doanh của mình. Vị thế đang phải bán ra với những lô hàng mà họ đã mua vào trước 

hạn chế nguồn cung trong ngắn hạn, bởi hiện mới chỉ có Braxin đang thu hoạch cà 

đó hay cần mua vào những lô hàng để có mà giao hoặc mua vào để chờ giá lên theo 

phê. Vào tháng 11­12, khi Côlômbia và các nước Trung Mỹ đưa hàng ra thị trường, 

phân tích của họ đều tác động rất lớn đến giá cả. 

Việt Nam cũng bước vào vụ thu hoạch thì giá cà phê sắp tới sẽ rất khó lường. 

Giả sử một nhà đầu tư đang ở vị thế bán nhận định Mỹ có khả năng đánh Iran 

Cà phê có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới. Biến động giá 

và giá dầu trong thời gian ngắn có thể tăng lên 100USD/thùng, sau khi tổng hợp và 

cà phê đã khiến cho nông dân nhiều nước điêu đứng. Biến động giá cà phê thế giới 

phân tích tình hình họ có khả năng bán mạnh số cà phê đang nắm giữ dựa trên các 

đã và đang tiếp tục có những ảnh hưởng tới ngành cà phê Việt Nam, một nước có 


hợp đồng mua giao sau cà phê mà mình đang có để lấy tiền mua dầu vào. Động tác 

khoảng 95% sản lượng được xuất khẩu.

bán  cà  phê  như  thế  sẽ  ảnh  hưởng  tức  thì  lên  giá  cà  phê  và  tạo  ảnh  hưởng  dây 
chuyền.


25 

26 

2.1.1.3. Ảnh hưởng của biến động giá cà phê thế giới đến thị trường Việt 

Còn Việt Nam hiện nay mới chế biến được khoảng 10.000 tấn (bằng 5% tổng 

Nam 

sản lượng), con số quá ít so với 1 triệu tấn cà phê nhân sản xuất ra mỗi năm. Thêm 

Từ khoảng mười năm trở lại đây, cà phê Việt Nam có vị trí quan trọng và là 

vào đó, tiêu dùng nội địa cũng rất thấp, chưa được 0,5kg/người/năm, vì thế ngành 

nước cung  cấp nguyên  liệu  cho  thị  trường  thế  giới.  Đứng  sau  Brazil,  VN là  nước 

cà  phê  nước  ta  phụ  thuộc hoàn  toàn  vào  thị  trường  xuất  khẩu  và  không  thể  kiểm 

sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới với 15% thị phần. Trên 90% tổng sản lượng sản 


soát  giá  cà  phê  thế  giới  mà  hoàn  toàn  bị  động  khi  giá  cà  phê  thế  giới biến  động. 

xuất ra đều được xuất khẩu, chủ yếu là cà phê robusta nhân sống (cà phê vối) và cà 

Trong khi đó các nước khác trên thế giới lại bắt tay nhau để cùng kiểm soát và chi 

phê arabica (cà phê chè).  Riêng cà phê Robusta xuất khẩu, VN đứng trên cả Brazil 

phối giá cà phê, hầu hết dự báo của các hãng tin nước ngoài đều hướng vào người 

và trở thành nhà xuất khẩu mặt hàng này lớn nhất thế giới. 

mua. Thậm chí, các viện nghiên cứu giá cả trên thế giới khi đưa ra bản tin đều phục 

Bảng 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 

Năm 

vụ lợi ích một bên nào đó, còn thực tế không có lợi cho Việt Nam. 
Chính vì thế trong quá khứ ngành cà phê Việt Nam đã chịu những tổn thất 

2001 đến năm 2009 
Sản lượng xuất khẩu 

Kim ngạch xuất khẩu 

Đơn giá XK bình quân 

(tấn) 


(USD) 

(USD/tấn) 

nghiêm trọng, điển hình niên vụ cà phê 1991/1992 chúng ta đã phải bán cà phê với 
mức  rất  thấp,  có  lúc  dưới  600USD/tấn.  Rồi  đến  đợt  khủng  hoảng  cung  cấp  thừa 
1999 lại là một đợt giá giảm liên tục đến mức thấp kỷ lục của nhiều thập niên. Thời 

2001 

844,452 

338,094,000 

400.37 

2002 

702,017 

300,330,000 

427.81 

2003 

693,863 

446,547,000 


643.57 

2004 

745,000 

576,154,000 

773.36 

2005 

786,025 

840,000,000 

1,068.67 

nông dân lỗ từ 5 ­ 7 triệu đồng/năm. Sau nhiều năm khủng hoảng, thị trường cà phê 

2006 

887,000 

1,070,000,000 

1,206.31 

thế giới có xu hướng phục hồi trở lại, bắt đầu từ cuối năm 2005. Đặc biệt vào những 


2007 

1,190,000 

1,860,000,000 

1,563.02 

tháng cuối năm 2006, giá cà phê tăng đột biến. 5 tháng cuối năm 2006, giá cà phê 

2008 

1,060,000 

2,135,000,000 

2,014.15 

2009 

1,180,000 

1,730,000,000 

1,466.10 

kỳ đó có lúc nông dân đã phải bán cà phê với giá thấp dưới giá thành tức là chưa đạt 
6,000đ/kg cà phê nhân. 
Từ  năm 2000,  giá  cà phê  Việt Nam  đã  giảm  mạnh.  Năm 2001,  với chi phí 

chăm sóc lớn gấp đôi số tiền bán sản phẩm, bình quân mỗi héc ­ ta cà phê, người 

thế giới tăng hơn giá trung bình 6 tháng đầu năm đến 32%. 
Nhìn vào biểu đồ bên dưới ta có thể thấy rất  rõ giá cà phê trong nước luôn 
theo sát giá thế giới, giá thế giới tăng thì giá trong nước tăng, giá thế giới giảm thì 

Nguồn: www.agro.gov.vn, www.vicofa.org.vn và www.giacaphe.com 

giá trong nước giảm, thậm chí còn giảm nhanh và nhiều hơn tốc độ giảm của giá thế 

Hiện nay nước cung cấp cà phê lớn nhất thế giới là Brazin mỗi năm sản xuất 

giới, điển hình là diễn biến giá cà phê của niên vụ 2008/2009.

2,5  triệu  tấn  cà phê,  trong đó 50% dùng  chế biến  cà  phê hòa  tan  trong nước, một 
phần  sản  lượng  cà  phê  hòa  tan  này được  xuất  khẩu.  Với  hơn  100  triệu  dân,  bình 
quân  mỗi  người  dân  tiêu  dùng  4­5kg  cà  phê  thì  lượng  tiêu  thụ  trong  nước  của 
Braxin đã khoảng 450.000 tấn nên họ không bị ảnh hưởng bởi giá quốc tế.


27 

28 

Biểu đồ 2.3: Giá cà phê thế giới và giá cà phê xuất khẩu bình quân hàng 

khẩu trong nước luôn thấp hơn giá thế giới. Theo báo cáo của hiệp hội cà phê thế 

năm của Việt Nam giai đoạn 1994­2009(USD/tấn) 


giới niên vụ 2008/2009 sản lượng cà phê xuất khẩu Việt Nam đứng thứ hai thế giới 
nhưng về kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng thứ tư. Đây là một bất lợi rất lớn cho bà 
con nông dân trồng cà phê và các doanh nghiệp kinh doanh cà phê. 
Biểu  đồ  2.5:  Lượng  và  giá  cà  phê  xuất  khẩu  bình  quân  của  Việt  Nam 
giai đoạn 1994­2009 
1,400,000 

3,000.00 

1,200,000 

2,500.00 

1,000,000 
2,000.00 
800,000 
1,500.00 
600,000 

Nguồn: www.ico.org, www.agro.gov.vn và www.vicofa.org.vn 
Biểu đồ 2.4: Giá cà phê thế giới và giá cà phê xuất khẩu bình quân hàng 

1,000.00 
400,000 
500.00 

200,000 

tháng của Việt Nam niên vụ 2008/2009 (USD/tấn) 
­ 

19
94
19  
95
19  
96
19  
97
19  
98
19  
99
20  
00
20  
01
20  
02
20  
03
20  
04
20  
05
20  
06
20  
07
20  
08

20  
09
 

­ 

Lượng (tấn) 

Giá XKBQ (USD/tấn) 

Nguồn: www.agro.gov.vn, www.vicofa.org.vn và www.giacaphe.com 
Theo  thống  kê  của  Tổng  cục  Hải  quan,  năm  2009  Việt  Nam  đã  xuất  khẩu 
tổng  cộng  khoảng  1,18  triệu  tấn  cà  phê  (chủ  yếu là  cà  phê  robusta)  sang  97 quốc 
gia, đạt kim ngạch 1,705 tỉ đô la Mỹ, tăng 2,6% về lượng nhưng lại giảm tới 21,3% 
về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Đơn giá xuất khẩu bình quân cũng giảm 7,4%, 
xuống chỉ còn 1.398  đô la/tấn, đưa cà phê trở thành mặt hàng duy nhất,  trong các 
nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu có đơn giá xuất khẩu bình quân giảm so với 
cùng kỳ năm 2008. Theo đó, xuất khẩu cà phê tới 10 thị trường lớn nhất (trừ Bỉ và 
Nguồn: www.ico.org và www.vicofa.org.vn 
Chính vì giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn vào biến 
động giá cà phê thế giới, thêm vào đó do chất lượng cà phê Việt Nam nên giá xuất

Hà Lan) đều có mức sụt giảm kim ngạch khá mạnh (từ 5­45%) so với cùng kỳ 2008. 
Trong nửa đầu năm 2010, thị trường cà phê thế giới nhiều thăng trầm và diễn 
biến phức tạp nhưng ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa có nhiều động thái đối phó


29 

30 


và những giải pháp phù hợp để đối phó với biến động này. Thực tế này đã khiến cho 

càng làm cho giá cà phê giảm mạnh hơn nữa. Bên cạnh đó các doanh nghiệp xuất 

các thương nhân, doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cũng như nông dân nước ta chịu 

khẩu thường bán hàng theo hợp đồng kỳ hạn đã được chót giá. Nhà kinh doanh cà 

rất nhiều thiệt thòi. 

phê nước ngoài thường cho các doanh nghiệp trong nước ứng trước 70% giá trị hợp 

Tháng 2 và tháng 3 năm 2010, giá cà phê thế giới liên tục giảm mạnh khoảng 

đồng xuất khẩu vì họ biết rằng cho dù có lỗ, các Doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải 

30% ở mức 1,100 USD/tấn và nông dân đã phải bán tống bán tháo cà phê vì lo sợ 

thực hiện theo đúng hợp đồng đã kí kết. Phương pháp chốt giá của hợp đồng cà phê 

giá cà phê sẽ còn giảm nữa. Tuy vậy, cuối tháng 4 /2010 khi giá cà phê đã bắt đầu 

kì hạn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho các nhà xuất khẩu. 

nhích dần  lên  thì nông dân  vẫn phải bán cà phê  với  giá  thấp (vì họ phải bán  theo 

Liên  tục  trong 3 năm qua,  Hiệp hội  cà phê ca cao  Việt  Nam  (VICOFA) đã 

hợp đồng kì hạn từ các tháng 2 và 3). Đây là nguyên nhân của tình trạng thiếu hụt 


cảnh báo các doanh nghiệp hội viên rằng, trong bối cảnh thị trường cà phê thế giới 

cà phê hiện nay. 

biến động phức tạp, thì nên hạn chế bán hàng giao xa, bởi tính rủi ro rất lớn. Tuy 

Bảng 2.2: Dự báo khối lượng và kim ngạch cà phê xuất khẩu năm 2010 
Thời điểm 

Khối lượng xuất khẩu 

Kim ngạch xuất khẩu 

(tấn) 

(triệu USD) 

Quý I 

340.394* 

476,67* 

nhiên, khuyến cáo này không được doanh nghiệp tuân thủ. Hơn nữa, các quỹ đầu cơ 
có thể tác động vào tình hình cung cầu thế giới do vậy sẽ biết cách để khiến cho giá 
cà  phê  tăng  lên  hoặc  giảm  xuống.  Đây  là  cuộc  chơi  mà  nhiều  doanh  nghiệp  Việt 
Nam phải trả giá và thua lỗ, đang tìm mọi cách thoát ra. 

Quý II 


311.783* 

436,49* 

Nhìn  chung,  ngành  công  nghiệp  cà  phê  Việt  Nam  vẫn  cho  thấy  phản  ứng 

Quý III 

225.232* 

353,97* 

chậm chạp  của mình  và chưa có hướng dẫn phù hợp để đối phó với biến động thị 

Quý IV 

270.352** 

440,54** 

trường. Thực tế này đã đặt các doanh nghiệp, thương nhân và nông dân trồng cà phê 

1.147.761** 

1.707,67** 

nước ta luôn  ở tình thế bất lợi và bị động cho dù giá cà phê  thế giới có tăng hay 

Cộng 


Ghi chú: * Giá trị thực tế 
** Giá trị dự báo 

giảm, trong đó người trồng cà phê là đối tượng bị thiệt hại nặng nhất. Để giải quyết 
vấn đề này, ngành cà phê cần nhìn lại tất cả các khâu. 

Nguồn: www.agro.gov.vn, www.vicofa.org.vn và www.giacaphe.com 
Trong  9  tháng  đầu  năm  2010  nước  ta  xuất  khẩu  877.409  tấn  cà  phê,  kim 
ngạch đạt 1,276 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2009, xuất khẩu cà phê giảm cả về 
lượng  lẫn  giá  trị  kim  ngạch.  Theo  Bộ  NN  và  PTNT,  sản  lượng  cà  phê  xuất  khẩu 
năm 2010 có thể đạt 1,1 triệu tấn, kim ngạch 1,67 tỉ USD (năm 2009 là 1,18 triệu 
tấn và 1,73 tỉ USD). 
Theo  các  chuyên gia,  giá cà phê  thế giới biến động bởi  cung  và  cầu  tại  thị 
trường  cà  phê  Luân  Đôn,  New  York  và  sự  chi  phối  của  các  nhà  kinh  doanh  cà 
phê…  Lẽ  ra  khi  giá  cà  phê  giảm,  chúng  ta  không  nên  bán  nữa nhưng  các  doanh 
nghiệp  và  nông dân  trồng cà phê  ở nước  ta  lại  lo bán một cách ồ  ạt,  chính  vì  thế

2.1.2.  Rủi  ro biến  động  giá  do  quy  trình  sản  xuất  kinh doanh cà  phê  Việt 
Nam còn tiểm ẩn nhiều rủi ro 
2.1.2.1.  Quy trình sản xuất kinh doanh cà phê của Việt Nam hiện nay 
Do  sản  phẩm  cà phê  xuất  khẩu  của  Việt  Nam  ở dạng  thô  hoặc mới  qua  sơ 
chế, ngành công nghiệp cà phê chế biến chỉ nắm giữ khoảng 0,4% thị phần cà phê 
chế biến thế giới nên trong phần này chúng ta sẽ chỉ tập trung vào tìm hiểu quá trình 
giao dịch cà phê nhân từ khi thu hoạch cho đến khi xuất đi thị trường nước ngoài để 
thấy được những tồn tại của nó làm cơ sở tìm ra những giải pháp thích hợp để giảm 
bớt ảnh hưởng của sự biến động giá cả đối với ngành này.


31 


32 

Sơ đồ 2.1: Quy trình kinh doanh cà phê ở Việt Nam hiện nay 

v  Người nông dân à thương lái, đại lý thu mua cà phê 
§  Về sản phẩm: 

Nông dân sản xuất nhỏ 
(chiếm 80% diện tích 
trồng cà phê) 

Nông trường và trang trại 
(chiếm 20% diện tích 
gieo trồng)

Có một nghịch lý: cà phê robusta Việt Nam chất lượng vào loại cao trên thế 
giới, kể cả so với Indonesia nhưng lại thường phải bán giá thấp hơn cà phê cùng loại 
của nước này. Sở dĩ như vậy vì người nông dân còn nhiều thiếu sót trong khâu thu 
hái, sơ chế, phân loại và bảo quản. 

Cà phê nhân xô 

Cà phê nhân xô 

Với  giá  nhân  công  tăng  lên  trong  những  năm  gần  đây,  người  nông  dân 
thường lựa chọn phương pháp tuốt hơn là hái từng quả, vì thế chất lượng quả cà phê 
bị ảnh hưởng, đồng thời thu hoạch luôn cả quả xanh để đỡ bị mất trộm, giảm được 
công hái (vì chỉ hái một lần là xong), phơi sấy một lúc, tiết kiệm được chi phí và 


Đại lý thu mua, 
ký gửi cà phê 

điều quan trọng nhất là vẫn bán được, vẫn có người mua, tuy giá có thấp hơn nhưng 
lại được lợi ở nhiều khâu khác… 
Bên cạnh  đó, để không bán sản phẩm ngay sau vụ thu hoạch lại có thể bảo 
quản được  chất  lượng  thì  cần  phải  có  sân  xi măng để phơi,  kho bãi để  chứa, máy 
Sơ chế lại tại các doanh 
nghiệp xuất khẩu 

Sơ chế tại đại lý 
(làm sạch, phân loại 
cho xuất khẩu) 

móc phân loại v.v… những thứ này hầu hết nằm ngoài tầm với của nông dân nên họ 
để lẫn lộn cả cà phê chín và xanh khi bán, ủ cà phê trên đất dễ bị hút ẩm gây mốc và 
lẫn sạn, cát… dẫn đến giá bán thấp. Đây là kiểu sản xuất mà cà phê tốt cũng chỉ bán 
được với giá chẳng khác gì cà phê xấu. Chính vì việc hái cà phê khi còn xanh nên 
đã làm giảm chất lượng quả vì hương sẽ không thơm, vị sẽ nhạt, nhân không đẹp, 

Doanh nghiệp chế biến cà phê 
rang xay 

Doanh nghiệp xuất khẩu cà phê 
nhân 

không mẩy bóng mà teo tóp và làm giảm từ 10 – 15% sản lượng, khi xuất khẩu sẽ bị 

(5% tổng sản lượng sản xuất) 


(95% tổng sản lượng sản xuất) 

Trong  vụ  cà  phê  2005­2006,  Tổ  chức  Cà  phê  quốc  tế  đã  phân  loại  cà  phê 

khách hàng chê, bị trừ lùi cao (1 tấn từ 100 – 120USD). 

nhập tại 10 cảng khác nhau ở châu Âu và trong số 1.485.750 bao cà phê bị loại của 
17 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu, có đến hơn 72% là cà phê xuất xứ từ VN. Cho 
Thị trường nội địa 

Thị trường quốc tế 

nên tính ra mỗi năm ngành cà phê Việt Nam bị thiệt hại tới hàng trăm triệu USD. 
§  Về phương thức mua bán: 

Quy trình từ sản xuất đến xuất khẩu cà phê có 3 chủ thể chính tham gia: 

Trước đây người nông dân sau khi thu hoạch cà phê thì lập tức bán ngay cho 
đại  lý thu mua theo  kiểu  “tiền  trao cháo múc”.  Nguyên nhân là do  phần  lớn  nông 

Nông dân 
trồng cà phê 

Thương lái, 
đại lý, thu 
mua cà phê 

Doanh nghiệp 
xuất khẩu 
cà phê 


dân trồng cà phê thiếu vốn, trong quá trình trồng cà phê thường nhận tạm ứng trước


33 

34 

của đại lý để mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, bơm tưới… nên hầu hết sau vụ 

Với mạng lưới khắp các tỉnh Tây Nguyên cùng hệ thống kho bãi, các đại lý 

thu  hoạch  là  bị  đại  lý  ép  phải bán  ngay để  trang  trải  nào  nợ  nần,  cho  dù  lúc  thu 

hơn hẳn các doanh nghiệp xuất khẩu khi nhận ký gửi cà phê của nông dân đồng thời 

hoạch  giá  cả  cao hay  thấp,  nông dân đều  phải  bán.  Kiểu  mua bán này  luôn khiến 

cho phép chốt giá vào bất kỳ thời điểm nào. Với phương thức kinh doanh như vậy, 

người nông dân ở thế yếu khi thu hoạch và bán cà phê vì giá nào cũng phải bán và 

thương lái và địa lý cũng đang đối mặt với những rủi ro biến động bất lợi của giá cả 

thường bị thương lái ép giá. 

khi họ có thể phải thu mua với giá cao và bán ra với mức giá thấp không được dự 

Hiện nay người nông dân chọn hình thức ký gửi cà phê cho các đại lý cà phê 


tính trước. Do đó thời gian vừa qua đã dẫn đến vỡ nợ hàng loạt của các đại lý bởi lý 

ở  xã,  huyện  các  tỉnh  Tây  Nguyên.  Đây  là  hình  thức  mua  bán  xuất  hiện  cách  nay 

do khi người nông dân chốt giá bán thì hàng ký gửi đã được thương lái xuất bán với 

chục năm và được xem là phương thức mua bán hay hơn hẳn so với phương thức 

giá  thấp  từ  trước đó  cho doanh nghiệp  xuất  khẩu để  lấy  tiền  làm  thương  vụ  khác. 

truyền  thống  “tiền  trao  cháo  múc”.  Ký  gửi được  xem  là  “hiện đại” hơn  cách mua 

Rốt cuộc người nông dân vừa mất tiền vừa không thu hồi được hàng. 

bán cũ vì các đại lý kinh doanh cà phê xây dựng được kho chứa, có vốn lớn để khi 

v  Doanh nghiệp xuất khẩu à nhà nhập khẩu nước ngoài: 

cần thì mua một lúc cà phê của nhiều hộ nông dân. Còn nông dân, thay vì thu hoạch 

§  Về sản phẩm: 

và  bán  ngay  cho  đại  lý  như  trước  với  bất  kỳ  mức  giá  nào  của  ngày  hôm  đó,  thì 

Bên cạnh đó tuy là thành viên của Tổ chức Cà phê quốc tế, song Việt Nam 

phương  thức này  cho  phép nông dân đưa  cà phê  tới  kho  của đại  lý  như hình  thức 

vẫn  chưa  áp dụng  cách  thức phân  loại  cà  phê  theo  tiêu  chuẩn  thế  giới đã  được  tổ 


tạm trữ, đồng thời được tạm ứng một khoản tiền để người nông dân trang trải được 

chức  này  ban  hành  mặc  dù  đã  có  25  nước  tuân  thủ.  Việt  Nam  đã  chấp  nhận  tiêu 

nợ nần. Nông dân theo dõi diễn biến giá cả trên thị trường, bất kể lúc nào thấy giá 

chuẩn quốc tế ISO 10470:2004 và soạn thảo thành TCVN 4193­2005 nhưng tất cả 

bán có lợi, thì họ sẽ đến gặp thương lái chốt giá bán, và lấy tiền. 

những tiêu chuẩn đó đều không được thực hiện, cho tới nay cà phê vẫn là loại hàng 

Tuy nhiên hình thức này không phải là không có rủi ro và những tổn thất do 

hóa chưa bị bắt buộc kiểm tra chất lượng trước khi thông quan. 

những rủi ro này đem lại đối với người nông dân là vô cùng lớn: mất toàn bộ tiền 

Phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hiện nay chỉ là nhà thương mại 

bán hàng khi đại lý vỡ nợ. Lý do rất đơn giản, các đại lý này cũng phải kinh doanh 

đơn thuần, tìm khách hàng nhập khẩu, ký hợp đồng và đưa xe container tới đại lý cà 

lại bằng hai cách: ký gửi lại cho đại lý lớn hơn hoặc bán trước cà phê ký gửi của 

phê “đóng hàng’; có nghĩa là các đại lý đảm nhận luôn cả khâu sơ chế, phân loại cà 

nông dân lấy tiền đầu tư vào thương vụ khác để có lãi trả cho nông dân khi giá lên. 


phê theo từng tiêu chuẩn riêng của nhà xuất khẩu. Do việc áp dụng tiêu chuẩn là tự 

Điển hình năm 2008, hàng chục đại lý kinh doanh cà phê  ở  Đak Lak vỡ nợ đã bỏ 

nguyện, nên rốt cuộc cho đến nay rất nhiều doanh nghiệp vẫn duy trì phân hạng cà 

trốn do giá cà phê dù vẫn đang ở mức cao, trên 30.000 đồng/kg song lên xuống thất 

phê theo 3 tiêu chí: thủy phần %, đen vỡ %, tạp chất %. Trong khi đó, các hợp đồng 

thường khiến các đại lý đã bán trước cà phê của nông dân ký gửi với giá thấp cho 

mua  bán  cà  phê  robusta  tại  thị  trường  LIFFE  đều  xếp  hạng  cà  phê  dựa  trên  các 

nhà xuất khẩu, tới khi giá lên, nông dân chốt giá bán bị lỗ nặng, gây thiệt hại cho 

thông số chất lượng đo bằng phần trăm khối lượng, không phải bằng tỉ lệ phần trăm 

nông dân hàng chục tỉ đồng. 

số  lỗi.  Như  vậy,  cách  xếp  hạng  theo  phần  trăm  số  lỗi  mà  ta  đang  áp  dụng  không 

v  Thương lái, đại lý thu mua cà phê à Doanh nghiệp xuất khẩu: 
Các thương lái và đại lý thu mua cà phê thực chất chỉ là những người trung 
gian giữa người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu.

được quốc tế công nhận. Thế nhưng rất đông doanh nghiệp Việt Nam không muốn 
áp dụng TCVN 4193­2005; các doanh nghiệp nước ngoài mua cà phê của Việt Nam 
cũng không muốn áp dụng tiêu chuẩn này, vì không muốn phải trả giá cao hơn.



35 

Như vậy, chúng ta xuất khẩu lẫn cả một lượng cà phê chất lượng xấu mà lẽ 
ra phải được thải loại từ trước, vì thế cà phê tốt và xấu bị đánh đồng giá trong khi 

36 

làm  giá  để  đẩy  giá  bán  cà  phê  tại  sàn  này  xuống  thấp.  Lúc  đó,  các  doanh  nghiệp 
Việt Nam buộc phải giao bán hàng cho họ với giá rẻ mạt. 

người mua (nhà nhập khẩu cà phê VN) lại chọn lọc cà phê tốt để bán với giá cao, 

Thông qua tìm hiểu quy trình giao dịch cà phê hiện nay của Việt Nam, chúng 

còn cà phê xấu thì xuất trả. Đơn cử một con số: tỉ lệ lượng cà phê tuân thủ kỹ thuật 

ta có thể nhận thấy rủi ro biến động giá đang tác động lên từng khâu và ảnh hưởng 

mà  Tổ  chức  Cà  phê  quốc  tế  nhận  được  niên  vụ  2003­2004  là  31,6%  đã  tăng  lên 

đến tất cả các đối tượng tham gia giao dịch, điều này sẽ được thể hiện rõ hơn trong 

73,1% niên vụ 2005­2006 (xét toàn thế giới), Việt Nam nằm trong số 26,9% còn lại. 

bảng bên dưới. 

Chính vì vậy cà phê xuất khẩu của Việt Nam luôn bị phàn nàn về chất lượng 
xấu, có lúc bị thải loại đến 60%, giá bị giảm 100­200 USD/tấn, có lúc lên đến 600 


Bảng  2.3: Rủi  ro  đối  với  người  sản  xuất  và  kinh  doanh  cà  phê  VN  khi 
xảy ra biến động giá 

USD/tấn  tại  London.  Lượng  cà  phê  robusta  được  cấp  chứng  nhận  chất  lượng 
London ngày càng ít, khiến có lúc cà phê Việt Nam bị tồn kho tại London lên đến 
400.000 tấn vào cuối năm 2007, đầu năm 2008. 
§  Về phương thức mua bán: 

Đối tượng 
Người nông 
dân 

Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê Việt Nam không đưa được 

hợp đồng giao sau, nhưng không chốt giá, mà vào thời điểm giao hàng mới chốt giá 
dựa vào giá giao dịch trên thị trường và trừ lùi một mức nhất định. 

70% giá trị hàng hoá. Giá xuất không được chốt tại thời điểm đặt bút ký hợp đồng 

tới 50­100 USD/tấn. Điểm yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hiện nay là 
không dự đoán được sự lên xuống của thị trường, đồng thời không đánh giá được 
sản lượng và tình hình thực tế cung, cầu trên thế giới, hầu hết đều dựa vào các kênh 
thông tin chính là Reuter, Dowjohn… trong khi đây là các kênh thông tin phục vụ 
người mua  chứ  không phải  người bán.  Chính  vì  vậy,  các  doanh nghiệp  Việt  Nam 
luôn bị  các nhà nhập  khẩu  nước ngoài dắt mũi. Khi các đối  tác nước ngoài đã  ký 
được nhiều hợp đồng mua hàng với các doanh nghiệp Việt Nam, họ sẽ coi như đã 
“nhốt” được các doanh nghiệp Việt Nam vào cái rọ. Đến thời điểm mà nhiều doanh 
nghiệp Việt Nam phải giao hàng thì giới đầu cơ ở sàn London sẽ cấu kết với nhau

Sản xuất nhưng không dự tính  Không  có  hợp đồng  đầu  ra  trước 

được chi phí và giá bán đầu ra  khi sản xuất 

Ký  gửi  cà  phê  cho  đại  lý  =>  Không  có  kho  chứa,  không  đủ 
rủi ro mất hàng mà không thu  vốn để trữ hàng 
được tiền, bị ép giá 

Khi ký hợp đồng giao sau nhà nhập khẩu phải ứng trước cho doanh nghiệp 

này trừ đi các chi phí chênh lệch, thuế, vận chuyển... và mức trừ lùi giá thường lên 

Nguyên nhân 

Chất lượng cà phê thấp => giá  Không có phương tiện hỗ trợ cho 
bán thấp 
việc  thu  hoạch  và  phân  loại  cà 
phê 

hàng lên các sàn cà phê của thế giới nên thường áp dụng phương thức bán hàng ký 

mà căn cứ vào  giá cà phê tại sàn London vào đúng ngày giao hàng, sau đó lấy giá 

Những rủi ro tiềm ẩn 

Đại lý 

Nhận ký gửi nhưng chưa chốt  Do  đã  bán  hàng  ký  gửi  khi  giá 
giá => bị thua lỗ khi giá lên 
thấp 

Doanh nghiệp  Giá xuất khẩu thấp hơn giá trị  Chưa  phân  loại  cà  phê  theo  tiêu 

xuất khẩu 
thực tế, lượng hàng xuất trả do  chuẩn quốc tế 
dưới tiêu chuẩn nhiều 
Ký  trước  hợp  đồng  đầu  ra  Không  đủ  vốn  để  tạm  trữ  hàng, 
nhưng  chưa  chốt  giá  bán  +  khi  có biến động  giá  sẽ  giảm  giá 
nhận tạm ứng 70% giá trị hợp  mua trong nước
đồng  =>  không  thể  hủy  HĐ 
cho dù giá bán thấp 


37 

2.1.2.2.  Thiếu thông tin dự báo thị trường mang tính chuẩn xác 

38 

2.1.2.3.  Vai trò mờ nhạt của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam 

Bên cạnh quy trình sản xuất – kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro, có một vấn đề 

Tuy chúng  ta  có  Hiệp hội  cà phê  ca  cao  Việt  Nam (VICOFA)  nhưng  Hiệp 

không thể không nói tới đó là người sản xuất và kinh doanh cà phê hầu như bị động 

hội  cũng  chưa  đưa  ra  được  những  dự  báo  tương đối  chính  xác  có  thể  hỗ  trợ  cho 

hoàn  toàn  trước diễn biến  giá cả  cà phê  thế  giới,  sẽ  là quá muộn nếu  chỉ đợi  tình 

ngành.  Thực  tế  hiện nay  Hiệp  Hội  chỉ  chú  trọng  tới  chỉ  tiêu  xuất  khẩu  chính  phủ 


hình thế giới biến động rồi mới điều chỉnh. Với cương vị là nước xuất khẩu cà phê 

giao và quan  tâm  lợi  ích  của các doanh nghiệp  thành  viên  chứ  chưa  thực  sự  quan 

đứng thứ hai thế giới, thật khó có thể tưởng tượng là ngay cả hiện nay vẫn chưa có 

tâm  đến  đội  ngũ  nông  dân  trực  tiếp  sản  xuất.  Hiệp  hội  mới  chỉ  đóng  vai  trò  điều 

cơ quan nào ở VN dự báo thị trường cho ngành hàng quan trọng này. 

hành  xuất  khẩu  mà  chưa  điều  hành được  sản  xuất  sao  cho  cung  phù hợp  với  cầu 

Theo nhận định của các nhà kinh doanh cà phê chuyên nghiệp, hầu hết các 
cơ quan dự báo về ngành cà phê trên thế giới là lực lượng phục vụ cho người mua 

cũng  như  chưa  hướng dẫn hay  đề  ra  các  giải  pháp  khả  thi  để  thực  sự  hỗ  trợ  cho 
người nông dân khi có rủi ro bất ổn giá cả sản phẩm. 

chứ không bao giờ vì người sản xuất. Chính bất công này đã khiến người nông dân 

Chính  sách  tạm  trữ  của  Chính  phủ,  theo đề  xuất  của  VICOFA  là  đảm  bảo 

luôn  chịu  cảnh  điêu  đứng  vì  giá  bán  thấp  và  ít  khi  được hưởng  những  thành  quả 

nông dân  trồng  cà phê  có  lợi nhuận  tối thiểu 30%  thông qua hỗ  trợ doanh  nghiệp 

đáng ra phải thuộc về mình. Cụ thể niên vụ 2009 ­ 2010 họ dự báo Brazin sản lượng 

xuất khẩu vay vốn ngân hàng No& PTNT Việt Nam từ nguồn vốn hỗ  trợ  của nhà 


lên  tới 50  triệu  pound  (0.454  kg/pound) nhưng  thực  tế  chỉ  có 39  triệu  pound,  còn 

nước với lãi suất ưu đãi để mua tạm trữ 200.000 tấn cà phê. Thế nhưng các doanh 

VN tới 22 triệu  pound nhưng thực ra chỉ có 18 triệu pound. Tiếp tục sang niên vụ 

nghiệp xuất khẩu hội viên của VICOFA có khả năng tạm trữ (một hình thức ký gửi) 

2010  – 2011, họ lại dự báo “khống” Brazin sẽ đạt 56  – 58 triệu  pound nhưng khả 

lại công nhận rằng họ chỉ có khả năng tạm trữ cà phê bằng cách gom từ các đại lý 

năng chỉ đạt chưa tới 47 triệu pound, còn VN sẽ đạt trên 20 triệu pound nhưng căn 

lớn của mình, chứ không thể gom cà phê trực tiếp của nông dân. Bên cạnh đó các 

cứ tình hình hiện tại cao nhất VN cũng chỉ đạt 17,5 triệu pound mà thôi. Đầu năm 

doanh nghiệp tham gia mua tạm trữ lại mua cà phê theo giá thị trường, có nghĩa là 

2010 tổ chức cà phê thế giới (ICO) cũng đã tuyên bố: các hãng tin tư nhân đưa tin 

giá thấp thì họ  mua thấp, giá cao họ  mua cao, nên mục tiêu nâng đỡ  giá cho nông 

không chính xác, đồng thời khẳng định lượng cà phê tồn kho trên  toàn cầu đang ở 

dân  của  chính  sách  này  hầu  như  không  có  ý  nghĩa.  Đồng  thời  VICOFA  và  các 

mức thấp kỷ lục, tại Châu Âu lượng cà phê tồn kho chỉ còn 10 triệu pound so với 16 


doanh nghiệp tham gia mua không xây dựng được giá sàn mua cà phê nên những lời 

triệu  pound  cùng  kỳ.  Tình  hình  này  cũng  diễn  ra  tương  tự  tại  Hoa  Kỳ  và  một  số 

hứa đảm bảo nông dân có lãi tối thiểu 30% khi họ thuyết phục Chính phủ ban hành 

nước có thói quen sử dụng cà phê khác. ICO cũng khẳng định, hiện Brazil đang hạn 

chính  sách,  cũng  chỉ  là  lời  hứa.  Hệ  thống  Ngân  hàng  Nông  nghiệp  và  Phát  triển 

hán nên sẽ ảnh hưởng tới việc ra hoa và sản lượng vụ tới. Còn tại VN, sản lượng cà 

nông thôn là nơi duy nhất được Ngân hàng Nhà nước chỉ định cho vay mua tạm trữ 

phê vụ này do ảnh hưởng của hạn hán kéo dài nên hạt nhỏ, tỷ lệ cây già cỗi lên đến 

cà  phê  có hỗ  trợ  lãi  suất 6%  từ  ngân  sách nhà  nước  nhưng  theo  Ngân hàng Nông 

gần 30%. Hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum bị tác động của mùa mưa bão năm ngoái và 

nghiệp và phát triển nông thôn Chi nhánh Dak Lak, lượng vốn đã giải ngân cho vay 

hạn hán nặng nề năm nay nên sản lượng cà phê ở 2 tỉnh này có thể giảm tới 20%. 

mua tạm trữ cà phê trên địa bàn tỉnh chỉ hơn 400 tỉ đồng, ứng với hơn 17.000 tấn. 

Như  vậy  nếu  chúng  ta  không  xây  dựng  được  một  cơ  quan  dự  báo  chuyên 

Lâm Đồng là địa phương có diện tích cà phê lớn thứ hai trong nước, sau Đak Lak, 


nghiệp để  có được những  số  liệu phân tích dành  cho  riêng mình  thì ngành  cà  phê 

việc doanh nghiệp mua tạm trữ còn èo uột hơn cả Đak Lak. Chính vì thế chính sách 

cũng sẽ khó có thể chủ động được việc sản xuất và kinh doanh.

cho vay mua tạm trữ cà phê đã thất bại hoàn toàn.


39 

Tóm lại, tuy là một cường quốc xuất khẩu nhưng cà phê Việt Nam không có 

40 

§  Singapore – sàn giao dịch phải gắn với vùng nguyên liệu: 

thương hiệu, thiếu một chỗ đứng ổn định trên thị trường thế giới, không có các hợp 

Trước Sicom, trên thế giới, cà phê đã được đưa lên một số sàn giao dịch. Nổi 

đồng mua bán dài hạn, nên các tổ chức kinh doanh xuất khẩu không tiên liệu được 

tiếng và thành công trong số này có sàn Liffe (London) với cà phê Robusta và sàn 

chính  xác  nhu  cầu  của  thị  trường  và  chiều hướng  biến  động  giá…  dẫn  tới  không 

Nybot  (Mỹ)  với  cà  phê  Arabica.  Để  cạnh  tranh,  Sicom  đã  nỗ  lực  tạo  ra  hấp  dẫn 

định hướng được sản xuất. Người sản xuất chỉ biết sản xuất, không biết được khả 


riêng. Đó là tổ chức cơ chế giao dịch phù hợp với nhiều đối tượng như giờ giao dịch 

năng  tiêu  thụ.  Người  kinh doanh  đến mùa  vụ  chỉ biết  thu mua,  không biết  sẽ  bán 

buổi sáng từ 10h – 12h, buổi chiều từ 16h – 23h (phù hợp với khách hàng châu Á và 

được bao nhiêu,với giá nào… ngành cà phê Việt Nam càng phát triển thì cà phê trên 

châu Âu). Sicom còn nhấn mạnh tới yếu tố khu vực: các nhà sản xuất và các NĐT 

thế giới càng bị dư thừa, hậu quả là cà phê Việt Nam phải bán phá giá, dẫn đến thua 

tài chính giao dịch trên sàn Sicom sẽ sử dụng chuẩn chất lượng cà phê châu Á (theo 

lỗ cả người kinh doanh và người sản xuất. Tình trạng bị động về tiêu thụ, may rủi về 

tiêu chuẩn chất lượng tại các cường quốc về cà phê như Việt Nam hay Indonesia). 

giá là đặc điểm cơ bản của sản xuất ­ kinh doanh ngành cà phê Việt Nam. 

Điều này khá hấp dẫn, vì chuẩn chất lượng cà phê Robusta trên sàn Liffe cao hơn 

Chính vì vậy cần thiết phải nhanh chóng ứng dụng giao dịch giao sau cà phê 
nhằm bình ổn giá cả và giảm thiểu rủi ro cho người nông dân trồng và doanh nghiệp 
kinh doanh cà phê. 

chuẩn Việt Nam hay Indonesia. Ngoài ra, Sicom cho sàn liên thông với Liffe. 
Thế nhưng, kể từ ngày khai trương, cà phê được giao dịch khá thưa thớt, với 
số  lô  giao  dịch  đếm  trên  đầu  ngón  tay.  Sicom  không  thành  công  với  cà  phê  có 

nguyên nhân khá đơn giản là Sicom không có lợi thế ở trung tâm các vùng nguyên 

2.2. Khả năng ứng dụng hợp đồng giao sau vào giao dịch cà phê tại Việt Nam 

liệu của các quốc gia sản xuất cà phê lớn như Braxin, Việt Nam, Indonesia. Để thu 

2.2.1.  Học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước 

hút NĐT, Sicom cho phép khách hàng  ở Việt Nam giao nhận thực hiện thông qua 

§  Trung Quốc ­ phát triển sàn giao dịch hàng hóa với hạt nhân là các nhà 

việc xuất hóa đơn của các kho hàng trữ cà phê tại TP. HCM hoặc Singapore. Tuy 

sản xuất: 

nhiên,  thực  tế  việc  xuất  nhập,  kiểm  tra  hàng mất  thời  gian  đến hàng  tuần  sau  khi 

Thực tế, ở các nước trong khu vực, mỗi sàn giao dịch hàng hóa thành công 

hợp đồng đến hạn. Đây là điều không mấy thuận lợi nên các nhà sản xuất ngần ngại. 

thường gắn với một mặt hàng thuộc thế mạnh quốc gia như sàn Đại Liên –  Trung 

Trong khi đó, đối với NĐT tài chính, họ chưa tìm thấy ở Sicom điểm hấp dẫn hơn 

Quốc với đậu nành; sàn Bursa – Malaixia với dầu cọ; sàn Sicom với cao su… Với 

so với sàn giao dịch cà phê Robusta London. 


các sàn giao dịch trong khu vực đã thành công, ở giai đoạn ban đầu, lực lượng hạt 

Năm  2008,  Việt  Nam  đã  thành  lập  Trung  tâm  giao  dịch  cà  phê  Buôn  Ma 

nhân luôn là nhà sản xuất (có nhu cầu bảo hộ giá sản phẩm). Ở Trung Quốc đã từng 

Thuột được đặt tại Đăk Lăk, nơi sản xuất ra 50% sản lượng cà phê của ngành cà phê 

xảy ra việc bùng phát các sàn giao dịch hàng hóa nhưng lại chú trọng vào các nhà 

Việt Nam và giao dịch loại hàng hóa duy nhất là cà phê. 

đầu tư hàng hóa nhiều hơn, điều này giúp các sàn có khách hàng nhanh, nhưng phát 
triển không bền vững. Số lượng các nhà đầu cơ quá lớn có thể  gây nên tình trạng 

2.2.2.  Hoạt động của Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) 

mất  cân  đối  cung  cầu,  thị  trường  nóng  lạnh  đột  ngột.  Sự  phát  triển  quá  nóng  rồi 

BCEC là một tổ chức dịch vụ thương mại, nơi giao dịch, mua bán các loại cà 

nguội lạnh có thể tạo ra dư luận xã hội không tốt, khiến sau này các nhà sản xuất có 

phê hạt khô (cà phê nhân) sản xuất tại Việt Nam, hoạt động theo phương thức đấu 

nhu cầu bảo hiểm giá sản phẩm ngần ngại tham gia

giá tập trung và công khai gồm giao dịch mua bán giao ngay và giao dịch mua bán



41 

42 

giao  sau;  hoạt  động  theo  nguyên  tắc  thành  viên,  dưới  sự  quản  lý  của  UBND  tỉnh 

nước ngoài là 2 triệu USD. Các tổ chức, đơn vị không hội đủ các điều kiện để trở 

Đaklak. Theo đó BCEC vừa là thị trường sơ cấp vừa là thị trường thứ cấp: 

thành thành viên nhưng muốn tham gia giao dịch tại Trung tâm phải được môi giới 

­  Thị trường sơ cấp: Là những giao dịch mua bán lần đầu, sản phẩm của người 

thông qua một tổ chức thành viên. 

sản xuất lần đầu tiên được đưa vào giao dịch (sản phẩm không xuất xứ từ hợp đồng 

Trung tâm có sàn giao dịch nên các tổ chức thành viên có thể giao dịch trực 

mua trước đó tại Trung tâm Giao dịch Cà phê BMT) hình thành hợp đồng nguyên 

tiếp tại sàn hoặc giao dịch qua mạng Internet. Thời gian giao dịch tại trung tâm là 5 

thuỷ. 

phiên/tuần bắt đầu từ 19h30 đến 21h00 theo giờ giao dịch của thị trường Luân Đôn. 

­  Thị trường  thứ  cấp  (dành  riêng  cho  giao dịch  kỳ  hạn):  Là  những  giao dịch 


Sản phẩm cà phê đăng ký tham gia giao dịch tại trung tâm gồm 2 loại cà phê 

mua bán  lại quyền mua  từ hợp đồng nguyên thuỷ  (bên mua bán  lại hợp  đồng  cho 

chính là cà phê Arabica ký hiệu trong giao dịch là A và cà phê Robusta ký hiệu là 

người khác). Nghĩa là Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột phục vụ cho cả 

R. Mỗi loại cà phê được phân thành 6 thứ hạng từ hạng đặc biệt đến hạng 5 và loại 

người sản xuất và người kinh doanh, tiêu thụ. 

cà phê nhân xô (hỗn hợp). 

Cơ cấu tổ chức của BCEC hiện nay: 
Sơ đồ 2.2. Cơ cấu tổ chức của BCEC hiện nay 

BCEC có ba tổ chức ủy thác: 
­  Ngân hàng ủy thác thanh toán là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương 
(TECHCOMBANK), thực hiện các nghiệp vụ thanh toán cho các hoạt động 
giao dịch tại Trung tâm. 
­  Tổ chức uỷ thác kiểm định chất lượng sản phẩm là Chi nhánh Công ty Giám 
định  hàng  hóa  nông  sản  xuất  khẩu  thuộc  Bộ  NN&PTNT  tại  Đaklak 
(CafeControl) thực hiện việc kiểm định chất lượng, phẩm cấp, chủng loại cà 
phê. 
­  Công ty An Giang ủy thác quản lý, kinh doanh kho với hệ thống kho bãi do 
công ty Thái Hòa (công ty mẹ) đầu tư. 
Để  làm  tốt  các  chức  năng,  nhiệm  vụ  trên  và  nhằm  tạo  điều  kiện  thuận  lợi 
nhất cho các các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến, xuất khẩu cà phê, 
nhất là đối  với người  trực  tiếp  sản  xuất  cà  phê,  BCEC  cùng  với  Techcombank và 

doanh nghiệp quản lý kho triển khai hoạt động ký gửi hàng hóa, cung cấp dịch vụ 

Các  tổ  chức  kinh  doanh  trong  nước  muốn  trở  thành  thành  viên  của  BCEC 

tín dụng, các dịch vụ  kho bãi, các dịch vụ khác về kiểm định, gia công, chế biến, 

phải có vốn tự có ít nhất là 5 tỷ đồng, và có 3 năm liên tục gần nhất có số lượng cà 

giao nhận  hàng hóa  khi  khách  hàng  có  nhu  cầu,  với  hệ  thống  gồm 04  kho  và  01 

phê xuất khẩu, chế biến hoặc tiêu thụ ít nhất là 5.000 tấn/niên vụ. 

xưởng chế biến ngay tại Trung tâm. 

Đối với các tổ chức môi giới phải có giấy phép hoạt động môi giới tài chính, 

Khi  xây  dựng  dự  thảo  quy  chế  giao  dịch,  BCEC  dự định  triển  khai  cả  hai 

thương mại và có vốn điều lệ tối thiểu là 3 tỷ đồng, còn đối với các tổ chức môi giới

cách  thức  giao dịch  là mua bán  giao ngay  và  mua  bán  kỳ hạn.  Tuy nhiên,  sau  đó


43 

44 

BCEC chỉ chọn mua bán giao hàng thật để bảo đảm từng bước đi phù hợp với trình 

viên từ 5 tấn xuống còn 1 tấn; từ 1 tấn trở lên là có thể thực hiện được một phiên 


độ mua bán cà phê của phần đông nông dân và doanh nghiệp hiện nay. 

giao dịch trên sàn; nhiều thủ tục hành chính khác cũng được giản lược…, nhưng số 

Với  phương  thức mua bán này  khiến BCEC  giống một đại  lý  thu mua  chứ 

thành  viên  và  lượng  cà  phê  được  ký  gửi  vào  đây  vẫn  quá  khiêm  tốn,  thành  viên 

chưa hẳn đã trở thành một sàn giao dịch khi chưa có mua bán kỳ hạn, mà chỉ là mua 

đăng ký bán cà phê ở sàn tới giờ, dù có tăng nhưng cũng chỉ hơn 40 cá nhân mà đa 

bán giao ngay. Khi giao dịch tại sàn người nông dân được hưởng khá nhiều lợi ích, 

phần là đại lý, một con số rất khiêm tốn nếu so với hàng vạn hộ dân trồng cà phê ở 

cụ thể như: 

Đắk Lắk nói riêng và hàng trăm ngàn hộ nông dân trồng cà phê ở Tây Nguyên mà 

­  Người nông dân có thể yên tâm khi gửi kho của sàn, không sợ vỡ nợ, rủi ro 
như ký gửi cà phê ở đại lý như bao lâu nay. 
­  Người nông dân được hướng dẫn phân loại cà phê xô theo ba tiêu chuẩn dựa 
trên kích cỡ hạt (có sàng đo kích cỡ để phân loại), đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, nhờ đó 
bán thành phẩm được giá cao hơn nhiều so với bán xô tại đại lý. 

sàn này định hướng nhắm tới. Thành viên đăng ký kinh doanh, hay nói chính xác 
hơn là đăng ký mua, cũng chỉ mới có 21 doanh nghiệp, con số quá ít ỏi so với hơn 
140 doanh nghiệp có kinh doanh cà phê hiện nay ở tỉnh Đaklak. 

Việc thành lập BCEC là đúng nhưng rõ ràng hiệu quả không được như mong 
đợi và không thu hút được người nông dân đến sàn. Để giao dịch giao sau hiệu quả 

­  Cà phê ký gửi được kiểm định chất lượng bởi công ty Cafecontrol, chỉ cần 

hơn  thiết  nghĩ  cần  thiết  lập  một  mạng  lưới  giao  dịch  rộng  lớn  có  tổ  chức  từ  Sàn 

30 phút sau khi nhập kho là có thể cho người gửi biết kết quả lô hàng nhập là bao 

Giao Dịch cho đến vườn của người nông dân để thay thế cho một hệ thống đại lý tự 

nhiêu phần trăm sàng 18 (cỡ hạt), sàng 16, sàng 13, độ ẩm, tỷ lệ hạt đen vỡ, tỷ lệ tạp 

sinh tự phát đã ẩn chứa quá nhiều rủi ro cho người nông dân trong thời gian qua. 

chất… đồng thời được cấp giấy chứng thư đã ký gửi trong đó có chứng nhận tiêu 
chuẩn cà phê của Cafecontrol. Người nông dân có thể dùng nó để bán, cầm cố vay 
tiền ngân hàng, còn nếu chưa cần tiền thì cứ gửi ở kho của sàn, khi nào cần thì bán. 
Thế  nhưng  khi  nhìn  vào  khối  lượng  và  giá  trị  giao  dịch  qua  BCEC  ­  năm 

2.2.3.  Nguyên nhân BCEC chưa triển khai giao dịch giao sau cà phê 
2.2.3.1.  Khung  pháp  lý  còn  thiếu  đồng  bộ,  chưa  đầy  đủ  và  chưa  phù 
hợp với thông lệ quốc tế 

2009 chỉ có 320 tấn cà phê gửi kho với giá trị giao dịch gần  9  tỷ đồng, 9 tháng đầu 

Hiện nay  chúng  ta đã  và đang  xây  dựng hoàn  thiện  các khuôn  khổ  pháp  lý 

năm 2010 có khá hơn khi lượng hàng giao dịch là 960  tấn cà phê với giá trị giao dịch 


của cơ chế thị trường giao sau, song còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ và chưa phù 

khoảng gần 27 tỷ đồng ­ có thể thấy BCEC còn thua xa một đại lý cà phê cấp 3 ở 

hợp với thông lệ quốc tế. Do tính đặc thù của thị trường phái sinh mà cụ thể là thị 

huyện trong mùa vụ thu hoạch cà phê có thể mua bán hàng chục hay hàng trăm tấn 

trường giao sau nên cần có một khuôn khổ pháp lý phù hợp. 

một ngày, trong khi trung tâm được nhà nước đầu tư hàng chục tỉ đồng nhưng khối 

Vì vậy cùng với việc hoàn thiện sửa đổi các luật đã có, bước đầu Chính phủ 

lượng giao dịch chỉ có 16 tấn với giá trị 380 triệu đồng như vào ngày 25/3 vừa qua. 

cần  nghiên  cứu,  soạn  thảo  và ban  hành  các  thông  tư,  nghị  định  quy  định  về  việc 

Trong những tháng đầu niên vụ cà phê 2009­2010, hàng ngày nông dân, đại lý chỉ 

kinh doanh, giao dịch trên thị trường hàng hóa giao sau. Sau đó cần phải nghiên cứu 

ký  gửi  vài  chục  tấn,  chẳng  thấm là  bao  so  với  hàng  trăm ngàn  tấn  cà  phê nhân  ở 

và soạn thảo pháp lệnh kinh doanh trên thị trường này. Tuy nhiên để xây dựng công 

Đak Lak.

cụ pháp lý riêng cho loại thị trường này là khó khăn lớn của Việt Nam. Luật chứng 


Mặc dù trong gần 3 năm qua, sàn đã liên tục có những điều chỉnh cần thiết, 

khoán  Việt  Nam  cũng  đã  có  quy  định  về  các  hình  thức  giao  dịch  giao  sau.  Tuy 

phù  hợp  hơn  với  thực  tế  như: hạ  thấp  lượng cà  phê ký  gửi  vào  đây  để  làm  thành

nhiên trên thực tế thì vẫn chưa thể áp dụng vì chưa được hướng dẫn thực hiện cụ


45 

46 

thể. Những phương thức này chỉ có thể áp dụng khi thị trường giao sau Việt Nam 

Kinh doanh ở các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là do phán đoán chủ quan 

đảm bảo các yếu tố về hạ tầng kỹ thuật, pháp lý và phát triển đến một trình độ cao 

có được do tích luỹ từ nhiều năm, thế hệ trước truyền cho thế hệ sau. Tuy nhiên khi 

hơn nhiều so với hiện nay. 

mở rộng quy mô kinh doanh, hội nhập ngày càng sâu rộng thì tính chất rủi ro cũng 

2.2.3.2.  Thông lệ tập quán kinh doanh của người nông dân 

có nhiều biến động do vậy không thể lường trước được. Hơn nữa kiến thức về  tài 

Đó là thói quen mua bán cũ khá tiện lợi cho nông dân. Nông dân thu hoạch 


chính  thế  giới  cũng như  các  kỹ thuật  phân  tích  đo  lường, ước  lượng mô hình mô 

cà phê với bất kỳ khối lượng nào cũng được đại lý, thương lái ở thôn buôn, trong xã 

phỏng biến động giá cả còn rất thiếu và yếu. Chỉ một bộ phận nhỏ các cán bộ trong 

tới mua cà phê xô mà tiền có thể trao ngay hoặc ghi nợ mà nông dân có thể lấy bất 

doanh nghiệp được đào tạo nhưng chưa có sự chuyên sâu. Vừa kinh doanh vừa học 

kỳ  lúc nào mình muốn.  Trong  khi nếu muốn bán  cho  sàn, đầu tiên phải  làm  ra  cà 

do vậy những sai lầm mắc phải là không thể tránh khỏi. 

phê đạt tiêu chuẩn Việt Nam ­ vốn khá rắc rối với nông dân, sau đó nông dân phải 
chuyên chở tới sàn mà không phải ai cũng có phương tiện. 

Đội ngũ các nhà kinh doanh rủi ro trên thị trường thứ cấp chưa thật sự mạnh 
về cả chất lẫn lượng. Do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn 

BCEC có hệ thống kho lớn nhưng nông dân thu hoạch mỗi lần vài tấn cà phê 

thấp, trên thị trường cón thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như 

ở các huyện, xã cách xa trung tâm hàng chục cây số phải thuê xe chở về trung tâm, 

kỹ  thuật  tính  toán  lợi nhuận  từ  các  loại nghiệp vụ này. Bên  cạnh đó,  các nhà môi 

làm phát sinh chi phí. Thế nên, nông dân gửi cà phê cho đại lý trong thôn, xã vẫn 


giới còn quá ít để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này. 

thuận tiện hơn. Bên cạnh đó các doanh nghiệp lại có mạng lưới thu mua cà phê đủ 
mạnh thông qua các đại lý ở huyện, xã và họ cũng chẳng cần tham gia sàn dù thừa 
biết đây là  phương  thức mua bán hiện đại mà nhiều nước  tiên  tiến đã  và  đang áp 
dụng cho nông sản. 

Kết luận chương II 
Cũng như những mặt hàng nông sản  khác của Việt Nam đều chỉ tham gia ở 
khâu ít giá trị gia tăng, rủi ro cao và nhiều lệ thuộc, cà phê Việt Nam tuy chiếm giữ 

Hay nói khác hơn, bản chất của kiểu mua bán cũ là qua nhiều tầng nấc trung 

thị phần xuất khẩu không nhỏ trên thế giới nhưng chủ yếu ở khâu trồng cấy và thu 

gian để đưa hạt cà phê từ nông dân tới nhà xuất khẩu hay chế biến. Đột phá để phá 

gom sản phẩm thô, cà phê nhân được xuất cho các công ty nước ngoài. Họ chế biến, 

vỡ một phần trong hệ thống mua bán cũ đã ăn sâu vào nông dân, đại lý không phải 

chắt lọc, phân đoạn làm nhiều tầng, thu nhiều khoản lời và đóng nhãn mác của họ 

là điều dễ dàng. Đây là một thông lệ có từ rất lâu đời, do vậy để thay đổi cần có thời 

bán cho người tiêu dùng. Vì chiếm giữ những phần ít rủi ro, lại nắm được thông tin 

gian và tác động của các cơ quan quản lý. 


đầu  nguồn nên  họ  chủ  động  tránh được  thiệt  hại. Phần  bất  lợi đẩy  về phía  những 

2.2.3.3.  Tham  gia  thị  trường  giao  sau  –  hoạt  động  vẫn  còn  mới  mẻ  ở 

doanh nghiệp  xuất khẩu  và được doanh nghiệp đẩy về  khu  vực  sản  xuất  là những 

Việt Nam 

người nông dân trồng cà phê. Nếu không đảm bảo được lợi ích cho người trồng cà 

Những hạn  chế  về  kiến thức  của  các nhà  kinh  doanh và  các  cấp  quản  lý  ở 

phê thì khả năng họ chuyển sang canh tác cây trồng khác là điều chắc chắn, vấn đề 

Việt Nam khiến cho việc xây dựng trong thực tiễn vấp phải nhiều trở ngại. Muốn 

này về lâu về dài không có lợi cho nền sản xuất quốc gia nói chung và cho ngành 

xây  dựng  được  thị  trường  thì  trước  hết  phải  huấn  luyện  được  đội  ngũ  nhà  kinh 

xuất khẩu cà phê nói riêng. 

doanh am hiểu về sản phẩm phái sinh và thị trường giao sau.

Vấn  đề trước mắt là  làm  thế nào để  giúp  người nông dân  trồng  cà phê  yên 
tâm sản xuất và  có thể đương đầu với rủi ro biến động giá ngày  càng gia tăng  thì


47 


48 

ngoài  việc  thiết lập  lại một mô  hình  sản  xuất kinh doanh mới  với  sự  liên  kết  chặt 

CHƯƠNG III: XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG GIAO SAU CÀ 

chẽ giữa các khâu, chúng ta cần xây dựng và phát triển thị trường giao sau cà phê. 

PHÊ TẠI VIỆT NAM ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO BIẾN 

Bởi ít nhất cho đến lúc này, người nông dân đã dần mất niềm tin vào cung cách mua 

ĐỘNG GIÁ 

bán,  giao  dịch  cũ  theo  kiểu  phi  thương  mại  từ  các  đại  lý  thu  mua  cà  phê  truyền 
thống, việc họ sẽ tìm đến giao dịch với sàn cà phê Buôn Ma Thuột là điều tất nhiên. 
Vấn đề còn lại là làm sao để họ đến với con đường ngắn nhất và trong thời gian sớm 

3.1. Xây dựng thị trường giao sau trên cơ sở  triển  khai giao dịch giao sau tại 

nhất có thể. 

Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột 

Tuy nhiên với những hạn chế đã nêu  ở trên trong việc triển khai thị trường 
này thì  cần  có những giải pháp  thích hợp  để khắc phục  những hạn  chế đó.  Trong 

3.1.1.  Thay đổi mô hình tổ chức sàn giao dịch 
Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức sàn giao dịch 


phần tiếp theo chúng ta sẽ đi vào một số giải pháp  chính và giải pháp có tính định 
GIÁM ĐỐC 

hướng để xây dựng và phát triển thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam. 
Với những khó khăn như vậy nhưng chúng ta cũng vẫn cần phải triển khai 
PHÓ GIÁM ĐỐC 

PHÓ GIÁM ĐỐC 

giao dịch cà phê giao sau tại BCEC nhanh chóng vì hai lẽ: một là tăng công cụ bảo 
hộ cho người sản xuất và kinh doanh cà phê; hai là hiện tại, ngoài Nybot và Liffe 
mà  doanh  nghiệp  Việt  Nam  thường  tham  gia,  mới  đây,  sàn  hàng  hóa  Sicom  của 
Singapore cũng sang Việt Nam mời doanh nghiệp tham gia, nếu chúng ta chậm nữa 
giao dịch cà phê kỳ hạn sẽ trở thành thị trường cho các sàn nước ngoài vào chiếm 

Trung tâm giao dịch 
Sàn  giao  dịch  cà 
phê 

Văn phòng tổng hợp 

Trung tâm kiểm định , 
chuyển giao sản phẩm 

Phòng pháp chế
Phòng  quản 
kiểm định 

lý 


chỗ.
Trung  tâm  thanh 
toán bù trừ 
Phòng  quản 
thành viên 

Phòng chuyển giao 
sản phẩm 

lý 
Quản  lý  kho  hàng 
hóa 

Phòng  công  nghệ 
và tin học 
Phòng  thông  tin 
thị trường 

v  Khối lãnh đạo: 
­  Giám đốc: gồm 1 giám đốc, có nhiệm vụ quản lý và điều hành hoạt động của 
các phòng ban. Giám đốc là người đại diện pháp lý cho sàn giao dịch. 


49 

­  Phó Giám đốc: 2 Phó Giám đốc hỗ trợ cho Giám đốc trong việc quản lý hoạt 
động của sàn. 
v  Trung tâm Kiểm định và chuyển giao sản phẩm: 
Bao  gồm các phòng ban: phòng quản lý  kiểm định, phòng chuyển giao  sản 


50

·  Công  ty  môi giới  trên  sàn:  có  nhiệm vụ  tiếp nhận các  hồ sơ  giao  dịch  của 
khách  hàng,  sau  khi  tiến  hành  kiểm  tra  kiểm  soát  tính  hợp  lý  của  các  hợp 
đồng phù hợp với các quy định giao dịch của sàn sẽ tiến hành đẩy lệnh giao 
dịch lên sàn.

phẩm, phòng  quản  lý  kho hàng hóa có  chức năng phục  vụ quá  trình  kiểm  tra tính 

·  Người tạo lập thị trường: có vai trò  đảm bảo cho lệnh mua và lệnh bán có 

chuẩn hóa của hàng hóa (người bán có trách nhiệm đem nộp mẫu hàng hoá cho bộ 

thể thực hiện ở một vài mức giá mà không có bất kỳ sự chậm trễ nào. Chính 

phận kiểm tra giám định chất lượng hàng hoá trước khi tiến hành giao dịch trên sàn) 

họ làm tăng tính linh hoạt cho thị trường và tự tạo lợi nhuận cho mình thông 

và phục vụ quá trình giao nhận hàng. 
v  Trung tâm Giao dịch: 
Bao gồm các phòng ban: sàn giao dịch cà phê, Trung tâm thanh toán bù trừ, 
phòng  quản  lý  thành  viên,  phòng  công  nghệ  và  tin  học  và  phòng  thông  tin  thị 
trường. 
­  Sàn giao dịch: nơi diễn ra các giao dịch. Có nhiệm vụ tổ chức và điều hành 
các phiên giao dịch. Các thành phần tham gia giao dịch trên sàn:

qua chênh lệch giá. 
­  Trung  tâm  thanh  toán  bù  trừ  (clearing  house):  theo  dõi  tất  cả  các  hoạt 
động giao dịch trong ngày để tính toán các vị thế của mỗi thành viên. Từ đó loại trừ 

các rủi ro tín dụng, quản lý các tài khoản. 
­  Phòng  quản  lý  thành  viên:  tìm  và  hướng  dẫn  cho  khách  hàng  các  thủ  tục 
cần thiết khi tham gia giao dịch trên sàn. 
­  Phòng  thông  tin  thị  trường:  chịu  trách  nhiệm  thu  thập  và  phân  tích  các 

·  Người mua: bao gồm các doanh nghiệp sản xuất nhựa trong nước, các doanh 

thông tin về giá cả trên thị trường trong nước và thế giới. Phối hợp với các công ty 

nghiệp  lọc  dầu  nước  ngoài  (mua  dầu  thô).  Ngoài  ra,  còn  bao  gồm  tất  cả 

mô  giới  của  phòng  giao  dịch  cung  cấp  cho  khách  hàng những  thông  tin  cần  thiết 

những người có nhu cầu phòng ngừa rủi ro khi giá các nguyên vật liệu đầu 

trên thị trường. 

vào cho quá trình sản xuất kinh doanh tăng.
·  Người  bán:  các  doanh  nghiệp  xuất  khẩu  hạt  nhựa  nước  ngoài,  các  doanh 
nghiệp xuất khẩu dầu thô trong nước. Đây là những người có nhu cầu phòng 
ngừa rủi ro giá và không có mục đích đầu cơ kiếm lời.

v  Khối  văn  phòng  tổng  hợp:  phòng  nhân  sự,  phòng  kế  toán,  bộ  phận  kỹ 
thuật,…. 
v  Phòng nghiên cứu pháp chế: nghiên cứu ban hành các quy chế hoạt động 
của sàn, sửa đổi các quy mô kích thước hợp đồng, đề xuất các mặt hàng mới tham 

·  Nhà đầu cơ: là những người mua đi bán lại các hợp đồng giao sau để thu lợi 

gia hợp đồng; xử lý các tranh chấp xảy ra giữa các bên giao dịch tại sàn; trực tiếp 


nhuận từ chênh lệch giá. Họ là những nhân tố chính tạo tính thanh khoản cho 

chịu trách nhiệm trước ban giám đốc; ký quỹ giao dịch, đánh giá các giao dịch hàng 

thị trường, khiến cho mục đích tạo lập sàn giao sau để phòng ngừa rủi ro giá 

ngày và thực hiện thanh toán các giao dịch. 

cả trở nên gần với thực tiễn hơn.
·  Nhà môi giới trên sàn: thực hiện các giao dịch cho khách hàng, nhà đầu tư 

3.1.2.  Quy chế giao dịch tại sàn (điều khoản) 

đến giao dịch phải thông qua nhà môi giới trên sàn. Nhà môi giới ở đây có 

v  Quy định về thời gian làm việc của sàn: từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần( trừ 

thể là của công ty môi giới hoặc là nhà môi giới độc lập nhưng phải có tín chỉ 

ngày nghỉ lễ theo quy định của pháp luật Việt Nam). Mỗi ngày có 1 phiên giao dịch 

hành nghề do các tổ chức có liên quan cấp giấy chứng nhận.

vào buổi chiều từ 14h đến 17h.


×