CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá
trình lâu dài, trên cơ sở hình thành đầy đủ các tiền đề và nền tảng của mô hình
mới về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cả trong lý luận cũng như thực
tiễn. Đây là một vấn đề được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Sự quan tâm
được thể hiện rõ nhất trong các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc từ lần thứ
VI đến lần thứ X của Đảng và trong các kì họp Quốc hội. Vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều được đặt ra rất cấp bách và cần
thiết, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Vậy, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay được dựa trên những cơ sở khoa
học nào? Đây có thể nói vẫn là vấn đề mang tính thời sự nóng hổi, bởi sau khi
các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các nhà lý luận tư sản
phản động đã dùng tất cả mọi chiêu bài bỉ ổi nhất để công kích các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại, trong đó chúng coi Việt Nam là một trọng điểm. Chúng cho
rằng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ là “quái thai” do bị đẻ non; Nhà nước xã hội
chủ nghĩa chỉ là “bước đệm” cho nhà nước tư sản mà thôi... nói tóm lại là chúng
phủ nhận toàn bộ lý luận Mác - Lênin về vấn đề Nhà nước.
Đứng vững trên quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn lịch sử xã hội loài người để xem xét vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có hiện thực hay
không, hay chỉ là “quái thai”, là “bước đệm” mà các nhà lý luận tư sản đã rêu
2
rao?. Chúng ta cần làm rõ một số cơ sở lý luận và thực tiễn để chứng minh cho
những vấn đề trên. Trên cơ sở đó liên hệ với việc phát huy vai trò của Quân đội
ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
1. TÍNH TẤT YẾU RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC
CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN.
Nhà nước ra đời từ bao giờ? nguồn gốc và bản chất của nhà nước được
biểu hiện như thế nào? Đây là vấn đề quan trọng của các khoa học xã hội và là
vấn đề cơ bản trong mọi thời đại tồn tại giai cấp. Vì vậy, nó là đối tượng của
cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt từ xưa đến nay. Các nhà triết học tư sản đưa ra
nhiều lý thuyết cố tình biện hộ cho sự thống trị của giai cấp bóc lột, xoá nhoà
bản chất của nhà nước. Nhưng dẫu che đậy và xuyên tạc đến đâu, nhà nước trước
sau vẫn là bộ máy để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Nguồn gốc ra đời của nhà nước, từ xưa đến nay có nhiều quan điểm khác
nhau. Thuyết thần học cho rằng: Nhà nước do trời sinh ra, vua là con trời, là
thiên tử, không được xâm phạm. Hê-ghen nói, nhà nước là sự ngao du của trời
trong thiên hạ. Theo thuyết gia trưởng, (Arixtốt là đại biểu) cho rằng: Nhà nước
cần thiết cho xã hội cũng như trong gia đình có cha - người có quyền lực cao
nhất trong gia đình. Thuyết bạo lực thì cho rằng, sự hình thành nhà nước gắn liền
với sự ra đời của bộ máy bạo lực, gắn liền với chiến tranh xâm lược. Thuyết khế
ước xã hội lại cho rằng, mọi người sinh ra đều có quyền tự nhiên, tự do làm tất
cả, dẫn đến xã hội sẽ vô chính phủ, vì vậy tất yếu phải có nhà nước. Chủ thể
quyền lực là nhân dân, các công dân khế ước với nhau, nếu nhà nước vi phạm
khế ước thì nhân dân có quyền lật đổ nhà nước. Đây là quan điểm tiến bộ, tuy
nhiên hạn chế của quan điểm này là: họ cho rằng nhà nước là sản phẩm tự do của
ý chí, mang tính chất duy tâm siêu hình. Còn quan điểm của các nhà tư sản thì
cho rằng: nhà nước xuất hiện do phân chia giai cấp đối kháng. Nhà nước ra đời
3
nhằm điều hoà mâu thuẫn giai cấp, vì vậy nhà nước cần thiết và tồn tại vĩnh viễn
trong xã hội. Đây là quan điểm hết sức phản động, sai trái nhằm lừa bịp, đánh
tráo khái niệm của giai cấp tư sản.
Lý luận khoa học về nhà nước, về nguồn gốc và bản chất của nhà nước
chỉ có thể có được khi vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử vào việc nghiên
cứu sự phát triển của xã hội. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị có nhiệm vụ cưỡng chế và quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích, trước hết
của giai cấp thống trị trong xã hội. Trong nhiều tác phẩm của mình, tập trung
nhất là các tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ sở hữu và của nhà
nước”, “Nhà nước và cách mạng”, “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”..., các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh rằng, không phải lúc
nào xã hội cũng có nhà nước. Nhà nước là một phạm trù lịch sử, ra đời và phát
triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế - xã hội. Trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ không có nhà nước, vì lúc đó xã hội được sự quản lý của những tộc
trưởng, thủ lĩnh được bầu lên. Họ quản lý xã hội bằng sức mạnh, uy tín và đạo
đức của mình. Do sản phẩm xã hội là của chung nên họ không có đặc quyền, đặc
lợi gì cả. Họ không bắt người dân phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Hay nói
cách khác, quyền hành của họ chưa mang tính chính trị. Xã hội lúc này mang
tính tự quản rất cao, họ làm chung, ăn chung và sử dụng của cải chung.
Ph.Ăngghen viết: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó
quả là một tổ chức đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát,
không có quý tộc và vua chúa, tổng đốc trưởng quan và quan toà, không có nhà
tù, không có những vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi chảy” 1.
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Nhà
nước lúc đầu như một tư tưởng, một học thuyết, sau đó như một thực tiễn có lịch
sử của nó. Ph.Ăngghen cho rằng, nhà nước ra đời là do: sự phát triển của lực
1
C.M¸c. Ph.¡ngghen. Toµn tËp. NXB CTQG. Hµ Néi. 1995. TËp 21. Tr.147.
4
lng sn xut, trc ht l cụng c lao ng, ó cho phộp cú th tin hnh sn
xut, tng i c lp, sn xut gia ỡnh cú li hn sn xut cng ng v vỡ
vy cỏc gia ỡnh ó tỏch ra khi cng ng c lp trong sn xut, s hu
chung tr thnh vt cn i vi s phỏt trin ca sn xut. Vi s phỏt trin cụng
c sn xut, nng sut lao ng tng lờn nhanh chúng v cú ca d. õy l c s
khỏch quan lm cho nhng ngi cú chc, cú quyn khỏt vng chim ot sn
phm lao ng ca ngi khỏc. Nh vy, s phỏt trin ca lc lng sn xut ó
lm cho ch s hu chung b thay th bi ch s hu t nhõn v t liu sn
xut v ng thi xut hin ch ngi búc lt ngi ra i.
Ch ngi búc lt ngi xut hin v xó hi phõn chia thnh giai cp,
quan h ỏp bc thay th quan h bỡnh ng, hp tỏc. ng thi, lỳc ny chin
tranh n cp gia cỏc b lc, th tc thng xuyờn din ra, a v ca cỏc th
lnh quõn s cng c cng c v m rng, h búc lt nhõn dõn rt thm t. Cỏc
c quan t chc ca th tc, b lc dn dn thoỏt khi nhõn dõn, tr thnh c
quan chuyờn nghip qun lý xó hi v trong mt s hon cnh nht nh
thm chớ cũn i lp vi cng ng y 1. Cú ỏp bc t s cú u tranh, cuc u
tranh i khỏng ln u tiờn ó xut hin gia ch nụ v nụ l. Cuc u tranh
ngy cng mnh m cú nguy c tiờu dit ln nhau v tiờu dit luụn c xó hi.
thm ho khụng xy ra, mt c quan quyn lc c bit ó ra i, ú l nh
nc.
Nh vy, nguyờn nhõn trc tip d n s ra i nh nc l do mõu
thun gia hai giai cp khụng th iu ho c, v nguyờn nhõn sõu xa l do
ch s hu t nhõn v t liu sn xut. iu ny ó c V.I.Lờ nin khng
nh: Nh nc l sn phm v biu hin ca nhng mõu thun giai cp khụng
th iu ho c. Bt c õu, h lỳc no v chng no, v mt khỏch quan,
nhng mõu thun giai cp khụng th iu ho c, thỡ nh nc xut hin. V
1
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ. Mátxcơva. 1976. Tập 33. Tr.9.
5
ngc li: s tn ti ca nh nc chng t rng nhng mõu thun giai cp l
khụng th iu ho c1.
Nh nc ra i nh th ng ngoi xó hi, xó hi tn ti do s qun lý
ca nh nc. Nhng thc cht nh nc l c quan quyn lc ca giai cp
thng tr, giai cp cú th lc trong xó hi. Da vo nh nc mt t chc
chuyờn c dựng trn ỏp, giai cp thng tr mi cú th duy trỡ c ỏch ỏp
bc búc lt ca mỡnh i vi giai cp b tr. Nh vy, nh nc l mt t chc
c bit ca quyn lc chớnh tr cú nhim v cng ch v qun lý xó hi nhm
bo v li ớch trc ht l ca giai cp thng tr trong xó hi, cho nờn s ra i
ca nh nc l mt tt yu khỏch quan. Nh nc c lp ra v vic s dng
b mỏy nh nc phi l ca giai cp thng tr v mt kinh t v cng chớnh vỡ
vy, nú cng tr thnh giai cp thng tr v mt chớnh tr. Trờn c s ú, giai cp
thng tr cú thờm phng tin n ỏp v búc lt giai cp b tr. Hay núi cỏch
khỏc, nh nc ch l cụng c chuyờn chớnh ca mt giai cp, Nh nc chng
qua ch l mt b mỏy ca mt giai cp ny dựng trn ỏp mt giai cp khỏc 2.
Khụng th cú nh nc ng trờn giai cp hay nh nc ng ngoi giai cp,
hoc nh nc chung ca nhiu giai cp. Ph.ngghen ó ch rừ: Nh nc hin
i (nh nc t sn) du hỡnh thc ca nú l nh th no chng na, v thc
cht cng vn l mt b mỏy t bn ch ngha, l nh nc ca cỏc nh t bn, l
t bn tp th lý tng. Nh nc y cng chuyn nhiu lc lng sn xut
thnh ti sn ca nú bao nhiờu thỡ nú li bin thnh nh t bn tp th thc s
by nhiờu v cng búc lt nhiu cụng nhõn by nhiờu3.
Trong khi ú cỏc nh trit gia t sn luụn ln ting bin h cho s thng
tr ca giai cp t sn, xoỏ nho ranh gii gia giai cp t sn v giai cp vụ sn.
Mc ớch ca chỳng l lm cho giai cp cụng nhõn v nhõn dõn lao ng m h
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ. Mátxcơva. 1976. Tập 33. Tr.9.
C.Mác. Ph.Ăngghen. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1995. Tập 22. Tr.290-291.
3
C.Mác. Ph.Ăngghen. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1994. Tập 20. Tr.387.
1
2
6
với những vấn đề mâu thuẫn giai cấp trong xã hội; tìm mọi cách xuyên tạc nguồn
gốc, bản chất của nhà nước. Chúng đã ra sức tán dương nhà nước tư sản hiện đại,
mô tả nó là một nhà nước siêu giai cấp, “nhà nước nhân dân tự do” 1. Như vậy,
nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không bao giờ có nhà
nước đứng trên giai cấp, đứng ngoài giai cấp, “nhà nước nhân dân tự do” như
các triết gia tư sản từng biện hộ.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, dù được che dấu bản chất tư hữu, bóc lột
tinh vi như thế nào, dù có sự điều chỉnh thích nghi ra sao, nhà nước trong mọi xã
hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp
thống trị, cũng chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai
cấp khác.
Nhà nước pháp quyền tư sản được ra đời từ rất sớm, đi cùng với nó là
các học thuyết, các nhà tư tưởng tư sản nhằm bảo vệ cho học thuyết nhà nước
pháp quyền chống lại sự chuyên chế quyền lợi và sự thống trị của nhà tư bản.
Nhà triết học cổ điển Đức Kant với học thuyết nhà nước pháp quyền, ông cho
rằng: cần phải có một nhà nước pháp quyền chống lại sự chuyên chế phi pháp
luật của nhà nước phong kiến. Nhà nước là sự liên kết của mọi người trong
khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát và bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân.
Nhà nước là sự liên kết của mọi người trong khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát
và bảo đảm cho mọi công dân. Hình thức cầm quyền của nhà nước phải phù hợp
với ý chí của xã hội, phải có nghị viện, bầu cử tự do, có quyền ban hành các đạo
luật, bản thân nhà nước phải tự hạn chế trong khuôn khổ pháp luật.
Giônlôccơ và Môngtexkiơ với học thuyết phân quyền, họ đề cao dân chủ
tư sản chống lại nhà nước phong kiến. Thực chất của học thuyết này là dùng
quyền lực để khống chế quyền lực và dàn xếp mâu thuẫn trong nội bộ tư sản.
1
C.M¸c. Ph.¡ngghen. Toµn tËp. NXB CTQG. Hµ Néi. 1994. TËp 20. Tr.390.
7
Trong tổ chức nhà nước cần phân chia độc lập các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, nhưng quyền lực thống trị của nhà tư sản chỉ là một.
Thuyết dân chủ đa nguyên của giai cấp tư sản cho rằng, nhà nước là một
thể chế dân chủ trung lập, vô tư, cân bằng lợi ích. Các nhóm đại diện có cơ hội
tham gia công việc của nhà nước. Đây thực chất là luận điệu lừa bịp của giai cấp
tư sản nhằm biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước tư sản chống lại học thuyết về
nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Như vậy, tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử đã có nhiều nhà
tư tưởng đề cập đến và có nhiều trường phái khác nhau. Mặc dù có sự khác nhau
về mục đích, bản chất, nhưng nhìn chung các nhà tư tưởng đều khẳng định, nhà
nước cần phải có pháp luật để quản lý xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Không bao giờ có một nhà nước
trung lập, vô tư, cân bằng lợi ích. Nhà nước tư sản bất kỳ dưới hình thức nào
cũng chỉ là công cụ, là bộ máy áp bức, bóc lột đối với giai cấp vô sản và nhân
dân lao động. Theo V.I.Lê nin: “Nhà nước không phải là cái gì khác hơn là một
bộ máy áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác là trong một nước
cộng hoà dân chủ cũng hệt như trong một nước quân chủ, nhà nước vẫn chỉ là
như vậy thôi”1.
Ngày nay, pháp luật của nhà nước tư sản thường có vẻ bề ngoài như là
một cơ cấu cho phép nhân dân tỏ rõ ý chí của mình một cách định kỳ, nhưng
những hình thức và thể chế dân chủ đó hoàn toàn không làm thay đổi bản chất
của nhà nước tư sản. Đối với nhà nước pháp quyền tư sản, đặc trưng quan trọng
của nó là tính tối cao về mặt hình thức của các đạo luật pháp quyền. Nhà nước
pháp quyền tư sản có vẻ như đặt ra tình trạng mà trong đó không phải nhà nước
đứng trên pháp luật mà pháp luật đứng trên nhà nước. Nhà nước tư sản tuyên bố
quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân, nhưng trong thực tế, đó chỉ
1
V.I.Lªnin. Toµn tËp. NXB TiÕn bé.M¸txc¬va. 1976. TËp 33. Tr.98.
8
là quyền bình đẳng tư sản, bảo đảm lợi ích của nhà tư sản. Mặc dù trong luật bầu
cử của các nhà nước tư sản đều thừa nhận quyền của người lao động, được ứng
cử vào các cơ quan quản lý của nhà nước. Nhưng trong một số trường hợp, luật
đó đã đưa ra những điều kiện mà người lao động khó vượt qua trong những cuộc
bầu cử. Giai cấp tư sản nắm trong tay bộ máy tuyên truyền đồ sộ, chi những
khoản tiền khổng lồ để cổ động cho những ứng cử viên của đảng mình. Vậy thử
hỏi, những người công nhân, nhân dân lao động nghèo có đủ khả năng để tranh
cử hay không? Đó là kiểu “dân chủ” của nhà nước tư sản, nền dân chủ của thiểu
số bọn bóc lột. Nhà nước tư sản cũng đặt ra chế độ dân chủ cho nhân dân nhưng
không bao giờ được thực hiện trên thực tế. “Nó vẫn là một chế độ dân chủ chật
hẹp bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có” 1. Nhà nước tư
sản “dân chủ” ở chỗ: nó cho phép giai cấp tư sản quản lý các công việc nhà
nước, song bản chất chủ yếu của dân chủ tư sản là sự chuyên chính không hạn
chế đối với người lao động. Nền dân chủ tư sản đang chồng chất nhiều sự bất
công không thể giải quyết được. Ở đó, không ít những yêu cầu dân chủ sơ đẳng
nhất của người lao động vẫn bị chà đạp, và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản đối
với công nhân được che đậy rất tinh vi với sự bình đẳng nhất của người lao động
vẫn bị chà đạp, và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản đối với công nhân và cũng cho
phép người công nhân tự do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Vì vậy,
chỉ có thể đạt được một nhà nước thực sự dân chủ của nhân dân, một khi xóa bỏ
được nhà nước tư sản để xác lập nhà nước mới - nhà nước vô sản.
Nhà nước vô sản là nhà nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Chế độ dân chủ là cho nhân dân. Nhà nước vô sản là nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Nền dân chủ của nhà nước vô sản được dựa trên nền tảng của khối liên
minh công - nông và đội ngũ trí thức do Đảng cộng sản lãnh đạo, mang bản chất
giai cấp công nhân. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn
1
V.I.Lªnin. Toµn tËp. NXB TiÕn bé.M¸txc¬va. 1976. TËp 37. Tr.305.
9
dõn tc, vỡ vy nn dõn ch c bo m trờn thc t. ỳng nh Lờ nin ó ch
rừ: nn dõn ch xó hi ch ngha gp triu ln dõn ch t sn. ng thi, nh
nc vụ sn kt hp bo lc trn ỏp v t chc xõy dng, trong ú t chc xõy
dng l ch yu; thng nht gia tớnh dõn tc v tớnh quc t.
Theo ch ngha Mỏc - Lờ nin, cuc u tranh giai cp tt yu dn n
chuyờn chớnh vụ sn. Cú ngha l giai cp vụ sn p tan b mỏy nh nc t sn
thit lp quyn thng tr ca mỡnh. Chuyờn chớnh vụ sn thc cht l nh nc
ca giai cp vụ sn. Nh nc t sn tuy ó b lt nhng vn cũn mang nhng
du vt ca nhng thõy ma thi ra ca xó hi c, nh Ph.ngghen đã nói. Nú
vn cũn tn ti s bt bỡnh ng trong xó hi. Lờ nin vit: Nh nc vn cha
tiờu vong hn, vỡ vy cũn duy trỡ phỏp quyn t sn l phỏp quyn xỏc nhn
bt bỡnh ng trong thc t1. Chớnh vỡ vy, nh nc vụ sn tt yu phi thit
lp nn chuyờn chớnh vụ sn, phi qun lý xó hi bng phỏp lut. Nhng nh
nc ú hon ton khỏc v cht i vi nh nc t sn, õy l nh nc kiu
mi, mt nh nc c bit nh nc khụng nguyờn ngha, l nh nc na
nh nc. Sau khi nhng c s kinh t, xó hi ca nh nc mt i thỡ nh nc
s khụng cũn. S mt i ca nh nc vụ sn khụng phi bng con ng th
tiờu hay xoỏ b m bng con ng t tiờu vong v ú l mt quỏ trỡnh lõu
di. Ph.ngghen ó ch ra con ng u tranh cho giai cp vụ sn l giai cp
vụ sn chim ly chớnh quyn nh nc v bin t liu sn xut trc ht thnh
s hu nh nc. Nhng chớnh vỡ th m giai cp vụ sn cng t th tiờu vi t
cỏch l giai cp vụ sn, chớnh vỡ th m nú cng xoỏ b mi s phõn bit giai cp
v mi i khỏng giai cp v cng xoỏ b nh nc vi t cỏch l nh nc2.
Lý lun v nh nc l mt trong nhng ni dung c bn ca ch ngha
duy vt lch s. T nhng c s lý lun v thc tin ó phõn tớch trờn, mt ln
1
2
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ.Mátxcơva. 1976. Tập 33. Tr.117.
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1994. Tập 20. Tr.389.
10
na chỳng ta khng nh: nh nc vụ sn ra i v tn ti l tt yu khỏch quan.
Trờn c s ú, p tan mu toan ca cỏc nh lý lun t sn phn ng ra sc
bin h cho s thng tr ca giai cp t sn, c tỡnh lm lu m bn cht t hu,
búc lt ca giai cp t sn; tỡm mi cỏch xuyờn tc ngun gc, bn cht ca nh
nc; ra sc tỏn dng nh nc t sn hin i, mụ t nú l mt nh nc t
do, nh nc ton dõn. Nguy c lm cho giai cp cụng nhõn v nhõn dõn lao
ng trờn ton th gii m h vi vn u tranh giai cp, dn n tha hip,
hu khuynh.
T lý lun v thc tin v ngun gc, bn cht ca nh nc m ch
ngha Mỏc - Lờnin ó ch ra, chỳng ta cú th khng nh: nh nc ch l mt
phm trự lch s, khụng cú nh nc tn ti vnh hng, nh nc chung chung
phi giai cp. Nh nc l b mỏy thng tr ca giai cp ny i vi mt giai cp
khỏc, vỡ vy nh nc mang bn cht giai cp sõu sc, khụng cú nh nc chung
cho nhiu giai cp.
Nh nc ca giai cp t sn l nh nc i din cho li ớch ca giai
cp búc lt, thng tr giai cp vụ sn v nhõn dõn lao ng, bn cht ca nú vn
l t hu v búc lt. Vỡ vy, giai cp vụ sn khụng bao gi c m h o tng
trong cuc u tranh giai cp. Kiờn quyt u tranh vi nhng quan im cho
rng: nh nc ng trờn giai cp, ngoi giai cp, siờu giai cp, nh nc chung
ca xó hi, nh nc t do, ch ngha t bn t do, hoc cho nh nc l quan
tũa iu ho giai cp. Hoc, nguy him hn na l chỳng cho rng: nh nc ta
l nh nc ng tr, ũi xoỏ b vai trũ lónh o ca ng i vi nh nc, ũi
a nguyờn, a ng. C th l chỳng ũi b iu 4 trong Hin phỏp Nc Cng
ho xó hi ch ngha Vit Nam (sa i) nm 1992 ng cng sn Vit Nam l
lc lng lónh o Nh nc v xó hi 1. Hay chỳng cho rng: nh nc phỏp
quyn l nh nc riờng cú ca ch t bn, ta ch cú nh nc xó hi ch
1
Hiến pháp Việt Nam từ 1946 đến năm 2001. NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 2002. Tr.197.
11
nghĩa. Đây là những quan điểm sai lầm, cứng nhắc, bảo thủ và bịp bợm nhằm cố
tình che đậy bản chất tư hữu, bóc lột của nhà nước tư sản.
2. TÍNH TẤT YẾU RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Nhà nước và pháp luật ở Việt Nam xuất hiện rất sớm. Cũng giống như
sự ra đời của các nước khác trên thế giới, sự ra đời và phát triển của nhà nước
Việt Nam là một tất yếu lịch sử. So với các nhà nước khác thì nhà nước Việt
Nam có những nét đặc thù riêng về chế độ tư hữu và phân hoá giai cấp. Trong xã
hội Việt Nam, chế độ tư hữu khác với các nước phương Tây, Trung Quốc hay
ấn Độ. Vấn đề này được biểu hiện, nước ta không có sở hữu tư nhân về ruộng
đất mà ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước (của Vua), chỉ có sở hữu về tư liệu
sinh hoạt. Ở Việt Nam, giai cấp bóc lột xuất hiện không phải từ chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất mà giai cấp bóc lột xuất hiện từ kiến trúc thượng tầng.
Biểu hiện là: nhà nước có chính sách khai hoang ruộng đất, lập điền trang; phân
phong, ban thưởng ruộng đất cho những người có công; tất cả sự ban thưởng và
tịch thu ruộng đất đều do Vua quyết định.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình phân hoá giai
cấp ở Việt Nam cũng diễn ra từ từ và không sâu sắc. Hơn nữa, ở Việt Nam
không có hình thái kinh tế chiếm hữu nô lệ. Theo các tài liệu nghiên cứu thì xã
hội có giai cấp đầu tiên ở Việt Nam là chế độ phong kiến và nó được diễn ra
khoảng vào cuối thời kỳ Hùng Vương.
Việt Nam là một đất nước thuần nông, vì vậy nhu cầu của việc xây dựng,
quản lý các công trình trị thuỷ và thuỷ lợi đều cần đến vai trò tổ chức và điều
hành của nhà nước. Mặt khác, Việt Nam là một quốc gia luôn bị các nhà nước
phương Bắc xâm chiếm, cho nên việc tổ chức đấu tranh của nhà nước để chống
ngoại xâm luôn luôn được chú trọng. Bên cạnh đó, do sự phát triển của các quan
12
hệ giai cấp và sự phức tạp hoá các quan hệ xã hội cũng là một trong những yếu
tố dẫn đến sự ra đời của nhà nước Việt Nam.
Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước Việt Nam trải qua nhiều
giai đoạn và nhiều loại hình nhà nước khác nhau như: nhà nước Văn Lang, Âu
Lạc, Chiêm Thành, Chân Lạp... điều đó thể hiện: nước ta là một quốc gia đa dân
tộc, đa tôn giáo và văn hoá hết sức phong phú và phức tạp. Quá trình hình thành
và phát triển của nhà nước Việt Nam luôn gắn liền với cuộc đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc ta không
những không bị đồng hoá bởi văn hoá và luật pháp hà khắc của các thế lực ngoại
bang mà nhà nước và pháp luật của chúng ta không ngừng được củng cố và phát
triển.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự kế tục các nhà
nước Việt Nam trong lịch sử, là sự phát triển lên một tầm cao mới trên nền tảng
nhà nước dân chủ nhân dân. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và của
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ
cương lĩnh năm 1930, Đảng ta đã chỉ ra con đường cách mạng là phải đánh đổ
bọn thực dân phong kiến, xây dựng nhà nước công - nông dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân,
nhân dân lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam á. Thế nhưng, trước đó việc lựa chọn một mô hình nhà
nước như thế nào cho đất nước không phải là điều dễ dàng. Các nhà yêu nước
của phong trào Cần Vương với mô hình nhà nước phong kiến thối nát; Phan Bội
Châu và Quốc dân đảng với mô hình nhà nước tư sản; Phan Chu Trinh với mô
hình nhà nước cộng hoà Pháp... tất cả các loại hình đó đều đã lỗi thời và lạc hậu
không đáp ứng được sự đòi hỏi của lịch sử và nguyện vọng của nhân dân. Trong
sự khủng hoảng đó, xuất hiện mô hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Chủ
13
tch H Chớ Minh ó tip thu v vn dng mt cỏch sỏng to trong vic xõy dng
mt Nh nc kiu mi, mụ hỡnh Nh nc cng ho dõn ch nhõn dõn - Nh
nc ca dõn, do dõn, vỡ dõn, mt nh nc mang bn cht giai cp cụng nhõn.
T ú n nay, Nh nc Vit Nam liờn tc phỏt trin v ngy cng hon thin,
thc s l tr ct ca h thng chớnh tr, l cn c ch yu thc hin quyn
lm ch ca nhõn dõn. Hin nay, xõy dng Nh nc phỏp quyn xó hi ch
ngha Vit Nam ang l mt ũi hi tt yu khỏch quan ca cụng cuc i mi,
ca s nghip cụng nghip hoỏ, hiờn i hoỏ, xõy dng v bo v T Quc.
ỳng nh D tho bỏo cỏo chớnh tr tai i hi X ca ng ó ch rừ: Xõy
dng Nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha Vit Nam ca nhõn dõn, do nhõn
dõn, vỡ nhõn dõn l yờu cu bc thit ca xó hi1
Bn cht Nh nc ta l nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha ca dõn,
do dõn, vỡ dõn, mang bn cht giai cp cụng nhõn. Ch ngha Mỏc - Lờ nin ó
khng nh, trong xó hi cú giai cp, giai cp no nm quyn thng tr v kinh t
thỡ ng thi nm quyn thng tr xó hi v chớnh tr thụng qua b mỏy nh
nc. Do ú, nh nc ta bao gi cng mang bn cht ca giai cp thng tr.
Trong ch ta, giai cp cụng nhõn gi vai trũ lónh o xó hi thụng qua s lónh
o ca b tham mu chin u ca mỡnh l ng Cng sn, vỡ vy, Nh nc
ta mang bn cht giai cp cụng nhõn, vn ny c th hin:
Nh nc ta l nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha ca dõn, do dõn,
vỡ dõn. Nh nc c xõy dng trờn nn tng liờn minh gia giai cp cụng nhõn
vi giai cp nụng dõn v i ng trớ thc di s lónh o ca ng cng sn
Vit Nam. Quyn lc nh nc l thng nht, cú s phõn cụng v phi hp gia
cỏc c quan nh nc trong vic thc hin cỏc quyn lp phỏp, hnh phỏp v t
phỏp. T t chc, c ch hot ng n nhng nguyờn tc v chớnh sỏch phỏp
lut ca nh nc u quỏn trit t tng, quan im ca giai cp cụng nhõn, ú
1
ĐCSVN. Dự thảo báo cáo chính trị tại đại hội X của Đảng (Báo QĐND 3-2-2006 tr.B)
14
là chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của
Đảng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là công cụ để thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam và là công cụ chủ yếu để thưc hiện quyền làm
chủ của nhân dân lao động.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trước hết phải là một
nhà nước dân chủ, một nền dân chủ trong thực tế, không phải chỉ giới hạn ở
những biểu hiện bên ngoài của nó như: mít tinh, diễu hành, cổ động, tranh cử,
báo chí, tự do... Nền dân chủ của nhà nước ta là nền dân chủ chân chính, có
những cơ chế pháp luật để thực hiện, có trình độ nhất định về văn hoá chính trị
và văn hoá pháp luật để vận hành. Bất cứ một nền dân chủ nào cũng đòi hỏi sự
tồn tại và phát triển các quy tắc, các trình tự, các quy phạm pháp luật và nền dân
chủ của Nhà nước ta cũng vậy. Vấn đề củng cố Nhà nước pháp quyền dân chủ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan mật thiết với các vấn đề nâng cao uy tín của
nhà nước, thực hiện nguyên tắc tính tối cao của pháp luật và bảo đảm tuân thủ
pháp luật nghiêm minh.
Để theo kịp với tiến trình lịch sử của thế giới, nhà nước pháp quyền hiện
đại của nước ta phải là một nước có khả năng giải quyết những vấn đề chung của
cả xã hội Việt Nam, của toàn thể nhân dân Việt Nam. Chúng ta không được mơ
hồ về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta; đồng thời cũng phải nhấn
mạnh yếu tố dân tộc, yếu tố cộng đồng, yếu tố toàn dân của Nhà nước Việt Nam.
Tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước ta được thể hiện là, lợi ích cơ
bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là thống nhất. Nhà nước ta
mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích chung của toàn thể nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, Nhà nước ta có tính nhân dân và tính dân
tộc sâu sắc. Tính nhân dân của Nhà nước ta thể hiện ở chỗ: Chính quyền nhà
nước và quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân lao động, đại biểu cho lợi
15
ích, ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Chính quyền do nhân dân bầu ra, nhân
dân tham gia quản lý, giám sát và bãi miễn. Nhà nước ta hoạt động vì lợi ích của
nhân dân. Cán bộ, công chức nhà nước là công bộc của dân và là đầy tớ của nhân
dân, phải lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất. Sức mạnh của Nhà
nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng,
tạo điều kiện cho mọi người, mọi tầng lớp phát huy mọi khả năng của mình vào
sự nghiệp chung của đất nước.
Tính dân tộc của Nhà nước thể hiện: Nhà nước ta ra đời trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, với mục tiêu phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Trong tổ chức và hoạt động, Nhà nước ta kế thừa và phát huy những
truyền thống, bản sắc tốt đẹp của các dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước
ta có chính sách dân tộc đúng đắn, thực hiện bình đẳng dân tộc, chăm lo lợi ích
mọi mặt của các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam và thực hiện đại đoàn
kết dân tộc. Nhà nước ta đại diện cho quyền lợi dân tộc luôn luôn giữ vững quan
điểm độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong quan hệ đối ngoại. Kết hợp đúng đắn
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Cùng với tính nhân dân, tính dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, chúng ta
luôn coi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay. Nhà nước ta là đại biểu quyền lợi của nhân dân, đồng thời là
công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa của nhà nước ta được thể hiện là: Mọi quyền lực của Nhà nước thuộc
về nhân dân và do nhân dân làm chủ. Nhà nước ta thực hiện dân chủ với đa số
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng và chuyên chính với các thế lực
xâm phạm đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân
lao động được thực hiện trên mọi mặt của đời sống xã hội, được bảo đảm bằng
16
hiến pháp, pháp luật, chính sách, cơ chế và điều kiện thực hiện; được hoàn thiện
và nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển con người toàn
diện cả về trí tuệ, đạo đức và năng lực hành động. Quyền con người được Nhà
nước tôn trọng và bảo đảm. Các quyền và lợi ích của cá nhân, tự do cá nhân nếu
không xâm phạm đến lợi ích tự do của người khác và của cộng đồng trong khuôn
khổ pháp luật đều được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước ta do nhân dân
lập ra thông qua tổng tuyển cử toàn dân, đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân.
Nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu của dân nếu họ không có đủ phẩm
chất và năng lực. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, quyền lợi và trình độ dân
trí, truyền thống, lịch sử, văn hoá dân tộc. Quyền dân chủ không được quá giới
hạn của pháp luật, dân chủ có sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, bản chất của Nhà nước ta thống nhất giữa bản chất giai cấp
công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản,
đồng thời là công cụ chủ yếu để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của
mình. Chính vì vậy, Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân và
có vai trò to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và góp phần vào sự
nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trên thế giới.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tất
yếu khách quan và hợp với quy luật lịch sử. Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng
định: “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của một thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là sự chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” 1. Thực tiễn lịch sử nước
ta đã chứng minh, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời năm 1945 là do
1
C.M¸c vµ Ph.¡ngghen. Toµn tËp. NXB CTQG. Hµ Néi. 1995. TËp 19. Tr.47.
17
mồ hôi, xương máu của giai cấp công nhân cùng toàn thể dân tộc Việt Nam dưới
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù
địch đang ra sức tăng cường chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại bằng
chiến lược “Diễn biến hoà bình”, và chúng coi Việt Nam là một trọng điểm
chống phá. Bên cạnh đó, với chiêu bài chống khủng bố, nhân đạo, nhân quyền,
tôn giáo... đế quốc Mỹ sẵn sàng cấm vận, dùng đòn đánh phủ đầu nhằm lật đổ
bất kì một quốc gia dân tộc nào nếu không nghe theo “cái gậy” chỉ huy của
chúng. Thực tế, trong thời gian qua ở Việt Nam, đế quốc Mĩ và các thế lực thù
địch đã và đang tiếp tay cho bọn phản động trong và ngoài nước ra sức chống
phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Một trong những
thủ đoạn chúng thường dùng là xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và nhà
nước, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo như; đòi ly khai, thành lập nhà nước Đề
ga tự trị ở Tây nguyên; các “nhà nước tự trị”“ ngay trong lòng Tổ quốc Việt
Nam. Mục đích của chúng là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo cớ nhằm
can thiệp, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mặt khác, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn 20
năm qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Vì vậy, chúng ta phải có hệ thống
pháp luật đủ mạnh để tạo hành lang pháp lý và bảo vệ lợi ích cho các thành phần
kinh tế làm ăn có hiệu quả không bị thua thiệt. Đặc biệt, phải giữ vững sự ổn
định về chính trị, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là vấn đề cơ bản và cấp bách hiện nay.
18
Trong nhng nm qua, hot ng ca cỏc c quan quyn lc nh nc
ó cú nhiu tin b. Nh nc tip tc c xõy dng v thc tin nn hnh
chớnh c ci cỏch mt bc. Mt trn T quc, cỏc on th nhõn dõn tip tc
i mi ni dung v phng thc hot ng. Quyn lm ch ca nhõn dõn trờn
cỏc lnh vc c phỏt huy; mt s chớnh sỏch v quy ch bo m quyn dõn
ch ca nhõn dõn, trc ht c s, bc u c thc hin1.
Tuy vy, mt s c ch chớnh sỏch cũn thiu, cha nht quỏn, cha sỏt
vi cuc sng, thiu tớnh kh thi. Nhiu cp, nhiu ngnh cha thay th, sa i
nhng quy nh v qun lý Nh nc khụng cũn phự hp cú nhng chớnh sỏch
ỳng b bin dng qua nhiu tng nc hnh chớnh quan liờu. Vic ban hnh cỏc
vn bn phỏp quy, hng dn thi hnh lut rt chm 2; Tỡnh trng tham nhng,
quan liờu, mt on kt ni b, va vi phm quyn lm ch ca nhõn dõn, va
khụng gi ỳng k cng phộp nc xy ra nhiu ni, cú nhng ni nghiờm
trng. Chc nng, nhim v ca cỏc b phn trong h thng chớnh tr cha c
xỏc nh rnh mch, trỏch nhim khụng rừ; ni dung v phng thc hot ng
chm i mi, cũn nhiu biu hin ca c ch tp trung quan liờu, bao cp, i
ng cỏn b cũn chp vỏ3.
T thc trng tỡnh hỡnh nờu trờn, vic xõy dng Nh nc phỏp quyn xó
hi ch ngha Vit Nam trong thi k cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ hin nay l
mt yờu cu ũi hi khỏch quan; l mt trong nhng nhim v trung tõm ca h
thng chớnh tr ca chỳng ta. ú l nh nc th hin bn cht thc s ca nhõn
dõn, do nhõn dõn, vỡ nhõn dõn v chỳng ta dt khoỏt phi qun lý xó hi bng
phỏp lut1.
Đảng cộng sản Việt Nam. Sđd. Tr.71.
Đảng cộng sản Việt Nam. Sđd.Tr.75,76.
3
Đảng cộng sản Việt Nam. Các Nghị quyết hội nghị lần thứ 5, BCHTW Khoá IX. NXB CTQG.
Hà Nội. 2002. Tr.83.
1
2
1
Đỗ Mời. Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì xã hội chủ nghĩa. NXB ST. H. 1993. Tr.96,97.
19
Phỏp lut l cụng c ch yu ca Nh nc ta iu tit cỏc quan h xó
hi c bn gia cỏc giai cp, cỏc tng lp nhõn dõn v qun lý xó hi. Qun lý xó
hi bng phỏp lut l yờu cu khỏch quan ca mt xó hi vn minh, cụng bng,
dõn ch, l phng thc ch yu bo m hiu lc ca nh nc. õy cng l
mt trong nhng khõu bc l yu kộm hin nay ca Nh nc ta. ng thi, l
yờu cu bỳc xỳc trong quỏ trỡnh ci cỏch t chc v hot dng ca Nh nc Vit
Nam. Nh nc qun lý xó hi bng phỏp lut l phi bo m tng cng hiu
lc ca phỏp lut trong mi lnh vc ca i sng xó hi bo m ton xó hi
tuõn theo phỏp lut. Nh nc phi bo v c quyn li hp phỏp, danh d,
nhõn phm ca mi cụng dõn, khc phc s tu tin, lm quyn ca cỏc c quan
v cỏn b nhõn viờn nh nc. Mi cụng dõn phi chu trỏch nhim v thc hin
ngha v ca mỡnh trc nh nc v xó hi. Nh nc phi kim tra, giỏm sỏt
vic thi hnh mi quyt nh ó ban hnh, kim tra giỏm sỏt vic tuõn th phỏp
lut, x lớ nghiờm minh, kp thi mi hnh vi vi phm phỏp lut, dự ú l ai v
bt c cng v no.
tng cng phỏp ch xó hi ch ngha, qun lý xó hi bng phỏp lut,
xõy dng Nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha Vit Nam trong sch, vng
mnh, cú hiu lc v hiu qu, cựng ton ng, ton dõn, ton quõn thc hin
c mc tiờu: c lp dõn tc gn lin vi ch ngha xó hi; dõn giu, nc
mnh, xó hi cụng bng, dõn ch, vn minh2. Theo tinh thn ngh quyt i hi
i biu ton quc ln th X ca ng, chỳng ta phi thc hin tt mt s ni
dung c bn sau õy:
Mt l, Xõy dng nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha di s lónh
o ca ng. T c s phng phỏp lun ó ch ra l, nh nc mang bn cht
giai cp sõu sc v thc cht bn cht giai cp ca nh nc l bn cht ca ng
cm quyn. Vỡ vy, tng cng bn cht giai cp ca nh nc ngha l phi tng
2
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội ĐBTQ lần thứ IX. NXB CTQG. H. 2001. Tr.86.
20
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho nhà nước về nội dung, phương hướng
chính trị. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt nam được quy định rõ trong điều 4 của Hiến pháp nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhưng không phải
“nhà nước toàn dân”. Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện đường
lối chính trị của Đảng thông qua Hiến pháp, pháp luật chứ không phải “Đảng hoá
Nhà nước” hay “Nhà nước hoá Đảng”. Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối
chính trị, thông qua hệ thống tổ chức và thông qua đội ngũ cán bộ đảng viên của
Đảng, chứ Đảng không bao biện, làm thay công việc của Nhà nước. Việc nâng
cao chất lượng của hệ thống phấp luật có quan hệ mật thiết, không tách rời với
việc nâng cao chất lượng của đường lối, chính sách lãnh đạo của Đảng. Vì vậy,
nâng cao chất lượng của đường lối, chính sách của Đảng có ý nghĩa quyết định
đến việc nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật.
Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước. Kiện
toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Tăng cường công tác lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Chúng ta phải đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập
pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước;
xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; cải cách nền hành chính nhà nước,
bao gồm cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán
bộ, công chức có phẩm chất, có năng lực, kịp thời thay thế những cán bộ công
chức yếu kém và thoái hoá biến chất; cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động lập
pháp. Điều đó đã nói lên rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn rất coi trọng và
quan tâm đến việc cải cách nền hành chính nhà nước, làm cho bộ máy của nhà
nước hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả.
21
Ba là, mở rộng dân chủ nhưng phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương pháp chế, quản lí xã hội bằng pháp luật; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm,
nghĩa vụ; dân chủ phải được thể chế hoá thành pháp luật, dân chủ trong khuôn
khổ pháp luật; kịp thời đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm. Khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan hoặc dân chủ hình
thức, lợi dụng dân chủ để gây rối. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, mở
rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã
hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; bảo đảm để
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân,
hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu
Quốc hội và hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Chăm lo con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện
các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công
chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân. Phát huy dân
chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỉ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội
bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy: cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc. Cán bộ là khâu
then chốt trong việc tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nhân dân có tin theo Đảng và Nhà nước hay
không trước hết họ nhìn vào sự gương mẫu, trong sạch của đội ngũ cán bộ công
chức của Đảng và Nhà nước. Hiện nay “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là
22
rt nghiờm trng1. Vỡ vy, chỳng ta phi nghiờm tỳc kim im, ỏnh giỏ cht
lng cỏn b, kp thi thay th nhng cỏn b cụng chc yu kộm v thoỏi hoỏ
bin cht. Bờn cnh ú, phi tng cng cỏn b cho c s. Cú ch , chớnh sỏch
o to, bi dng, ói ng i vi cỏn b xó, phng, th trn.
Xõy dng Nh nc phỏp quyn Vit Nam hin nay l mt quỏ trỡnh
khụng ngng hon thin b mỏy nh nc thụng qua cỏc cuc ci cỏch ton din
c v th ch, t chc b mỏy ln i ng cỏn b cụng chc. Nhõn t con ngi
úng mi vai trũ c bit, nht l vic coi trng, cao nhõn t con ngi. Vy
nờn, khi tin hnh ci cỏch th ch cn gii quyt ỳng n mi quan h phỏp lý
gia mt bờn l nh nc vi bờn kia l cỏ nhõn, cụng dõn.
Nm l, y mnh cụng tỏc tuyờn truyn, giỏo dc cho mi ngi dõn
nõng cao ý thc chp hnh phỏp lut v u tranh mnh m vi bnh quan liờu,
tham nhng trong b mỏy Nh nc.
T chc tt vic hc tp v thc hin phỏp lut trong ton xó hi, bo
m cho phỏp lut c chp hnh nghiờm chnh. Phỏp lut dự cú ni dung v
hỡnh thc tt n õu, bn thõn nú cng khụng th t mỡnh i vo cuc sng
c. phỏp lut tr thnh cụng c sc bộn bo v ch xó hi ch ngha v
tr thnh ý chớ chung ca mi ngi, c mi ngi chp hnh mt cỏch t
giỏc. Nh nc phi Tng cng giỏo dc ý thc phỏp lut, sng v lm vic
theo Hin phỏp v phỏp lut, bo m cho phỏp lut c thi hnh mt cỏch
nghiờm minh, thng nht v cụng bng1. Phỏp lut ch cú th c tuõn th v
thc hin tt v tr thnh hin thc trong cuc sng khi hot ng cú t chc v
vic thc hin phỏp lut c coi trng, y mnh. Vỡ vy, chỳng ta phi hng
dn c th vic thi hnh cỏc iu lut, ng thi coi trng vic tuyờn truyn, giỏo
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG. Hà
Nội. 2001.Tr.57,58.
1
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG. Hà
Nội. 2001. Tr.57,58.
1
23
dc nõng cao nhn thc phỏp lut cho ton dõn, lm cho mi cụng dõn cú ý thc
sng, lm vic theo Hin phỏp v phỏp lut. Chớnh ph, cỏc c quan hu quan
cn ban hnh kp thi, y cỏc vn bn hng dn thi hnh lut v t chc
tuyờn truyn, ph bin phỏp lut sõu rng trong nhõn dõn 2. Tớch cc u tranh
chng li nhng hnh vi vi phm phỏp lut. Hin nay, ng v Nh nc ta ó,
ang rt quan tõm n cụng tỏc tuyờn truyn thụng qua chng trỡnh ca i
ting núi Vit Nam, Chng trỡnh truyn hỡnh Quc gia v cỏc a phng mi
xó, phng, th trn u cú t sỏch phỏp lut, t vn phỏp lut. õy l mt trong
nhng bin phỏp giỏo dc, tuyờn truyn phỏp lut cú hiu qu.
ng thi vi cụng tỏc tuyờn truyn, giỏo dc, phi kiờn quyt chng
tham nhng trong b mỏy Nh nc v ton b h thng chớnh tr cỏc cp, cỏc
ngnh. ng ta xỏc nh, tham nhng l mt trong nhng nguy c trc tip quan
h n s sng cũn ca h thng chớnh tr núi chung, nh nc ta núi riờng. Vỡ
vy, chỳng ta cn phi kt hp nhng gii phỏp cp bỏch vi nhng gii phỏp cú
tm chin lc nhm va hon thin c ch chớnh sỏch, kin ton t chc, chn
chnh cụng tỏc qun lý cỏn b, khc phc mi s h, x lý nghiờm minh mi sai
phm trong i ng cỏn b cụng chc ca nh nc, lm trong sch b mỏy.
Cựng vi vic chng tham nhng, phi gn cht vi vic chng quan liờu, buụn
lu, hnh vi li dng chc quyn, lm giu bt chớnh ca i ng cỏn b, ng
viờn.
4. VAI TRề CA QUN I TRONG XY DNG V BO V
NH NC PHP QUYN VIT NAM X HI CH NGHA HIN NAY.
Quõn i nhõn dõn Vit Nam l cụng c bo lc sc bộn, l lc lng
chớnh tr, lc lng chin u trung thnh v tin cy ca ng v Nh nc xó
hi ch ngha v ca nhõn dõn ta.
Nguyễn Văn An. Lời bế mạc tại Kỳ họp thứ 6. Quốc hội khoá X/. Báo Nhân dân ngày
04/12/2004. Tr.7.
2
24
Vic xõy dng nh nc phỏp quyn t ra nhiu vn mi trong xõy
dng, hot ng ca quõn i. Chỳng ta phi xõy dng Quõn i nhõn dõn v
Cụng an nhõn dõn cỏch mng, chớnh quy, tinh nhu v tng bc hin i, cú
bn lnh chớnh tr vng vng; trung thnh tuyt i vi T quc, vi ng v
nhõn dõn1, sc bo v c lp, ch quyn, thng nht, ton vn lónh th,
bo v an ninh quc gia, trt t an ton xó hi v nn vn hoỏ; bo v ng, Nh
nc, nhõn dõn v ch xó hi ch ngha; bo v s nghip i mi v li ớch
quc gia, dõn tc2. Gii quyt ỳng n mi quan h gia nõng cao hiu lc
qun lý ca nh nc v quc phũng, qun lý nh nc i vi t chc v hot
ng ca Quõn i vi tng cng s lónh o tuyt i, trc tip v mi mt
ca ng i vi Quõn i; tng cng xõy dng nn quc phũng ton dõn, th
trn an ninh nhõn dõn, to c s vng chc xõy dng Nh nc phỏp quyn
xó hi ch ngha ỏp ng vi yờu cu nhim v ca cỏch mng Vit Nam trong
s nghip cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ t nc.
quõn i ta phỏt huy tt vai trũ trỏch nhim ca mỡnh i vi nhim
v xõy dng v bo v Nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha Vit Nam hin
nay, cn thc tt mt s vn c bn sau:
Th nht, tng cng giỏo dc chớnh tr t tng, nõng cao nhn thc, trỏch
nhim ca quõn i i vi nhim v xõy dng v bo v nh nc ta hin nay.
Bo v Nh nc v bo v T quc trong thi k cụng nghip hoỏ, hin
i hoỏ t nc cú mi quan h bin chng vi nhau. Trong ú, bo v nh nc
gn lin vi bo v T quc, bo v vng chc c lp ch quyn, thng nht v
ton vn lónh th, bo v an ninh quc gia, trt t an ton xó hi, bo v ng v
ch xó hi ch ngha. Nh vy, trong iu kin hin nay, bo v T quc, thc
hin thng li s nghip cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ t nc cng cú ngha l
Đảng cộng sản. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG. Hà Nội. 2001.
Tr.118.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam. S.đ.d. Tr.117.
1
25
quân đội góp một phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân, vượt qua khó khăn,
thách thức, tận dụng tốt thời cơ, vận hội để xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân vững mạnh. Đây là vấn đề cần
được nhận thức nhất quán và sâu sắc hơn nữa trong Quân đội ta.
Thứ hai, Quân đội tích cực tham gia có hiệu quả cuộc đấu tranh trên
mặt trận chính trị - xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc Nhà nước ta hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, trước âm mưu thâm độc của các thế lực phản động, đòi
hỏi chúng ta: trong khi tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta không được lơ là, mất cảnh
giác đối với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật
đổ. Bằng bất cứ giá nào, quân đội cũng phải bảo vệ được Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần coi trọng giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội,
coi đó là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế, thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước heo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật
đổ và âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch, quân đội ta
cần tích cực tham gia bảo vệ pháp luật nhà nước, chống giặc “nội xâm”, đó là
chống các căn bệnh quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, ma tuý, mại dâm; giúp dân
xoá đói, giảm nghèo, xoá mù chữ ở vùng sâu vùng xa, bài trừ mê tín dị đoan...
góp phần giữ nghiêm pháp luật nhà nước.
Thứ ba, Quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, cứu hộ,
cứu nạn, phòng chống lụt bão, góp phần xây dựng và bảo vệ nhà nước ta.
Lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là một chức năng cơ bản của quân
đội ta, là nét đẹp truyền thống của dân tộc ta từ ngàn xưa để lại. Đây cũng là một
biểu hiện bản chất của quân đội cách mạng, của nhà nước chuyên chính vô sản.
Trong những năm qua, cán bộ, chiến sỹ quân đội ta đã nêu cao truyền thống tốt